Vận dụng lý luận Mác-Lênin trong xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn chủ nghĩa xã hội khoa học

Tư tưởng về nhà nước có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống lý luận của V.I.Lê-nin, bởi nó không thuần túy là những lý thuyết khoa học mà gắn bó chặt chẽ với quan điểm chính trị; nó không đơn giản là những suy tư tinh thần mà gắn liền với những hoạt động thực tiễn sinh động của ông. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TPHCM
KHOA: CHÍNH TRỊ- PHÁP LUẬT
------oOo-----
TIỂU LUẬN
Đề tài: VẬN DỤNG LÝ LUẬN MÁC-LÊNIN TRONG
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HIỆN NAY
1
Họ và tên Mssv
Lê Hoài Ngọc 21129031
Đoàn Nguyễn Ái Nguyên 21158204
Hoàng Trung Nguyên 20142540
Hồ Cao Nguyên 20151194
Hồ Thị Thu Nhàn 21136190
GVHD: TS Thái Ngọc Tăng
MỤC LỤC
A. Mở đầu..........................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài:........................................................................3
2. Mục tiêu nghiên cứu:...................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu:...........................................................3
B. Nội dung...........................................................................................4
1. Chương 1: Lý luận chủ nghĩa Marx–Lenin về nhà nước xã hội
chủ nghĩa............................................................................................................
.......................................................................................................................... 4
1.1. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa..............................4
1.2. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.............................4
1.3. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa..........................5
1.3.1. Chức năng đối nội:...............................................................5
1.3.2. Chức năng đối ngoại.............................................................7
1.4. Tiểu kết..................................................................................7
2. Chương 2: Liên hệ thực tiễn về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam...............................................................8
2.1. Nhà nước pháp quyền............................................................8
2.1.1. Nhà nước pháp quyền.........................................................8
2.1.2. Thực trạng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay......................................................................................13
2.2. Liên hệ thực tiễn..................................................................19
2.2.1. Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động
của bộ máy nhà nước.................................................................................19
2.2.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.......................19
2.2.3. Thực hiện dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội..20
2.2.4. Tăng c ờng công tác đấu tranh phòng và chống tham ƣ
nhũng..........................................................................................................21
2.2.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước đáp ứng yêu
cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa......................................21
2.3. Tiểu kết:..................................................................................22
3. Kết luận.........................................................................................22
4. Tài liệu tham khảo........................................................................23
2
A. Mở đầu.
1. Lý do chọn đề tài:
tưởng về nhà nước có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống
luận của V.I.Lê-nin, bởi không thuần túy những lý thuyết khoa học mà gắn
bó chặt chẽ với quan điểm chính trị; nó không đơn giản là những suy tư tinh thần
mà gắn liền với những hoạt động thực tiễn sinh động của ông.
Trong học thuyết Mác - Lênin, luận về nhà nước có một vị trí rất quan
trọng. Nhiều luận điểm của các ông cho đến nay còn nguyên giá trị, trở thành
những chỉ dẫn khoa học cách mạng cho các Đảng cộng sản khi giành được
chính quyền bắt tay vào xây dựng nhà nước kiểu mới, trong sạch vững mạnh của
mình. Tuy nhiên, Chủ nghĩa hội con đường đi lên chủ nghĩa hội ở Việt
Nam một đề tài luận thực tiễn rất bản, quan trọng, nội dung rất rộng
lớn, phong phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải có sự
nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa
học. một số luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng cần được tiếp tục nghiên
cứu làm sáng tỏ để bổ sung, phát triển cho phù hợp với bối cảnh mới hiện nay.
Đây cũng chính là phương pháp luận khoa học mà các nhà kinh điển luôn đòi hỏi
hậu thế phải quán triệt để vận dụng một cách sáng tạo phù hợp vào điều kiện
cụ thể của mỗi nước khi xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.
Chính vậy, tìm hiểu những tưởng của V.I.Lênin về nhà nước ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với chúng ta trong quá trình xây dựng hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Làm sáng tỏ về mặt lý luận nguồn gốc, đặc trưng, bản chất của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Thực trạng vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị giải pháp
hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp luận: sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác-Lênin.
Sử dụng các nguyên tắc phương pháp luận, chủ nghĩa của chủ tịch HCM:
tính Đảng, tính khoa học; tính lịch sử cụ thể; tính toàn diện nhưng trọng tâm,
trọng điểm; kế thừa và phát triển.
Phương pháp khoa học: sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp; đối
chiếu lịch sử (VD: nghiên cứu về người bạn, người đồng chí đã đồng hành với
Hồ Chí Minh, kể chuyện Hồ Chí Minh viết về Hồ Chí Minh; nghiên cứu về
gia đình, quê hương, những nơi mà Người đã sống và hoạt động;...).
3
B. Nội dung.
1. Chương 1: Lý luận chủ nghĩa Marx–Lenin về nhà nước xã hội chủ nghĩa.
1.1. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Bắt đầu từ những mong muốn thoát khỏi áp bức bóc lột, bất công của
nhân dân lao động, đó mong muốn được một hội dân chủ, công bằng,
những giá trị của con người được tôn trọng, được bảo vệ thể được điều
kiện để có thể phát triển tự do các năng lực của mình.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa được ra đời kết quả của của các cuộc cách
mạng do giai cấp sản và giai cấp lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản.
Mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất bản nhân về liệu sản xuất với
tính chất hội hóa được hình thành khi hội tư bản chủ nghĩa xuất hiện, mâu
thuẫn ngày càng trở nên gay gắt dẫn đến các cuộc khủng hoảng kinh tế hình
thành nên mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp sản giai cấp sản từ đó xuất
hiện các cuộc đấu tranh của giai cấp sản. Trong các cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản, Đảng Cộng sản được thành lập để lãnh đạo phong trào đấu tranh cách
mạng và trở thành yếu tố chủ chốt quyết định thắng lợi của cách mạng. Với cách
kết hợp giữ các yếu tố dân tộc, thời đại áp dụng các s luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin về tổ chức, tiến hành cách mạng, xây dựng nhà nước hội
chủ nghĩa cùng với mâu thuẫn gay gắt của giai cấp sản giai cấp bản đã
tác động mạnh mẽ đến các phong trào cách mạng của những nước có chế độ
tư bản chủ nghĩa phát triển cao và các nước dân tộc thuộc địa.
Tùy vào đặc điểm của từng quốc gia, sự ra đời của nhà nước hội chủ
nghĩa cũng như việc tổ chức chính quyền sau cách mạng những đặc điểm,
hình thức phương pháp khác nhau. Tuy nhiên vẫn những điểm chung
Đảng Cộng sản tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân, quan thể hiện ý
chí của nhân dân, thực hiện quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân.
Như vậy, “Nhà nước hội chủ nghĩa nhà nước đó, sự thống trị
chính trị thuộc về giai cấp công nhân, do cách mạng hội chủ nghĩa sinh ra
có sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa
vị làm chủ trên tất cả các mặt trong đời sống xã hội phát triển cao – xã hội xã hội
chủ nghĩa”.
1.2. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước hội chủ nghĩa kiểu nhà nước mới xuất hiện, bản chất
khác so với các kiểu nhà nước trước đó trong lịch sử, tính ưu việt hơn về
nhiều mặt hơn so với các kiểu nhà nước trước đó trong lịch sử. Tính ưu việt
của nhà nước xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua các phương diện sau:
Về chính trị: Nhà nước hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công
nhân, giai cấp lợi ích phù hợp với lợi ích chung của quần chúng nhân
4
dân lao động. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa giai cấp sản lực lượng
giữ địa vị thống trị về chính trị. Khác với sự thống trị của các giai cấp bóc
lột trước đây. Sự thống trị của giai cấp bóc lộtsự thống trị của thiểu số
với tất cả các giai cấp nhằm mục đích bảo vệduy trì vị thế của minh.
Còn về giai cấp sản sự thống trị của đa số nhằm giải phóng giai cấp
của mình nhằm giải phóng các tầng lớp lao động trong xã hội.
Về kinh tế: Nhà nước xã hội chủ nghĩa chịu sự quy định là chế độ sở hữu
xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu nên không còn tồn tại quan hệ sản xuất
bóc lột. Sự khác nhau của các nhà nước bóc lột khác trong lịch sử nhà
nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước bóc lột là bộ máy nhà nước của một bộ
phận thiểu số, của những kẻ bóc lột nhằm trấn áp đa số nhằm giữ vững
quyền lực trong khi đó nhà nước hội chủ nghĩa vừa một bộ máy
chính trị - hành chính, một cơ quan cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý
kinh tế - hội của nhân dân, không còn nhà nước đúng nghĩa
chỉ còn “nửa nhà nước”. Mục tiêu ng đầu chăm lo cho nhân dân.
Chủ nghĩa hội được hình thành dựa trên sở từng bước thiết lập chế
độ sở hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân sở hữu tập thể.
Chế độ sở hữu này được củng cố, hoàn thiện, bảo đảm thích ứng với tính
chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực
lượng sản xuất phát triển, xóa bỏ dần những mâu thuẫn đối kháng trong xã
hội, làm cho mọi thành viên trong hội ngày càng gắn với nhau
những lợi ích căn bản. Nhà nước hội chủ nghĩa đảm bảo quyền bình
đẳng trong lao động, sáng tạo. Mỗi người lao động được hưởng thù lao
theo giá trị cho hội mình tạo ra. Đó một trong những sở của
công bằng xã hội ở giai đoạn hiện nay.
Về văn hóa - hội: nhà nước hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền
tảng tinh thần luận của chủ nghĩa Mác - Lênin những giá trị văn
hóa tiên tiến, tiến bộ của nhân loại, đồng thời mang những bản sắc riêng
của dân tộc. Sự phân hóa giai cấp tầng lớp từng bước được thu hẹp, các
giai cấp, tầng lớp bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực và cơ hội để
phát triển.
1.3. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
1.3.1. Chức năng đối nội:
Chức năng bảo vệ chế độ hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội.
Đây một trong những chức năng căn bản nhất của nhà nước ta. Muốn
tiến hành sự nghiệp đổi mới thuận lợi, Nhà nước ta phải đảm bảo an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội trên toàn bộ đất nước. Nhà nước phải có đủ sức mạnh và
kịp thời đập tan mọi âm mưu chống đối của các thế lực thù địch, đảm bảo điều
kiện ổn định cho Nhân dân sản xuất kinh doanh.
Chức năng bảo vệ quyền tự do, dân chủ của Nhân dân.
5
Đây một trong những chức năng của Nhà nước hội chủ nghĩa Việt
Nam quan trọng; bởi vì, việc thực hiện chức năng này thể hiện trực tiếp bản chất
của nhà nước kiểu mới, nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, Nhân dân.
Đồng thời, việc thực hiện chức năng này sẽ đảm bảo sức mạnh của Nhà nước
trong việc thực hiện tất cả các chức năng khác của Nhà nước, quan hệ đến sự tồn
tại, phát triển của bản thân Nhà nước và chế độ.
Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, ng cường pháp chế hội chủ
nghĩa.
Đây chức năng, nhiệm vụ của nhà nước hội chủ nghĩa quan trọng,
liên quan trực tiếp đến việc thực hiện tất cả các chức năng khác của Nhà nước.
Pháp luật phương tiện quan trọng để Nhà nước tổ chức thực hiện hiệu quả
tất cả các chức năng của mình, do đó, bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp
chế hội chủ nghĩa hoạt động thường xuyên, ý nghĩa quyết định đối với
việc nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước.
Mục đích của chức năng này nhằm bảo đảm cho pháp luật được thi
hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, thực hiện quản lý trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội bằng pháp luật.
Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế.
Tổ chức quản lý nền kinh tế đất nước, xét đến cùngchức năng hàng
đầu bản nhất của Nhà nước Cộng hòa hội chủ nghĩa nhằm xây dựng
mọi xã hội dựa trên cơ sở vật chất và kỹ thuật phát triển cao.
Nhà nước ta người đại diện cho ý chí, quyền lực của Nhân dân lao
động, người chủ sở hữu đối với các liệu sản xuất chủ yếu; người nắm
trong tay các công cụ, phương tiện quản(chính sách, kế hoạch, pháp luật, tài
chính, ngân hàng…) và quản lý việc sử dụng tài sản quốc gia. Trên cơ sở đó, Nhà
nước có đủ điều kiện để tổ chức quản sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế
trong nước cũng như hợp tác quốc tế.
Chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, khoa học, giáo dục.
hội mới Nhân dân ta đang xây dựng hội do Nhân dân lao
động làm chủ; nền kinh tế phát triển trên sở một nền khoa học công
nghệ tiên tiến; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được
giải phóng khỏi sự áp bức, bóc lột, bất công, cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
Muốn xây dựng hội đó, Nhà nước ta phải tổ chức, quản sự nghiệp
giáo dục đào tạo, văn hóa, phát triển khoa học công nghệ. Đó quốc sách
hàng đầu để phát huy nhân tố con người, phát huy vai trò then chốt của khoa học
và công nghệ. Đó là những động lực trực tiếp của sự phát triển, tạo điều kiện cần
thiết cho việc thực hiện các chức năng khác của Nhà nước vừa nhằm tổ chức
quản lý văn hóa, khoa học, giáo dục vừa nhằm thực hiện những nhiệm vụ kinh tế
hội. Trước mắt, cần chuẩn bị cho đất nước bước vào những giai đoạn phát
triển tiếp theo trong tương lai, hòa nhập với sự phát triển của nền văn minh thế
giới.
6
1.3.2. Chức năng đối ngoại
Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các
nhà nước dân tộc khác. Nhà nước ta thực hiện chức năng đối ngoại nhằm
tranh thủ sđồng tình ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, mở rộng hợp tác
quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng
thời làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với phong trào cách mạng thế giới.
Chức năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tất cả chức năng đối nội của nhà nước chỉ có thể được triển khai thực hiện
tốt khi Tổ quốc được bảo vệ vững chắc. Vì vậy, bảo vệ Tổ quốc là chức năng cực
kỳ quan trọng nhằm giữ gìn thành quả cách mạng, bảo vệ công cuộc xây dựng
hòa bình của nhân dân, tạo điều kiện ổn định triển khai các kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội của đất nước.
Chức năng củng cố, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác
Hợp tác với các nước hội chủ nghĩa, đồng thời mở rộng quan hệ với
các nước khác theo nguyên tắc bình đẳng, cùng lợi, cùng tồn tại hòa bình,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
tưởng chỉ đạo thực hiện chức năng này của Nhà nước ta là, trên sở
kiên trì đường lối độc lập tự chủ đoàn kết quốc tế, “nhiệm vụ đối ngoại bao
trùm trong thời gian tới là giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị hợp
tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội
bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” .
(1)
Chức năng ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc
Phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các
nước tư bản, chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Chống chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc, chống chính sách gây chiến và chạy đuatrang, góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
1.4. Tiểu kết.
Thể hiện vai trò của chủ nghĩa xã hội và có nhiều nội dung, mỗi nội dung,
vài trò và có quy luật phát triển riêng, gắn với diễn trình lịch sử từng giai đoạn,
từng thời kỳ cách mạng. Trên đây là những nội dung cốt lõi thể hiện sáng tạo
luận về nhà nước CNXH dựa trên luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Các thành
tựu khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của hình CNXH, khẳng định, khái
quát thành hình đặc trưng, phương thức thực hiện phương hướng chỉ đạo.
Kế thừa và phát triển luận của C. Mác Ph. Ăng-ghen trong điều kiện chủ
nghĩa bản (CNTB) chuyển sang giai đoạn độc quyền Lênin đã đưa ra hàng
loạt luận điểm quan trọng về sở hữu. Lênin cho rằng, CNXH không hề xóa bỏ tất
cả các quyền sở hữu của quần chúng nhân dân lao động, chỉ muốn xóa bỏ
quyền sở hữu của bọn địa chủ bản. Mác - Lênin đã những chỉ dẫn hết
sức quý báu trong việc tiếp thu, vận dụng các luận điểm kinh điển: “Chúng ta
phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường quan
điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin tổng kết những kinh nghiệm của
Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của đất nước ta.
7
2. Chương 2: Liên hệ thực tiễn về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.1. Nhà nước pháp quyền.
2.1.1. Nhà nước pháp quyền.
a) Khái niệm về nhà nước pháp quyền:
Qua các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học từ những đất nước
khác nhau trên khắp thế giới, thể thấy rằng nhiều định nghĩa về nhà nước
pháp quyền. Có thể khẳng định nhà nước pháp quyền đầu tiên phải là tổ chức đặc
biệt của quyền lực chính trị, tổ chức công quyền của xã hội.
Tuy nhiên, theo quan điểm của Mác - Lênin nhà nước pháp quyền không
phải nhà nước ứng vói một hình thái kinh tế - xã hội. Nhà nước pháp quyền hệ
thống có tổ chức và hoạt động theo quyền lực chính trị công khai. Với tư cách
những chủ thể của luật pháp phải làm theo hệ thống pháp luật dân chủ, đề cao
công lý, tương ứng với quyền tự nhiên của con người, hoạt động trên sở của
hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng và theo nguyên tắc với mục tiêu bảo đảm
quyền con người, tự do, công bằng trong xã hội.
b) Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền:
Qua bản yêu sách của nhân dân An Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra
4 điều liên quan đến pháp quyền qua việc nhận thức vị trí, vai trò của pháp
luật trong điều hành quản hội. Những bước tiến trong thời gian qua đã
khẳng định yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đi lên chủ nghĩa hội. Trong điều kiện nền kinh
tế thị trường theo hướng hội chủ nghĩa, mở rộng giao thương với các nước
trên thể giới nói chung các nước Đông Nam Á nói riêng trên cơ sở tôn trọng
độc lập toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp nội bộ của nhau. Những đặc
trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền phụ thuộc vào lập trường chính trị - pháp
lý và quan điểm học thuật ở từng người, đó là:
Một là, Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ
Dân chủ vừa là bản chất của nhà nước pháp quyền, vừa là tiền đề của chế
độ nhà nước. Nhà nước của dân, do dân, dân; đảm bảo được lợi ích cho nhân
dân, đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Mục tiêu chính xây dựng thực thi
một nên dân chủ, bảo đảm quyền lực chính trị về nhân dân, đây cũng là mục tiêu
của Nhà nước ta được thể hện triệt để trên thực tế. Tuy nhiên, vẫn còn những
hành vi vi phạm tình trạng tính dân chủ đang diễn ra ở một số cấp và một số nơi.
dụ, hiểu biết về dân chủ nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, dẫn đến
những việc cố tình hay vô ý vi phạm các quyền hợp pháp của công dân, tiêu biểu
như một vài quan công quyền pháp. Sự tham gia của các quan
thông tin đại chúng trong hoạt động tuyên truyền phòng chống vi phạm dân
chủ còn hạn chế. Tóm lại là cơ chế đảm bảo còn chưa hiệu quả
8
Hai là, Nhà nước pháp quyền tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật
Trong hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền, Hiến pháp là đạo luật
thể hiện một cách tập trung ý chí của nhân dân, hiệu lực pháp cao nhất.
Hiến pháp pháp luật chínhtiền đề để hình thành nhà nước pháp quyền, do
vậy, tôn trọng và thi hành Hiến pháp và pháp luật chínhnhu cầu của chính nhà
nước pháp quyền. Cả nhà nước pháp luật của nhà nước pháp quyền diễn ra
theo hướng bổ trợ lẫn nhau. Mặc cho nhà nước ban hành nhưng khi hiệu lực
pháp thì lại có sràng buộc đối với nhà nước. Lúc này sẽ làm sở cho toàn
bộ quá trình vận hành của bộ máy nhà nước. Toàn bộ các nhân viên cũng như cơ
quan nhà nước đều phải tuân thủ tuyệt đối Hiến pháp và pháp luật trong các hành
vi của mình chỉ được làm những luật pháp ban hành theo trình tự đã
được quy định. Pháp luật không chỉ giữ vị trí thống trị của đời sống nhà nước
cả đời sống hội. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, việc hội nhập quốc tế
cũng phải điều chỉnh trên cơ sở các quy định luật pháp quốc tế nên cũng cần phải
tuân theo các yêu cầu của quốc tế, đỏi hỏi với nhà nước pháp quyền. Thực tiễn
cho thấy rằng, trong các hội chiếm hữu lệ, phong kiến thì lối sống pháp
luật chưa trở thành lối sống phổ biến, lúc ấy tín điều tôn giáo, phong tục tập quán
được tôn sùng hơn rất nhiều. Với lối sống theo pháp luật, mỗi người trong hội
đều xử theo phương châm sống và làm việc theo pháp luật” đồng thời tích
cực đấu tranh để bảo vệ các quyền lợi ích của chính mình. Điều đó trở thành
lối sống phổ biến, thịnh hành trong hội trật tự, kỉ cương được đảm bảo
trong các lĩnh vực hoạt động đời sống như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,…
Ba là, Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao đảm bảo quyền con
người trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Bắt nguồn tự ý muốn những yêu cầu hạn chế kiểm soát quyền lực
nhà nước để bảo đảm tự do nhân nhà nước pháp quyền đã hình thành ý
tưởng rằng: “ Tự do, bình đẳng, phẩm giá con người và những hình thức thể hiện
khác nhau của bảo đảm nhân quyền yếu tố đặc trưng truyền thống của chế độ
pháp trị ” .
Quyền con người tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà
nước. Tất cả những hỏa động của Nhà nước đều phải từ sự tôn trọng quyền con
người. Mở ra những hội cho công dân thực hiện quyền của mình theo quy
định của luật pháp, tự do cho công dân nhân chính quyền lực của nhà
nước, phạm vi tự do của công dân rộng hơn phạm vi tự do của nhà nước, miễn là
công dân làm việc mà luật không cấm thì các cơ quan nhà nước chỉ làm những
luật pháp cho pháp. Nhà nước pháp quyền đảm bảo cho mọi nhân
quyền tự do bình đẳng trước pháp luật, đủ hội về mặt pháp để phát
triển toàn diện, phát huy được khả năng của bản thân. Ngoài ra, sự bình đẳng của
công dân trong nhà nước pháp quyền còn đảm bảo cho công dân đầy đủ về
mặt vật chất, tinh thần để thực hiện những mong muốn nhân. Không những
vậy, các quan nhà nước bảo vệ công dân khỏi sxâm hại của các chủ thể
khác, kể cả các cơ quan nhà nước. Vậy, một giá trị khác mà nhà nước pháp quyền
mang lại cho nhân loại đó quyền con người được bảo vệ, thừa nhận giá trị của họ,
9
thể nói các giá trị nhân đạo, nhân văn được coi trọng hơn bao giờ hết trong
lịch sử phát triển nhân loại.
Bốn là, quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức
thực hiện theo các nguyên tắc dân chủ: phân công quyền lực và kiểm soát
quyền lực
Nhà nước pháp quyền là nhà nước không tập trung trong tay một hay một
số nhân chia công việc cho nhiều quan nhà nước khác nhau để thực
hiện với nhau. Phân công quyền lực thực chất là sự phân chia chức năng giữa các
quan nhà nước nhằm đảm bảo sự cân bằng quyền lực, kiềm chế chính quyền
và kiểm soát quyền lực của nhà nước. Mỗi quan nhà nước chức năng thẩm
quyền riêng do pháp luật quy định. dụ, trong nhà nước, hoạt động của nhà
nước về căn bản được Hiến pháp phân thành 3 chức năng là lập pháp, hành pháp,
pháp, mỗi chức năng đó chủ yếu được giao cho một quan quản như
Nghị viện, Tòa án, Chính phủ. Mỗi cơ quan có thể tập trung chuyên môn hóa của
mình, đồng thời kết hợp với hoạt động với các quan khác để tạo nên sự đồng
nhất trong các hoạt động của nhà nước. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể ngăn chặn
cơ quan nhà nước khác để bảo vệ quyền con người, nâng cao hiệu quả hoạt động
của nhà nước, ngăn chặn hành vi lạm chức, lạm quyền, nâng cao hiệu quả hoạt
động của nhà nước, bảo vệ tốt nhất các quyền con người, quyền công dân.
Năm là, nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp
và pháp luật phù hợp
Nền tảng tiên quyết của Nhà nước pháp quyền Hiến pháp một hệ
thống luật dân chủ công bằng. Để đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật luôn
được tôn trọng và đề cao thì bảo vệ Hiến pháp pháp luật luôn là điều cần thiết
nhất.
Việc bảo vệ Hiến pháp và luật pháp ở các quốc gia có thể đa dạng và khác
nhau, nhưng đều hướng đến mục tiêu bảo đảm địa vị tối cao, bất khả xâm
phạm của Hiến pháp, những hành vi đi ngược lại với tinh thần quy định của
Hiến pháp đều được bỏ qua, đòi hỏi phải xây dựng thực thi một chế độ
pháp thật sự dân chủ, minh bạch trong sạch để duy trì đối với bảo vệ Hiến
pháp và thực thi một chế độ tư pháp thật sự dân chủ, rõ ràng để duy trì cũng như
bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Sáu là, trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới
hạn trong các mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế; Nhà nước và xã hội.
Mối quan hệ giữa Nhà nước với hội thông qua luật pháp đề quản lý
hội, tôn trọng đề cao vị trí, vai trò và quyền tự chủ của các cơ cấu xã hội (tổ chức
và cộng đồng xã hội).
10
Mối quan hệ giữa Nhà nước kinh tế mối quan hệ tương tác chi
phối lẫn nhau. Nhà nước pháp quyền gắn liền với kinh tế và xã hội, phục vụ kinh
tế hội trong giới hạn của Hiến pháp luật pháp Việt Nam thể hiện những
tư tưởng quan điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh được khao khát của người dân đối
với công bằng, công lý trong xã hội còn giai cấp.
Trong mối quan hệ giữa Nhà nướckinh tế, vị trí, vai trò, nhiệm vụ của
Nhà nước được xác định bởi tính chất, trình độ của các hình kinh tế thị
trường theo hướng Nhà nước tôn trọng, phát huy các quy luật khách quan của thị
trường thông qua đó có thể điều chỉnh các quan hệ kinh tế đồng thời hạn chế
các mặt tiêu cực của tiêu cực của thị trường.
c) Chức năng vai trò của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Chức năng bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước
Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự,
an toàn hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả
hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân Công an nhân dân
là nòng cốt. Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn,
phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn
hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống phi truyền
thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng. Kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững
chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước. Giải quyết những
bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc
tế.
Chức năng tổ chức quản lí nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Phát triển kinh tế thị trường cũng là xu thế tất yếu của các quốc gia vì mục
tiêu phát triển. Tại Việt Nam, Đảng Nhà nước ta lựa chọny dựng phát
triển kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa nhằm phấn đấu sớm đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong điều kiện kinh tế thị
trường, Nhà nướcchủ thể duy nhất khả năng quản lý mọi mặt của đời sống
kinh tế – xã hội, hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách phù hợp với yêu cầu
của các quy luật kinh tế thị trường. Quản lý nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực
trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi cán bộ, công chức làm công tác quản nhà
nước phải hiểu sâu các quy luật của kinh tế thị trường vận dụng nhằm đạt
được hiệu quả cao nhất, hạn chế những rủi ro phát sinh trong quá trình tổ chức
quản lý, gón phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý.
11
Chức năng xã hội
Chức năng xã hội của nhà nước là cái chỉ ra rằng, mọi nhà nước đều phải
thực hiện việc quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, đồng thời
phải chăm lo một số công việc chung của toàn hội. Trong một giới hạn xác
định, nhà nước phải hoạt động để thoả mãn những nhu cầu chung của cộng đồng
dân cư nằm dưới sự quảncủa nó. Việc thực hiện chức năng hội theo quan
điểm giới hạn của giai cấp cầm quyền phương thức, điều kiện để nhà
nước đó thực hiện vai trò thống trị giai cấp của nó. Thực hiện tốt chức năng
hội là cơ sở, là điều kiện tiên quyết để nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo và giữ
vững địa vị thống trịhội về mặt chính trị, nghĩa có đầy đủ khả năng để trấn
áp sự phản kháng của các giai cấp bóc lột các thế lực thù địch. Điều này
nghĩa là, chức năng giai cấp chức năng hội luôn mối quan hệ biện
chứng, cái nọ làm tiền đề và là cơ sở cho cái kia.
Chức năng bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân.
Trật tự an toàn hội trạng thái hội bình yên trong đó mọi người
được sống yên ổn trên sở các quy phạm pháp luật, các quy tắc chuẩn mực
đạo đức, pháp lí xác định. Việc bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích của
người dân bao gồm Đấu tranh phòng, chống tội, giữ gìn trật tự công cộng,đảm
bảo trật tự, an toàn giao thông, tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường. Nhà nước xã hội
chủ nghĩa phải đủ sức mạnh kịp thời dập tan mọi âm mưu hành động
của các thế lực thù địch chống đối cách mạng, đồng thời đấu tranh chống, phòng
ngừa hiệu quả tội phạm các vi phạm pháp luật khác, làm cho hội luôn
luôn ổn định, trật tự pháp luật, pháp chếhội chủ nghĩa được giữ gìn, thúc đẩy
phát triển kinh tế hội trên toàn thế giới. Vậy cần phải tăng cường bảo vệ
trật tự, an toàn xã hội là yêu cầu khách quan, cấp bách chẳng những bảo vệ chính
quyền, bảo vệ cách mạng còn tạo điều kiện trong công cuộc đổi mới phát
tiển nhà nước.
Chức năng mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, hợp tác và hữu nghị với các dân tộc vì hoà bình, ổn định và phát triển.
Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia
thành viên Liên hợp quốc; thiết lập được khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với
30 đối tác chiến lược, toàn diện, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam cùng các
nước nâng tầm hợp tác lợi ích của mỗi nước hòa bình, hợp tác phát
triển ở khu vực và trên thế giới. Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng tình hình của
đất nước, những sai lầm, khuyết điểm, nhận thức rõ hơn quy luật khách quan của
thời kỳ quá độ, kế thừa thành tựu, kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa hội, Đại
hội VI đã đề ra đường lối đổi mới Đảng đã đặt ra yêu cầu phải đổi mới toàn
diện trên mọi lĩnh vực, trọng tâm trước mắt đổi mới chính sách kinh tế, trong
đó xác định phương hướng mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Trên scác chủ trương, định hướng lớn Đảng Chính phủ đã đặt ra về
12
hội nhập kinh tế quốc tế, ta đã chủ động tích vực tham gia vào các thiết chế
kinh tế đa phương khu vực, với các dấu mốc quan trọng như gia nhập Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thành viên sáng lập của Diễn đàn
kinh tế Á u (ASEM), trở thành thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu
Á – Thái Bình Dương (APEC) đặc biệt gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO), đánh dấu sự hội nhập toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu.
2.1.2. Thực trạng của nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay.
Về tổ chức của bộ máy nhà nước
Sau thành công Cách mạng tháng Tám năm 1945, ngày 2/9/1945, tại
quảng trường Ba Đình lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn
Độc lập khai sinh nước VIệt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cũng như các nhà nước
khác, bộ máy Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống cơ quan
nhà nước từ trung ương đến địa phương, tính độc lập tương đối về cấu tổ
chức, nơi thẩm quyền theo quy định của luật pháp, trên danh nghĩa nhà
nước thực hiện nhiệm vụ của nhà nước bằng hình thức, phương pháp đặc thù. Nó
bao gồm: Quốc hội, Chính phủ, Chủ tịch nước, Tòa án, Viện kiểm sát, chính
quyền địa phương.
a) Những thành tựu đạt được
Quốc hội tiếp tục được kiện toàn về tổ chức, nhiều thay đổi, nâng cao
chất lượng hoạt động. Hệ thống pháp luật được bổ sung, quản chặt chẽ những
vấn đề quan trọng, bức xúc của đất nước. Thảo luận, quyết định kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, dự trù ngân sách, các dự án, công trình trong điểm quốc gia
chất lượng. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc sự đổi mới
phương pháp công tác, nâng cao trách nhiệm của đại biểu Quốc hội.
cấu tổ chức, bộ máy của Chính phủ được sắp xếp, bộ máy của Chính
phủ được sắp xếp, điều chỉnh.
b) Một số hạn chế của tổ chức bộ máy nhà nước
Tổ chức và hoạt động của Nhà nước còn một số khâu chậm đổi mới. Quốc
hội còn lúng túng trong khâu quản lý. Bộ máy quảnnhà nước các cấp, nhất
sở còn chưa xiết chặt Tình trạng cửa quyền, thiếu trách nhiệm một bộ
phận nhà nước, nhất quan trực tiếp giải quyết vấn đề của dân doanh
nghiệp chậm được khắc phục. Mô hình tổ chức chính quyền địa phương có nhiều
điểm bất hợp cải cách chưa đạt yêu cầu. Việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế quản đất
nước” .
Cụ thể điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu. Vậnnh bộ máy
nhà nước còn chưa hợp lý, nhiệm vụ của một số quan chưa đủ rõ, còn chồng
chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ còn chưa thực hiện được mục tiêu trong tình
hình mới của đất nước. Phương hướng nhiệm vụ chưa đạt yêu cầu đề ra, thủ tục
13
hành chính còn tạo ra những rắc rối cho tổ chức công dân. Cải cách tư pháp
con chậm, chưa đồng bộ. Công tác điều tra, bắt giữ, xét xử trong một số vụ án
chưa đúng người đúng tội, án bị hủy, bị cải sửa còn nhiều. Vấn nạn quan liêu
tham nhũng vẫn còn diễn ra với những tinh vi, phức tạp chưa được đẩy lùi, gây
bức xúc cho xã hội nói chung và người dân nói riêng.
Về hệ thống pháp luật
a) Những thành tựu đạt được
Gần 30 năm thi hành sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước ta đã đang từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp phần quan
trọng vào việc hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng hội
chủ nghĩa, từng bước hoàn thiện hệ thống chính trị, tạo môi trường hội nhấp quốc
tế. Các văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng, ban hành, cụ thể hóa theo
hướng cân đối hơn. Cụ thể, trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước, nhiều văn bản pháp luật được ban hành với những đổi mới tích cực theo
hướng đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ
nghĩa, nội dung trách nhiệm của công vụ được phân định rành mạch, ràng
hơn, thủ tục pháp ngày càng đơn giản, dễ tiếp cận, kiểm tra quản lý; hoạt
động của các quan nhà nước thay đổi theo hướng dân chủ hơn, với phương
châm dân biết, dân làm, dân kiểm tra” đã được luật hóa. Còn lĩnh vực kinh tế,
các cơ chế khuyển khích và bảo đảm đầu tư, khai thác hiệu quả các nguồn lực
hội từng bước được thay thế bằng các quy định bình đẳng, góp phần làm giảm
thiểu sự can thiệp bằng biện pháp hành chính của các quan nhà nước vào các
quan hệ dân sự, thương mại hoạt động của các doanh nghiệp; chế độ độc
quyền về ngoại thương đã được xóa bỏ.
b) Những mặt hạn chế
Tính thông nhất của hệ thống luật pháp không cao: Hệ thống văn bản quy
phạm luật pháp đa dạng về hình thức số lượng, không được kiểm tra thường
xuyên, hệ thống hóa khiến người dân rất khó tiếp cận tuân thủ đúng yêu cầu
của pháp luật. Do quá nhiều loại văn bản, được nhiều cấp phân bố nên mâu
thuẫn xảy ra là điều không thể tránh khỏi. Như vậy, để áp dụng cũng như thi hành
luật là chuyện khó khăn không chỉ đối với người dân cho cả các chuyên gia
pháp lý.
Tính toàn diện, đồng bộ cân đối của hệ thống pháp luật tùy sự tiến
bộ những vẫn còn một phần chênh lệch lớn về số lượng văn bản mức độ
hoàn thiện pháp luật trong các lĩnh vực khác nhau. Nhiều văn bản chưa đáp ứng
đủ nhu cầu quản đất nước bằng luật, một số lĩnh vực của đời sống hội vẫn
chưa điều chỉnh. Nhiều dự án luật trong các lĩnh vực vẫn chưa được ban hành dù
đã được soạn thảo nhiều năm. Trong một số lĩnh vực, các văn bản quy phạm
pháp luật đã được ban hành nhưng thiếu ổn định, thường xuyên phải sửa đổi.
Tính ổn định của hệ thống pháp luật thấp. Nguyên nhân khách quan cho
tình trạng nhiều văn bản pháp luật thường xuyên thay đổi đó sự chuyển đổi từ
14
nên kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa
Tính minh bạch của hệ thống pháp luật còn bất cập. Những sai phạm văn
bản vẫn xảy ra, tính minh bạch của hệ thống pháp luật bị giảm. Trong nhiều
trường hợp, pháp luật chưa được thống nhất, trong khi ủy ban thường vụ Quốc
hội hầu như không thực hiện việc giải thích Hiến pháp, pháp luật. Việc nghiên
cứu và tổ chức thực hiện các nghị quyết quốc tế mà nước ta đã kết chưa được
coi trọng, chậm được tiến hành.
Dân chủ đời sống xã hội
a) Những thành tựu đạt được:
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nhà nước dân chủ nhân dân đầu
tiên xuất hiện Đông Nam Á, khai tên trên tấm bản đồ thế giới sau gần trăm
năm đô hộ. Đây được xem thành quả đại nhất trong công cuộc giải phóng
đất nước, giải phóng con người dưới sự chỉ đạo của Đảng. Mỗi tầng lớp, mỗi giai
cấp thực sự tự hào khi minh được người chủ., vì thế càng phải dành hết trí tuệ
và sức lực của bản thân để cống hiến cho sự nghiệp chung của dân tộc. Thực hiện
quy chế dân chủ, nhiều quan, đơn vị , thôn, xóm định kỳ đều công bố các
khoản đóng góp của cán bộ nhằm ngăn chặn các tệ nạn hội, xây dựng cuộc
sống ấm no cho dân.
b) Mặt hạn chế:
Tuy nhiên đó cũng chỉ bước đầu. Vấn đề quan trọng mà nhân dân chờ
đợi là những kiến nghị chính đáng ấy được chính quyền tiếp thu như thế nào hay
chỉ những lời nói nhàm tai. Bác Hồ cũng đã lần phê bình ủy ban nhân dân
và các đồng chí một xã vì đã vi phạm quyền dân chủ của nhân dân, đồng thời Bác
cũng đề cập trách nhiệm của người dân trong thực thi quyền dân chủ cần bảo
đảm ràng, minh bạch. Việc thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp hay dân
chủ đại diện hiệu quá chưa cao, có nội dung thực hiện còn mang tính chất minh
họa. Dân chủ hóa đời sống hội đã đang yêu cầu tất yếu khách quan của cả
người lãnh đạo, chỉ đạo cũng như mọi tầng lớp nhân dân. Kiểm tra, bổ sung để
hoàn thành Quy chế dân chủ việc làm cấp bách trong mọi lĩnh vực đời sống
hiện nay.
Về hoàn thiện mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân
a) Những thành tựu đạt được
Công dân mục đích tồn tại của Nhà nước Nhà nước biện pháp để
công dân thực hiện mục đích của mình. Bước sang giai đoạn xây dựng Nhà nước
pháp quyền hội chủ nghĩa, thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa hội nhập quốc tế, mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân nhiều
thay đổi cùng quan trọng. trong khoa học pháp nhiều quan
điểm khác nhau về Nhà nước pháp quyền những về thực chất thì Nhà nước pháp
quyền là Nhà nước và mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân quan hệ bình
15
đẳng về quyền và nghĩa vụ. Quyền và tự do của người dân được ghi nhânbảo
đảm, đó sở chính trị - phápcho việc bảo đảm dân chủ sự thể hiện
bản chất dân chủ của Nhà nước. Quá trình đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước
pháp quyền hội chủ nghĩa ở nước ta đã đạt được những thành tựu không nhỏ.
Từ hình tổ chức bộ máy nhà nước tập quyền hội chủ nghĩa, thực hiện
chuyên chính sản đã chuyển sang hình tổ chức bộ máy Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa phục vụ nhân dân.
b) Những điều hạn chế
Trong vấn đề tạo lập mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước với công dân
vẫn đang tồn tại không ít khó khăn về chủ quan khách quan. Về chủ quan,
chúng ta còn chưa xây dựng hoàn thiện hệ thống lý luận về Nhà nước pháp quyền
hội chủ nghĩa nói chung luận về mối quan hệ bình đẳng giữa nhà nước
với công dân nói riêng, vậy hệ thống pháp luật còn nhiều hạn chế thiếu sự
bình đẳng. Mặc khác, nhiều quan nhà nước lại thiếu trách nhiệm gần
như vô trách nhiệm. Trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt với sự phát triển mạnh mẽ
của nền kinh tế thị trường, việc giải quyết mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước
và công dân đang nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Cụ thể, việc thu hồiđền
quyền sử dụng đất, vấn đề môi trường đang xảy ra phức tạp. Từ những kẽ hở ấy
đã tạo ra nhiều hội cho một số công chức nhà nước lợi dụng quyền lực để
những thái độ, hành vi coi thường Nhân dân và chuộc lợi cho bản thân.
Về khách quan, sự phát triển kinh tế - hội còn thấp, tàn tưởng
phong kiến vẫn tồn tại chỉ phối trong một số bộ phận không nhỏ của hội, làm
ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền lực của nhà nước, từ xây dựng, ban hành các
quy định pháp luật đến thái độ, trách nhiệm của cán bộ, công chức trong giải
quyết công việc của Nhân dân, thể hiện các hiện tượng cửa quyền, hách
dịch, trách nhiệm. Vậy, hoàn thiện mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước
công dân trong bối cảnh ngày nay là vấn đề cấp bách.
Đảng và nhà nước trong công cuộc phòng chống dịch bệnh
Covid
Năm 2021, những ngày đầu đại dịch bùng phát, với mục tiêu ngăn chặn sự
lây lan của dịch covid 19 để bảo vệ sức khỏe của người dân, Bộ Chính trị và Ban
Bí thư đã điều hành quyết liệt chống dịch quốc gia, kèm theo đó là hàng loạt chủ
trương, biện pháp rất cụ thể hành động :
Thứ nhất, với khẩu hiệu cụ thể: “Chống dịch như chống giặc” Bộ máy
điều hành cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 được thành lập từ Trung ương đến
địa phương các quan bộ ban ngành, đó Ban chỉ đạo quốc gia phòng,
chống dịch bệnh Covid-19 và các ban chỉ đạo cấp địa phương, cấp bộ ban ngành.
Các phương án triển khai đã được xây dựng, Bộ Chính trị họp bàn, phê duyệt,
Thủ tướng Chính phủ trực tiếp chỉ đạo, điều hành.... Tổng thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú Trọng ra Lời kêu gọi đồng bào, đồng chí, chiến cả nước đồng
bào ta nước ngoài đoàn kết một lòng, thống nhất ý chí và hành động, thực hiện
quyết liệt, hiệu quả những chủ trương của Đảng Nhà nước, sự chỉ đạo, điều
hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để bảo đảm chiến thắng đại dịch
16
Covid-19. Lịch sử nước ta từ khi Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đã
nhiều lần ra lời kêu gọi chống giặc ngoại xâm. Đây lần đầu tiên trong thế kỷ
21, Người đứng đầu Đảng, Nhà nước, Tổng thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú
Trọng đã ra Lời kêu gọi chống đại dịch Covid-19. Đó thể hiện, Đảng, Nhà
nước ta đã phát động toàn dân "đánh giặc".
Thứ hai, Trong quá trình chỉ đạo và tổ chức thực hiện, Chính phủ, Ban Chỉ
đạo Quốc gia, Bộ Y tế các địa phương đã kế thừa các nguyên tắc, biện pháp
được áp dụng trong các đợt dịch trước; đúc kết các bài học kinh nghiệm từ thực
tiễn, bổ sung hình thành công thức trong phòng, chống dịch: 5K + vắc xin,
thuốc đặc hiệu + biện pháp điều trị + công nghệ + ý thức của Nhân dân + các
biện pháp khác với các trụ cột: xét nghiệm, cách ly, điều trị chuyển hướng
thực hiện “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”.
Nhiều địa phương đã huy động được lực lượng cũng như các tầng lớp nhân dân
tham gia phòng, chống dịch nghiêm chỉnh nên đã kiểm soát tốt dịch bệnh
nhiều kết quả tích cực, ổn định được đời sống nhân dân cũng như phát triển được
kinh tế xã hội.
Thứ ba, hiếm nước nào, các lực lượng quân đội, công an tự nguyện,
dũng cảm nhiệt huyết chấp hành Chỉ thị của Thủ tướng, huy động tối đa lực
lượng và phương tiện hậu cần phục vụ có kết quả nhiệm vụ chống dịch. Ngành Y
tế Việt Nam có đội ngũ thầy thuốc tận tâm với trình độ chuyên môn cao, đã chăm
sóc cứu chữa nhiều người khỏi dịch bệnh. Bên cạnh đó cũng sự trợ giúp
của các tình nguyện viên, các chú bộ đội không quản khó khăn, vất vả đi mua
thực phẩm, mang đến phát cho từng hộ dân, tận tình mang từng bình đựng tro cốt
người xấu số vì dịch bệnh đến tận tay thân nhân của họ; sự trợ giúp về mặt vật
y tế, chi phí của các mạnh thường quân cũng góp phần lớn trong công cuộc
chống dịch của nước ta.
Thứ tư, triển khai thành công chiến dịch tiêm vắc xin phòng covid. Đến
31/12/2021, Việt Nam đã tiếp nhận 192 triệu liều vắc xin phòng COVID-19,
trong đó mua từ Ngân sách nhà nước là 96,9 triệu liều, từ các nguồn viện trợ/tài
trợ là 95,1 triệu liều. Việc tiếp nhận, phân bổ vắc xin được thực hiện công khai,
minh bạch, phù hợp với diễn biến dịch bệnh, có tập trung vào đối tượng, địa bàn
nguy cao. Việt Nam đã đạt trên 70% dân số được tiêm đủ liều bản (1
trong 7 quốc gia có tốc độ tiêm chủng vắc xin cao nhất trên thế giới), so với mục
tiêu WHO khuyến cáo, Việt Nam đã về đích trước 6 tháng. Dự kiến Việt Nam sẽ
hoàn thành tiêm phủ mũi 3 vào cuối quý I/2022.
Thứ năm, để đảm bảo chế độ an sinh xã hội, phát triển kinh tếphòng,
chống dịch nên đã chỉ đạo thúc đẩy toàn diện các hoạt động kinh tế hội trong
trạng thái bình thường mới, thực hiện mục tiêu kép” thực hiện đồng bộ chương
trình phòng chống dịch bệnh gắn với chương trình phục hồi phát triển kinh tế
hội. Cho đến nay, chúng ta đã hoàn thành được mục tiêu đề ra đó kiểm soát
dịch bệnh trên phạm vi cả nước, các hoạt động sản xuất kinh doanh dần được
17
phục hồi, dần thích ứng linh hoạt với dịch bệnh; hầu hết các ngành, lĩnh vực đang
trên đà tăng trưởng trở lại; hoạt động sản xuất, kinh doanh, đời sống người dân,
người lao động ổn định và phát triển trở lại.
Cuộc chiến chống dịch COVID-19 nước ta bước vào giai đoạn nhiều
khó khăn, thử thách. Các cấp chính quyền, các lực lượng trực tiếp tham gia
phòng chống dịch mọi tầng lớp nhân dân đang nỗ lực ngày đêm để kiểm soát
dịch bệnh. triển khai thành công chiến dịch tiêm vắc xin phòng covid. Đến
31/12/2021, Việt Nam đã tiếp nhận 192 triệu liều vắc xin phòng COVID-19,
trong đó mua từ Ngân sách nhà nước là 96,9 triệu liều, từ các nguồn viện trợ/tài
trợ 95,1 triệu liều Thậm chí, chỉ ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ Phạm
Minh Chính Chỉ thị tăng cường các lực lượng tham gia phòng chống dịch
COVID-19 trên địa bàn TP Hồ Chí Minh các tỉnh, thành phía Nam, ngay lập
tức trên các trang mạng hội đã xuất hiện những bài viết xuyên tạc cho rằng:
“Quân đội phải canh gác bảo vệ biên giới; rằng đối diện với công an, quân đội
dân chứ phải giặc đâu cầm súng giương nòng lên; rằng cho quân đội
vào để trấn áp dân ra đường”. Đây thật sự những thông tin xuyên tạc của
những người đang cố ý hiểu lệch chủ trương, đường lối của Đảng Nhà nước,
để phá hoại công cuộc phòng, chống dịch của đất nước. Về vấn đề tiêm phòng
vaccine ngừa COVID-19, trong khi cả hệ thống chính trị vào cuộc để làm sao có
được vaccine nhanh nhất, nhiều nhất phục vụ công tác phòng chống dịch thì trên
mạng hội lại xuất hiện những giọng điệu lạc lõng cho rằng "chính quyền lừa
dối dân trong chiến lược vaccine". Trong khi cả thế giới đang đẩy mạnh nỗ lực
tiêm phòng, nhiều nước đã chứng minh được hiệu quả của chương trình tiêm
vaccine (chẳng hạn tại nước Anh, quốc gia này đã ngăn chặn được hơn 100.000
ca tử vong nhờ tiêm vaccine ngừa COVID-19), thì những luận điệu như vậy quả
thực… không sức thuyết phục! Thực tế từ các nước sẽminh chứng khách
quan nhất cho những nỗ lực Chính phủ Việt Nam đang làm để bảo vệ người
dân trước sự tấn công của virus corona.
Ngoài những cán bộ tận tâm giúp đỡ người dân vượt qua đại dịch
thì vẫn còn những thành phần nhỏ lợi dụng thời cơ trục lợi cho bản thân họ. Cụ
thể như việc tăng giá bán khẩu trang làm cho người dân khốn khó trong việc mua
chúng để bảo vệ sức khỏe; nhập những khẩu trang không rõ nguồn gốc, m
chất lượng, tái chế lại những chiếc khẩu trang đã sử dung điều này góp phần cho
sức khỏe của con người nguy hiểm hơn
Bằng ý thức cảnh giác, trách nhiệm cao, bằng tình yêuniềm tin tưởng
tự hào về đất nước, người dân Việt Nam yêu chuộng chính nghĩa hòa bình
không dễ bị ru ngủ bởi những luận điệu đó. Chắc chắn cũng như trước đây,
càng phá hoại, các thế lực thù địch sẽ càng thất bại thảm hại trước sức mạnh đoàn
kết, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong cuộc chiến chống đại
dịch. Và, những luận điệu sai trái về công cuộc phòng, chống dịch của Việt Nam
là vô nghĩa!
18
2.2. Liên hệ thực tiễn.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định
"Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải
xuất phát từ nguyện vọng, quyền lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân
dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia tất cả các
khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của
nhân dân" [4, tr. 169] Sự nghiệp xây dựng nền dân chủ hội chủ nghĩa ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay đang đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện cả về cơ
sở pháp và cơ chế tổ chức thực hiện để hiện thực hóa quyền làm chủ của nhân
dân, bảo đảm cho nhân dân thực sự được chủ và làm chủ, từ đó phát huy dân
chủ hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, thực
sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
2.2.1. Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ
máy nhà nước
Cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng một bộ máy nhà nước gọn nhẹ,
hiệu lực trong quản hội, nhà nước phân công, phân nhiệm ràng: lập
pháp, hành pháptư pháp, nhưng bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất là
nội dung trọng tâm của xây dựng nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Để làm được điều này chúng ta phải đổi mới
đồng bộ hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Trước hết
là phải kiện toàn tổ chức và hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất-
Quốc hội, từ đó làm cơ sở kiện toàn các quan nhà nước khác. Nâng cao năng
lực bản lĩnh của Đại biểu Quốc hội trong việc thực hiện chức năng lập pháp,
giám sát và quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước.
2.2.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật chất lượng tốt cả về nội
dung lẫn hình thức là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, một đòi hỏi cấp thiết,
một tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền hội chủ
nghĩa. Không sớm xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật với chất lượng tốt
sẽ không kịp thời tạo ra được môi trường pháp bình đẳng, thuận lợi cho mọi
thành phần kinh tế tồn tại phát triển, không thể quản hội ổn định nếu
thiếu pháp luật. Chính vậy, cần có những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống
pháp luật, từ đó thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật mới đạt hiệu quả cao.
Trước hết, pháp luật phải thể hiện đúng đắn ý chí nguyện vọng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động - số đông người trong xã hội. Nội dung của ý chí
và nguyện vọng thể hiện trong luật phải phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh
tế, hội tồn tại một cách khách quan trong thời kỳ đó. Pháp luật phải thể chế
đúng đắn đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong từng thời kỳ; bảo
đảm tính hợp hiến, hợp pháp của luật, bảo đảm sự điều chỉnh đồng bộ, hệ
thống; bảo đảm luật, pháp lệnh phải nội dung điều chỉnh bao quát tính
khả thi; bảo đảm tính minh bạch của luật, pháp lệnh.
2.2.3. Thực hiện dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội
Đảng ta coi dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
công cuộc xây dựng đất nước. Vì vậy Đảng và nhà nước phải không ngừng hoàn
thiện những thiết chế bảo đảm thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Phát huy dân chủ hội chủ nghĩa biện pháp
không thể thiếu được trong quá trình tiến hành xây dựng nhà nước pháp
19
quyền hội chủ nghĩa Việt Nam. Gồm có: - Nhà nước tạo ra mọi điều kiện để
bảo đảm các quyền tự do bầu cử, ứng cử của nhân dân. Đảm bảo nhân dân đều
được thực hiện quyền bầu cử đưa ra những ý kiến quan điểm nhân cho
Quốc hội một cách minh bạch và khoa học
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức dân chủ cho người dân,
thực sự hướng về cơ sở, đến với dân, nói cho dân nghe và nghe dân nói. Công tác
tưởng phải gắn với vấn đề dân sinh, dân trí, dân quyền để thực hiện được dân
chủ.
- Tìm tòi, thử nghiệm, cải tiến dần hình thức thích hợp để bảo đảm quyền
của nhân dân trong việc giám sát hoạt động của quan nhà nước. Để làm được
điều đó, quan nhà nước phải thông tin kịp thời cho dân biết những hoạt động
chủ yếu của cấp mình; những thông tin về tình hình phát triển kinh tế hội, kết
quả thi hành pháp luật, nội dung và tình hình thực hiện nghị quyết của Quốc hội,
Hội đồng nhân dân, về kết quả khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
- Cải tiến chế độ tiếp xúc, báo cáo của đại biểu Quốc hội Hội đồng
nhân dân với cử tri, tạo điều kiện cho nhân dân không chỉ phản ánh nguyện
vọng của mình còn tham gia nhận xét, đánh giá hoạt động của đại biểu dân
cử, của cơ quan nhà nước, Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
- quan nhà nước các cấp mở rộng các hình thức tham khảo ý kiến của
các tổ chức chính trị - hội trong việc xây dựng triển khai thực hiện chính
sách pháp luật. Cần chưng cầu ý dân về các văn bản pháp luật theo hướng thiết
thực. Các quan nhà nước cần tổ chức hội nghị nhân dân hoặc đại biểu nhân
dân các cấp cơ sở để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân trên địa bàn dân cư, tổng
hợp dư luận hội về những vấn đề cần thiết để nâng cao công tác lãnh đạo
quản lý nhà nước, để nhân dân tham gia rộng rãi vào các kế hoạch phát triển kinh
tế-xã hội.
- Bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế, cụ thể
quyền dân chủ về sở hữu, về lao động, về quản hưởng thụ. Nhà nước cần
mở rộng quyền tự chủ cho các sở sản xuất kinh doanh, thực hiện đúng đắn
chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước
cần ban hành các chính sách chế độ thi hành những biện pháp cần thiết bảo
đảm cho nhân dân lao động thực sự người chủ nắm liệu sản suất, làm chủ
các quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông, phát huy được tính sáng tạo, năng
động, tự chủ trong sản xuất.
Trên các lĩnh vực khoa học-kỹ thuật, văn hoá giáo dục cần phải tạo mọi
điều kiện về môi trường sự ưu tiên để phát huy trí tuệ, tài năng của các nhà
khoa học. những chính sách đãi ngộ hợp lý để thu hút chất xám của đội ngũ
trí thức. Cần những quy định cụ thể để khuyến khích tự do nghiên cứu, phát
minh, sáng tác, phê bình… nhằm nâng cao trách nhiệm của nhân dân. Xây dựng
hoàn thiện nền dân chủ hội chủ nghĩa cũng chính một bộ phận của xây
dựng nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa. Mỗi bước phát triển của dân chủ
hoá hội một điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền.
Làm tốt việc này chính góp phần tạo ra một động lực tổng hợp cho sự nghiệp
xây dựng đất nước trong thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
2.2.4. Tăng c ờng công tác đấu tranh phòng và chống tham nhũngƣ
Tình hình tham nhũng hiện nay diễn ra rất phức tạp, nhiều lĩnh vực
có xu hướng tăng về quy mô, tính chất ngày càng nghiêm trọng. Bởi vậy,
20
| 1/23

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TPHCM
KHOA: CHÍNH TRỊ- PHÁP LUẬT ------oOo----- TIỂU LUẬN
Đề tài: VẬN DỤNG LÝ LUẬN MÁC-LÊNIN TRONG
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY Họ và tên Mssv Lê Hoài Ngọc 21129031
Đoàn Nguyễn Ái Nguyên 21158204 Hoàng Trung Nguyên 20142540 Hồ Cao Nguyên 20151194 Hồ Thị Thu Nhàn 21136190
GVHD: TS Thái Ngọc Tăng 1 MỤC LỤC A.
Mở đầu..........................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài:........................................................................3
2. Mục tiêu nghiên cứu:...................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu:...........................................................3
B. Nội dung...........................................................................................4
1. Chương 1: Lý luận chủ nghĩa Marx–Lenin về nhà nước xã hội
chủ nghĩa............................................................................................................
.......................................................................................................................... 4
1.1. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa..............................4
1.2. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.............................4
1.3. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa..........................5
1.3.1. Chức năng đối nội:...............................................................5
1.3.2. Chức năng đối ngoại.............................................................7
1.4. Tiểu kết..................................................................................7
2. Chương 2: Liên hệ thực tiễn về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam...............................................................8
2.1. Nhà nước pháp quyền............................................................8
2.1.1. Nhà nước pháp quyền.........................................................8
2.1.2. Thực trạng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay......................................................................................13
2.2. Liên hệ thực tiễn..................................................................19
2.2.1. Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động
của bộ máy nhà nước.................................................................................19
2.2.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.......................19
2.2.3. Thực hiện dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội..20
2.2.4. Tăng c ờng công tác đấu tranh phòng và chống tham ƣ
nhũng..........................................................................................................21
2.2.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước đáp ứng yêu
cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa......................................21
2.3. Tiểu kết:..................................................................................22
3. Kết luận.........................................................................................22
4. Tài liệu tham khảo........................................................................23 2 A. Mở đầu. 1.
Lý do chọn đề tài:
Tư tưởng về nhà nước có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống lý
luận của V.I.Lê-nin, bởi nó không thuần túy là những lý thuyết khoa học mà gắn
bó chặt chẽ với quan điểm chính trị; nó không đơn giản là những suy tư tinh thần
mà gắn liền với những hoạt động thực tiễn sinh động của ông.
Trong học thuyết Mác - Lênin, lý luận về nhà nước có một vị trí rất quan
trọng. Nhiều luận điểm của các ông cho đến nay còn nguyên giá trị, trở thành
những chỉ dẫn khoa học và cách mạng cho các Đảng cộng sản khi giành được
chính quyền bắt tay vào xây dựng nhà nước kiểu mới, trong sạch vững mạnh của
mình. Tuy nhiên, Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng
lớn, phong phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải có sự
nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa
học. một số luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng cần được tiếp tục nghiên
cứu làm sáng tỏ để bổ sung, phát triển cho phù hợp với bối cảnh mới hiện nay.
Đây cũng chính là phương pháp luận khoa học mà các nhà kinh điển luôn đòi hỏi
hậu thế phải quán triệt để vận dụng một cách sáng tạo và phù hợp vào điều kiện
cụ thể của mỗi nước khi xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Chính vì vậy, tìm hiểu những tư tưởng của V.I.Lênin về nhà nước có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với chúng ta trong quá trình xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. 2.
Mục tiêu nghiên cứu:
Làm sáng tỏ về mặt lý luận nguồn gốc, đặc trưng, bản chất của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Thực trạng vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị giải pháp
hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 3.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp luận: sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác-Lênin.
Sử dụng các nguyên tắc phương pháp luận, chủ nghĩa của chủ tịch HCM:
tính Đảng, tính khoa học; tính lịch sử cụ thể; tính toàn diện nhưng có trọng tâm,
trọng điểm; kế thừa và phát triển.
Phương pháp khoa học: sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp; đối
chiếu lịch sử (VD: nghiên cứu về người bạn, người đồng chí đã đồng hành với
Hồ Chí Minh, kể chuyện Hồ Chí Minh và viết về Hồ Chí Minh; nghiên cứu về
gia đình, quê hương, những nơi mà Người đã sống và hoạt động;...). 3 B. Nội dung.
1. Chương 1: Lý luận chủ nghĩa Marx–Lenin về nhà nước xã hội chủ nghĩa.
1.1. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Bắt đầu từ những mong muốn thoát khỏi áp bức bóc lột, bất công của
nhân dân lao động, đó là mong muốn có được một xã hội dân chủ, công bằng,
những giá trị của con người được tôn trọng, được bảo vệ và có thể có được điều
kiện để có thể phát triển tự do các năng lực của mình.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa được ra đời là kết quả của của các cuộc cách
mạng do giai cấp vô sản và giai cấp lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất với
tính chất xã hội hóa được hình thành khi xã hội tư bản chủ nghĩa xuất hiện, mâu
thuẫn ngày càng trở nên gay gắt dẫn đến các cuộc khủng hoảng kinh tế và hình
thành nên mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản từ đó xuất
hiện các cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Trong các cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản, Đảng Cộng sản được thành lập để lãnh đạo phong trào đấu tranh cách
mạng và trở thành yếu tố chủ chốt quyết định thắng lợi của cách mạng. Với cách
kết hợp giữ các yếu tố dân tộc, thời đại và áp dụng các cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin về tổ chức, tiến hành cách mạng, xây dựng nhà nước xã hội
chủ nghĩa cùng với mâu thuẫn gay gắt của giai cấp vô sản và giai cấp tư bản đã
có tác động mạnh mẽ đến các phong trào cách mạng của những nước có chế độ
tư bản chủ nghĩa phát triển cao và các nước dân tộc thuộc địa.
Tùy vào đặc điểm của từng quốc gia, sự ra đời của nhà nước xã hội chủ
nghĩa cũng như việc tổ chức chính quyền sau cách mạng có những đặc điểm,
hình thức và phương pháp khác nhau. Tuy nhiên vẫn có những điểm chung là
Đảng Cộng sản tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân, là cơ quan thể hiện ý
chí của nhân dân, thực hiện quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân.
Như vậy, “Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước mà ở đó, sự thống trị
chính trị thuộc về giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sinh ra và
có sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa
vị làm chủ trên tất cả các mặt trong đời sống xã hội phát triển cao – xã hội xã hội chủ nghĩa”. 1.2.
Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước mới xuất hiện, có bản chất
khác so với các kiểu nhà nước trước đó trong lịch sử, có tính ưu việt hơn về
nhiều mặt hơn so với các kiểu nhà nước cũ trước đó trong lịch sử. Tính ưu việt
của nhà nước xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua các phương diện sau:
Về chính trị: Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công
nhân, giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích chung của quần chúng nhân 4
dân lao động. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa giai cấp vô sản là lực lượng
giữ địa vị thống trị về chính trị. Khác với sự thống trị của các giai cấp bóc
lột trước đây. Sự thống trị của giai cấp bóc lột là sự thống trị của thiểu số
với tất cả các giai cấp nhằm mục đích bảo vệ và duy trì vị thế của minh.
Còn về giai cấp vô sản là sự thống trị của đa số nhằm giải phóng giai cấp
của mình nhằm giải phóng các tầng lớp lao động trong xã hội.
Về kinh tế: Nhà nước xã hội chủ nghĩa chịu sự quy định là chế độ sở hữu
xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu nên không còn tồn tại quan hệ sản xuất
bóc lột. Sự khác nhau của các nhà nước bóc lột khác trong lịch sử và nhà
nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước bóc lột là bộ máy nhà nước của một bộ
phận thiểu số, của những kẻ bóc lột nhằm trấn áp đa số nhằm giữ vững
quyền lực trong khi đó nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là một bộ máy
chính trị - hành chính, một cơ quan cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý
kinh tế - xã hội của nhân dân, nó không còn là nhà nước đúng nghĩa mà
chỉ còn là “nửa nhà nước”. Mục tiêu hàng đầu là chăm lo cho nhân dân.
Chủ nghĩa xã hội được hình thành dựa trên cơ sở từng bước thiết lập chế
độ sở hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Chế độ sở hữu này được củng cố, hoàn thiện, bảo đảm thích ứng với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực
lượng sản xuất phát triển, xóa bỏ dần những mâu thuẫn đối kháng trong xã
hội, làm cho mọi thành viên trong xã hội ngày càng gắn bó với nhau vì
những lợi ích căn bản. Nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo quyền bình
đẳng trong lao động, sáng tạo. Mỗi người lao động được hưởng thù lao
theo giá trị cho xã hội mà mình tạo ra. Đó là một trong những cơ sở của
công bằng xã hội ở giai đoạn hiện nay.
Về văn hóa - xã hội: nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền
tảng tinh thần là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và những giá trị văn
hóa tiên tiến, tiến bộ của nhân loại, đồng thời mang những bản sắc riêng
của dân tộc. Sự phân hóa giai cấp tầng lớp từng bước được thu hẹp, các
giai cấp, tầng lớp bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực và cơ hội để phát triển.
1.3. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
1.3.1. Chức năng đối nội:
Chức năng bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội.
Đây là một trong những chức năng căn bản nhất của nhà nước ta. Muốn
tiến hành sự nghiệp đổi mới thuận lợi, Nhà nước ta phải đảm bảo an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội trên toàn bộ đất nước. Nhà nước phải có đủ sức mạnh và
kịp thời đập tan mọi âm mưu chống đối của các thế lực thù địch, đảm bảo điều
kiện ổn định cho Nhân dân sản xuất kinh doanh.
Chức năng bảo vệ quyền tự do, dân chủ của Nhân dân. 5
Đây là một trong những chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt
Nam quan trọng; bởi vì, việc thực hiện chức năng này thể hiện trực tiếp bản chất
của nhà nước kiểu mới, nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Đồng thời, việc thực hiện chức năng này sẽ đảm bảo sức mạnh của Nhà nước
trong việc thực hiện tất cả các chức năng khác của Nhà nước, quan hệ đến sự tồn
tại, phát triển của bản thân Nhà nước và chế độ.
Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Đây là chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa quan trọng,
liên quan trực tiếp đến việc thực hiện tất cả các chức năng khác của Nhà nước.
Pháp luật là phương tiện quan trọng để Nhà nước tổ chức thực hiện có hiệu quả
tất cả các chức năng của mình, do đó, bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa là hoạt động thường xuyên, có ý nghĩa quyết định đối với
việc nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước.
Mục đích của chức năng này là nhằm bảo đảm cho pháp luật được thi
hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, thực hiện quản lý trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội bằng pháp luật.
Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế.
Tổ chức và quản lý nền kinh tế đất nước, xét đến cùng là chức năng hàng
đầu và là cơ bản nhất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng
mọi xã hội dựa trên cơ sở vật chất và kỹ thuật phát triển cao.
Nhà nước ta là người đại diện cho ý chí, quyền lực của Nhân dân lao
động, là người chủ sở hữu đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu; là người nắm
trong tay các công cụ, phương tiện quản lý (chính sách, kế hoạch, pháp luật, tài
chính, ngân hàng…) và quản lý việc sử dụng tài sản quốc gia. Trên cơ sở đó, Nhà
nước có đủ điều kiện để tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế
trong nước cũng như hợp tác quốc tế.
Chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, khoa học, giáo dục.
Xã hội mới mà Nhân dân ta đang xây dựng là xã hội do Nhân dân lao
động làm chủ; có nền kinh tế phát triển trên cơ sở một nền khoa học và công
nghệ tiên tiến; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được
giải phóng khỏi sự áp bức, bóc lột, bất công, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
Muốn xây dựng xã hội đó, Nhà nước ta phải tổ chức, quản lý sự nghiệp
giáo dục đào tạo, văn hóa, phát triển khoa học và công nghệ. Đó là quốc sách
hàng đầu để phát huy nhân tố con người, phát huy vai trò then chốt của khoa học
và công nghệ. Đó là những động lực trực tiếp của sự phát triển, tạo điều kiện cần
thiết cho việc thực hiện các chức năng khác của Nhà nước vừa nhằm tổ chức
quản lý văn hóa, khoa học, giáo dục vừa nhằm thực hiện những nhiệm vụ kinh tế
xã hội. Trước mắt, cần chuẩn bị cho đất nước bước vào những giai đoạn phát
triển tiếp theo trong tương lai, hòa nhập với sự phát triển của nền văn minh thế giới. 6
1.3.2. Chức năng đối ngoại
Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các
nhà nước và dân tộc khác. Nhà nước ta thực hiện chức năng đối ngoại nhằm
tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, mở rộng hợp tác
quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng
thời làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với phong trào cách mạng thế giới.
Chức năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tất cả chức năng đối nội của nhà nước chỉ có thể được triển khai thực hiện
tốt khi Tổ quốc được bảo vệ vững chắc. Vì vậy, bảo vệ Tổ quốc là chức năng cực
kỳ quan trọng nhằm giữ gìn thành quả cách mạng, bảo vệ công cuộc xây dựng
hòa bình của nhân dân, tạo điều kiện ổn định triển khai các kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội của đất nước.
Chức năng củng cố, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác
Hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời mở rộng quan hệ với
các nước khác theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại hòa bình,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Tư tưởng chỉ đạo thực hiện chức năng này của Nhà nước ta là, trên cơ sở
kiên trì đường lối độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế, “nhiệm vụ đối ngoại bao
trùm trong thời gian tới là giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp
tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” (1).
Chức năng ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc
Phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các
nước tư bản, chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Chống chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc, chống chính sách gây chiến và chạy đua vũ trang, góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. 1.4. Tiểu kết.
Thể hiện vai trò của chủ nghĩa xã hội và có nhiều nội dung, mỗi nội dung,
vài trò và có quy luật phát triển riêng, gắn với diễn trình lịch sử từng giai đoạn,
từng thời kỳ cách mạng. Trên đây là những nội dung cốt lõi thể hiện sáng tạo lý
luận về nhà nước CNXH dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Các thành
tựu khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của mô hình CNXH, khẳng định, khái
quát thành mô hình đặc trưng, phương thức thực hiện và phương hướng chỉ đạo.
Kế thừa và phát triển lý luận của C. Mác và Ph. Ăng-ghen trong điều kiện chủ
nghĩa tư bản (CNTB) chuyển sang giai đoạn độc quyền Lênin đã đưa ra hàng
loạt luận điểm quan trọng về sở hữu. Lênin cho rằng, CNXH không hề xóa bỏ tất
cả các quyền sở hữu của quần chúng nhân dân lao động, mà chỉ muốn xóa bỏ
quyền sở hữu của bọn địa chủ và tư bản. Mác - Lênin đã có những chỉ dẫn hết
sức quý báu trong việc tiếp thu, vận dụng các luận điểm kinh điển: “Chúng ta
phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường quan
điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của
Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của đất nước ta. 7 2.
Chương 2: Liên hệ thực tiễn về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 2.1.
Nhà nước pháp quyền.
2.1.1. Nhà nước pháp quyền.
a) Khái niệm về nhà nước pháp quyền:
Qua các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học từ những đất nước
khác nhau trên khắp thế giới, có thể thấy rằng có nhiều định nghĩa về nhà nước
pháp quyền. Có thể khẳng định nhà nước pháp quyền đầu tiên phải là tổ chức đặc
biệt của quyền lực chính trị, tổ chức công quyền của xã hội.
Tuy nhiên, theo quan điểm của Mác - Lênin nhà nước pháp quyền không
phải nhà nước ứng vói một hình thái kinh tế - xã hội. Nhà nước pháp quyền là hệ
thống có tổ chức và hoạt động theo quyền lực chính trị công khai. Với tư cách là
những chủ thể của luật pháp phải làm theo hệ thống pháp luật dân chủ, đề cao
công lý, tương ứng với quyền tự nhiên của con người, hoạt động trên cơ sở của
hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng và theo nguyên tắc với mục tiêu bảo đảm
quyền con người, tự do, công bằng trong xã hội.
b) Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền:
Qua bản yêu sách của nhân dân An Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra
4 điều liên quan đến pháp quyền qua việc nhận thức rõ vị trí, vai trò của pháp
luật trong điều hành và quản lý xã hội. Những bước tiến trong thời gian qua đã
khẳng định yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện nền kinh
tế thị trường theo hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao thương với các nước
trên thể giới nói chung và các nước Đông Nam Á nói riêng trên cơ sở tôn trọng
độc lập toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp nội bộ của nhau. Những đặc
trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền phụ thuộc vào lập trường chính trị - pháp
lý và quan điểm học thuật ở từng người, đó là:
Một là, Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ
Dân chủ vừa là bản chất của nhà nước pháp quyền, vừa là tiền đề của chế
độ nhà nước. Nhà nước của dân, do dân, vì dân; đảm bảo được lợi ích cho nhân
dân, đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Mục tiêu chính là xây dựng và thực thi
một nên dân chủ, bảo đảm quyền lực chính trị về nhân dân, đây cũng là mục tiêu
của Nhà nước ta – được thể hện triệt để trên thực tế. Tuy nhiên, vẫn còn những
hành vi vi phạm tình trạng tính dân chủ đang diễn ra ở một số cấp và một số nơi.
Ví dụ, hiểu biết về dân chủ ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, dẫn đến có
những việc cố tình hay vô ý vi phạm các quyền hợp pháp của công dân, tiêu biểu
như ở một vài cơ quan công quyền và tư pháp. Sự tham gia của các cơ quan
thông tin đại chúng trong hoạt động tuyên truyền và phòng chống vi phạm dân
chủ còn hạn chế. Tóm lại là cơ chế đảm bảo còn chưa hiệu quả 8
Hai là, Nhà nước pháp quyền tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật
Trong hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền, Hiến pháp là đạo luật
thể hiện một cách tập trung ý chí của nhân dân, có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Hiến pháp và pháp luật chính là tiền đề để hình thành nhà nước pháp quyền, do
vậy, tôn trọng và thi hành Hiến pháp và pháp luật chính là nhu cầu của chính nhà
nước pháp quyền. Cả nhà nước và pháp luật của nhà nước pháp quyền diễn ra
theo hướng bổ trợ lẫn nhau. Mặc cho nhà nước ban hành nhưng khi có hiệu lực
pháp lý thì lại có sự ràng buộc đối với nhà nước. Lúc này sẽ làm cơ sở cho toàn
bộ quá trình vận hành của bộ máy nhà nước. Toàn bộ các nhân viên cũng như cơ
quan nhà nước đều phải tuân thủ tuyệt đối Hiến pháp và pháp luật trong các hành
vi của mình và chỉ được làm những gì mà luật pháp ban hành theo trình tự đã
được quy định. Pháp luật không chỉ giữ vị trí thống trị của đời sống nhà nước mà
cả đời sống xã hội. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, việc hội nhập quốc tế
cũng phải điều chỉnh trên cơ sở các quy định luật pháp quốc tế nên cũng cần phải
tuân theo các yêu cầu của quốc tế, đỏi hỏi với nhà nước pháp quyền. Thực tiễn
cho thấy rằng, trong các xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến thì lối sống pháp
luật chưa trở thành lối sống phổ biến, lúc ấy tín điều tôn giáo, phong tục tập quán
được tôn sùng hơn rất nhiều. Với lối sống theo pháp luật, mỗi người trong xã hội
đều cư xử theo phương châm “ sống và làm việc theo pháp luật” đồng thời tích
cực đấu tranh để bảo vệ các quyền và lợi ích của chính mình. Điều đó trở thành
lối sống phổ biến, thịnh hành trong xã hội và trật tự, kỉ cương được đảm bảo
trong các lĩnh vực hoạt động đời sống như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,…
Ba là, Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con
người trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Bắt nguồn tự ý muốn và những yêu cầu hạn chế và kiểm soát quyền lực
nhà nước để bảo đảm tự do cá nhân mà nhà nước pháp quyền đã hình thành ý
tưởng rằng: “ Tự do, bình đẳng, phẩm giá con người và những hình thức thể hiện
khác nhau của bảo đảm nhân quyền là yếu tố đặc trưng truyền thống của chế độ pháp trị ” .
Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà
nước. Tất cả những hỏa động của Nhà nước đều phải từ sự tôn trọng quyền con
người. Mở ra những cơ hội cho công dân thực hiện quyền của mình theo quy
định của luật pháp, tự do cho công dân và cá nhân chính là quyền lực của nhà
nước, phạm vi tự do của công dân rộng hơn phạm vi tự do của nhà nước, miễn là
công dân làm việc mà luật không cấm thì các cơ quan nhà nước chỉ làm những gì
mà luật pháp cho pháp. Nhà nước pháp quyền đảm bảo cho mọi cá nhân có
quyền tự do và bình đẳng trước pháp luật, có đủ cơ hội về mặt pháp lí để phát
triển toàn diện, phát huy được khả năng của bản thân. Ngoài ra, sự bình đẳng của
công dân trong nhà nước pháp quyền còn đảm bảo cho công dân có đầy đủ về
mặt vật chất, tinh thần để thực hiện những mong muốn cá nhân. Không những
vậy, các cơ quan nhà nước có bảo vệ công dân khỏi sự xâm hại của các chủ thể
khác, kể cả các cơ quan nhà nước. Vậy, một giá trị khác mà nhà nước pháp quyền
mang lại cho nhân loại đó quyền con người được bảo vệ, thừa nhận giá trị của họ, 9
có thể nói các giá trị nhân đạo, nhân văn được coi trọng hơn bao giờ hết trong
lịch sử phát triển nhân loại.
Bốn là, quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức và
thực hiện theo các nguyên tắc dân chủ: phân công quyền lực và kiểm soát quyền lực
Nhà nước pháp quyền là nhà nước không tập trung trong tay một hay một
số cá nhân mà chia công việc cho nhiều cơ quan nhà nước khác nhau để thực
hiện với nhau. Phân công quyền lực thực chất là sự phân chia chức năng giữa các
cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo sự cân bằng quyền lực, kiềm chế chính quyền
và kiểm soát quyền lực của nhà nước. Mỗi cơ quan nhà nước có chức năng thẩm
quyền riêng do pháp luật quy định. Ví dụ, trong nhà nước, hoạt động của nhà
nước về căn bản được Hiến pháp phân thành 3 chức năng là lập pháp, hành pháp,
tư pháp, mỗi chức năng đó chủ yếu được giao cho một cơ quan quản lý như là
Nghị viện, Tòa án, Chính phủ. Mỗi cơ quan có thể tập trung chuyên môn hóa của
mình, đồng thời kết hợp với hoạt động với các cơ quan khác để tạo nên sự đồng
nhất trong các hoạt động của nhà nước. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể ngăn chặn
cơ quan nhà nước khác để bảo vệ quyền con người, nâng cao hiệu quả hoạt động
của nhà nước, ngăn chặn hành vi lạm chức, lạm quyền, nâng cao hiệu quả hoạt
động của nhà nước, bảo vệ tốt nhất các quyền con người, quyền công dân.
Năm là, nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp
và pháp luật phù hợp
Nền tảng tiên quyết của Nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ
thống luật dân chủ và công bằng. Để đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật luôn
được tôn trọng và đề cao thì bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là điều cần thiết nhất.
Việc bảo vệ Hiến pháp và luật pháp ở các quốc gia có thể đa dạng và khác
nhau, nhưng đều hướng đến mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao, bất khả xâm
phạm của Hiến pháp, những hành vi đi ngược lại với tinh thần và quy định của
Hiến pháp đều được bỏ qua, đòi hỏi phải xây dựng và thực thi một chế độ tư
pháp thật sự dân chủ, minh bạch và trong sạch để duy trì đối với bảo vệ Hiến
pháp và thực thi một chế độ tư pháp thật sự dân chủ, rõ ràng để duy trì cũng như
bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Sáu là, trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới
hạn trong các mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế; Nhà nước và xã hội.
Mối quan hệ giữa Nhà nước với xã hội thông qua luật pháp đề quản lý xã
hội, tôn trọng đề cao vị trí, vai trò và quyền tự chủ của các cơ cấu xã hội (tổ chức và cộng đồng xã hội). 10
Mối quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế là mối quan hệ tương tác và chi
phối lẫn nhau. Nhà nước pháp quyền gắn liền với kinh tế và xã hội, phục vụ kinh
tế và xã hội trong giới hạn của Hiến pháp và luật pháp Việt Nam thể hiện những
tư tưởng quan điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh được khao khát của người dân đối
với công bằng, công lý trong xã hội còn giai cấp.
Trong mối quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế, vị trí, vai trò, nhiệm vụ của
Nhà nước được xác định bởi tính chất, trình độ của các mô hình kinh tế thị
trường theo hướng Nhà nước tôn trọng, phát huy các quy luật khách quan của thị
trường và thông qua đó có thể điều chỉnh các quan hệ kinh tế đồng thời hạn chế
các mặt tiêu cực của tiêu cực của thị trường.
c) Chức năng vai trò của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Chức năng bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước
Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự,
an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả
hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân
là nòng cốt. Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn,
phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn
xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền
thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng. Kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững
chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước. Giải quyết những
bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế.
Chức năng tổ chức quản lí nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Phát triển kinh tế thị trường cũng là xu thế tất yếu của các quốc gia vì mục
tiêu phát triển. Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta lựa chọn xây dựng và phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phấn đấu sớm đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong điều kiện kinh tế thị
trường, Nhà nước là chủ thể duy nhất có khả năng quản lý mọi mặt của đời sống
kinh tế – xã hội, hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách phù hợp với yêu cầu
của các quy luật kinh tế thị trường. Quản lý nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực
trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà
nước phải hiểu sâu các quy luật của kinh tế thị trường và vận dụng nó nhằm đạt
được hiệu quả cao nhất, hạn chế những rủi ro phát sinh trong quá trình tổ chức
quản lý, gón phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý. 11 Chức năng xã hội
Chức năng xã hội của nhà nước là cái chỉ ra rằng, mọi nhà nước đều phải
thực hiện việc quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, đồng thời
phải chăm lo một số công việc chung của toàn xã hội. Trong một giới hạn xác
định, nhà nước phải hoạt động để thoả mãn những nhu cầu chung của cộng đồng
dân cư nằm dưới sự quản lý của nó. Việc thực hiện chức năng xã hội theo quan
điểm và giới hạn của giai cấp cầm quyền là phương thức, là điều kiện để nhà
nước đó thực hiện vai trò thống trị giai cấp của nó. Thực hiện tốt chức năng xã
hội là cơ sở, là điều kiện tiên quyết để nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo và giữ
vững địa vị thống trị xã hội về mặt chính trị, nghĩa là có đầy đủ khả năng để trấn
áp sự phản kháng của các giai cấp bóc lột và các thế lực thù địch. Điều này có
nghĩa là, chức năng giai cấp và chức năng xã hội luôn có mối quan hệ biện
chứng, cái nọ làm tiền đề và là cơ sở cho cái kia.
Chức năng bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Trật tự an toàn xã hội là trạng thái xã hội bình yên trong đó mọi người
được sống yên ổn trên cơ sở các quy phạm pháp luật, các quy tắc và chuẩn mực
đạo đức, pháp lí xác định. Việc bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích của
người dân bao gồm Đấu tranh phòng, chống tội, giữ gìn trật tự công cộng,đảm
bảo trật tự, an toàn giao thông, tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường. Nhà nước xã hội
chủ nghĩa phải có đủ sức mạnh và kịp thời dập tan mọi âm mưu và hành động
của các thế lực thù địch chống đối cách mạng, đồng thời đấu tranh chống, phòng
ngừa có hiệu quả tội phạm và các vi phạm pháp luật khác, làm cho xã hội luôn
luôn ổn định, trật tự pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa được giữ gìn, thúc đẩy
phát triển kinh tế xã hội và trên toàn thế giới. Vậy cần phải tăng cường bảo vệ
trật tự, an toàn xã hội là yêu cầu khách quan, cấp bách chẳng những bảo vệ chính
quyền, bảo vệ cách mạng mà còn tạo điều kiện trong công cuộc đổi mới và phát tiển nhà nước.
Chức năng mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, hợp tác và hữu nghị với các dân tộc vì hoà bình, ổn định và phát triển.
Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia
thành viên Liên hợp quốc; thiết lập được khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với
30 đối tác chiến lược, toàn diện, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam cùng các
nước nâng tầm hợp tác vì lợi ích của mỗi nước và vì hòa bình, hợp tác và phát
triển ở khu vực và trên thế giới. Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng tình hình của
đất nước, những sai lầm, khuyết điểm, nhận thức rõ hơn quy luật khách quan của
thời kỳ quá độ, kế thừa thành tựu, kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại
hội VI đã đề ra đường lối đổi mới và Đảng đã đặt ra yêu cầu phải đổi mới toàn
diện trên mọi lĩnh vực, trọng tâm trước mắt là đổi mới chính sách kinh tế, trong
đó xác định phương hướng là mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Trên cơ sở các chủ trương, định hướng lớn mà Đảng và Chính phủ đã đặt ra về 12
hội nhập kinh tế quốc tế, ta đã chủ động và tích vực tham gia vào các thiết chế
kinh tế đa phương và khu vực, với các dấu mốc quan trọng như gia nhập Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), là thành viên sáng lập của Diễn đàn
kinh tế Á – u (ASEM), trở thành thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu
Á – Thái Bình Dương (APEC) và đặc biệt là gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO), đánh dấu sự hội nhập toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu.
2.1.2. Thực trạng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Về tổ chức của bộ máy nhà nước
Sau thành công Cách mạng tháng Tám năm 1945, ngày 2/9/1945, tại
quảng trường Ba Đình lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn
Độc lập khai sinh nước VIệt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cũng như các nhà nước
khác, bộ máy Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống cơ quan
nhà nước từ trung ương đến địa phương, có tính độc lập tương đối về cơ cấu tổ
chức, là nơi có thẩm quyền theo quy định của luật pháp, trên danh nghĩa nhà
nước thực hiện nhiệm vụ của nhà nước bằng hình thức, phương pháp đặc thù. Nó
bao gồm: Quốc hội, Chính phủ, Chủ tịch nước, Tòa án, Viện kiểm sát, chính quyền địa phương.
a) Những thành tựu đạt được
Quốc hội tiếp tục được kiện toàn về tổ chức, có nhiều thay đổi, nâng cao
chất lượng hoạt động. Hệ thống pháp luật được bổ sung, quản lý chặt chẽ những
vấn đề quan trọng, bức xúc của đất nước. Thảo luận, quyết định kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, dự trù ngân sách, các dự án, công trình trong điểm quốc gia
có chất lượng. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc có sự đổi mới
phương pháp công tác, nâng cao trách nhiệm của đại biểu Quốc hội.
Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Chính phủ được sắp xếp, bộ máy của Chính
phủ được sắp xếp, điều chỉnh.
b) Một số hạn chế của tổ chức bộ máy nhà nước
Tổ chức và hoạt động của Nhà nước còn một số khâu chậm đổi mới. Quốc
hội còn lúng túng trong khâu quản lý. Bộ máy quản lý nhà nước các cấp, nhất là
ở cơ sở còn chưa xiết chặt Tình trạng cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ
phận nhà nước, nhất là ở cơ quan trực tiếp giải quyết vấn đề của dân và doanh
nghiệp chậm được khắc phục. Mô hình tổ chức chính quyền địa phương có nhiều
điểm bất hợp lý và cải cách chưa đạt yêu cầu. Việc “ xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước” .
Cụ thể là điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu. Vận hành bộ máy
nhà nước còn chưa hợp lý, nhiệm vụ của một số cơ quan chưa đủ rõ, còn chồng
chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ còn chưa thực hiện được mục tiêu trong tình
hình mới của đất nước. Phương hướng nhiệm vụ chưa đạt yêu cầu đề ra, thủ tục 13
hành chính còn tạo ra những rắc rối cho tổ chức và công dân. Cải cách tư pháp
con chậm, chưa đồng bộ. Công tác điều tra, bắt giữ, xét xử trong một số vụ án
chưa đúng người đúng tội, án bị hủy, bị cải sửa còn nhiều. Vấn nạn quan liêu
tham nhũng vẫn còn diễn ra với những tinh vi, phức tạp chưa được đẩy lùi, gây
bức xúc cho xã hội nói chung và người dân nói riêng.
Về hệ thống pháp luật
a) Những thành tựu đạt được
Gần 30 năm thi hành sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước ta đã và đang từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp phần quan
trọng vào việc hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, từng bước hoàn thiện hệ thống chính trị, tạo môi trường hội nhấp quốc
tế. Các văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng, ban hành, cụ thể hóa theo
hướng cân đối hơn. Cụ thể, trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước, nhiều văn bản pháp luật được ban hành với những đổi mới tích cực theo
hướng đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, nội dung và trách nhiệm của công vụ được phân định rành mạch, rõ ràng
hơn, thủ tục pháp lý ngày càng đơn giản, dễ tiếp cận, kiểm tra và quản lý; hoạt
động của các cơ quan nhà nước thay đổi theo hướng dân chủ hơn, với phương
châm “ dân biết, dân làm, dân kiểm tra” đã được luật hóa. Còn lĩnh vực kinh tế,
các cơ chế khuyển khích và bảo đảm đầu tư, khai thác hiệu quả các nguồn lực xã
hội từng bước được thay thế bằng các quy định bình đẳng, góp phần làm giảm
thiểu sự can thiệp bằng biện pháp hành chính của các cơ quan nhà nước vào các
quan hệ dân sự, thương mại và hoạt động của các doanh nghiệp; chế độ độc
quyền về ngoại thương đã được xóa bỏ.
b) Những mặt hạn chế
Tính thông nhất của hệ thống luật pháp không cao: Hệ thống văn bản quy
phạm luật pháp đa dạng về hình thức và số lượng, không được kiểm tra thường
xuyên, hệ thống hóa khiến người dân rất khó tiếp cận và tuân thủ đúng yêu cầu
của pháp luật. Do có quá nhiều loại văn bản, được nhiều cấp phân bố nên mâu
thuẫn xảy ra là điều không thể tránh khỏi. Như vậy, để áp dụng cũng như thi hành
luật là chuyện khó khăn không chỉ đối với người dân mà cho cả các chuyên gia pháp lý.
Tính toàn diện, đồng bộ và cân đối của hệ thống pháp luật tùy có sự tiến
bộ những vẫn còn có một phần chênh lệch lớn về số lượng văn bản và mức độ
hoàn thiện pháp luật trong các lĩnh vực khác nhau. Nhiều văn bản chưa đáp ứng
đủ nhu cầu quản lý đất nước bằng luật, một số lĩnh vực của đời sống xã hội vẫn
chưa điều chỉnh. Nhiều dự án luật trong các lĩnh vực vẫn chưa được ban hành dù
đã được soạn thảo nhiều năm. Trong một số lĩnh vực, các văn bản quy phạm
pháp luật đã được ban hành nhưng thiếu ổn định, thường xuyên phải sửa đổi.
Tính ổn định của hệ thống pháp luật thấp. Nguyên nhân khách quan cho
tình trạng nhiều văn bản pháp luật thường xuyên thay đổi đó là sự chuyển đổi từ 14
nên kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Tính minh bạch của hệ thống pháp luật còn bất cập. Những sai phạm văn
bản vẫn xảy ra, tính minh bạch của hệ thống pháp luật bị giảm. Trong nhiều
trường hợp, pháp luật chưa được thống nhất, trong khi ủy ban thường vụ Quốc
hội hầu như không thực hiện việc giải thích Hiến pháp, pháp luật. Việc nghiên
cứu và tổ chức thực hiện các nghị quyết quốc tế mà nước ta đã ký kết chưa được
coi trọng, chậm được tiến hành.
Dân chủ đời sống xã hội
a) Những thành tựu đạt được:
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nhà nước dân chủ nhân dân đầu
tiên xuất hiện ở Đông – Nam Á, khai tên trên tấm bản đồ thế giới sau gần trăm
năm đô hộ. Đây được xem là thành quả vĩ đại nhất trong công cuộc giải phóng
đất nước, giải phóng con người dưới sự chỉ đạo của Đảng. Mỗi tầng lớp, mỗi giai
cấp thực sự tự hào khi minh được là người chủ., vì thế càng phải dành hết trí tuệ
và sức lực của bản thân để cống hiến cho sự nghiệp chung của dân tộc. Thực hiện
quy chế dân chủ, nhiều cơ quan, đơn vị , thôn, xóm định kỳ đều công bố các
khoản đóng góp của cán bộ nhằm ngăn chặn các tệ nạn xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no cho dân.
b) Mặt hạn chế:
Tuy nhiên đó cũng chỉ là bước đầu. Vấn đề quan trọng mà nhân dân chờ
đợi là những kiến nghị chính đáng ấy được chính quyền tiếp thu như thế nào hay
chỉ là những lời nói nhàm tai. Bác Hồ cũng đã có lần phê bình ủy ban nhân dân
và các đồng chí một xã vì đã vi phạm quyền dân chủ của nhân dân, đồng thời Bác
cũng đề cập trách nhiệm của người dân trong thực thi quyền dân chủ là cần bảo
đảm rõ ràng, minh bạch. Việc thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp hay dân
chủ đại diện hiệu quá chưa cao, có nội dung thực hiện còn mang tính chất minh
họa. Dân chủ hóa đời sống xã hội đã và đang yêu cầu tất yếu khách quan của cả
người lãnh đạo, chỉ đạo cũng như mọi tầng lớp nhân dân. Kiểm tra, bổ sung để
hoàn thành Quy chế dân chủ là việc làm cấp bách trong mọi lĩnh vực đời sống hiện nay.
Về hoàn thiện mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân
a) Những thành tựu đạt được
Công dân là mục đích tồn tại của Nhà nước và Nhà nước là biện pháp để
công dân thực hiện mục đích của mình. Bước sang giai đoạn xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân có nhiều
thay đổi và nó vô cùng quan trọng. Dù trong khoa học pháp lý có nhiều quan
điểm khác nhau về Nhà nước pháp quyền những về thực chất thì Nhà nước pháp
quyền là Nhà nước và mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân là quan hệ bình 15
đẳng về quyền và nghĩa vụ. Quyền và tự do của người dân được ghi nhân và bảo
đảm, đó là cơ sở chính trị - pháp lý cho việc bảo đảm dân chủ và là sự thể hiện
bản chất dân chủ của Nhà nước. Quá trình đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã đạt được những thành tựu không nhỏ.
Từ mô hình tổ chức bộ máy nhà nước tập quyền Xã hội chủ nghĩa, thực hiện
chuyên chính vô sản đã chuyển sang mô hình tổ chức bộ máy Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa phục vụ nhân dân.
b) Những điều hạn chế
Trong vấn đề tạo lập mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước với công dân
vẫn đang tồn tại không ít khó khăn về chủ quan và khách quan. Về chủ quan,
chúng ta còn chưa xây dựng hoàn thiện hệ thống lý luận về Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa nói chung và lý luận về mối quan hệ bình đẳng giữa nhà nước
với công dân nói riêng, vì vậy hệ thống pháp luật còn nhiều hạn chế và thiếu sự
bình đẳng. Mặc khác, có nhiều cơ quan nhà nước lại thiếu trách nhiệm và gần
như vô trách nhiệm. Trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt với sự phát triển mạnh mẽ
của nền kinh tế thị trường, việc giải quyết mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước
và công dân đang nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Cụ thể, việc thu hồi và đền bù
quyền sử dụng đất, vấn đề môi trường đang xảy ra phức tạp. Từ những kẽ hở ấy
đã tạo ra nhiều cơ hội cho một số công chức nhà nước lợi dụng quyền lực để có
những thái độ, hành vi coi thường Nhân dân và chuộc lợi cho bản thân.
Về khách quan, sự phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, tàn dư tư tưởng
phong kiến vẫn tồn tại chỉ phối trong một số bộ phận không nhỏ của xã hội, làm
ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền lực của nhà nước, từ xây dựng, ban hành các
quy định pháp luật đến thái độ, trách nhiệm của cán bộ, công chức trong giải
quyết công việc của Nhân dân, thể hiện rõ ở các hiện tượng cửa quyền, hách
dịch, vô trách nhiệm. Vậy, hoàn thiện mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước và
công dân trong bối cảnh ngày nay là vấn đề cấp bách.
Đảng và nhà nước trong công cuộc phòng chống dịch bệnh Covid
Năm 2021, những ngày đầu đại dịch bùng phát, với mục tiêu ngăn chặn sự
lây lan của dịch covid 19 để bảo vệ sức khỏe của người dân, Bộ Chính trị và Ban
Bí thư đã điều hành quyết liệt chống dịch quốc gia, kèm theo đó là hàng loạt chủ
trương, biện pháp rất cụ thể hành động :
Thứ nhất, với khẩu hiệu cụ thể: “Chống dịch như chống giặc” và Bộ máy
điều hành cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 được thành lập từ Trung ương đến
địa phương và các cơ quan bộ ban ngành, đó là Ban chỉ đạo quốc gia phòng,
chống dịch bệnh Covid-19 và các ban chỉ đạo cấp địa phương, cấp bộ ban ngành.
Các phương án triển khai đã được xây dựng, Bộ Chính trị họp bàn, phê duyệt,
Thủ tướng Chính phủ trực tiếp chỉ đạo, điều hành.... Tổng bí thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú Trọng ra Lời kêu gọi đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước và đồng
bào ta ở nước ngoài đoàn kết một lòng, thống nhất ý chí và hành động, thực hiện
quyết liệt, hiệu quả những chủ trương của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo, điều
hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để bảo đảm chiến thắng đại dịch 16
Covid-19. Lịch sử nước ta từ khi có Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đã có
nhiều lần ra lời kêu gọi chống giặc ngoại xâm. Đây là lần đầu tiên trong thế kỷ
21, Người đứng đầu Đảng, Nhà nước, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú
Trọng đã ra Lời kêu gọi chống đại dịch Covid-19. Đó là thể hiện, Đảng, Nhà
nước ta đã phát động toàn dân "đánh giặc".
Thứ hai, Trong quá trình chỉ đạo và tổ chức thực hiện, Chính phủ, Ban Chỉ
đạo Quốc gia, Bộ Y tế và các địa phương đã kế thừa các nguyên tắc, biện pháp
được áp dụng trong các đợt dịch trước; đúc kết các bài học kinh nghiệm từ thực
tiễn, bổ sung và hình thành công thức trong phòng, chống dịch: 5K + vắc xin,
thuốc đặc hiệu + biện pháp điều trị + công nghệ + ý thức của Nhân dân + các
biện pháp khác với các trụ cột: xét nghiệm, cách ly, điều trị và chuyển hướng
thực hiện “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”.
Nhiều địa phương đã huy động được lực lượng cũng như các tầng lớp nhân dân
tham gia phòng, chống dịch nghiêm chỉnh nên đã kiểm soát tốt dịch bệnh và có
nhiều kết quả tích cực, ổn định được đời sống nhân dân cũng như phát triển được kinh tế xã hội.
Thứ ba, hiếm có nước nào, các lực lượng quân đội, công an tự nguyện,
dũng cảm nhiệt huyết chấp hành Chỉ thị của Thủ tướng, huy động tối đa lực
lượng và phương tiện hậu cần phục vụ có kết quả nhiệm vụ chống dịch. Ngành Y
tế Việt Nam có đội ngũ thầy thuốc tận tâm với trình độ chuyên môn cao, đã chăm
sóc và cứu chữa nhiều người khỏi dịch bệnh. Bên cạnh đó cũng có sự trợ giúp
của các tình nguyện viên, các chú bộ đội không quản khó khăn, vất vả đi mua
thực phẩm, mang đến phát cho từng hộ dân, tận tình mang từng bình đựng tro cốt
người xấu số vì dịch bệnh đến tận tay thân nhân của họ; sự trợ giúp về mặt vật tư
y tế, chi phí của các mạnh thường quân cũng góp phần lớn trong công cuộc
chống dịch của nước ta.
Thứ tư, triển khai thành công chiến dịch tiêm vắc xin phòng covid. Đến
31/12/2021, Việt Nam đã tiếp nhận 192 triệu liều vắc xin phòng COVID-19,
trong đó mua từ Ngân sách nhà nước là 96,9 triệu liều, từ các nguồn viện trợ/tài
trợ là 95,1 triệu liều. Việc tiếp nhận, phân bổ vắc xin được thực hiện công khai,
minh bạch, phù hợp với diễn biến dịch bệnh, có tập trung vào đối tượng, địa bàn
có nguy cơ cao. Việt Nam đã đạt trên 70% dân số được tiêm đủ liều cơ bản (1
trong 7 quốc gia có tốc độ tiêm chủng vắc xin cao nhất trên thế giới), so với mục
tiêu WHO khuyến cáo, Việt Nam đã về đích trước 6 tháng. Dự kiến Việt Nam sẽ
hoàn thành tiêm phủ mũi 3 vào cuối quý I/2022.
Thứ năm, để đảm bảo chế độ an sinh xã hội, phát triển kinh tế và phòng,
chống dịch nên đã chỉ đạo thúc đẩy toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội trong
trạng thái bình thường mới, thực hiện “ mục tiêu kép” thực hiện đồng bộ chương
trình phòng chống dịch bệnh gắn với chương trình phục hồi phát triển kinh tế xã
hội. Cho đến nay, chúng ta đã hoàn thành được mục tiêu đề ra đó là kiểm soát
dịch bệnh trên phạm vi cả nước, các hoạt động sản xuất kinh doanh dần được 17
phục hồi, dần thích ứng linh hoạt với dịch bệnh; hầu hết các ngành, lĩnh vực đang
trên đà tăng trưởng trở lại; hoạt động sản xuất, kinh doanh, đời sống người dân,
người lao động ổn định và phát triển trở lại.
Cuộc chiến chống dịch COVID-19 ở nước ta bước vào giai đoạn nhiều
khó khăn, thử thách. Các cấp chính quyền, các lực lượng trực tiếp tham gia
phòng chống dịch và mọi tầng lớp nhân dân đang nỗ lực ngày đêm để kiểm soát
dịch bệnh. triển khai thành công chiến dịch tiêm vắc xin phòng covid. Đến
31/12/2021, Việt Nam đã tiếp nhận 192 triệu liều vắc xin phòng COVID-19,
trong đó mua từ Ngân sách nhà nước là 96,9 triệu liều, từ các nguồn viện trợ/tài
trợ là 95,1 triệu liều Thậm chí, chỉ ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ Phạm
Minh Chính có Chỉ thị tăng cường các lực lượng tham gia phòng chống dịch
COVID-19 trên địa bàn TP Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phía Nam, ngay lập
tức trên các trang mạng xã hội đã xuất hiện những bài viết xuyên tạc cho rằng:
“Quân đội là phải canh gác bảo vệ biên giới; rằng đối diện với công an, quân đội
là dân chứ có phải là giặc đâu mà cầm súng giương nòng lên; rằng cho quân đội
vào là để trấn áp dân ra đường”. Đây thật sự là những thông tin xuyên tạc của
những người đang cố ý hiểu lệch chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước,
để phá hoại công cuộc phòng, chống dịch của đất nước. Về vấn đề tiêm phòng
vaccine ngừa COVID-19, trong khi cả hệ thống chính trị vào cuộc để làm sao có
được vaccine nhanh nhất, nhiều nhất phục vụ công tác phòng chống dịch thì trên
mạng xã hội lại xuất hiện những giọng điệu lạc lõng cho rằng "chính quyền lừa
dối dân trong chiến lược vaccine". Trong khi cả thế giới đang đẩy mạnh nỗ lực
tiêm phòng, nhiều nước đã chứng minh được hiệu quả của chương trình tiêm
vaccine (chẳng hạn tại nước Anh, quốc gia này đã ngăn chặn được hơn 100.000
ca tử vong nhờ tiêm vaccine ngừa COVID-19), thì những luận điệu như vậy quả
thực… không có sức thuyết phục! Thực tế từ các nước sẽ là minh chứng khách
quan nhất cho những nỗ lực mà Chính phủ Việt Nam đang làm để bảo vệ người
dân trước sự tấn công của virus corona.
Ngoài những cán bộ tận tâm giúp đỡ người dân vượt qua đại dịch
thì vẫn còn những thành phần nhỏ lợi dụng thời cơ trục lợi cho bản thân họ. Cụ
thể như việc tăng giá bán khẩu trang làm cho người dân khốn khó trong việc mua
chúng để bảo vệ sức khỏe; và nhập những khẩu trang không rõ nguồn gốc, kém
chất lượng, tái chế lại những chiếc khẩu trang đã sử dung điều này góp phần cho
sức khỏe của con người nguy hiểm hơn
Bằng ý thức cảnh giác, trách nhiệm cao, bằng tình yêu và niềm tin tưởng
tự hào về đất nước, người dân Việt Nam yêu chuộng chính nghĩa và hòa bình
không dễ gì bị ru ngủ bởi những luận điệu đó. Chắc chắn cũng như trước đây,
càng phá hoại, các thế lực thù địch sẽ càng thất bại thảm hại trước sức mạnh đoàn
kết, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong cuộc chiến chống đại
dịch. Và, những luận điệu sai trái về công cuộc phòng, chống dịch của Việt Nam là vô nghĩa! 18 2.2.
Liên hệ thực tiễn.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định
"Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải
xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân
dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các
khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của
nhân dân" [4, tr. 169] Sự nghiệp xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay đang đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện cả về cơ
sở pháp lý và cơ chế tổ chức thực hiện để hiện thực hóa quyền làm chủ của nhân
dân, bảo đảm cho nhân dân thực sự được là chủ và làm chủ, từ đó phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, thực
sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
2.2.1. Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ
máy nhà nước
Cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng một bộ máy nhà nước gọn nhẹ, có
hiệu lực trong quản lý xã hội, nhà nước có phân công, phân nhiệm rõ ràng: lập
pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất là
nội dung trọng tâm của xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Để làm được điều này chúng ta phải đổi mới
đồng bộ hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Trước hết
là phải kiện toàn tổ chức và hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất-
Quốc hội, từ đó làm cơ sở kiện toàn các cơ quan nhà nước khác. Nâng cao năng
lực và bản lĩnh của Đại biểu Quốc hội trong việc thực hiện chức năng lập pháp,
giám sát và quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước.
2.2.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có chất lượng tốt cả về nội
dung lẫn hình thức là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, một đòi hỏi cấp thiết,
một tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Không sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật với chất lượng tốt
sẽ không kịp thời tạo ra được môi trường pháp lý bình đẳng, thuận lợi cho mọi
thành phần kinh tế tồn tại và phát triển, không thể quản lý xã hội ổn định nếu
thiếu pháp luật. Chính vì vậy, cần có những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống
pháp luật, từ đó thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật mới đạt hiệu quả cao.
Trước hết, pháp luật phải thể hiện đúng đắn ý chí và nguyện vọng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động - số đông người trong xã hội. Nội dung của ý chí
và nguyện vọng thể hiện trong luật phải phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh
tế, xã hội tồn tại một cách khách quan trong thời kỳ đó. Pháp luật phải thể chế
đúng đắn đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong từng thời kỳ; bảo
đảm tính hợp hiến, hợp pháp của luật, bảo đảm sự điều chỉnh đồng bộ, có hệ
thống; bảo đảm luật, pháp lệnh phải có nội dung điều chỉnh bao quát và có tính
khả thi; bảo đảm tính minh bạch của luật, pháp lệnh.
2.2.3. Thực hiện dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội
Đảng ta coi dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
công cuộc xây dựng đất nước. Vì vậy Đảng và nhà nước phải không ngừng hoàn
thiện những thiết chế bảo đảm thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là biện pháp
không thể thiếu được trong quá trình tiến hành xây dựng nhà nước pháp 19
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Gồm có: - Nhà nước tạo ra mọi điều kiện để
bảo đảm các quyền tự do bầu cử, ứng cử của nhân dân. Đảm bảo nhân dân đều
được thực hiện quyền bầu cử và đưa ra những ý kiến quan điểm cá nhân cho
Quốc hội một cách minh bạch và khoa học
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức dân chủ cho người dân,
thực sự hướng về cơ sở, đến với dân, nói cho dân nghe và nghe dân nói. Công tác
tư tưởng phải gắn với vấn đề dân sinh, dân trí, dân quyền để thực hiện được dân chủ.
- Tìm tòi, thử nghiệm, cải tiến dần hình thức thích hợp để bảo đảm quyền
của nhân dân trong việc giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước. Để làm được
điều đó, cơ quan nhà nước phải thông tin kịp thời cho dân biết những hoạt động
chủ yếu của cấp mình; những thông tin về tình hình phát triển kinh tế xã hội, kết
quả thi hành pháp luật, nội dung và tình hình thực hiện nghị quyết của Quốc hội,
Hội đồng nhân dân, về kết quả khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
- Cải tiến chế độ tiếp xúc, báo cáo của đại biểu Quốc hội và Hội đồng
nhân dân với cử tri, tạo điều kiện cho nhân dân không chỉ phản ánh nguyện
vọng của mình mà còn tham gia nhận xét, đánh giá hoạt động của đại biểu dân
cử, của cơ quan nhà nước, Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
- Cơ quan nhà nước các cấp mở rộng các hình thức tham khảo ý kiến của
các tổ chức chính trị - xã hội trong việc xây dựng và triển khai thực hiện chính
sách pháp luật. Cần chưng cầu ý dân về các văn bản pháp luật theo hướng thiết
thực. Các cơ quan nhà nước cần tổ chức hội nghị nhân dân hoặc đại biểu nhân
dân các cấp cơ sở để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân trên địa bàn dân cư, tổng
hợp dư luận xã hội về những vấn đề cần thiết để nâng cao công tác lãnh đạo và
quản lý nhà nước, để nhân dân tham gia rộng rãi vào các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội.
- Bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế, cụ thể là
quyền dân chủ về sở hữu, về lao động, về quản lý và hưởng thụ. Nhà nước cần
mở rộng quyền tự chủ cho các cơ sở sản xuất kinh doanh, thực hiện đúng đắn
chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước
cần ban hành các chính sách chế độ và thi hành những biện pháp cần thiết bảo
đảm cho nhân dân lao động thực sự là người chủ nắm tư liệu sản suất, làm chủ
các quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông, phát huy được tính sáng tạo, năng
động, tự chủ trong sản xuất.
Trên các lĩnh vực khoa học-kỹ thuật, văn hoá giáo dục cần phải tạo mọi
điều kiện về môi trường và sự ưu tiên để phát huy trí tuệ, tài năng của các nhà
khoa học. Có những chính sách đãi ngộ hợp lý để thu hút chất xám của đội ngũ
trí thức. Cần có những quy định cụ thể để khuyến khích tự do nghiên cứu, phát
minh, sáng tác, phê bình… nhằm nâng cao trách nhiệm của nhân dân. Xây dựng
và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng chính là một bộ phận của xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mỗi bước phát triển của dân chủ
hoá xã hội là một điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền.
Làm tốt việc này chính là góp phần tạo ra một động lực tổng hợp cho sự nghiệp
xây dựng đất nước trong thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.2.4. Tăng c ờng công tác đấu tranh phòng và chống tham nhũng ƣ
Tình hình tham nhũng hiện nay diễn ra rất phức tạp, ở nhiều lĩnh vực và
có xu hướng tăng về quy mô, tính chất ngày càng nghiêm trọng. Bởi vậy, 20