Vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Liên hê thực tiễn | Tiểu luận cuối kỳ môn chủ nghĩa xã hội khoa học

Vấn đề tôn giáo từ lâu đã là một vấn đề nhạy cảm không chỉ đối với Việt Nam mà còn với nhiều nước trên thế giới. Vì thế luôn cần có những hiểu biết thấu đáo trước khi giải quyết các vấn đề này. Vấn đề tôn giáo đã từng bị chủ nghĩa đế quốc tìm cách lợi dụng phục vụ cho âm mưu xâm lược và chống phá cách mạng ở Việt Nam nói riêng và các nước xã hội chủ nghĩa nói chung. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG
THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
MÃ MÔN HỌC & MÃ LỚP: LLCT120405E_08CLC
NHÓM THỰC HIỆN: Hoa Anh Đào. Thứ 4 - tiết: 1-2
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. Trần Ngọc Chung
Tp. Hồ Chí Minh, tháng ...... năm 20.....
DANH SÁCH NHÓM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ .....II..., NĂM HỌC: 2021-2022
Nhóm Hoa Anh Đào. Thứ 4 tiết 01, 02
Tên
đề
tài:
. Vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Liên hê th c ti!n.
STT
HỌ VÀ TÊN SINH
VIÊN
MÃ SỐ
SINH
VIÊN
TỶ LỆ %
HOÀN
THÀNH
SĐT
1
Nguyễn Chí Thành 20145435
100 %
..................
2
Nguyễn Tấn Duy 19119027
100 %
..................
3
Hà Thị Thu Huyền 20124185
100 %
..................
4
Nguyễn Cao Kỳ 20124160
100 %
..................
5 Tăng Thị Thùy Linh 20116142
100 %
..................
6
Phạm Đức Mạnh 19145154
100 %
..................
7
Huỳnh Thị Tuyết Minh 20144184
100 %
..................
Ghi chú:
Tỷ lệ % = 100%
Nhận xét của giáo viên:
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
Ngày ............ tháng......... năm.......
Giáo viên chấm điểm
MỤC LỤ
MỞ ĐẦU...........................................................................................................................1
1. Đặt vấn đề.................................................................................................................1
2. Mục tiêu đề tài:.........................................................................................................1
NỘI DUNG........................................................................................................................2
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ TÔN GIÁO........2
1.1. Khái niệm tôn giáo.............................................................................................2
1.2. Bản chất của tôn giáo.........................................................................................2
1.3. Nguồn gốc của tôn giáo......................................................................................4
1.4. Tính chất của tôn giáo........................................................................................5
CHƯƠNG 2: NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO THEO QUAN
ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN.....................................................................8
2.1. Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội..................................8
2.2. Các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải quyết vấn đề
tôn giáo......................................................................................................................10
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO..................................12
3.1. Về vấn đề tôn giáo trong văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam........................12
3.2. Một số quan điểm khác về vấn đề tôn giáo. Bàn luận câu nói: “Tôn giáo là
thuốc phiện của nhân dân”.........................................................................................16
KẾT LUẬN......................................................................................................................20
1. Kết luận đề tài.........................................................................................................20
2. Nhận xét và đánh giá.................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................22
PHỤ LỤC – BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ TRONG NHÓM
Nội dung thực hiện Sinh viên thực hiện Nhóm tự đánh giá mức
độ hoàn thành
(Tốt / Khá / Kém)
PHẦN MỞ ĐẦU
Nội dung 1: Lý do chọn đề
tài, mục tiêu và phương pháp
nghiên cứu.
Nội dung 2: Chỉnh sửa word
Tăng Thị Thùy Linh
Hà Thị Thu Huyền
Nguyễn Chí Thành
Tốt
PHẦN KIẾN THỨC CƠ BẢN
Nội dung 1: Quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lenin về tôn
giáo.
Hà Thị Thu Huyền Tốt
Nội dung 2: Nguyên tác giải
quyết vấn đề tôn giáo theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác
– Lenin
Huỳnh Thị Tuyết Minh
Phạm Đức Mạnh
Tốt
Nội dung 3: Nội dung luận
chung về vấn đề tôn giáo.
Nguyễn Tấn Duy
Nguyễn Chí Thành
Tốt
PHẦN KẾT LUẬN
Viết kết luận Nguyễn Cao Kỳ Tốt
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Vấn đề tôn giáo từ lâu đã là một vấn đề nhạy cảm không chỉ đối với Việt Nam mà
còn với nhiều nước trên thế giới. thế luôn cần những hiểu biết thấu đáo trước khi
giải quyết các vấn đề này. Vấn đề tôn giáo đã từng bị chủ nghĩa đế quốc tìm cách lợi dụng
phục vụ cho âm mưu xâm lược chống phá cách mạng Việt Nam nói riêng các
nước xã hội chủ nghĩa nói chung. Chúng sử dụng tôn giáo như là một chiêu bài trong âm
mưu diễn biến hòa bình hòng chống phá sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa Hội Việt
Nam cũng như các nước khác. Việt nam một quốc gia nhiều hình thức tín ngưỡng,
tôn giáo khác nhau và đang có chiều hướng phát triển trên phạm vi cả nước.Vì vậy để tiến
hành thắng lợi công cuộc đổi mới ở nước ta , trước hết đòi hỏi Đảng nhà nước ta cần
phải có cái nhìn đúng đắn những vấn đề lí luận thực tiễn về vấn đề tôn giáo cũng như
có những chính sách về tôn giáo một cách phù hợp linh hoạt trong tình hình hiện nay.
Đó cũng do chúng em quyết định chọn đề tài Vấn đề tôn giáo trong thời
quá độ ở Việt Nam " làm để tài nghiên cứu, để trước hết mỗi thành viên trong nhóm sẽ có
những hiểu biết nhất định về các tôn giáo Việt Nam. Đồng thời xác định cách nhìn
nhận, lựa chọn tín ngưỡng góp phần vào sự phát triển chung.ủa xã hội
2. Mục tiêu đề tài:
Tôn giáo một hình thái ý thức hội ra đời biến đổi theo sự biến động của
hoàn cảnh lịch sử xã hội. Cũng từ đó, chúng ta còn biết một cách khái quát rằng, tôn giáo
còn tồn tại trong quá trình xây dựng chủ nghĩa hội. Vậy, trong quá trình xây dựng đó,
tôn giáo còn tồn tại là do những nguyên nhân cụ thể gì?
Mặt khác, nước ta hiện nay tôn giáo đang xu hướng phát triển, trước tình
hình đó, để góp phần đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, cần phải thực hiện tốt các
chủ trương, chính sách của Đảng về vấn đề tôn giáo như thế nào? Trên đây chính là những
mục đích nhóm chúng em muốn hướng tới khi nghiên cứu đề tài: Vấn để tôn giáo
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ”.
1
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ TÔN GIÁO
Chủ nghĩa Mác Lênin coi tôn giáo một hình thái ý thức hội duy tâm
nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa Mác Lênin cũng thừa nhận tính chất vai trò của tôn
giáo, thừa nhận tôn giáo còn tồn tại lâu dài, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín
ngưỡng của nhân dân. Để giải quyết vấn đề tôn giáo cần một thời gian dài, gắn liền với
quá trình vận động cách mạng, cải biến xã hội và nâng cao nhận thức quần chúng.
Tín ngưỡng, tôn giáo những vấn đề nhạy cảm phức tạp. Do đó, những vấn đề
nảy sinh từ tôn giáo cần phải được xem xét, giải quyết hết sức thận trọng, cụ thể và chuẩn
xác, tính nguyên tắc với những phương thức linh hoạt theo quan điểm của chủ ngnĩa
Mác - Lênin
1.1. Khái niệm tôn giáo
Tôn giáo một hình thái ý thức hội phản ánh hoang đường ảo hiện
thực khách quan. Qua sự phản ánh của tôn giáo mọi sức mạnh tự phát của tự nhiên và
hội đều trở thành thần bí.
Tôn giáo sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên
lịch sử hội xác định. Do đó xét về mặt bản chất, tôn giáo một hiện tượng hội
phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên hội. một mức độ nhất
định tôn giáo vai trò tích cực trong văn hoá, đạo đức hội như: đoàn kết, hướng
thiện, quan tâm đến con người… Tôn giáo niềm an ủi, chỗ dựa tinh thần của quần
chúng lao động.
Về phương diện thế giới quan, thế giới quan tôn giáo duy tâm, hoàn toàn đối
lập với hệ tưởng thế giới quan Mác - Lênin khoa học cách mạng. Sự khác nhau
giữa chủ nghĩa hội hiện thực thiên đường các tôn giáo thường hướng tới
chỗ trong quan niệm tôn giáo thiên đường không phải hiện thực thế giới bên
kia. Còn những người cộng sản chủ trương hướng con người vào hội văn minh,
hành phúc ngay thế giới hiện thực, do mọi người xây dựng mọi người.
2
1.2. Bản chất của tôn giáo
Chủ nghĩa Mác - Lênin coi tín ngưỡng, tôn giáo một hình thái ý thức hội
phản ánh một cách hoang đường, ảo hiện thực khách quan. Qua hình thức phản ánh
của tôn giáo, những sức mạnh tphát trong tự nhiên hội đều trở thành thần bí. C.
Mác Ph. Ăngghen còn cho rằng, tôn giáo một hiện tượng hội, văn hóa, lịch sử;
một lực lượng hội trần thế. Giữa tín ngưỡng tôn giáo sự khác nhau, song lại
quan hệ chặt chẽ ranh giới để phân biệt chúng chỉ tương đối. Tín ngưỡng một
khái niệm rộng hơn tôn giáo. đây chúng ta chỉ đề cập một dạng tín ngưỡng - đó tín
ngưỡng tôn giáo (gọi tắt là tôn giáo).
Tín ngưỡng niềm tin sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng, một
lực lượng siêu nhiên, tôn sùng vào một điều đó pha chút thần bí, ảo, hình tác
động mạnh đến tâm linh con người, trong đó bao hàm cả niềm tin tôn giáo. Còn tôn
giáo thường được hiểu là một hiện tượng xã hội bao gồm ý thức tôn giáo lấy niềm tin
tôn giáo làm sở, hành vi các tổ chức hoạt động tín ngưỡng tôn giáo - nghĩa là, tôn
giáo thường giáo lý, giáo luật, lễ nghi các tổ chức giáo hội. tín dị đoan một
hiện tượng hội tiêu cực đã xuất hiện từ lâu vẫn tồn tại thời đại chúng ta. Trên
thực tế, tín dị đoan thường xen o các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo.
Việc xác định hiện tượng mê tín dị đoan chủ yếu dựa vào biểu hiện và hậu quả tiêu cực
của nó. tín dị đoan niềm tin cuồng vọng của con người vào các lực lượng siêu
nhiên đến mức độ muội với những hành vi cực đoan, thái quá, phi nhân tính, phản
văn hóa của một số người gọi chungcuồng tín. Hiện tượng tín dị đoan thường gắn
chặt lợi dụng các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề. vậy,
cùng với việc tôn trọng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân thì
chúng ta phải loại bỏ dần tín dị đoan nhằm làm lành mạnh hoá đời sống tinh thần
hội.
Tôn giáo sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên
lịch sử hội xác định. Do đó, xét về mặt bản chất, tôn giáo một hiện tượng hội
phản ánh sbất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên hội.. Tuy nhiên, tôn giáo
cũng chứa đựng một số giá trị văn hoá, phù hợp với đạo đức, đạo của hội. Về
3
phương diện thế giới quan, thế giới quan duy vật mácxít thế giới quan tôn giáo đối
lập nhau. Tuy vậy, trong thực tiễn, những người cộng sản lập trường mácxít không
bao giờ thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo hợp
pháp của nhân dân. Ngược lại, chủ nghĩa Mác-Lênin những người cộng sản, chế độ
hội chủ nghĩa luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng không tín ngưỡng của nhân
dân.
Sự khác nhau giữa chủ nghĩa hội hiện thực "thiên đường" các tôn giáo
thường hướng tới chỗ trong quan niệm tôn giáo, "thiên đường" không phải hiện
thực hội "thế giới bên kia", trên "thượng giới" (tức cái ảo). Còn những
người cộng sản chủ trương hướng con người vào hội văn minh, hạnh phúc ngay
thế giới hiện thực, do mọi người xây dựng và vì mọi người.
1.3. Nguồn gốc của tôn giáo
Tôn giáo xuất hiện rất sớm trong lịch sử hội loài người, hoàn thiện biến đổi
cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế, chính trị, hội. Sự xuất hiện biến đổi
đó gắn liền với các nguồn gốc sau:
- Trong hội cộng sản nguyên thuỷ, doNguồn gốc kinh tế - hội của tôn giáo.
trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên
nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì vậy, họ đã gán chotự nhiên những sức mạnh, quyền lực to lớn,
thần thánh hoá những sức mạnh đó. Đó hình thức tồn tại đầu tiên của tôn giáo.
Khi hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm giác yếu đuối trước sức
mạnh của tự nhiên, con người lại cảm thấy bất lực trước những sức mạnh tự phát hoặc
của thế lực nào đó của xã hội. Không giải thích được nguồn gốc của sự phân hoá giai cấp
và áp bức bóc lột, tội ác, v.v., và của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi, con người thường
hướng niềm tin ảo tưởng vào "thế giới bên kia" dưới hình thức các tôn giáo.
Như vậy, sự yếu kém của trình độ phát triển lực lượng sản xuất, sự bần cùng về kinh tế,
áp bức về chính trị, thất vọng, bất lực trước những bất công hội nguồn gốc sâu xa
của tôn giáo.
- Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo .Các nhà duy vật trước C. Mác thường nhấn mạnh về
nguồn gốc nhận thức của tôn giáo. Còn các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, lại
4
quan tâm trước hết đến nguồn gốc kinh tế - hội của tôn giáo. Tuy nhiên, chủ nghĩa
Mác-Lênin không phủ nhận nguồn gốc nhận thức của tôn giáo còn làm sáng tỏ một
cách sở khoa học nguồn gốc đó. một giai đoạn lịch snhất định, nhận thức của
con người về tự nhiên, hội bản thân mình giới hạn. Khoa học nhiệm vụ
từng bước khám phá những điều chưa biết. Song, khoảng cách giữa biết và chưa biết luôn
luôn tồn tại; điềumà khoa học chưa giải thích được thì điều đó dễ bị tôn giáo thay thế.
Sự xuất hiện tồn tại của tôn giáo còn gắn liền với đặc điểm nhận thức của con người.
Con người ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn thế giới khách quan, khái quát
hoá thành các khái niệm, phạm trù, quy luật. Nhưng càng khái quát hoá, trừu tượng hoá
đến mức ảo thì sự vật, hiện tượng được con người nhận thức càng khả năng xa rời
hiện thực dễ phản ánh sai lệch hiện thực. Sự nhận thức bị tuyệt đối hoá, cường điệu
hoá của chủ thể nhận thức sẽ dẫn đến thiếu khách quan, mất dần sở hiện thực, dễ rơi
vào ảo tưởng, thần thánh hoá đối tượng.
- Nguồn gốc tâm của tôn giáo. Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm
"sự sợ hãi sinh ra thần linh". V.I. Lênin tán thành phân tích thêm: sợ hãi trước thế lực
quáng của bản..., sự phá sản "đột ngột", "bất ngờ", "ngẫu nhiên", làm họ bị diệt
vong..., dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại.
Ngoài sự sợ hãi trước sức mạnh của tự nhiên hội, tín ngưỡng, tôn giáo làm nảy
sinh những tình cảm như lòng biết ơn, sự kính trọng, tình yêu trong quan hệ giữa con
người với tự nhiên con người với con người. Đó những giá trị tích cực của tín
ngưỡng, tôn giáo.
Tín ngưỡng, tôn giáo đã đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, góp
phần bù đắp những hụt hẫng trong cuộc sống, nỗi trống vắng trong tâm hồn, an ủi, vỗ về,
xoa dịu cho các số phận lúc sa cơ lỡ vận. Vì thế,chỉ là hạnh phúcảo, nhưng nhiều
người vẫn tin, vẫn bám víu vào. C. Mác đã nói, tôn giáo là trái tim của thế giới không
trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của trạng thái xã hội không có tinh thần.
1.4. Tính chất của tôn giáo
1.4.1.Tính lịch sử của tôn giáo
5
Con người sáng tạo ra tôn giáo. Mặc dù tôn giáo còn tồn tại lâu dài, nhưng nó chỉ
một phạm trù lịch sử. Tôn giáo không phải xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người.
Tôn giáo chỉ xuất hiện khi khả năngduy trừu tượng của con người đạt tới một mức độ
nhất định. Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng thời kỳ của lịch sử, tôn giáo có sự
biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại đó. Thời đại thay đổi, tôn
giáo cũng sự thay đổi, điều chỉnh theo. Đến một giai đoạn lịch sử, khi những nguồn
gốc sản sinh ra tôn giáo bị loại bỏ, khoa học giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng
nhân dân nhận thức được bản chất các hiện tượng tự nhiên hội thì tôn giáo sẽ dần
dần mất đi vị trí của nó trong đời sống xã hội và cả trong nhận thức, niềm tin của mỗi con
người. Đương nhiên, để đi đến trình độ đó sẽ còn một quá trình phát triển rất lâu dài
của xã hội loài người.
1.4.2. Tính quần chúng của tôn giáo
Tính quần chúng của tôn giáo không chỉ biểu hiện số lượng tín đồ các tôn giáo.
Hiện nay tín đồ của các tôn giáo chiếm tỷ lệ khá cao trong dân số thế giới (nếu chỉ tính
các tôngiáo lớn, đã có tới từ 1/3 đến 1/2 dân số thế giới chịu ảnh hưởng của tôn giáo). Mặt
khác,tính quần chúng của tôn giáo còn thể hiện chỗ các tôn giáo nơi sinh hoạt văn
hóa,tinh thần của một số bộ phận quần chúng nhân dân lao động. tôn giáo hướng
conngười niềm tin vào hạnh phúc ảo của thế giới bên kia, song luôn luôn phản
ánhkhát vọng của những người bị áp bức về một hội tự do, bình đẳng, bác ái... Bởi vì,
tôngiáo thường tính nhân văn, nhân đạo hướng thiện. vậy, còn nhiều người
trong các tầng lớp khác nhau của xã hội tin theo.
1.4.3. Tính chính trị của tôn giáo
Trong xã hội không giai cấp, tôn giáo chưa mang tính chính trị. Tính chất chính
trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi hội đã phân chia giai cấp, sự khác biệt về lợi ích,
các giai cấp thống trị đã lợi dụng tôn giáo để phục vụ lợi ích của mình. Những cuộc chiến
tranh tôn giáo trong lịch sử hiện tại, như các cuộc thập tự chinh thời trung cổ châu
Âu hay xung đột tôn giáo bán đảo Ban Căng, Pakixtan, ấn Độ, Angiêri, Bắc Ailen,
Bắc Capcadơ (thuộc Nga) ... đều xuất phát từ những ý đồ của những thế lực khác nhau
6
trong xã hội, lợi dụng tôn giáo để thực hiện mục tiêu chính trị của mình. Trong nội bộ các
tôn giáo, cuộc đấu tranh giữa các dòng, hệ, phái... nhiều khi cũng mang tính chính trị.
Trong những cuộc đấu tranh ý thức hệ, thì tôn giáo thường một bộ phận của đấu tranh
giai cấp.
Ngày nay, tôn giáo đangchiều hướng phát triển, đa dạng, phức tạp không chỉ thể
hiện tính tự phát trong nhân dân, mỗi địa phương, mỗi quốc gia... mà còn có tổ chức ngày
càng chặt chẽ, rộng lớn ngoài phạm vi địa phương, quốc gia - đó là nhiều tổ chức quốc tế
của các tôn giáo với vai trò, thế lực không nhỏ trên toàn cầu với những trang bị hiện
đại tác động không chỉ trong lĩnh vực tưởng, tâm lý... cả trong chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội. Vì vậy, cần nhận rõ rằng: đa số quần chúng tín đồ đến với tôn giáo nhằm
thoả mãn nhu cầu tinh thần; song, trên thực tế, tôn giáo đã và đang bị các thế lực chính trị
- xã hội lợi dụng cho thực hiện mục đích ngoài tôn giáo của họ.
7
CHƯƠNG 2: NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO THEO QUAN
ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
2.1. Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa hội trong hội hội chủ nghĩa, tôn
giáo vẫn còn tồn tại. Điều đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân chủ yếu
sau:
2.1.1. Nguyên nhân nhận thức
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa vẫn còn
nhiều hiện tượng tự nhiên,hội và của con người khoa học chưa lý giải được, trong
khi đó trình độ dân trí lại vẫn chưa thực sự được nâng cao. Do đó, trước những sức mạnh
tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà con người vẫn chưa thể nhận thức và chế ngự được
đã khiến cho một bộ phận nhân dân đi tìm sự an ủi, che chở và lý giải chúng từ sức mạnh
của thần linh
2.1.2. Nguyên nhân kinh tế
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều thành
phần kinh tế với những lợi ích khác nhau của các giai cấp, tầng lớp xã hội. Trong đời sống
hiện thực, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội vẫn còn diễn ra, sự cách
biệt khá lớn về đời sống vật chất, tinh thần giữa các nhóm dân cư còn tồn tại phổ biến. Do
đó, những yếu tố may rủi, ngẫu nhiên vẫn tác động mạnh mẽ đến con người, làm cho con
người dễ trở nên thụ động với tưởng nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu
nhiên.
2.1.3. Nguyên nhân tâm lý
Tín ngưỡng, tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử nhân loại, đã trở thành niềm tin,
lối sống, phong tục tập quán, tình cảm của một số bộ phận đông đảo quần chúng nhân dân
qua nhiều thế hệ. Bởi vậy, cho trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa hội trong
8
hội xã hội chủ nghĩa đã có những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, chính trị - xã hội, song tôn
giáo vẫn không thể biến đổi ngay cùng với tiến độ của những biến đổi kinh tế - xã hội
phản ánh. Điều đó cho thấy, trong mối quan hệ giữa tồn tại hội ý thức hội, ý
thức hội thường tính bảo thủ hơn so với sự biến đổi của tồn tại hội, trong đó ý
thức tôn giáo thường lại yếu tố mang tính chất bền vững nhất trong đời sống tinh thần
của mỗi con người, của xã hội.
2.1.4. Nguyên nhân chính trị - xã hội
Xét về mặt giá trị, những nguyên tắc của tôn giáo phù hợp với chủ nghĩa hội,
với chủ trương, đường lối, chính sách của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là những giá trị
đạo đức, văn hóa với tinh thần nhân đạo, hướng thiện... đáp ứng được nhu cầu của một bộ
phận quần chúng nhân dân. Chính vì thế, trong một chừng mực nhất định, tôn giáo có sức
thu hút mạnh mẽ đối với một bộ phận quần chúng nhân dân. Mặt khác, những thế lực
phản động lợi dụng tôn giáo như một phương tiện để chống phá sự nghiệp xây đựng chủ
nghĩa xã hội.
2.1.5. Nguyên nhân văn hóa
Trong thực tế sinh hoạt văn hóa hội, sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo đã đáp ứng
được phần nào nhu cầu văn hóa tinh thần của cộng đồng xã hội và trong một mức độ nhất
định, ý nghĩa giáo dục ý thức cộng đồng, phong cách, lối sống của mỗi nhân trong
cộng đồng, về phương diện sinh hoạt văn hóa, tôn giáo thường được thực hiện dưới hình
thức là những nghi lễ tín ngưỡng cùng với những lời răn theo chuẩn mực đạo đức phù hợp
với quan niệm của mỗi loại tôn giáo. Những sinh hoạt văn hóa tính chất tín ngưỡng,
tôn giáo ấy đã thu hút một bộ phận quần chúng nhân dân xuất phát từ nhu cầu văn hóa
tinh thần, tình cảm của họ.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản khiến tôn giáo vẫn còn tồn tại trong tiến trình
xây dựng chủ nghĩa hội trong hội hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cùng với tiến
trình đó, tôn giáo cùng có những biến đổi cùng với sự thay đổi của những điều kiện kinh
tế - xã hội, với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
9
2.2. Các quan điểm bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải quyết vấn đề
tôn giáo.
Tín ngưỡng, tôn giáo những vấn đề nhạy cảm phức tạp. Do đó, những vấn đề
nảy sinh từ tôn giáo cần phải được xem xét, giải quyết hết sức thận trọng, cụ thể và chuẩn
xác, tính nguyên tắc với những phương thức sinh hoạt theo quan điểm của chủ ngnĩa
Mác - Lênin.
Nguyên tắc 1: Giải quyết những vấn đề phát sinh từ tôn giáo trong đời sống hội
phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chủ nghĩa Mác - Lênin
hệ tưởng tôn giáo có sự khác nhau về thế giới quan, nhân sinh quan con đường
mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. vậy, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của
tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Nguyên tắc 2: Tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.Khi tín
ngưỡng tôn giáo còn nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân thì nhà nước hội
chủ nghĩa phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡngcủa mọi
công nhân. Công dân tôn giáo hay không tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật,
đều có quyền lợi nghĩa vụ như nhau, cần phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo,
nghiêm cấm mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng không tín ngưỡng của công
dân.Nhà nước nghiêm cấm những kẻ lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để hành nghề mê tín dị
đoan và những âm mưu lợi dụng tôn giáo để hoạt động chính trị hoặc gây rối trật tự trị an.
Nguyên tắc 3: Thực hiện đoàn kết những người có tôn giáo với những người không
tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết nhữne người theo tôn giáo với những người
không theo tôn giáo, đoàn kết toàn dân tộc xây dựng bảo vệ đất nước. Nghiêm cấm
mọi hành vi chia rẽ cộng đồng vì lý do tín ngưỡng tôn giáo.
Nguyên tắc 4: Phân biệthai mặt chính trịtử tưởng trong vấn đề tôn giáo. Mặt
tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
hội, khắc phục mặt này là việc làm thường xuyên, lâu dài. Mặt chính trị là sự lợi dạng tôn
giáo của những phần tử phản động nhằm chống lại sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây
10
dựng chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động trong lĩnh vực tôn giáo
là nhiệm vụ thường xuyên, vừa phải khẩn trương, kiên quyết, vừa phải thậr trọng phải
có sách lược phù hợp với thực thực
Nguyên tắc 5: Phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.Trong
mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò và sự tác động của từng tôn giáo đối với đời sống
xã hội cũng khác nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh
vực, các vấn đề củahội có sự khác biệt. Do đó, cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể
khi xem xét, đánh giá giải quyết những vẩn đề liên quan đến tôn giáo. Người mácxít
phải biết chú ý đến toàn bộ tình hình cụ thể - đó điều V.I.Lênin đã từng nhắc nhở
khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Nhà nước hội chủ nghĩa cần phải quan điểm
phương thức ứng xử phù hợp với từng trường hợp cụ thể khi giải quyết các vấn đề tôn
giáo.
11
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO.
3.1. Về vấn đề tôn giáo trong văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam.
Nghị quyết số 24 (1990) của Bộ Chính trị "Về tăng cường công tác tôn giáo trong
tình hình mới” lần đầu tiên khẳng định các quan điểm mới về tôn giáo, tín ngưỡng: i) tôn
giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài; ii) tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân; iii) đạo đức tôn giáo nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng
hội mới. Từ đây, công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng cũng được
định hướng: i) vừa quan tâm giải quyết hợp nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa
kịp thời đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo; ii) nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo
công tác vận động quần chúng iii) công tác tôn giáo trách nhiệm của toàn bộ hệ
thống chính trị.
Trong các chỉ thị, nghị quyết tiếp theo, duy luận của Đảng về vấn đề tôn giáo
tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện: Chỉ thị 37 (1998) của Bộ Chính trị chỉ rõ: "Những giá
trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy". Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về “Xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” (1998) khuyến khích ý tưởng công bằng,
bác ái, hướng thiện... trong tôn giáo. Đặc biệt, Nghị quyết số 25 Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ 7 khóa IX của Đảng (2003) đã tổng kết phát triển duy luận
của Đảng về vấn đề tôn giáo công tác tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội ở nước ta.
3.1.1. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam:
Một là, các tín ngưỡng, tôn giáo s dung hợp, đan xen hòa đồng, không kỳ
thị, tranh chấp xung đột. Các tín ngưỡng truyền thống phản ánh đời sống tâm linh
phong phú, đa dạng, skhoan dung, độ lượng, nhân ái của người Việt Nam tinh thần
đoàn kết toàn dân tộc. Đây là những yếu tố để người Việt Nam dễ hòa đồng với nhiều tín
ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Trong nhiều cộng đồng dân sự xen kẽ giữa người
tôn giáo người không tôn giáo. nhiều nơi, trong cùng một làng, xã, nhóm tín
đồ của tôn giáo này sống đan xen với nhóm tín đồ của tôn giáo khác hoặc với những
người không theo tôn giáo, họ sống hòa hợp với nhau trên nền tảng làng, xóm, dòng
12
họ.
Hai là, các tôn giáo ở Việt Nam chủ yếu thờ Thượng đế linh nhân là người nước
ngoài. Các nghiên cứu về lịch stín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam cho thấy, tưởng tôn
giáo từ người Việt cổ, thể hiện trực quan qua các hình tượng chim Lạc con Rồng.
Hệ thống giáo của các tôn giáo nội sinh (Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Tịnh độ
Phật hội Việt Nam,...) hầu hết đều sao chép hoặc chịu ảnh hưởng từ các tôn giáo có trước.
Ba là, mỗi tín ngưỡng, tôn giáo mang những nét văn hóa riêng biệt nhưng đều
hướng đến Chân - Thiện - Mỹ, chịu ảnh hưởng của truyền thống dân tộc, góp phần tạo
nên những nét đẹp trong nền văn hóa đa dạng, phong phú về bản sắc của dân tộc.
Đặc điểm thứ 4, trong lịch sử cận, hiện đại của dân tộc, các thế lực thực dân, đế
quốc, phản động luôn tìm mọi cách lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo và các vấn đề liên quan
đến tín ngưỡng, tôn giáo để xâm lược, đô hộ nước ta, hoặc gây mất ổn định an ninh chính
trị, trật tự, an toàn xã hội, phục vụ cho ý đồ đen tối của chúng.
3.1.2. Chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta về vấn đề tôn giáo
tưởng nhất quán của Đảng ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, hết sức chăm lo đoàn kết tôn giáo,
hòa hợp dân tộc. Ngay trong chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng về vấn đề thành lập
Hội Phản đế Đồng minh (tháng 11-1930), Đảng ta đã nhấn mạnh: "... phải lãnh đạo từng
tập thể sinh hoạt hay tập quán của nhân dân gia nhập một tổ chức cách mạng, để dần
dần cách mạng hóa quần chúng, lại đảm bảo t do tín ngưỡng của quần chúng..."
2
.
Sau khi đất nước giành được độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ (3 - 9 -
1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Tín ngưỡng t do Lương Giáo đoàn
kết”. Theo đó, Đảng Nhà nước ta đã ban hành tổ chức thực hiện hiệu quả nhiều
nghị quyết, chỉ thị, sắc lệnh, nghị định về vấn đề tôn giáo, công tác tôn giáo; qua đó, góp
phần củng cố, phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự đóng góp
của đồng bào các tôn giáo vào thắng lợi của cách mạng.
3.1.3. Các tôn giáo ở nước ta hiện nay được pháp luật thừa nhận:
Tôn giáo tại Việt Nam khá đa dạng, gồm có Phật giáo (cả Đại thừa, Tiểu thừa và một
13
số tông phái cải biên như Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tịnh độ
Phật hội), Kitô giáo (gồm Công giáo và Tin Lành), tôn giáo nội sinh như đạo Cao Đài,
và một số tôn giáo khác (Ấn Độ giáo và Hồi giáo).
Theo số liệu cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2019 thì cả nước
hơn 13,162 triệu người xác nhận theo một trong những tôn giáo được đăng ký chính thức.
Năm tôn giáo lớn nhất Công giáo, Phật giáo, Hòa Hảo, Tin Lành, Cao Đài; các tôn
giáo khác chiếm tỷ trọng nhỏ. Ban Tôn giáo Chính phủ là quan thực hiện quản nhà
nước về công tác tôn giáo, tín ngưỡng.
3.1.4. Quan điểm của đảng ta về vấn đề tôn giáo.
Tại Đại hội XII của Đảng, ngoài những điểm kế thừa, bổ sung, phát triển các
quan điểm của các đại hội trước, Đảng ta cũng đưa ra một số quan điểm, đánh giá, nhận
xét mới đối với tín ngưỡng, tôn giáo công tác quản nhà nước trong lĩnh vực tín
ngưỡng, tôn giáo.
Quan điểm tôn trọng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Văn kiện
Đại hội XII của Đảng. Tôn trọng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo một
chính sách nhất quán của Đảng ta kể từ khi thành lập đến nay, một nội dung cốt lõi
trong quan điểm, chính sách của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo. Trong các giai đoạn cách
mạng, quan điểm, nhận thức của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo luôn có sự bổ sung, phát
triển cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, thực tiễn cách mạng Việt Nam, cũng như thực
tiễn xây dựng phát triển đất nước. Điều 24 Hiến pháp 2013 ghi rõ: “Mọi người
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được nhìn nhận
quyền tự nhiên của con người - tức đã là con người, ai cũng được thụ hưởng, đó là quyền
bẩm sinh của con người, con người sinh ra đãquyền đó. Một điểm nữa để khẳng định
hơn chính sách tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo việc nhiều
hơn những người theo tôn giáo được kết nạp Đảng. Văn kiện Đại hội XII chỉ rõ: “Số đảng
viên mới kết nạp đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, nữ, trí thức, học sinh,
sinh viên, dân tộc thiểu số, người theo tôn giáo, người lao động trong các thành phần kinh
tế và chủ doanh nghiệp tư nhân tăng hơn so với khóa trước”. Đây là một điểm mới so với
các văn kiện đại hội Đảng trước đây khi chúng ta khẳng định chính sách kết nạp Đảng đối
14
với những người theo tôn giáo.
Quan điểm phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan điểm
này đã được đề cập đến trong các văn kiện Đảng các kỳ đại hội trước đây, xuất phát từ
luận điểm quan trọng trong Nghị quyết 24- NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày
16/10/1990 về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới: “Đạo đức tôn giáo
nhiều điều phù hợp với hội mới”. Văn kiện Đại hội XII nhấn mạnh: “Phát huy những
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm tạo điều kiện cho các tổ
chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước
công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ đất nước”. Không chỉ yêu cầu phát huy giá trị tôn giáo, Văn kiện Đại hội XII còn nêu
ra yêu cầu phát huy văn hóa tôn giáo: Phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số, văn hóa tôn
giáo, xây dựng thiết chế văn hóa...”. Quan điểm phát huy giá trị tôn giáo trong Văn kiện
Đại hội XII của Đảng xuất phát từ thực tế các tôn giáo đã và đang tham gia đóng góp tích
cực trong các hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện xã hội, cứu trợ xã hội, v.v… Quan điểm về
phát huy giá trị tôn giáo cũng cho thấy, Đảng chấp nhận những giá trị tốt đẹp của tôn giáo
tham gia vào hệ giá trị hội, góp phần làm phong phú hệ giá trị hội, qua đó cần tiếp
tục nghiên cứu các cách thức phát huy, chế phát huy giá trị của các tôn giáo, biến giá
trị của các tôn giáo thành nguồn lực hội, phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển đất
nước.
Quan điểm về hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo. Đảng ta nhấn mạnh
tại Đại hội XII “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo,... Quan
tâm tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ
chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích
cực vào sự nghiệp xây dựng bảo vệ đất nước”. Quan điểm “tiếp tục hoàn thiện chính
sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo” đề ra trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng là yêu
cầu tiếp tục thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về tín ngưỡng, tôn
giáo ngày càng đầy đủ hơn. Mặt khác, yêu cầu tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về
tín ngưỡng, tôn giáo nhằm hướng đến việc tiếp tục hoàn thiện, đồng bộ hóa với hệ thống
chính sách, pháp luật của Đảng Nhà nước nói chung, đồng thời phù hợp với luật pháp
15
| 1/27

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG
THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
MÃ MÔN HỌC & MÃ LỚP: LLCT120405E_08CLC
NHÓM THỰC HIỆN: Hoa Anh Đào. Thứ 4 - tiết: 1-2
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. Trần Ngọc Chung
Tp. Hồ Chí Minh, tháng ...... năm 20.....
DANH SÁCH NHÓM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ .....II..., NĂM HỌC: 2021-2022
Nhóm Hoa Anh Đào. Thứ 4 tiết 01, 02 Tên đề tài:
. Vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Liên hê  th c ti!n. TỶ LỆ % SĐT HỌ VÀ TÊN SINH MÃ SỐ STT HOÀN VIÊN SINH THÀNH VIÊN 1 Nguyễn Chí Thành 20145435 100 % .................. 2 Nguyễn Tấn Duy 19119027 100 % .................. 3 Hà Thị Thu Huyền 20124185 100 % .................. 4 Nguyễn Cao Kỳ 20124160 100 % .................. 5 Tăng Thị Thùy Linh 20116142 100 % .................. 6 Phạm Đức Mạnh 19145154 100 % .................. 7 Huỳnh Thị Tuyết Minh 20144184 100 % .................. Ghi chú: Tỷ lệ % = 100%
Nhận xét của giáo viên:
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
Ngày ............ tháng......... năm.......
Giáo viên chấm điểm MỤC LỤ
MỞ ĐẦU...........................................................................................................................1
1. Đặt vấn đề.................................................................................................................1
2. Mục tiêu đề tài:.........................................................................................................1
NỘI DUNG........................................................................................................................2
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ TÔN GIÁO........2
1.1. Khái niệm tôn giáo.............................................................................................2
1.2. Bản chất của tôn giáo.........................................................................................2
1.3. Nguồn gốc của tôn giáo......................................................................................4
1.4. Tính chất của tôn giáo........................................................................................5
CHƯƠNG 2: NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO THEO QUAN
ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN.....................................................................8
2.1. Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội..................................8
2.2. Các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải quyết vấn đề
tôn giáo......................................................................................................................10
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO..................................12
3.1. Về vấn đề tôn giáo trong văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam........................12
3.2. Một số quan điểm khác về vấn đề tôn giáo. Bàn luận câu nói: “Tôn giáo là
thuốc phiện của nhân dân
”.........................................................................................16
KẾT LUẬN......................................................................................................................20
1. Kết luận đề tài.........................................................................................................20
2. Nhận xét và đánh giá.................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................22
PHỤ LỤC – BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ TRONG NHÓM
Nội dung thực hiện
Sinh viên thực hiện
Nhóm tự đánh giá mức độ hoàn thành (Tốt / Khá / Kém) PHẦN MỞ ĐẦU
Nội dung 1: Lý do chọn đề Tăng Thị Thùy Linh Tốt
tài, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu.
Nội dung 2: Chỉnh sửa word Hà Thị Thu Huyền Nguyễn Chí Thành
PHẦN KIẾN THỨC CƠ BẢN
Nội dung 1: Quan điểm của Hà Thị Thu Huyền Tốt
chủ nghĩa Mác – Lenin về tôn giáo.
Nội dung 2: Nguyên tác giải Huỳnh Thị Tuyết Minh Tốt
quyết vấn đề tôn giáo theo Phạm Đức Mạnh
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin
Nội dung 3: Nội dung lý luận Nguyễn Tấn Duy Tốt
chung về vấn đề tôn giáo. Nguyễn Chí Thành PHẦN KẾT LUẬN Viết kết luận Nguyễn Cao Kỳ Tốt MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề
Vấn đề tôn giáo từ lâu đã là một vấn đề nhạy cảm không chỉ đối với Việt Nam mà
còn với nhiều nước trên thế giới. Vì thế luôn cần có những hiểu biết thấu đáo trước khi
giải quyết các vấn đề này. Vấn đề tôn giáo đã từng bị chủ nghĩa đế quốc tìm cách lợi dụng
phục vụ cho âm mưu xâm lược và chống phá cách mạng ở Việt Nam nói riêng và các
nước xã hội chủ nghĩa nói chung. Chúng sử dụng tôn giáo như là một chiêu bài trong âm
mưu diễn biến hòa bình hòng chống phá sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt
Nam cũng như các nước khác. Việt nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng,
tôn giáo khác nhau và đang có chiều hướng phát triển trên phạm vi cả nước.Vì vậy để tiến
hành thắng lợi công cuộc đổi mới ở nước ta , trước hết đòi hỏi Đảng và nhà nước ta cần
phải có cái nhìn đúng đắn những vấn đề lí luận và thực tiễn về vấn đề tôn giáo cũng như
có những chính sách về tôn giáo một cách phù hợp và linh hoạt trong tình hình hiện nay.
Đó cũng là lý do chúng em quyết định chọn đề tài “ Vấn đề tôn giáo trong thời kì
quá độ ở Việt Nam " làm để tài nghiên cứu, để trước hết mỗi thành viên trong nhóm sẽ có
những hiểu biết nhất định về các tôn giáo ở Việt Nam. Đồng thời xác định rõ cách nhìn
nhận, lựa chọn tín ngưỡng góp phần vào sự phát triển chung.ủa xã hội
2. Mục tiêu đề tài:
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội ra đời và biến đổi theo sự biến động của
hoàn cảnh lịch sử xã hội. Cũng từ đó, chúng ta còn biết một cách khái quát rằng, tôn giáo
còn tồn tại trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vậy, trong quá trình xây dựng đó,
tôn giáo còn tồn tại là do những nguyên nhân cụ thể gì?
Mặt khác, ở nước ta hiện nay tôn giáo đang có xu hướng phát triển, trước tình
hình đó, để góp phần đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, cần phải thực hiện tốt các
chủ trương, chính sách của Đảng về vấn đề tôn giáo như thế nào? Trên đây chính là những
mục đích mà nhóm chúng em muốn hướng tới khi nghiên cứu đề tài: “ Vấn để tôn giáo
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ”. 1 NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ TÔN GIÁO
Chủ nghĩa Mác – Lênin coi tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội duy tâm và có
nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa Mác – Lênin cũng thừa nhận tính chất vai trò của tôn
giáo, thừa nhận tôn giáo còn tồn tại lâu dài, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín
ngưỡng của nhân dân. Để giải quyết vấn đề tôn giáo cần một thời gian dài, gắn liền với
quá trình vận động cách mạng, cải biến xã hội và nâng cao nhận thức quần chúng.
Tín ngưỡng, tôn giáo là những vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Do đó, những vấn đề
nảy sinh từ tôn giáo cần phải được xem xét, giải quyết hết sức thận trọng, cụ thể và chuẩn
xác, có tính nguyên tắc với những phương thức linh hoạt theo quan điểm của chủ ngnĩa Mác - Lênin 1.1. Khái niệm tôn giáo
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hoang đường và hư ảo hiện
thực khách quan. Qua sự phản ánh của tôn giáo mọi sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã
hội đều trở thành thần bí.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên
và lịch sử xã hội xác định. Do đó xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội
phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội. ở một mức độ nhất
định tôn giáo có vai trò tích cực trong văn hoá, đạo đức xã hội như: đoàn kết, hướng
thiện, quan tâm đến con người… Tôn giáo là niềm an ủi, chỗ dựa tinh thần của quần chúng lao động.
Về phương diện thế giới quan, thế giới quan tôn giáo là duy tâm, hoàn toàn đối
lập với hệ tư tưởng và thế giới quan Mác - Lênin khoa học và cách mạng. Sự khác nhau
giữa chủ nghĩa xã hội hiện thực và thiên đường mà các tôn giáo thường hướng tới là ở
chỗ trong quan niệm tôn giáo thiên đường không phải là hiện thực mà là ở thế giới bên
kia. Còn những người cộng sản chủ trương và hướng con người vào xã hội văn minh,
hành phúc ngay ở thế giới hiện thực, do mọi người xây dựng và vì mọi người. 2 1.2.
Bản chất của tôn giáo
Chủ nghĩa Mác - Lênin coi tín ngưỡng, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội
phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Qua hình thức phản ánh
của tôn giáo, những sức mạnh tự phát trong tự nhiên và xã hội đều trở thành thần bí. C.
Mác và Ph. Ăngghen còn cho rằng, tôn giáo là một hiện tượng xã hội, văn hóa, lịch sử;
một lực lượng xã hội trần thế. Giữa tín ngưỡng và tôn giáo có sự khác nhau, song lại có
quan hệ chặt chẽ mà ranh giới để phân biệt chúng chỉ là tương đối. Tín ngưỡng là một
khái niệm rộng hơn tôn giáo. ở đây chúng ta chỉ đề cập một dạng tín ngưỡng - đó là tín
ngưỡng tôn giáo (gọi tắt là tôn giáo).
Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng, một
lực lượng siêu nhiên, tôn sùng vào một điều gì đó pha chút thần bí, hư ảo, vô hình tác
động mạnh đến tâm linh con người, trong đó bao hàm cả niềm tin tôn giáo. Còn tôn
giáo thường được hiểu là một hiện tượng xã hội bao gồm có ý thức tôn giáo lấy niềm tin
tôn giáo làm cơ sở, hành vi và các tổ chức hoạt động tín ngưỡng tôn giáo - nghĩa là, tôn
giáo thường có giáo lý, giáo luật, lễ nghi và các tổ chức giáo hội. Mê tín dị đoan là một
hiện tượng xã hội tiêu cực đã xuất hiện từ lâu và vẫn tồn tại ở thời đại chúng ta. Trên
thực tế, mê tín dị đoan thường xen vào các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo.
Việc xác định hiện tượng mê tín dị đoan chủ yếu dựa vào biểu hiện và hậu quả tiêu cực
của nó. Mê tín dị đoan là niềm tin cuồng vọng của con người vào các lực lượng siêu
nhiên đến mức độ mê muội với những hành vi cực đoan, thái quá, phi nhân tính, phản
văn hóa của một số người gọi chung là cuồng tín. Hiện tượng mê tín dị đoan thường gắn
chặt và lợi dụng các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề. Vì vậy,
cùng với việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân thì
chúng ta phải loại bỏ dần mê tín dị đoan nhằm làm lành mạnh hoá đời sống tinh thần xã hội.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và
lịch sử xã hội xác định. Do đó, xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội
phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội.. Tuy nhiên, tôn giáo
cũng chứa đựng một số giá trị văn hoá, phù hợp với đạo đức, đạo lý của xã hội. Về 3
phương diện thế giới quan, thế giới quan duy vật mácxít và thế giới quan tôn giáo là đối
lập nhau. Tuy vậy, trong thực tiễn, những người cộng sản có lập trường mácxít không
bao giờ có thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo hợp
pháp của nhân dân. Ngược lại, chủ nghĩa Mác-Lênin và những người cộng sản, chế độ
xã hội chủ nghĩa luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội hiện thực và "thiên đường" mà các tôn giáo
thường hướng tới là ở chỗ trong quan niệm tôn giáo, "thiên đường" không phải là hiện
thực xã hội mà là ở "thế giới bên kia", trên "thượng giới" (tức là cái hư ảo). Còn những
người cộng sản chủ trương và hướng con người vào xã hội văn minh, hạnh phúc ngay ở
thế giới hiện thực, do mọi người xây dựng và vì mọi người. 1.3.
Nguồn gốc của tôn giáo
Tôn giáo xuất hiện rất sớm trong lịch sử xã hội loài người, hoàn thiện và biến đổi
cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội. Sự xuất hiện và biến đổi
đó gắn liền với các nguồn gốc sau:
- Nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo.Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do
trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên
nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì vậy, họ đã gán chotự nhiên những sức mạnh, quyền lực to lớn,
thần thánh hoá những sức mạnh đó. Đó là hình thức tồn tại đầu tiên của tôn giáo.
Khi xã hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm giác yếu đuối trước sức
mạnh của tự nhiên, con người lại cảm thấy bất lực trước những sức mạnh tự phát hoặc
của thế lực nào đó của xã hội. Không giải thích được nguồn gốc của sự phân hoá giai cấp
và áp bức bóc lột, tội ác, v.v., và của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi, con người thường
hướng niềm tin ảo tưởng vào "thế giới bên kia" dưới hình thức các tôn giáo.
Như vậy, sự yếu kém của trình độ phát triển lực lượng sản xuất, sự bần cùng về kinh tế,
áp bức về chính trị, thất vọng, bất lực trước những bất công xã hội là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
- Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo .Các nhà duy vật trước C. Mác thường nhấn mạnh về
nguồn gốc nhận thức của tôn giáo. Còn các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, lại 4
quan tâm trước hết đến nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo. Tuy nhiên, chủ nghĩa
Mác-Lênin không phủ nhận nguồn gốc nhận thức của tôn giáo mà còn làm sáng tỏ một
cách có cơ sở khoa học nguồn gốc đó. Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của
con người về tự nhiên, xã hội và bản thân mình là có giới hạn. Khoa học có nhiệm vụ
từng bước khám phá những điều chưa biết. Song, khoảng cách giữa biết và chưa biết luôn
luôn tồn tại; điều gì mà khoa học chưa giải thích được thì điều đó dễ bị tôn giáo thay thế.
Sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo còn gắn liền với đặc điểm nhận thức của con người.
Con người ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn thế giới khách quan, khái quát
hoá thành các khái niệm, phạm trù, quy luật. Nhưng càng khái quát hoá, trừu tượng hoá
đến mức hư ảo thì sự vật, hiện tượng được con người nhận thức càng có khả năng xa rời
hiện thực và dễ phản ánh sai lệch hiện thực. Sự nhận thức bị tuyệt đối hoá, cường điệu
hoá của chủ thể nhận thức sẽ dẫn đến thiếu khách quan, mất dần cơ sở hiện thực, dễ rơi
vào ảo tưởng, thần thánh hoá đối tượng.
- Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo. Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm
"sự sợ hãi sinh ra thần linh". V.I. Lênin tán thành và phân tích thêm: sợ hãi trước thế lực
mù quáng của tư bản..., sự phá sản "đột ngột", "bất ngờ", "ngẫu nhiên", làm họ bị diệt
vong..., dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại.
Ngoài sự sợ hãi trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo làm nảy
sinh những tình cảm như lòng biết ơn, sự kính trọng, tình yêu trong quan hệ giữa con
người với tự nhiên và con người với con người. Đó là những giá trị tích cực của tín ngưỡng, tôn giáo.
Tín ngưỡng, tôn giáo đã đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, góp
phần bù đắp những hụt hẫng trong cuộc sống, nỗi trống vắng trong tâm hồn, an ủi, vỗ về,
xoa dịu cho các số phận lúc sa cơ lỡ vận. Vì thế, dù chỉ là hạnh phúc hư ảo, nhưng nhiều
người vẫn tin, vẫn bám víu vào. C. Mác đã nói, tôn giáo là trái tim của thế giới không có
trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của trạng thái xã hội không có tinh thần. 1.4.
Tính chất của tôn giáo
1.4.1.Tính lịch sử của tôn giáo 5
Con người sáng tạo ra tôn giáo. Mặc dù tôn giáo còn tồn tại lâu dài, nhưng nó chỉ là
một phạm trù lịch sử. Tôn giáo không phải xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người.
Tôn giáo chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy trừu tượng của con người đạt tới một mức độ
nhất định. Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng thời kỳ của lịch sử, tôn giáo có sự
biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại đó. Thời đại thay đổi, tôn
giáo cũng có sự thay đổi, điều chỉnh theo. Đến một giai đoạn lịch sử, khi những nguồn
gốc sản sinh ra tôn giáo bị loại bỏ, khoa học và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng
nhân dân nhận thức được bản chất các hiện tượng tự nhiên và xã hội thì tôn giáo sẽ dần
dần mất đi vị trí của nó trong đời sống xã hội và cả trong nhận thức, niềm tin của mỗi con
người. Đương nhiên, để đi đến trình độ đó sẽ còn là một quá trình phát triển rất lâu dài
của xã hội loài người.
1.4.2. Tính quần chúng của tôn giáo
Tính quần chúng của tôn giáo không chỉ biểu hiện ở số lượng tín đồ các tôn giáo.
Hiện nay tín đồ của các tôn giáo chiếm tỷ lệ khá cao trong dân số thế giới (nếu chỉ tính
các tôngiáo lớn, đã có tới từ 1/3 đến 1/2 dân số thế giới chịu ảnh hưởng của tôn giáo). Mặt
khác,tính quần chúng của tôn giáo còn thể hiện ở chỗ các tôn giáo là nơi sinh hoạt văn
hóa,tinh thần của một số bộ phận quần chúng nhân dân lao động. Dù tôn giáo hướng
conngười niềm tin vào hạnh phúc hư ảo của thế giới bên kia, song nó luôn luôn phản
ánhkhát vọng của những người bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái... Bởi vì,
tôngiáo thường có tính nhân văn, nhân đạo và hướng thiện. Vì vậy, còn nhiều người ở
trong các tầng lớp khác nhau của xã hội tin theo.
1.4.3. Tính chính trị của tôn giáo
Trong xã hội không có giai cấp, tôn giáo chưa mang tính chính trị. Tính chất chính
trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự khác biệt về lợi ích,
các giai cấp thống trị đã lợi dụng tôn giáo để phục vụ lợi ích của mình. Những cuộc chiến
tranh tôn giáo trong lịch sử và hiện tại, như các cuộc thập tự chinh thời trung cổ ở châu
Âu hay xung đột tôn giáo ở bán đảo Ban Căng, ở Pakixtan, ấn Độ, Angiêri, Bắc Ailen,
Bắc Capcadơ (thuộc Nga) ... đều xuất phát từ những ý đồ của những thế lực khác nhau 6
trong xã hội, lợi dụng tôn giáo để thực hiện mục tiêu chính trị của mình. Trong nội bộ các
tôn giáo, cuộc đấu tranh giữa các dòng, hệ, phái... nhiều khi cũng mang tính chính trị.
Trong những cuộc đấu tranh ý thức hệ, thì tôn giáo thường là một bộ phận của đấu tranh giai cấp.
Ngày nay, tôn giáo đang có chiều hướng phát triển, đa dạng, phức tạp không chỉ thể
hiện tính tự phát trong nhân dân, mỗi địa phương, mỗi quốc gia... mà còn có tổ chức ngày
càng chặt chẽ, rộng lớn ngoài phạm vi địa phương, quốc gia - đó là nhiều tổ chức quốc tế
của các tôn giáo với vai trò, thế lực không nhỏ trên toàn cầu và với những trang bị hiện
đại tác động không chỉ trong lĩnh vực tư tưởng, tâm lý... mà cả trong chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội. Vì vậy, cần nhận rõ rằng: đa số quần chúng tín đồ đến với tôn giáo nhằm
thoả mãn nhu cầu tinh thần; song, trên thực tế, tôn giáo đã và đang bị các thế lực chính trị
- xã hội lợi dụng cho thực hiện mục đích ngoài tôn giáo của họ. 7
CHƯƠNG 2: NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO THEO QUAN
ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
2.1. Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tôn
giáo vẫn còn tồn tại. Điều đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân chủ yếu sau:
2.1.1. Nguyên nhân nhận thức
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa vẫn còn
nhiều hiện tượng tự nhiên, xã hội và của con người mà khoa học chưa lý giải được, trong
khi đó trình độ dân trí lại vẫn chưa thực sự được nâng cao. Do đó, trước những sức mạnh
tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà con người vẫn chưa thể nhận thức và chế ngự được
đã khiến cho một bộ phận nhân dân đi tìm sự an ủi, che chở và lý giải chúng từ sức mạnh của thần linh 2.1.2. Nguyên nhân kinh tế
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều thành
phần kinh tế với những lợi ích khác nhau của các giai cấp, tầng lớp xã hội. Trong đời sống
hiện thực, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội vẫn còn diễn ra, sự cách
biệt khá lớn về đời sống vật chất, tinh thần giữa các nhóm dân cư còn tồn tại phổ biến. Do
đó, những yếu tố may rủi, ngẫu nhiên vẫn tác động mạnh mẽ đến con người, làm cho con
người dễ trở nên thụ động với tư tưởng nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên. 2.1.3. Nguyên nhân tâm lý
Tín ngưỡng, tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử nhân loại, đã trở thành niềm tin,
lối sống, phong tục tập quán, tình cảm của một số bộ phận đông đảo quần chúng nhân dân
qua nhiều thế hệ. Bởi vậy, cho dù trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã 8
hội xã hội chủ nghĩa đã có những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, chính trị - xã hội, song tôn
giáo vẫn không thể biến đổi ngay cùng với tiến độ của những biến đổi kinh tế - xã hội mà
nó phản ánh. Điều đó cho thấy, trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, ý
thức xã hội thường có tính bảo thủ hơn so với sự biến đổi của tồn tại xã hội, trong đó ý
thức tôn giáo thường lại là yếu tố mang tính chất bền vững nhất trong đời sống tinh thần
của mỗi con người, của xã hội.
2.1.4. Nguyên nhân chính trị - xã hội
Xét về mặt giá trị, có những nguyên tắc của tôn giáo phù hợp với chủ nghĩa xã hội,
với chủ trương, đường lối, chính sách của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là những giá trị
đạo đức, văn hóa với tinh thần nhân đạo, hướng thiện... đáp ứng được nhu cầu của một bộ
phận quần chúng nhân dân. Chính vì thế, trong một chừng mực nhất định, tôn giáo có sức
thu hút mạnh mẽ đối với một bộ phận quần chúng nhân dân. Mặt khác, những thế lực
phản động lợi dụng tôn giáo như một phương tiện để chống phá sự nghiệp xây đựng chủ nghĩa xã hội.
2.1.5. Nguyên nhân văn hóa
Trong thực tế sinh hoạt văn hóa xã hội, sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo đã đáp ứng
được phần nào nhu cầu văn hóa tinh thần của cộng đồng xã hội và trong một mức độ nhất
định, có ý nghĩa giáo dục ý thức cộng đồng, phong cách, lối sống của mỗi cá nhân trong
cộng đồng, về phương diện sinh hoạt văn hóa, tôn giáo thường được thực hiện dưới hình
thức là những nghi lễ tín ngưỡng cùng với những lời răn theo chuẩn mực đạo đức phù hợp
với quan niệm của mỗi loại tôn giáo. Những sinh hoạt văn hóa có tính chất tín ngưỡng,
tôn giáo ấy đã thu hút một bộ phận quần chúng nhân dân xuất phát từ nhu cầu văn hóa
tinh thần, tình cảm của họ.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản khiến tôn giáo vẫn còn tồn tại trong tiến trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cùng với tiến
trình đó, tôn giáo cùng có những biến đổi cùng với sự thay đổi của những điều kiện kinh
tế - xã hội, với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. 9
2.2. Các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo.
Tín ngưỡng, tôn giáo là những vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Do đó, những vấn đề
nảy sinh từ tôn giáo cần phải được xem xét, giải quyết hết sức thận trọng, cụ thể và chuẩn
xác, có tính nguyên tắc với những phương thức sinh hoạt theo quan điểm của chủ ngnĩa Mác - Lênin.
Nguyên tắc 1: Giải quyết những vấn đề phát sinh từ tôn giáo trong đời sống xã hội
phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chủ nghĩa Mác - Lênin
và hệ tư tưởng tôn giáo có sự khác nhau về thế giới quan, nhân sinh quan và con đường
mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của
tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Nguyên tắc 2: Tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.Khi tín
ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân thì nhà nước xã hội
chủ nghĩa phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡngcủa mọi
công nhân. Công dân có tôn giáo hay không có tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật,
đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, cần phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo,
nghiêm cấm mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công
dân.Nhà nước nghiêm cấm những kẻ lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để hành nghề mê tín dị
đoan và những âm mưu lợi dụng tôn giáo để hoạt động chính trị hoặc gây rối trật tự trị an.
Nguyên tắc 3: Thực hiện đoàn kết những người có tôn giáo với những người không
có tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết nhữne người theo tôn giáo với những người
không theo tôn giáo, đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Nghiêm cấm
mọi hành vi chia rẽ cộng đồng vì lý do tín ngưỡng tôn giáo.
Nguyên tắc 4: Phân biệt rõ hai mặt chính trị và tử tưởng trong vấn đề tôn giáo. Mặt
tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội, khắc phục mặt này là việc làm thường xuyên, lâu dài. Mặt chính trị là sự lợi dạng tôn
giáo của những phần tử phản động nhằm chống lại sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây 10
dựng chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động trong lĩnh vực tôn giáo
là nhiệm vụ thường xuyên, vừa phải khẩn trương, kiên quyết, vừa phải thậr trọng và phải
có sách lược phù hợp với thực thực
Nguyên tắc 5: Phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.Trong
mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò và sự tác động của từng tôn giáo đối với đời sống
xã hội cũng khác nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh
vực, các vấn đề của xã hội có sự khác biệt. Do đó, cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể
khi xem xét, đánh giá và giải quyết những vẩn đề liên quan đến tôn giáo. Người mácxít
phải biết chú ý đến toàn bộ tình hình cụ thể - đó là điều mà V.I.Lênin đã từng nhắc nhở
khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải có quan điểm và
phương thức ứng xử phù hợp với từng trường hợp cụ thể khi giải quyết các vấn đề tôn giáo. 11
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO.
3.1. Về vấn đề tôn giáo trong văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam.
Nghị quyết số 24 (1990) của Bộ Chính trị "Về tăng cường công tác tôn giáo trong
tình hình mới” lần đầu tiên khẳng định các quan điểm mới về tôn giáo, tín ngưỡng: i) tôn
giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài; ii) tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân; iii) đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã
hội mới. Từ đây, công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng cũng được
định hướng: i) vừa quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa
kịp thời đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo; ii) nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là
công tác vận động quần chúng và iii) công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị.
Trong các chỉ thị, nghị quyết tiếp theo, tư duy lý luận của Đảng về vấn đề tôn giáo
tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện: Chỉ thị 37 (1998) của Bộ Chính trị chỉ rõ: "Những giá
trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy". Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về “Xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” (1998) khuyến khích ý tưởng công bằng,
bác ái, hướng thiện... trong tôn giáo. Đặc biệt, Nghị quyết số 25 Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ 7 khóa IX của Đảng (2003) đã tổng kết và phát triển tư duy lý luận
của Đảng về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
3.1.1. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam:
Một là, các tín ngưỡng, tôn giáo có sự dung hợp, đan xen và hòa đồng, không kỳ
thị, tranh chấp và xung đột. Các tín ngưỡng truyền thống phản ánh đời sống tâm linh
phong phú, đa dạng, sự khoan dung, độ lượng, nhân ái của người Việt Nam và tinh thần
đoàn kết toàn dân tộc. Đây là những yếu tố để người Việt Nam dễ hòa đồng với nhiều tín
ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Trong nhiều cộng đồng dân cư có sự xen kẽ giữa người có
tôn giáo và người không có tôn giáo. Ở nhiều nơi, trong cùng một làng, xã, có nhóm tín
đồ của tôn giáo này sống đan xen với nhóm tín đồ của tôn giáo khác hoặc với những
người không theo tôn giáo, và họ sống hòa hợp với nhau trên nền tảng làng, xóm, dòng 12 họ.
Hai là, các tôn giáo ở Việt Nam chủ yếu thờ Thượng đế và linh nhân là người nước
ngoài. Các nghiên cứu về lịch sử tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam cho thấy, tư tưởng tôn
giáo có từ người Việt cổ, thể hiện trực quan qua các hình tượng chim Lạc và con Rồng.
Hệ thống giáo lý của các tôn giáo nội sinh (Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Tịnh độ Cư sĩ
Phật hội Việt Nam,...) hầu hết đều sao chép hoặc chịu ảnh hưởng từ các tôn giáo có trước.
Ba là, mỗi tín ngưỡng, tôn giáo mang những nét văn hóa riêng biệt nhưng đều
hướng đến Chân - Thiện - Mỹ, chịu ảnh hưởng của truyền thống dân tộc, góp phần tạo
nên những nét đẹp trong nền văn hóa đa dạng, phong phú về bản sắc của dân tộc.
Đặc điểm thứ 4, trong lịch sử cận, hiện đại của dân tộc, các thế lực thực dân, đế
quốc, phản động luôn tìm mọi cách lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo và các vấn đề liên quan
đến tín ngưỡng, tôn giáo để xâm lược, đô hộ nước ta, hoặc gây mất ổn định an ninh chính
trị, trật tự, an toàn xã hội, phục vụ cho ý đồ đen tối của chúng.
3.1.2. Chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta về vấn đề tôn giáo
Tư tưởng nhất quán của Đảng ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và
quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, hết sức chăm lo đoàn kết tôn giáo,
hòa hợp dân tộc. Ngay trong chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng về vấn đề thành lập
Hội Phản đế Đồng minh (tháng 11-1930), Đảng ta đã nhấn mạnh: "... phải lãnh đạo từng
tập thể sinh hoạt hay tập quán của nhân dân gia nhập một tổ chức cách mạng, để dần
dần cách mạng hóa quần chúng, mà lại đảm bảo t do tín ngưỡng của quần chúng..."2.
Sau khi đất nước giành được độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ (3 - 9 -
1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Tín ngưỡng t do và Lương Giáo đoàn
kết”. Theo đó, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành và tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiều
nghị quyết, chỉ thị, sắc lệnh, nghị định về vấn đề tôn giáo, công tác tôn giáo; qua đó, góp
phần củng cố, phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự đóng góp
của đồng bào các tôn giáo vào thắng lợi của cách mạng.
3.1.3. Các tôn giáo ở nước ta hiện nay được pháp luật thừa nhận:
Tôn giáo tại Việt Nam khá đa dạng, gồm có Phật giáo (cả Đại thừa, Tiểu thừa và một 13
số tông phái cải biên như Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tịnh độ cư
sĩ Phật hội), Kitô giáo (gồm Công giáo và Tin Lành), tôn giáo nội sinh như đạo Cao Đài,
và một số tôn giáo khác (Ấn Độ giáo và Hồi giáo).
Theo số liệu cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2019 thì cả nước có
hơn 13,162 triệu người xác nhận theo một trong những tôn giáo được đăng ký chính thức.
Năm tôn giáo lớn nhất là Công giáo, Phật giáo, Hòa Hảo, Tin Lành, và Cao Đài; các tôn
giáo khác chiếm tỷ trọng nhỏ. Ban Tôn giáo Chính phủ là cơ quan thực hiện quản lý nhà
nước về công tác tôn giáo, tín ngưỡng.
3.1.4. Quan điểm của đảng ta về vấn đề tôn giáo.
Tại Đại hội XII của Đảng, ngoài những điểm kế thừa, bổ sung, phát triển các
quan điểm của các đại hội trước, Đảng ta cũng đưa ra một số quan điểm, đánh giá, nhận
xét mới đối với tín ngưỡng, tôn giáo và công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
Quan điểm tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Văn kiện
Đại hội XII của Đảng. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một
chính sách nhất quán của Đảng ta kể từ khi thành lập đến nay, là một nội dung cốt lõi
trong quan điểm, chính sách của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo. Trong các giai đoạn cách
mạng, quan điểm, nhận thức của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo luôn có sự bổ sung, phát
triển cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, thực tiễn cách mạng Việt Nam, cũng như thực
tiễn xây dựng và phát triển đất nước. Điều 24 Hiến pháp 2013 ghi rõ: “Mọi người có
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được nhìn nhận là
quyền tự nhiên của con người - tức đã là con người, ai cũng được thụ hưởng, đó là quyền
bẩm sinh của con người, con người sinh ra đã có quyền đó. Một điểm nữa để khẳng định
rõ hơn chính sách tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là việc có nhiều
hơn những người theo tôn giáo được kết nạp Đảng. Văn kiện Đại hội XII chỉ rõ: “Số đảng
viên mới kết nạp là đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, nữ, trí thức, học sinh,
sinh viên, dân tộc thiểu số, người theo tôn giáo, người lao động trong các thành phần kinh
tế và chủ doanh nghiệp tư nhân tăng hơn so với khóa trước”. Đây là một điểm mới so với
các văn kiện đại hội Đảng trước đây khi chúng ta khẳng định chính sách kết nạp Đảng đối 14
với những người theo tôn giáo.
Quan điểm phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan điểm
này đã được đề cập đến trong các văn kiện Đảng các kỳ đại hội trước đây, xuất phát từ
luận điểm quan trọng trong Nghị quyết 24- NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày
16/10/1990 về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới: “Đạo đức tôn giáo có
nhiều điều phù hợp với xã hội mới”. Văn kiện Đại hội XII nhấn mạnh: “Phát huy những
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ
chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước
công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ đất nước”. Không chỉ yêu cầu phát huy giá trị tôn giáo, Văn kiện Đại hội XII còn nêu
ra yêu cầu phát huy văn hóa tôn giáo: Phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số, văn hóa tôn
giáo, xây dựng thiết chế văn hóa...”. Quan điểm phát huy giá trị tôn giáo trong Văn kiện
Đại hội XII của Đảng xuất phát từ thực tế các tôn giáo đã và đang tham gia đóng góp tích
cực trong các hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện xã hội, cứu trợ xã hội, v.v… Quan điểm về
phát huy giá trị tôn giáo cũng cho thấy, Đảng chấp nhận những giá trị tốt đẹp của tôn giáo
tham gia vào hệ giá trị xã hội, góp phần làm phong phú hệ giá trị xã hội, qua đó cần tiếp
tục nghiên cứu các cách thức phát huy, cơ chế phát huy giá trị của các tôn giáo, biến giá
trị của các tôn giáo thành nguồn lực xã hội, phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
Quan điểm về hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo. Đảng ta nhấn mạnh
tại Đại hội XII “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo,... Quan
tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ
chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích
cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”. Quan điểm “tiếp tục hoàn thiện chính
sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo” đề ra trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng là yêu
cầu tiếp tục thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về tín ngưỡng, tôn
giáo ngày càng đầy đủ hơn. Mặt khác, yêu cầu tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về
tín ngưỡng, tôn giáo nhằm hướng đến việc tiếp tục hoàn thiện, đồng bộ hóa với hệ thống
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước nói chung, đồng thời phù hợp với luật pháp 15