Vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn - Triết học Mác Lênin | Trường Đại học Thủ đô Hà Nội

Trong cuộc tấn công, chống phá ta của các thế lực phản động trong và ngoàinước, chúng thường tập trung vào lĩnh vực tư tưởng, lý luận, bởi đây là lĩnh vực nhạycảm, có tác động lâu dài và khó lường. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT LÝ LUẬN
THỰC TIỄN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI VIỆT NAM HIỆN
NAY
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................3
2. Mục đích và nhiện vụ nghiên cứu...........................................................................4
3. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu..............................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................5
5. Kết cấu....................................................................................................................5
NỘI DUNG...................................................................................................................6
CHƯƠNG 1: PHẠM TRÙ LÝ LUẬN VÀ PHẠM TRÙ THỰC TIỄN....................6
1.1. Phạm trù lý luận...................................................................................................6
1.2. Phạm trù thực tiễn................................................................................................8
CHƯƠNG 2: NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
.....................................................................................................................................10
2.1. Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận.................................................10
2.2. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn...................................................................12
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI VIỆT NAM HIỆN NAY...........................14
2.1. Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức.....................................................14
2.2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn................................................................16
3.3. Thực trạng ở nước ta hiện nay...........................................................................18
3.4. Một số quan điểm cần quán triệt trong phát triển luận về chủ nghĩa hội
Việt Nam hiện nay.......................................................................................................23
KẾT LUẬN................................................................................................................. 27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................29
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc tấn công, chống phá ta của các thế lực phản động trong ngoài
nước, chúng thường tập trung vào lĩnh vực tưởng, luận, bởi đây là lĩnh vực nhạy
cảm, cóc động lâu dài khó lường. Với âm mưu xảo quyệt, các thế lực phản động
liên tục ráo riết tiến hành các hoạt động chống phá trên lĩnh vực tưởng, luận,
âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình"; thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ Đảng ta để đi đến tan rã, như sự sụp đổ của hình chủ nghĩa
hội ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây.
Trước tình đó, Đảng ta chủ trương: “Đổi mới công tác tuyên truyền, giáohình
dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Đấu tranh, ngăn chặn,
đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tăng cường đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn
chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay, luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút
sự quan tâm của nhiều đối tượng.
Ngày nay, triết học một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất
cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về luận nhận thức thực tiễn,
phương pháp biện chứng... luôn sở, phương hướng, tôn chỉ cho hoạt động
thực tiễn, xây dựng phát triển hội. Nếu xuất phát từ một lập trường triết học
đúng đắn, con người thể được những cách giải quyết phù hợp với các vấn dề do
cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đó
sẽ không chỉ đơn thuần sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách giải
nhất định về thế giới, còn sự chấp nhận một sở phương pháp luận nhất định
chỉ đạo cho hoạt động.
Ngay từ buổi đầu của lịch sử, con người phải lao động sản xuất tạo ra của cải
vật chất để tồn tại. Qua lao động mà kinh nghiệm được tích lũy phong phó, đó làsở
cho việc khái quát luận. Phân công lao động phát triển, hội phân chia thành giai
cấp đối kháng, giai cấp thống trị điều kiện vật chất để tách khái lao động chân tay
để chuyên nghiên cứu lí luận. Đó là cơ sở xã hội cho việc tách rời giữa thực tiễn với
luận đi đến đối lập chúng với nhau. Triết học Mác-Lênin đã thực hiện sự thống nhất
trở lại luận với thực tiễn. Sự thống nhất này thực hiện trên cơ sở phát triển cao cả
của thực tiễn và lí luận.
2
Quan điểm của triết học Mác về s thống nhất giữa luận thực tiễn không
chỉ ở chỗ vạch rõ vai trò quyết định của thực tiễn đối với lí luận, coi thực tiễn là cơ sở,
là tiêu chuẩn, là mục đích quan trọng của lí luận với thực tiễn.
Cội nguồn của những đột phá tạo ra những bước tiến vượt bậc của hội loài
người sự đóng góp của luận đích thực. luận nguồn gốc sở động lực từ
thực tiễn, chính thực tiễn đặt ra vàn những vấn đề luận phải giải đáp chỉ
trên sở đó luận mới thực sự giữ vai trò dẫn đường, luận phải đi trước một
bước.
Trên sở nền tảng triết học Mác-Lênin, Đảng Nhà nước ta đã học tập
tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng
đắn để xây dựng phát triển hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc
những khiếm khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải
tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước
trong khu vựcthế giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa
hội qua mười năm đổi mới minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt
động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan trong
vận hành nền kinh tế nước ta một vấn đề còn nhiều xem xét tranh cãi, nhất
trong quá trình đổi mới hiện nay.
Nghiên cứu vấn đề này việc hết sức thiết thực quan trọng đối với việc
nghiên cứu luận Mác-Lênin nói chung đối với công cuộcy dựng đất nước
hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng. vậy, em quyết định chọn đề tài Vận dụng
nguyên tắc thống nhất luận thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới Việt Nam
hiện nay”.
2. Mục đích và nhiện vụ nghiên cứu
Nêu rõ nội dung cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Vận dụng vào sự nghiệp đổi mới của Việt Nam hiện nay.
3. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Với đề tài: “Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa luận thực tiễn vào sự
nghiệp đổi mới Việt Nam”. Đây một đề tài khá rộng đã nhiều sách, báo, tạp
chí…viết về vấn đề này.
Do thời gian có hạn cùng với việc nghiên cứu chỉ dừng lại ở hình thức tiểu luận
nên em sẽ lấy khách thể nghiên cứu hoạt động sáng tạo, luận của nhận thức
Mácxít nói riêng, chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung.
3
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp nghiên cứu Duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, đặc biệt coi trọng sử dụng chủ yếu phương pháp logic lịch
sử, phân tích, tổng hợp, so sánh.
5. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
đề tài nghiên cứu gồm có 3 chương, 8 tiết. Cụ thể:
Chương 1: Phạm trù lý luận và phạm trù thực tiễn.
Chương 2: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Chương 3: Vận dụng nguyên tắc thống nhất luận thực tiễn trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: PHẠM TRÙ LÝ LUẬN VÀ PHẠM TRÙ THỰC TIỄN
1.1. Phạm trù lý luận
1.1.1. Khái niệm lý luận
Hoạt động thực tiễn hoạt động nhận thức hai hoạt động đặc trưng của con
người, giữa chúng mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau, không tách rời
nhau. Trong quá trình tác động vào thế giới, cải tạo thế giới, hoạt động nhận thức của
con người cũng bắt đầu hình thành.
Nhận thức, theo quan điêm của triết học máccxit quá trình con người rìm
hiểu, phản ánh thế giới khách quan, nhưng đó không phải là sự phản ánh giản đơn, thụ
động quá trình phản ánh biện chứng. tích cực sáng tạo trên sở thực tiễn.
Đó sự phản ánh chọn lọc, chủ động mục đích để nắm bắt bản chất của hiện
thực chứ không phải sự sao chép nguyên xi. Qua quá trình nhận thức biện chứng,
còn hiểu biết riêng lẻ từng mặt, bề ngoài của đối tượng những hiểu biết kinh nghiệm,
thông qua các thao tác của duy như phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng
hóa… lý luận được nảy sinh, hình thành và phát triển.
1.1.2. Đặc trưng lý luận
Nhận thức là một quá trình biện chứng diễn ra rất phức tạp bao gồm nhiều giai
đoạn, trình độ, vòng khâu và hình thức khác nhau.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính:
Nhận thức cảm tính (hay còn gọi trực quan sinh động) giai đoạn đầu tiên
của quá trình nhận thức. được thể hiện ba hình thức bản là cảm giác, tri giác
và biểu tượng.
Cảm giác hình thức đầu tiên đơn giản nhất của nhận thức cảm tính, phản ánh
những thuộc tính riêng lẻ của sự vật và hiện tượng. Bản chất của cảm giác là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan.
Tri giác là tổng hợp những thuôc tính riêng lẻ của sự vật trong mối quan hệ hữu
cơ với nhay. Cũng như cảm giác, tri giác mang tính trực tiếp.
Biểu tượng hính thức đi sâu vào bản chất của sự vật, biết được bản chất của
chúng thông qua một tập hợp những thuộc tính. Đã bắ đầu mang tính khái quát và gián
tiếp. Biểu tượng vai trò khâu trung gian giữa trực quan sinh động duy trừu
tượng.
Nhận thức tính giai đoạn cao của quá trình nhận thức dựa trên sở
những tài liệu trực quan sinh động đem lại. duy trừu tượng cũng phản ánh hiện
thực, nhưng sự phản ánh gián tiếp khái quát, do vậy sâu sắc hơn, chính xác hơn
và đầy đủ hơn với các hình thức cơ bản nha: Khái niệm, phán đoán và suy lý.
5
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận Những trình độ khác nhau
của nhận thức khoa học:
Nhận thức kinh nghiệm nhận thức luận không đồng nhất với nhận thức
cảm tính nhận thức tính. Nhận thức kinh nghiệm nhận thức luận đều sự
tổng hợp của hai yếu tố cảm tính và lý tính.
Kinh nghiệm những tri thực được chủ thể thu nhận trực tiếp trong quá trình
hoạt động thực tiễn, là sở để tổng kết, khái quát thành luận, căn cứ để sửa đổi,
phát triển hệ thống lý luận cũ.
Nhận thức luận phản ánh hiện thực trong bản chất của sự vật hiện tượng,
trong những môi liên hệ mang tính quy luật. Nhiệm vụ của nhận thức luận nhận
thức trình độ cao hơn, chỉ ra những phương hướng mới cho sự phát triển của hoạt
động thực tiễn. Chỉ có những tri thức lý luận mới làm cho hoạt động của con người trở
nên chủ động hơn, tránh được tính trạng mò mâm, tự phát.
Như vậy, về bản chất, luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực
tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế giới khách
quan, luận được hình thành không phải nằm ngoài thực tiễn trong mối liên hệ
với thực tiễn.
Do quá trình hình thành và bản chất của nó, luận có hai chức năng bản
chức năng phản ánh hiện thực khách quan chúc năng phương pháp luận cho hoạt
động thực tiễn. luận phản ánh hiện thực khách quan bằng những quy luật chung
nhất. Tri thức kinh nghiệm cũng như tri thức luận đều phản ánh hiện thực khách
quan nhưng những phạm vi lĩnh vực trình độ khác nhau. luận phản ánh hiện
thực khách quan để làm phương pháp luận nhận thức cải tạo hiện thực khách quan
bằng hoạt động thực tiễn.
Tóm lại, luận một công cụ tưởng sắc bén vai trò rất to lớn đối với
hoạt động thực tiễn cũng như đối với sự định hướng về nhận thức. luận giúp cho
con người thấy được những ưu điểm hạn chế trong việc biến đổi những quá trình
đối tượng hoá khách thể. Tự nhiên luôn cần đến những bàn tay con người, cũng
chính tự nhiên quyết định cho con người những trình tự tất yếu để trong quá trình tồn
tại, con người tự bổ sung, hoàn thiện cách thức cải tạo tự nhiên. luận luôn đóng vai
trò quan trọng trong việc tạo ra sự liên kết gắn giữa chủ thể tự nhiên chủ thể
nhận thức. luận cũng quá trình hình thành phát triển của nó, không phải
luận khi con người xuất hiện, con người phải phát triển đến một giai đoạn nhất
định nào đó luận mới được xuất hiện. Lý luận không phải sinh ra vốn đã hoàn thiện
mà nó được bổ sung và hoàn thiện dần dần theo tiến trình phát triển của lịch sửhội.
6
Hay nói cách khác, lý luận mang tính lịch sử hội, có những lý luận đúng quá khứ
nhưng ở hiện tại và tương lai nó không còn phù hợp nữa.
1.2. Phạm trù thực tiễn
1.2.1. Khái niệm về thực tiễn
Phạm trù thực tiễn một trong những phạm trù nền tảng, bản của triết học
Mác– Lênin nói chung của luận nhận thức Macxit nói riêng. Trong lịch sử triết
học không phải mọi trào lưu đều đưa ra quan niệm đúng đắn về phạm trù này. Các nhà
triết học duy vật trước Mác không thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn đối với
nhận thức, luận nên quan điểm của họ mang tính chất trực quan. Các nhà triết học
duy tâm lại tuyệt đối hóa yếu tố tinh thần, tưởng của thực tiễn, họ hiểu họat động
thực tiễn như hoạt động tinh thần, hoạt động của “ý niệm”, tưởng, tồn tại đâu đó
ngoài con người, nói cách khác, họ gạt bỏ vai trò thực tiễn trong đời sống xã hội.
Khái niệm thực tiễn trong triết học Mác- Lênin: Thực tiễn toàn bộ những
hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - hội của con người nhằm cải
biến tự nhiên và xã hội”.
1.2.2. Đặc trưng của thực tiễn
Thứ nhất, theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, thực tiễn là hoạt động gắn
liền với con người, nhưng không phải toàn bộ hoạt động của con người chỉ
những hoạt động của vật chất – cảm tính, những hoạt động vật chất cảm giác được. Đó
hoạt động của con người, sử dụng những công cụ vật chất, tác động vào những đối
tượng vật chất làm biến đổi chúng theo những mục đích nhất định.
Thứ hai, thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử – xã hội của con người.
Hoạt động thực tiễn phải thông qua từng nhân, từng nhóm người, nhưng các
nhân phải có quan hệ với nhau và không thể tách tời các quan hệ xã hội. Nghĩa là, thực
tiễn chỉ diễn ra trong hội với sự tham gia của đông đảo những con người trong
hội. Đồng thởi, thực tiễn cũng trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển cụ thể, chịu sự
chi phối của ngững điều kiện lịch sử, cả về đối tượng, phương tiện, cũng như mục đích
hoạt động của con người.
Thứ ba, thực tiễn hoạt động tính mục đích, tính hiện thực trực tiếp. Thực
tiễn phải hướng đến cải tạo thế giới, cải tạo tự nhiên hội nhằm phục vụ con
người, chứ không chỉ hoạt động bản năng, bằng lòng với những cái sẵn trong tự
nhiên. Nói tới thực tiễn là nói tới hoạt động có tính tự giác cao của con người, khác với
hoạt động bản năng, thích nghi một cách thụ độngcủa con vật với thế giới xung quanh.
1.2.3. Các hình thức cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn ba hình thức bản là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động
chính trị – xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
7
Hoạt động sản xuất vật chất hình thức hoạt động khởi nguyên, đầu tiên,
bản nhất của hoạt động thực tiễn. Đó là hoạt độngcon người trực tiếp tác động vào
đối tượng vật chất, vào thế giới khách quan, nhằm tạo ra của cải vật chất. Không
sản xuất vật chất con người hội loài người không thể tồn tại, phát triển. Không
những thế, sản xuất vật chất còn sở cho sự nảy sinh, tồn tại và phát triển của các
hình thức thực tiễn khác, cũng như tất cả các hoạt động khác của con người. thể
nói, các hoạt động khác của con người, suy cho cùng đều xuất phát từ hoạt động sản
xuất vật chất.
Hoạt động chính trị hội hoạt động của các tổ chúc, các cộng đồng người
khác nhau tronghội, thể hiện tính tự giác cao của con người nhằm biến đổi, cải tạo
xã hội, phát triển các thiết chế hội, các quan hệ xã hội, v.v. tạo ra môi trườnghội
thuận lợi, phù hợp với nhu cầu, lợi ích của chủ thể.
Hoạt động thực nghiệm khoa học hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn,
được tiến hành trong những điều kiện không sẵn trong tự nhiên, do con người
tạo ra gần giống hoặc lặp lại những trạng thái trong tự nhiên, nhằm tìm hiểu các quy
luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu theo mục đích đề ra. Trong giai
đoạn hiện nay, khoa học đóng một vai trò hết sức to lớn đối với quá trình phát triển của
hội thì hình thức thực tiễn này ngày càng vị trí quan trọng trong hoạt động của
con người.
Ba hình thức bản của thực tiễn nêu trên, có quan hệ chặt chẽ, tác động, ảnh
hưởng qua lại lẫn nhau. Trong đó, hoạt động sản xuất vật chất đóng vai trò quan trọng,
quyết định hoạt động chính trị – xã hội và thực nghiệm khoa học. Ngược lại, hoạt động
chính trị – xã hội và thực nghiệm khoa học tác động trở lại hoạt động sản xuất vật chất.
Chính trị xã hội ổn định tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, thực nghiệm khoa học
phát triển thì năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất sẽ được nâng cao.
Ngoài ba hình thức bản trên, hoạt động thực tiễn còn những hình thức
không bản được thể hiện một số lĩnh vực khác nhau như giáo dục, y tế, nghệ
thuật, thể thao,v.v..
8
CHƯƠNG 2: NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận
Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở của lý luận
Điều đó nghĩa, thực tiễn nền tảng, điểm xuất phát của luận. Chính
trên nền tảng của hoạt động thực tiễn con người mới nhu cầu tìm hiểu, khám phá
thế giới, hoạt động nhận thức, luận mới nảy sinh. Thông qua hoạt động thực tiễn,
con người tác động vào sự vật làm cho chúng bộc lộ những thuộc tính, tính chất, quy
luật… Trên sở đó, con người mới hiểu biết về sự vật khái quát những hiểu
biết ấy dể hình thành, phát triển luận. Như vậy, chính nhcó hoạt động thực tiễn,
luận mới ra đời, phát triển. Ph.Ăngghen đã từng nhấn mạnh: “…chính việc người ta
biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách tự nhiên,
sở chủ yếu nhất trực tiếp nhất của duy con người đã phát triển song song
với việc người ta đã học cái biến tự nhiên”.
Có thể nói, mọi hiểu biết của con người dù trực tiếp hay gián tiếp, đối với người
này hay người khác, thế hệ này hay thế hệ khác, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận,…
suy cho cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Nếu không có hoạt động thực tiễn, con người
không thể có được lý luận khoa học, cách mạng.
Thứ hai, thực tiễn là động lực của lý luận
Thực tiễn luôn vận động, biến đổi luôn đặt ra những nhu cầu, nhiệm vụ,
phương hướng mới cho lý luận, đòi hỏi lý luận phải giải quyết. Vì thế, nó luôn bắt con
ngưởi phải đi sâu nghiên cứu, mở rộng sự hiểu bết hiện có, đánh giá kiểm tra lại kiến
thức cũ, cách tiếp cận cũ, thậm chí phải thay thế những tri thức cũ, lạc hậu bằng những
tri thức mới. Trên cơ sở đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức, lý luận phát triển. Đúng như
Ph.Ăngghen đã nói, khi hội nhu cầu về kỹ thuật thì thúc đẩy khoa học phát
triển hơn mười trường Đại học.
Thực tiễn còn sở góp phần rèn luyện các giác quan duy của con
người, m cho chúng ta phát triển tinh tế hơn, hoàn thiện hơn, năng lực duy logic
không ngừng được củng cố và phát triển. Trên sở đó, giúp con người nhận thức đối
tượng ngày cảng chính xác hơn, sâu sắc hơn, khái quát lý luận đúng đắn hơn.
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người còn chế tạo ra các công cụ, phương
tiện, máy móc hiện đại, như kính hiển vi, kính thiên văn, tàu vũ trụ… góp phần hỗ trợ
con người “nối dài” các giác quan trong quá trình khám phá chinh phục thế giới.
Thứ ba, thực tiễn là mục đích của lý luận
Thực tiễnđích cuối cùng luận phải hướng tới, phải giải quyết. Chính nhu
cầu sống, nhu cầu sản xuất vật chất, cải tạo tự nhiên, hội buộc con người phải tìm
hiểu, khám phá, nhận thức thế giới xung quanh. Nghĩa , nhận thức con người ngay
9
từ đầu đã bị quy định bởi nhu cẩu thực tiễn; ngược lại kết quả của nhận thức, của
luận sẽ phục vụ cho chính thực tiễn phát triễn. Lý luận không đáp ứng được mục đích
thực tiễn đặt ra, lý luận đó sẽ không có giá trị. Những tri thức – kết quả của nhận thức,
những luận kết quả của khái quát hóa kinh nghiệm thực tiễn chỉ giá trị, ý
nghĩa đích thực khi được vận dụng vào thực tiễn, phục vụ thực tiển; cụ thể là vận dụng
vào hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị – xã hội và hoạt động thực nghiệm
khoa học phục vụ con người. luận mục đích tự thân, chỉ giá trị khi thâm
nhập vào thực tiễn, được vật chất hóa, biến tri thức khoa học thành phương tiện ttrong
việc biến đổi hiện thực.
Thứ tứ, thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra của lý luận
Thông qua thực tiễn kiểm nghiệm, con người sẽ xác nhận được tri thức đúng
hay sai, chân lý hay sai lầm. Chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để
khẳng định chân lý, c bỏ sai lầm. Mọi sự biến đổi của sự nhận thức hayluận suy
cho cùng không thể vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực tiễn. Con người có được những
hiểu biết về thế giới thông qua hoạt động thực tiễn. Do vậy, chính thực tiễn tiêu
chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức con người đã đạt được trong nhận
thức. Đồng thời, bổ sung, điều chỉnh, phát triển những tri thức luận đã có, làm
cbo luận ngày càng đầy đủ hơn sau sâu sắc hơn. C. Mác, trong luận cương về
Phoiobac đã khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem duy của con người thể đạt tới
chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải một vấn đề luận một vấn
đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn con người phải chứng minh chân lý, nghĩa
chứng minh tính hiện thực sức mạnh, tính trần tục của duy của mình. Sự tranh
trãi về tính hiện thực hay tính không hiện thực của tư duy tách rời thực tiễn, là một vấn
đề kinh viện thuần túy”.
Tiêu chuẩn thực tiễn vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối.
Tính tuyệt đối của tiêu chuẩn thực tiễn thể hiện chỗ, tiêu chuẩn khách
quan duy nhất có thể kiểm tra tính đúng, sai của lý luận, khẳng định chân lý, bác bỏ sai
lầm. Tất cả những tri thức chứ được thực tiễn kiểm tra, xác nhận đều không có cơ sở
khẳng định tính đúng đắn của nó.
Tính tương đối của tiêu chuẩn thực hiện ở chỗ, nó luôn vận động, biến đổi, phát
triển, do đó, với cách tiêu chuẩn chân lý không cho phép người ta xem bất kỳ
một tri thức nào bất di bất dịch, không thay đổi. vậy, khi thực tiễn thay đổi thì
nhận thức, luận cũng phải thay đổi theo cho phù hợp với thực tiễn mới. Không
chân lý vĩnh viễn, bất di bất dịch; mọi tri thức dù là đúng vẫn phải tiếp tục kiểm tra, để
kịp thời bổ sung, phát triển. Mặt khác, thực tiễn mỗi lĩnh vực nhất định chỉ đủ sức
kiểm tra những tri thức nảy sinh trong phạm vi lĩnh vực đó.
10
Như vậy, thực tiễn không những là điểm xuất phát, là yếu tố đóng vai trò quyết
định đối với sự hình thành phát triển của luận, còn nơi luận phải luôn
hướng tới để kiểm nghiệm tính đúng đắn của mình.
2.2. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: “thực tiễn không có lý luận hướng dẫn
thì thành thực tiễn quáng”. Điều y nghĩa rằng, luận mặc do thực tiễn
quyết định, nhưng bản thân quyết định, nhưng bản thân luận khi đã hình thành thì
lại có một vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn. Vai trò của lý luận khoa học được thể
hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, lý luận đóng vai trò là “kim chỉ nam” cho hoạt động thực tiễn.
luận khoa học định hướng, chỉ đạo, soi sáng cho thực tiễn, vạch ra phương
hướng, phương pháp cho hoạt động thực tiễn nhằm biến đổi hiện thực khách quan theo
yêu cầu, mục đích phát triển của con người hội. Nếu thực tiễn không được chỉ
đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận khoa học thì thực tiễn đó sẽ mất phương hướng,
lúng túng như nhắm mắt mà đi”, rơi vào mò mẫm, vòng vo, có khi lại quay trở lại xuất
phát điểm ban đầu, không hiệu quả, gây tốn kém, lãng phí thời gián, công sức.
Thứ hai, luận thúc đẩy phong trào cách mạng nảy sinh, hình thành phát
triển.
Không có lý luận cách mạng không thể có phong trào cách mạng. luận khoa
học, cách mạng góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập quần chúng để tạo nên
những phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông đảo quần chúng. Nhờ
luận khoa học, phong trào cách mạng của quần chúng không còn mang tính tự phát, trở
thành hoạt động, chủ động, tự giác, tích cực. C.Mác nhấn mạnh:… “lý luận cũng sẽ
thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”.
Thứ ba, lý luận góp phần dự báo tương lai.
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng luôn chứa đựng những tiền đề, mầm mống
và khả năng phát triển trong tương lai của chúng. Lý luận nếu phản ánh đúng bản chất,
nắm được quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Như vậy,dự báo tương
lai kết quả của thao tác duy, như phân tích tổng hợp, logic lịch sử…tức
quá trình nhận thức, phản ánh, phán đoán về svận động, biến đổi, phát triển của s
vật, hiện tượng. Dự báo tương lai một trong những nguyên nhân ý nghĩa quyết
định đến hiệu quả hoạt động nhận thức thực tiễn của con người. Khi con người
ngày càng đi sâu khám phá giới tự nhiên vô cùng vô tận bằng những phương tiện khoa
học hiện đại thì càng cần những dự báo. Chính vậy, chức năng dự báo một
chức năng rất quan trọng của lý luận.
11
Như vậy, luận thực tiễn không tách rời nhau, giũa chúng sự liên hệ,
xâm nhập, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. thế, trong hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa luận
thực tiễn. Đây nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Quán triệt nguyên tắc
này có ý nghĩa rất quan trọng đối với công cuộc đổi mới ờ nước ta hiện nay.
12
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI VIỆT NAM HIỆN NAY
Hoạt động thực tiễn sở, nguồn gốc, động lực, mục đích, tiêu
chuẩn của nhận thức.
2.1. Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức
Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan, bắt các
sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính quy luật
của chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy sinh các vấn đề đòi hỏi
con người phải giải đáp do đó nhận thức được hình thành. Như vậy, qua hoạt động
thực tiễn con người tự hoàn thiện phát triển thế giới quan (tạo điều kiện cho
nhận thức cao hơn).
Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển hơn, các
giác quan ngày càng hoàn thiện hơn.
Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức.
Chính hoạt động thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo ra các
phương tiện hiện đại giúp con người đi sâu tìm hiểu tự nhiên.
Thứ nhất, Thực tiễn là động lực của nhận thức
Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn t thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi bước
phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận thức, thúc đẩy
nhận thức tiếp tục phát triển. Như vậy thực tiễn trang bị những phương tiện mới, đặt ra
những nhu cầu cấp bách hơn, soát sự nhận thức. Thực tiễn lắp đi lắp lại nhiều
lần, các tài liệu thu thập được phong phú, nhiều vẻ, con người mới phân biệt được đâu
mối quan hệ ngẫu nhiên bề ngoài, đâu mối liên hệ bản chất, những quy luật vận
động và phát triển của sự vật.
Thứ hai, Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Những tri thức khoa học chỉ ý nghĩa thực tiễn khi được vận dụng vào thực tiễn.
Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải bản thân các tri thức mà là nhằm cải
tạo hiện thức khách quan, đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần xã hội. Sự hình
thành và phát triển của nhận thức là bắt nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu của thực tiễn.
Nhận thức chỉ trở về hoàn thành chức năng của mình khi chỉ đạo hoạt động
thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn hiệu quả hơn. Chỉ thông qua hoạt động
thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức mạnh của mình, sự hiểu biết của
con người mới có ý nghĩa.
Thứ ba, Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức
Bằng thực tiễn kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì
phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại.
13
Thứ tư, Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
a. Chân lý
Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan được thực tiễn khẳng
định (nội dung khách quan, có ý nghĩa giá trị đối với đời sống con người).
Chân lý mang tính khách quan, nó không phụ thuộc vào số đông (ví dụ: chân lý
tôn giáo).
Chân mang tính hai mặt (tuyệt đối tương đối) tính hai mặt trong quá
trình nhận thức của nhân loại.
b. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để kiểm tra chân
không phải ý thức tưởng, duy mà thực tiễn. Bởi chỉ thông qua hoạt
động thực tiễn, tri thức mới trở lại tác động vào thế giới vật chất, qua đó nó được ”hiện
thực hoá”, “vật chất hơn” thành các khách thể cảm tính. Từ đó mới căn cứ để đánh
giá nhận thức của con người đúng hay sai, có đạt tới chân lý hay không.
Thực tiễnrất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con người cũng
được kiểm tra thông qua rất nhiều hình thức khác nhau.
- Thực tiễn của xã hội luôn luôn vận động và phát triển.
- Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử đều giới hạn. không thể chứng
minh hay bác bỏ hoàn toàn một tri thứco đó của con người nó được thực
tiễn tiếp theo chứng minh, bổ sung thêm.
Như vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng như vậy mới
có khả năng kiểm tra một cách chính xác sự phát triển biện chứng của nhận thức.
c. Ý nghĩa:
Thực tiễn lớn nhất nước ta hiện nay thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị
trường mới, nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc và chế độ xã hội mới: công bằng,
bình đẳng, tién bộ.
Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách hay các giải pháp kinh tế cthể
muốn biết đúng hay sai đều phải thông qua vận dụng chúng trong sản xuất, kinh doanh
cũng như quản các quá trình đó. Đường lối chính sách cũng như các giải pháp kinh
tế chỉ đúng khi chúng mang lại hiệu quả kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao
năng suất lao động, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội sau những bước tiến những thành tựu
to lớn mang lại ý nghĩa lịch sử, giờ đây lại đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Những
hoạt động nghiên cứu luận chínhnhằm tìm ra lời giải đáp cho những vấn đề của
giai đoạn cách mạng hiện nay. Công cuộc đổi mới nước ta vừa mục tiêu, vừa
động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động nhận thức nói chung công tác luận nói
14
riêng, nhất định sẽ đem lại cho chúng ta những hiểu biết mới, phong phú hơn và cụ thể
hơn về mô hình chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2.2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
2.2.1. Lý luận
a. Khái niệm: một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn.
phản ánh những quy luật, của từng lĩnh vực trong hiện thực khách quan.
b. Đặc điểm: Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên sở đáp ứng nhu cầu
của xã hội nên bất kỳ một lý luận nào cũng mang tính mục đích và ứng dụng.
Nó mang tính hệ thống cao, tổ chức có khoa học.
2.2.2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Được thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhận thức thực tiễn. GIữa luận
thực tiễn thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ chỗ: chúng
đều là hoạt động của con người, đều nhằm mục đích cải tạo tự nhiên cải tạo hội
để thoả mãn nhu cầu của con người.
a. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn
Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của thực tiễn. Thực
tiễn là hoạt động cơ bản nhất của con người, quyết định sự tồn tại và phát triển hội.
luận không mục đích tự mục đích cuối cùng phục vụ thực tiễn. Sức
sống của luận chính luôn luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ cho yêu cầu của
thực tiến.
b. Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn
Ví dụ: lý luận Mác - Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp vô sản.
Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn tuỳ thuộc vào được hướng
dẫn bởi luận nào, khoa học hay không? Sự phát triển của luận do yêu cầu
của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn không tách rời lý luận, không thể thiếu sự
hướng dẫn của lý luận.
Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: đưa lại cho thực tiễn các tri thức đúng
đắn về các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan, từ đó mớisở
để định ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.
Quan hệ luận thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó thể
thống nhất hoặc mâu thuẫn đối lập.
c. Lý luận và thực tiễn là thống nhất
Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần tiến bộ
còn giữ sứ mệnh lịch sử. Khi luận thực tiễn thống nhất thì chúng sẽ tăng
cường lẫn nhau phát huy vai trò của nhau. Sự thống nhất đó một trong những
nguyên lý căn bản của triết học Mác- Lênin.
15
d. Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn
Xảy ra khi giai cấp thống trị trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi mâu thuẫn
nảy sinh, chúng sẽ làm giảm ảnh hưởng của nhau. Điều đó dẫn đến mọi đường lối,
chính sách xã hội trở nên lạc hậu và phản động.
*Ý nghĩa:
Cần phải tăng cường, phát huy vai trò của luận đối với hội, đặc biệt
luận xã hội mà quan trọng là lý luận Mác - Lênin và các lý luận về kinh tế.
Trước chủ nghĩa Mác, trong luận nhận thức, phạm trù thực tiễn hầu như
không chỗ đứng nào. Nhiều người còn hình dung thực tiễn với bộ mặt xấu của
con buôn (Phơ-Bách). Trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”,
sau khi phê phán E. Ma Khơ một số ngươi khác đã ”cố gạt thực tiễn ra khỏi lý luận
nhận thức, coi thực tiễn như một cái gì không đáng nghiên cứu về mặt nhận thức luận,
đã ”đem cái tiêu chuẩn thực tiễn cái giúp cho mỗi người phân biệt được ảo tưởng
với hiện thực đặt ra ngoài giới hạn của khoa học, của luận nhận thức... để dọn chỗ
cho chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri”.
V.I.Lênin đã khẳng định: quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm
thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức. (V.I.Lênin toàn tập)
Chính sự quan trọng của mối quan hệ giữa luận thực tiễn nên đối với
nước ta trong giai đoạn này cần đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và hoạt động. Hiện
nay, nước ta đang tiến hành đổi mới một cách toàn diện các mặt của đời sống hội,
trong đó đổi mới kinh tế trung tâm. Đổi mới từ nền kinh tế tập trung quan liêu
sang nền kinh tế thị trường có sự quản của Nhà nước là một vấn đề hết sức mới mẻ
chưa lời giải đáp sẵn. chúng ta cũng không bao giờ thể một lời giải sẵn
sau đó mới đi vào tiến hành đổi mới. Quá trình đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế nói
riêng và việc nhận thức quá trình đổi mới đó không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn
nhau cùng phát triển.
Vậy trong nhận thức hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ thực tế khách
quan, phải lấy hiện thực khách quan làm sở cho hoạt động của mình. Gắn luận
vào thực tiễn để hoạt động trở nên khoa học, có cơ sở vững chắc. Tinh thần ấy chính là
vấn đề cần nghiên cứu trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI.
e. Thống nhất giữa luận và thực tiễn một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác- Lênin
Thực tiễn không có lý luận hướng đẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà
không liên hệ với thực tiễn luận suông. Vì vậy cho nên trong khi nhấn mạnh sự
quan trọng của luận, đã nhiều lần Lênin nhắc đi nhắc lại rằng luận cách mạng
không phải giáo điều, kim chỉ nang cho nh động cách mạng, luận
16
không phải một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo. Lý luận luôn luôn cần được
bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động. Những người
cộng sản các nước phải cụ thể hoá chủ nghĩa Mác-Lênin cho thích hợp với điều kiện,
hoàn cảnh từng lúc và từng nơi.
*Con đường biện chứng của sự nhận thức:
Nhận thức của con người diễn ra trên cơ sở thực tiễn và không ngừng vận động,
phát triển. Sự vận động và phát triển của nhận thức diễn ra một cách biện chứng:
- “Từ trực quan sinh động đến duy trìu tượng từ duy trìu tượng đến
thực tiễn đó con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức
thực tại khách quan”.
+ Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) giai đoạn đầu của quá trình
nhận thức, được hình thành trong quá trình thực tiễn.Giai đoạn này được hình thành
thông qua các hình thức cơ bản nối tiếp nhau: cảm giác, tri giác, biểu tượng...
+ duy trì tượng (hay nhận thức tính) giai đoạn cao của quá trình nhận
thức dựa trên cơ sở những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh động mang lại.
- Nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư duy trìu tượng chưa phải
là chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn. Nhận thức phải trở về với
thực tiễn vì:
+ Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó phải trở về
chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
+ Đến giai đoạn duy trìu tượng vẫn khả năng phản ánh sai lạc hiện thực.
vậy, nhận thức phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra kết quả nhận thức, phân biệt
đâu là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai lầm.
+ Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển. vậy nhận thức phải trở về với
thực tiễn để trên cơ sở thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức.
- Từ trực quan sinh động dến tư duy trìu tượng, và từ tư duy trìu tượng đến thực
tiễn là một vòng khâu của quá trình nhận thức. Nó cứ lặp đi lặp lại làm cho nhận thức
của con người phát triển không ngừng, ngày càng phản ánh sâu sắc bản chất, quy luật
của thế giới khách quan.
3.3. Thực trạng ở nước ta hiện nay
Từ khi đổi mới đến nay, dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tưởng Hồ Chí Minh tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước,Đảng ta không ngừng
phát triển luận, nhất luận về chủ nghĩa hội, con đường đi lên chủ nghĩa
hội và bước đầu đã đạt được những thành tựu nhất định.
Về mô hình chủ nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh (1991), đã đề cập sáu đặc trưng
của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng: Do nhân dân lao động làm chủ;
17
có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, điều kiện phát triển toàn diện
cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ;
có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Tại Đại hội X, hình hội chủ nghĩa tiếp tục được Đảng ta bổ sung, phát
triển với tám đặc trưng: “ Xã hội xã hội chủ nghĩa nhân dân ta xây dựngmột
hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; nền
kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; Nhà nước phát quyền
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.
Trên sở kế thừa, phát triển tưởng Đại hội X, quan niệm về hội hội
chủ nghĩa trong Cương lĩnh (Bổ sung, phát triểm năm 2011) thông qua tại Đại hội XI
của Đảng đã được hoàn thiện hơn một bước:
hội hội chủ nghĩa nhân dân ta xây dựng một hội: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp;
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, điều kiện phát triển toàn diện, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước Pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Như vậy, có thể nói rằng trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới, lý luận của Đảng
ta về hình hội hội chủ nghĩa ngày càng nét hơn, cụ thể hơn. Cùng với sự
phát triển của công cuộc đổi mới, Đảng đã những nhận thức ngày càng sâu sắc về
chủ nghĩa hội phù hợp hơn với thực tiễn cuộc sống, kịp thời bổ sung hoàn chỉnh
dần quan điểm, đường lối về chủ nghĩa xã hội.
- , Cương lĩnh (1991) đề ra bảyVề phương hướng xây dựng chủ nghĩa hội
phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội:
+ Xây dựng Nhà nước hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, nhân
dân, lấy liên minh công nhân- nông dân- trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh
18
đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương hội,
chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
+ Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại
gắn liền một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm.
+ Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ
sản xuất hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa làm
cho thế giới quan Mác-Lênin tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh giữ được
vị trí chủ đạo trong đờ sống tinh thần hội; kế thừa phát huy những truyền thống
văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa nhân loại,
xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người.
+ Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân
tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu sự nghiệp dân giàu nước mạnh.
Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác hữu nghị tất cả các nước trung
thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước hội chủ
nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh hòa bình dộc lập dân tộc, dân chủ tiến
bộ xã hội trên thế giới.
+ Xây dựng chủ nghĩahộibảo vệ tổ quốc hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam.
+ Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tưởng tổ chức
ngang tầm nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trên sở tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước, đồng thời kế thừa Cương
lĩnh đại hội VII, trong Cương lĩnh (bổ sung phát triển năm 2011), Đảng ta đưa ra tám
phương hướng lớn:
+ Đẩy mạnh công nghiệp công nghiệp hóa, hiện dại hóa đất nước gắn với phát
triển kinh tế trí thức, bảo vệ tài nguyên môi trường.
+ Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người,
nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
+ Bảo đảm vững chăc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
+ Thực hiện đường lối đối ngoại, độc lập. tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
+ Xây dựng nền dân chủ hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
19
| 1/29

Preview text:

VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI VIỆT NAM HIỆN NAY MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................................... 3
2. Mục đích và nhiện vụ nghiên cứu...........................................................................4
3. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu..............................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................... 5
5. Kết cấu.................................................................................................................... 5
NỘI DUNG................................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: PHẠM TRÙ LÝ LUẬN VÀ PHẠM TRÙ THỰC TIỄN....................6
1.1. Phạm trù lý luận................................................................................................... 6
1.2. Phạm trù thực tiễn................................................................................................ 8
CHƯƠNG 2: NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
..................................................................................................................................... 10
2.1. Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận.................................................10
2.2. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn...................................................................12
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI VIỆT NAM HIỆN NAY...........................14
2.1. Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức.....................................................14
2.2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn................................................................16
3.3. Thực trạng ở nước ta hiện nay...........................................................................18
3.4. Một số quan điểm cần quán triệt trong phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay....................................................................................................... 23
KẾT LUẬN................................................................................................................. 27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................29
1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc tấn công, chống phá ta của các thế lực phản động trong và ngoài
nước, chúng thường tập trung vào lĩnh vực tư tưởng, lý luận, bởi đây là lĩnh vực nhạy
cảm, có tác động lâu dài và khó lường. Với âm mưu xảo quyệt, các thế lực phản động
liên tục và ráo riết tiến hành các hoạt động chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận,
âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình"; thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ Đảng ta để đi đến tan rã, như sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây.
Trước tình hình đó, Đảng ta chủ trương: “Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo
dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Đấu tranh, ngăn chặn,
đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tăng cường đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn
chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút
sự quan tâm của nhiều đối tượng.
Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất
cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn,
phương pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động
thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập trường triết học
đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết phù hợp với các vấn dề do
cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đó
sẽ không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý giải
nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định
chỉ đạo cho hoạt động.
Ngay từ buổi đầu của lịch sử, con người phải lao động sản xuất tạo ra của cải
vật chất để tồn tại. Qua lao động mà kinh nghiệm được tích lũy phong phó, đó là cơ sở
cho việc khái quát lí luận. Phân công lao động phát triển, xã hội phân chia thành giai
cấp đối kháng, giai cấp thống trị có điều kiện vật chất để tách khái lao động chân tay
để chuyên nghiên cứu lí luận. Đó là cơ sở xã hội cho việc tách rời giữa thực tiễn với lí
luận đi đến đối lập chúng với nhau. Triết học Mác-Lênin đã thực hiện sự thống nhất
trở lại lí luận với thực tiễn. Sự thống nhất này thực hiện trên cơ sở phát triển cao cả
của thực tiễn và lí luận. 2
Quan điểm của triết học Mác về sự thống nhất giữa lí luận và thực tiễn không
chỉ ở chỗ vạch rõ vai trò quyết định của thực tiễn đối với lí luận, coi thực tiễn là cơ sở,
là tiêu chuẩn, là mục đích quan trọng của lí luận với thực tiễn.
Cội nguồn của những đột phá tạo ra những bước tiến vượt bậc của xã hội loài
người có sự đóng góp của lý luận đích thực. Lý luận có nguồn gốc cơ sở động lực từ
thực tiễn, chính thực tiễn đặt ra vô vàn những vấn đề mà lý luận phải giải đáp và chỉ
trên cơ sở đó lý luận mới thực sự giữ vai trò dẫn đường, lý luận phải đi trước một bước.
Trên cơ sở nền tảng triết học Mác-Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và
tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng
đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có
những khiếm khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải
tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước
trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa
xã hội và qua mười năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt
động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan trong
vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn đề còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là
trong quá trình đổi mới hiện nay.
Nghiên cứu vấn đề này là việc hết sức thiết thực và quan trọng đối với việc
nghiên cứu lý luận Mác-Lênin nói chung và đối với công cuộc xây dựng đất nước xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói riêng. Vì vậy, em quyết định chọn đề tài “Vận dụng
nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay”. 2.

Mục đích và nhiện vụ nghiên cứu
Nêu rõ nội dung cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Vận dụng vào sự nghiệp đổi mới của Việt Nam hiện nay. 3.
Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Với đề tài: “Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn vào sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam”. Đây là một đề tài khá rộng đã có nhiều sách, báo, tạp
chí…viết về vấn đề này.
Do thời gian có hạn cùng với việc nghiên cứu chỉ dừng lại ở hình thức tiểu luận
nên em sẽ lấy khách thể nghiên cứu là hoạt động sáng tạo, là lý luận của nhận thức
Mácxít nói riêng, chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung. 3 4.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp nghiên cứu Duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, đặc biệt coi trọng và sử dụng chủ yếu phương pháp logic lịch
sử, phân tích, tổng hợp, so sánh. 5. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
đề tài nghiên cứu gồm có 3 chương, 8 tiết. Cụ thể:
Chương 1: Phạm trù lý luận và phạm trù thực tiễn.
Chương 2: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Chương 3: Vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay. 4 NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: PHẠM TRÙ LÝ LUẬN VÀ PHẠM TRÙ THỰC TIỄN 1.1. Phạm trù lý luận 1.1.1. Khái niệm lý luận
Hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức là hai hoạt động đặc trưng của con
người, giữa chúng có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau, không tách rời
nhau. Trong quá trình tác động vào thế giới, cải tạo thế giới, hoạt động nhận thức của
con người cũng bắt đầu hình thành.
Nhận thức, theo quan điêm của triết học máccxit là quá trình con người rìm
hiểu, phản ánh thế giới khách quan, nhưng đó không phải là sự phản ánh giản đơn, thụ
động mà là quá trình phản ánh biện chứng. tích cực và sáng tạo trên cơ sở thực tiễn.
Đó là sự phản ánh có chọn lọc, chủ động có mục đích để nắm bắt bản chất của hiện
thực chứ không phải là sự sao chép nguyên xi. Qua quá trình nhận thức biện chứng,
còn hiểu biết riêng lẻ từng mặt, bề ngoài của đối tượng những hiểu biết kinh nghiệm,
thông qua các thao tác của tư duy như phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng
hóa… lý luận được nảy sinh, hình thành và phát triển.
1.1.2. Đặc trưng lý luận
Nhận thức là một quá trình biện chứng diễn ra rất phức tạp bao gồm nhiều giai
đoạn, trình độ, vòng khâu và hình thức khác nhau.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính:
Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn đầu tiên
của quá trình nhận thức. Nó được thể hiện ở ba hình thức cơ bản là cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác là hình thức đầu tiên đơn giản nhất của nhận thức cảm tính, phản ánh
những thuộc tính riêng lẻ của sự vật và hiện tượng. Bản chất của cảm giác là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan.
Tri giác là tổng hợp những thuôc tính riêng lẻ của sự vật trong mối quan hệ hữu
cơ với nhay. Cũng như cảm giác, tri giác mang tính trực tiếp.
Biểu tượng là hính thức đi sâu vào bản chất của sự vật, biết được bản chất của
chúng thông qua một tập hợp những thuộc tính. Đã bắ đầu mang tính khái quát và gián
tiếp. Biểu tượng có vai trò là khâu trung gian giữa trực quan sinh động và tư duy trừu tượng.
Nhận thức lý tính là giai đoạn cao của quá trình nhận thức dựa trên cơ sở
những tài liệu trực quan sinh động đem lại. Tư duy trừu tượng cũng phản ánh hiện
thực, nhưng sự phản ánh gián tiếp và khái quát, và do vậy sâu sắc hơn, chính xác hơn
và đầy đủ hơn với các hình thức cơ bản nha: Khái niệm, phán đoán và suy lý. 5
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận – Những trình độ khác nhau
của nhận thức khoa học:
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận không đồng nhất với nhận thức
cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận đều là sự
tổng hợp của hai yếu tố cảm tính và lý tính.
Kinh nghiệm là những tri thực được chủ thể thu nhận trực tiếp trong quá trình
hoạt động thực tiễn, là cơ sở để tổng kết, khái quát thành lý luận, là căn cứ để sửa đổi,
phát triển hệ thống lý luận cũ.
Nhận thức lý luận phản ánh hiện thực trong bản chất của sự vật hiện tượng,
trong những môi liên hệ mang tính quy luật. Nhiệm vụ của nhận thức lý luận là nhận
thức ở trình độ cao hơn, chỉ ra những phương hướng mới cho sự phát triển của hoạt
động thực tiễn. Chỉ có những tri thức lý luận mới làm cho hoạt động của con người trở
nên chủ động hơn, tránh được tính trạng mò mâm, tự phát.
Như vậy, về bản chất, lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực
tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế giới khách
quan, lý luận được hình thành không phải nằm ngoài thực tiễn mà trong mối liên hệ với thực tiễn.
Do quá trình hình thành và bản chất của nó, lý luận có hai chức năng cơ bản là
chức năng phản ánh hiện thực khách quan và chúc năng phương pháp luận cho hoạt
động thực tiễn. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan bằng những quy luật chung
nhất. Tri thức kinh nghiệm cũng như tri thức lý luận đều phản ánh hiện thực khách
quan nhưng ở những phạm vi lĩnh vực và trình độ khác nhau. Lý luận phản ánh hiện
thực khách quan để làm phương pháp luận nhận thức và cải tạo hiện thực khách quan
bằng hoạt động thực tiễn.
Tóm lại, lý luận là một công cụ tư tưởng sắc bén có vai trò rất to lớn đối với
hoạt động thực tiễn cũng như đối với sự định hướng về nhận thức. Lý luận giúp cho
con người thấy được những ưu điểm và hạn chế trong việc biến đổi những quá trình
đối tượng hoá khách thể. Tự nhiên luôn cần đến những bàn tay con người, và cũng
chính tự nhiên quyết định cho con người những trình tự tất yếu để trong quá trình tồn
tại, con người tự bổ sung, hoàn thiện cách thức cải tạo tự nhiên. Lý luận luôn đóng vai
trò quan trọng trong việc tạo ra sự liên kết gắn bó giữa chủ thể tự nhiên và chủ thể
nhận thức. Lý luận cũng có quá trình hình thành và phát triển của nó, không phải lý
luận có khi con người xuất hiện, mà con người phải phát triển đến một giai đoạn nhất
định nào đó lý luận mới được xuất hiện. Lý luận không phải sinh ra vốn đã hoàn thiện
mà nó được bổ sung và hoàn thiện dần dần theo tiến trình phát triển của lịch sử xã hội. 6
Hay nói cách khác, lý luận mang tính lịch sử xã hội, có những lý luận đúng ở quá khứ
nhưng ở hiện tại và tương lai nó không còn phù hợp nữa. 1.2.
Phạm trù thực tiễn
1.2.1. Khái niệm về thực tiễn
Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học
Mác– Lênin nói chung và của lý luận nhận thức Macxit nói riêng. Trong lịch sử triết
học không phải mọi trào lưu đều đưa ra quan niệm đúng đắn về phạm trù này. Các nhà
triết học duy vật trước Mác không thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn đối với
nhận thức, lý luận nên quan điểm của họ mang tính chất trực quan. Các nhà triết học
duy tâm lại tuyệt đối hóa yếu tố tinh thần, tư tưởng của thực tiễn, họ hiểu họat động
thực tiễn như là hoạt động tinh thần, hoạt động của “ý niệm”, tư tưởng, tồn tại đâu đó
ngoài con người, nói cách khác, họ gạt bỏ vai trò thực tiễn trong đời sống xã hội.
Khái niệm thực tiễn trong triết học Mác- Lênin: “Thực tiễn là toàn bộ những
hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải
biến tự nhiên và xã hội”.
1.2.2. Đặc trưng của thực tiễn
Thứ nhất, theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, thực tiễn là hoạt động gắn
liền với con người, nhưng không phải là toàn bộ hoạt động của con người mà chỉ là
những hoạt động của vật chất – cảm tính, những hoạt động vật chất cảm giác được. Đó
là hoạt động của con người, sử dụng những công cụ vật chất, tác động vào những đối
tượng vật chất làm biến đổi chúng theo những mục đích nhất định.
Thứ hai, thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử – xã hội của con người.
Hoạt động thực tiễn phải thông qua từng cá nhân, từng nhóm người, nhưng các cá
nhân phải có quan hệ với nhau và không thể tách tời các quan hệ xã hội. Nghĩa là, thực
tiễn chỉ diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông đảo những con người trong xã
hội. Đồng thởi, thực tiễn cũng trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển cụ thể, chịu sự
chi phối của ngững điều kiện lịch sử, cả về đối tượng, phương tiện, cũng như mục đích
hoạt động của con người.
Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích, tính hiện thực trực tiếp. Thực
tiễn phải hướng đến cải tạo thế giới, cải tạo tự nhiên và xã hội nhằm phục vụ con
người, chứ không chỉ là hoạt động bản năng, bằng lòng với những cái có sẵn trong tự
nhiên. Nói tới thực tiễn là nói tới hoạt động có tính tự giác cao của con người, khác với
hoạt động bản năng, thích nghi một cách thụ độngcủa con vật với thế giới xung quanh.
1.2.3. Các hình thức cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn có ba hình thức cơ bản là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động
chính trị – xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. 7
Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động khởi nguyên, đầu tiên, cơ
bản nhất của hoạt động thực tiễn. Đó là hoạt động mà con người trực tiếp tác động vào
đối tượng vật chất, vào thế giới khách quan, nhằm tạo ra của cải vật chất. Không có
sản xuất vật chất con người và xã hội loài người không thể tồn tại, phát triển. Không
những thế, sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự nảy sinh, tồn tại và phát triển của các
hình thức thực tiễn khác, cũng như tất cả các hoạt động khác của con người. Có thể
nói, các hoạt động khác của con người, suy cho cùng đều xuất phát từ hoạt động sản xuất vật chất.
Hoạt động chính trị – xã hội là hoạt động của các tổ chúc, các cộng đồng người
khác nhau trong xã hội, thể hiện tính tự giác cao của con người nhằm biến đổi, cải tạo
xã hội, phát triển các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội, v.v. tạo ra môi trường xã hội
thuận lợi, phù hợp với nhu cầu, lợi ích của chủ thể.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn,
được tiến hành trong những điều kiện không có sẵn trong tự nhiên, mà do con người
tạo ra gần giống hoặc lặp lại những trạng thái trong tự nhiên, nhằm tìm hiểu các quy
luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu theo mục đích dã đề ra. Trong giai
đoạn hiện nay, khoa học đóng một vai trò hết sức to lớn đối với quá trình phát triển của
xã hội thì hình thức thực tiễn này ngày càng có vị trí quan trọng trong hoạt động của con người.
Ba hình thức cơ bản của thực tiễn nêu trên, có quan hệ chặt chẽ, tác động, ảnh
hưởng qua lại lẫn nhau. Trong đó, hoạt động sản xuất vật chất đóng vai trò quan trọng,
quyết định hoạt động chính trị – xã hội và thực nghiệm khoa học. Ngược lại, hoạt động
chính trị – xã hội và thực nghiệm khoa học tác động trở lại hoạt động sản xuất vật chất.
Chính trị – xã hội ổn định tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, thực nghiệm khoa học
phát triển thì năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất sẽ được nâng cao.
Ngoài ba hình thức cơ bản trên, hoạt động thực tiễn còn có những hình thức
không cơ bản được thể hiện ở một số lĩnh vực khác nhau như giáo dục, y tế, nghệ thuật, thể thao,v.v.. 8
CHƯƠNG 2: NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 2.1.
Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận
Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở của lý luận
Điều đó có nghĩa, thực tiễn là nền tảng, là điểm xuất phát của lý luận. Chính
trên nền tảng của hoạt động thực tiễn con người mới có nhu cầu tìm hiểu, khám phá
thế giới, hoạt động nhận thức, lý luận mới nảy sinh. Thông qua hoạt động thực tiễn,
con người tác động vào sự vật làm cho chúng bộc lộ những thuộc tính, tính chất, quy
luật… Trên cơ sở đó, con người mới có hiểu biết về sự vật và khái quát những hiểu
biết ấy dể hình thành, phát triển lý luận. Như vậy, chính nhờ có hoạt động thực tiễn, lý
luận mới ra đời, phát triển. Ph.Ăngghen đã từng nhấn mạnh: “…chính việc người ta
biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách tự nhiên,
là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người đã phát triển song song
với việc người ta đã học cái biến tự nhiên”.
Có thể nói, mọi hiểu biết của con người dù trực tiếp hay gián tiếp, đối với người
này hay người khác, thế hệ này hay thế hệ khác, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận,…
suy cho cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Nếu không có hoạt động thực tiễn, con người
không thể có được lý luận khoa học, cách mạng.
Thứ hai, thực tiễn là động lực của lý luận
Thực tiễn luôn vận động, biến đổi và luôn đặt ra những nhu cầu, nhiệm vụ,
phương hướng mới cho lý luận, đòi hỏi lý luận phải giải quyết. Vì thế, nó luôn bắt con
ngưởi phải đi sâu nghiên cứu, mở rộng sự hiểu bết hiện có, đánh giá kiểm tra lại kiến
thức cũ, cách tiếp cận cũ, thậm chí phải thay thế những tri thức cũ, lạc hậu bằng những
tri thức mới. Trên cơ sở đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức, lý luận phát triển. Đúng như
Ph.Ăngghen đã nói, khi xã hội có nhu cầu về kỹ thuật thì nó thúc đẩy khoa học phát
triển hơn mười trường Đại học.
Thực tiễn còn là cơ sở góp phần rèn luyện các giác quan và tư duy của con
người, làm cho chúng ta phát triển tinh tế hơn, hoàn thiện hơn, năng lực tư duy logic
không ngừng được củng cố và phát triển. Trên cơ sở đó, giúp con người nhận thức đối
tượng ngày cảng chính xác hơn, sâu sắc hơn, khái quát lý luận đúng đắn hơn.
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người còn chế tạo ra các công cụ, phương
tiện, máy móc hiện đại, như kính hiển vi, kính thiên văn, tàu vũ trụ… góp phần hỗ trợ
con người “nối dài” các giác quan trong quá trình khám phá chinh phục thế giới.
Thứ ba, thực tiễn là mục đích của lý luận
Thực tiễn là đích cuối cùng lý luận phải hướng tới, phải giải quyết. Chính nhu
cầu sống, nhu cầu sản xuất vật chất, cải tạo tự nhiên, xã hội buộc con người phải tìm
hiểu, khám phá, nhận thức thế giới xung quanh. Nghĩa là , nhận thức con người ngay 9
từ đầu đã bị quy định bởi nhu cẩu thực tiễn; ngược lại kết quả của nhận thức, của lý
luận sẽ phục vụ cho chính thực tiễn phát triễn. Lý luận không đáp ứng được mục đích
thực tiễn đặt ra, lý luận đó sẽ không có giá trị. Những tri thức – kết quả của nhận thức,
những lý luận – kết quả của khái quát hóa kinh nghiệm thực tiễn chỉ có giá trị, có ý
nghĩa đích thực khi được vận dụng vào thực tiễn, phục vụ thực tiển; cụ thể là vận dụng
vào hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị – xã hội và hoạt động thực nghiệm
khoa học phục vụ con người. Lý luận có mục đích tự thân, nó chỉ có giá trị khi thâm
nhập vào thực tiễn, được vật chất hóa, biến tri thức khoa học thành phương tiện ttrong
việc biến đổi hiện thực.
Thứ tứ, thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra của lý luận
Thông qua thực tiễn kiểm nghiệm, con người sẽ xác nhận được tri thức là đúng
hay sai, chân lý hay sai lầm. Chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để
khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Mọi sự biến đổi của sự nhận thức hay lý luận suy
cho cùng không thể vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực tiễn. Con người có được những
hiểu biết về thế giới thông qua hoạt động thực tiễn. Do vậy, chính thực tiễn là tiêu
chuẩn, là thước đo giá trị của những tri thức mà con người đã đạt được trong nhận
thức. Đồng thời, nó bổ sung, điều chỉnh, phát triển những tri thức lý luận đã có, làm
cbo lý luận ngày càng đầy đủ hơn và sau sâu sắc hơn. C. Mác, trong luận cương về
Phoiobac đã khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới
chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn
đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý, nghĩa là
chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình. Sự tranh
trãi về tính hiện thực hay tính không hiện thực của tư duy tách rời thực tiễn, là một vấn
đề kinh viện thuần túy”.
Tiêu chuẩn thực tiễn vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối.
Tính tuyệt đối của tiêu chuẩn thực tiễn thể hiện ở chỗ, nó là tiêu chuẩn khách
quan duy nhất có thể kiểm tra tính đúng, sai của lý luận, khẳng định chân lý, bác bỏ sai
lầm. Tất cả những tri thức chứ được thực tiễn kiểm tra, xác nhận đều không có cơ sở
khẳng định tính đúng đắn của nó.
Tính tương đối của tiêu chuẩn thực hiện ở chỗ, nó luôn vận động, biến đổi, phát
triển, do đó, với tư cách là tiêu chuẩn chân lý nó không cho phép người ta xem bất kỳ
một tri thức nào là bất di bất dịch, không thay đổi. Vì vậy, khi thực tiễn thay đổi thì
nhận thức, lý luận cũng phải thay đổi theo cho phù hợp với thực tiễn mới. Không có
chân lý vĩnh viễn, bất di bất dịch; mọi tri thức dù là đúng vẫn phải tiếp tục kiểm tra, để
kịp thời bổ sung, phát triển. Mặt khác, thực tiễn ở mỗi lĩnh vực nhất định chỉ đủ sức
kiểm tra những tri thức nảy sinh trong phạm vi lĩnh vực đó. 10
Như vậy, thực tiễn không những là điểm xuất phát, là yếu tố đóng vai trò quyết
định đối với sự hình thành và phát triển của lý luận, mà còn là nơi lý luận phải luôn
hướng tới để kiểm nghiệm tính đúng đắn của mình. 2.2.
Vai trò của lý luận đối với thực tiễn
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: “thực tiễn không có lý luận hướng dẫn
thì thành thực tiễn mù quáng”. Điều này có nghĩa rằng, lý luận mặc dù do thực tiễn
quyết định, nhưng bản thân quyết định, nhưng bản thân lý luận khi đã hình thành thì
lại có một vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn. Vai trò của lý luận khoa học được thể
hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, lý luận đóng vai trò là “kim chỉ nam” cho hoạt động thực tiễn.
Lý luận khoa học định hướng, chỉ đạo, soi sáng cho thực tiễn, vạch ra phương
hướng, phương pháp cho hoạt động thực tiễn nhằm biến đổi hiện thực khách quan theo
yêu cầu, mục đích phát triển của con người và xã hội. Nếu thực tiễn không được chỉ
đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận khoa học thì thực tiễn đó sẽ mất phương hướng, “
lúng túng như nhắm mắt mà đi”, rơi vào mò mẫm, vòng vo, có khi lại quay trở lại xuất
phát điểm ban đầu, không hiệu quả, gây tốn kém, lãng phí thời gián, công sức.
Thứ hai, lý luận thúc đẩy phong trào cách mạng nảy sinh, hình thành và phát triển.
Không có lý luận cách mạng không thể có phong trào cách mạng. Lý luận khoa
học, cách mạng góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập quần chúng để tạo nên
những phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông đảo quần chúng. Nhờ có lý
luận khoa học, phong trào cách mạng của quần chúng không còn mang tính tự phát, trở
thành hoạt động, chủ động, tự giác, tích cực. C.Mác nhấn mạnh:… “lý luận cũng sẽ
thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”.
Thứ ba, lý luận góp phần dự báo tương lai.
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng luôn chứa đựng những tiền đề, mầm mống
và khả năng phát triển trong tương lai của chúng. Lý luận nếu phản ánh đúng bản chất,
nắm được quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Như vậy,dự báo tương
lai là kết quả của thao tác tư duy, như phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử…tức là
quá trình nhận thức, phản ánh, phán đoán về sự vận động, biến đổi, phát triển của sự
vật, hiện tượng. Dự báo tương lai là một trong những nguyên nhân có ý nghĩa quyết
định đến hiệu quả hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Khi con người
ngày càng đi sâu khám phá giới tự nhiên vô cùng vô tận bằng những phương tiện khoa
học hiện đại thì càng cần có những dự báo. Chính vì vậy, chức năng dự báo là một
chức năng rất quan trọng của lý luận. 11
Như vậy, lý luận và thực tiễn không tách rời nhau, giũa chúng có sự liên hệ,
xâm nhập, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Vì thế, trong hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn. Đây là nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Quán triệt nguyên tắc
này có ý nghĩa rất quan trọng đối với công cuộc đổi mới ờ nước ta hiện nay. 12
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI VIỆT NAM HIỆN NAY
Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích, là tiêu chuẩn của nhận thức. 2.1.
Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức
Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan, bắt các
sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính và quy luật
của chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy sinh các vấn đề đòi hỏi
con người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình thành. Như vậy, qua hoạt động
thực tiễn mà con người tự hoàn thiện và phát triển thế giới quan (tạo điều kiện cho nhận thức cao hơn).
Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển hơn, các
giác quan ngày càng hoàn thiện hơn.
Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức.
Chính hoạt động thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo ra các
phương tiện hiện đại giúp con người đi sâu tìm hiểu tự nhiên.
Thứ nhất, Thực tiễn là động lực của nhận thức
Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi bước
phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận thức, thúc đẩy
nhận thức tiếp tục phát triển. Như vậy thực tiễn trang bị những phương tiện mới, đặt ra
những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà soát sự nhận thức. Thực tiễn lắp đi lắp lại nhiều
lần, các tài liệu thu thập được phong phú, nhiều vẻ, con người mới phân biệt được đâu
là mối quan hệ ngẫu nhiên bề ngoài, đâu là mối liên hệ bản chất, những quy luật vận
động và phát triển của sự vật.
Thứ hai, Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào thực tiễn.
Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các tri thức mà là nhằm cải
tạo hiện thức khách quan, đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần xã hội. Sự hình
thành và phát triển của nhận thức là bắt nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu của thực tiễn.
Nhận thức chỉ trở về hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉ đạo hoạt động
thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Chỉ có thông qua hoạt động
thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức mạnh của mình, sự hiểu biết của
con người mới có ý nghĩa.
Thứ ba, Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó
phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại. 13
Thứ tư, Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý a. Chân lý
Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan được thực tiễn khẳng
định (nội dung khách quan, có ý nghĩa giá trị đối với đời sống con người).
Chân lý mang tính khách quan, nó không phụ thuộc vào số đông (ví dụ: chân lý tôn giáo).
Chân lý mang tính hai mặt (tuyệt đối và tương đối) vì tính hai mặt trong quá
trình nhận thức của nhân loại.
b. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để kiểm tra chân
lý không phải là ý thức tư tưởng, tư duy mà là thực tiễn. Bởi vì chỉ có thông qua hoạt
động thực tiễn, tri thức mới trở lại tác động vào thế giới vật chất, qua đó nó được ”hiện
thực hoá”, “vật chất hơn” thành các khách thể cảm tính. Từ đó mới có căn cứ để đánh
giá nhận thức của con người đúng hay sai, có đạt tới chân lý hay không.
Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con người cũng
được kiểm tra thông qua rất nhiều hình thức khác nhau.
- Thực tiễn của xã hội luôn luôn vận động và phát triển.
- Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có giới hạn. Nó không thể chứng
minh hay bác bỏ hoàn toàn một tri thức nào đó của con người mà nó được thực
tiễn tiếp theo chứng minh, bổ sung thêm.
Như vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và như vậy mới
có khả năng kiểm tra một cách chính xác sự phát triển biện chứng của nhận thức. c. Ý nghĩa:
Thực tiễn lớn nhất ở nước ta hiện nay là thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị
trường mới, nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc và chế độ xã hội mới: công bằng, bình đẳng, tién bộ.
Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách hay các giải pháp kinh tế cụ thể
muốn biết đúng hay sai đều phải thông qua vận dụng chúng trong sản xuất, kinh doanh
cũng như quản lý các quá trình đó. Đường lối chính sách cũng như các giải pháp kinh
tế chỉ đúng khi chúng mang lại hiệu quả kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao
năng suất lao động, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau những bước tiến và những thành tựu
to lớn mang lại ý nghĩa lịch sử, giờ đây lại đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Những
hoạt động nghiên cứu lý luận chính là nhằm tìm ra lời giải đáp cho những vấn đề của
giai đoạn cách mạng hiện nay. Công cuộc đổi mới ở nước ta vừa là mục tiêu, vừa là
động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động nhận thức nói chung và công tác lý luận nói 14
riêng, nhất định sẽ đem lại cho chúng ta những hiểu biết mới, phong phú hơn và cụ thể
hơn về mô hình chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 2.2.
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn 2.2.1. Lý luận
a. Khái niệm: Là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn. Nó
phản ánh những quy luật, của từng lĩnh vực trong hiện thực khách quan.
b. Đặc điểm: Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sở đáp ứng nhu cầu
của xã hội nên bất kỳ một lý luận nào cũng mang tính mục đích và ứng dụng.
Nó mang tính hệ thống cao, tổ chức có khoa học.
2.2.2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Được thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn. GIữa lý luận và
thực tiễn thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ chỗ: chúng
đều là hoạt động của con người, đều nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội
để thoả mãn nhu cầu của con người.
a. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn
Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của thực tiễn. Thực
tiễn là hoạt động cơ bản nhất của con người, quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội.
Lý luận không có mục đích tự nó mà mục đích cuối cùng là phục vụ thực tiễn. Sức
sống của lý luận chính là luôn luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ cho yêu cầu của thực tiến.
b. Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn
Ví dụ: lý luận Mác - Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp vô sản.
Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào nó được hướng
dẫn bởi lý luận nào, có khoa học hay không? Sự phát triển của lý luận là do yêu cầu
của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn không tách rời lý luận, không thể thiếu sự
hướng dẫn của lý luận.
Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri thức đúng
đắn về các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan, từ đó mới có cơ sở
để định ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.
Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có thể là
thống nhất hoặc mâu thuẫn đối lập.
c. Lý luận và thực tiễn là thống nhất
Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần tiến bộ
và còn giữ sứ mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì chúng sẽ tăng
cường lẫn nhau và phát huy vai trò của nhau. Sự thống nhất đó là một trong những
nguyên lý căn bản của triết học Mác- Lênin. 15
d. Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn
Xảy ra khi giai cấp thống trị trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi mâu thuẫn
nảy sinh, chúng sẽ làm giảm ảnh hưởng của nhau. Điều đó dẫn đến mọi đường lối,
chính sách xã hội trở nên lạc hậu và phản động. *Ý nghĩa:
Cần phải tăng cường, phát huy vai trò của lý luận đối với xã hội, đặc biệt là lý
luận xã hội mà quan trọng là lý luận Mác - Lênin và các lý luận về kinh tế.
Trước chủ nghĩa Mác, trong lý luận nhận thức, phạm trù thực tiễn hầu như
không có chỗ đứng nào. Nhiều người còn hình dung thực tiễn với bộ mặt xấu xí của
con buôn (Phơ-Bách). Trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”,
sau khi phê phán E. Ma Khơ và một số ngươi khác đã ”cố gạt thực tiễn ra khỏi lý luận
nhận thức, coi thực tiễn như một cái gì không đáng nghiên cứu về mặt nhận thức luận,
đã ”đem cái tiêu chuẩn thực tiễn là cái giúp cho mỗi người phân biệt được ảo tưởng
với hiện thực đặt ra ngoài giới hạn của khoa học, của lý luận nhận thức... để dọn chỗ
cho chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri”.
V.I.Lênin đã khẳng định: quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm
thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức. (V.I.Lênin toàn tập)
Chính vì sự quan trọng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn nên đối với
nước ta trong giai đoạn này cần đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và hoạt động. Hiện
nay, nước ta đang tiến hành đổi mới một cách toàn diện các mặt của đời sống xã hội,
mà trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm. Đổi mới từ nền kinh tế tập trung quan liêu
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một vấn đề hết sức mới mẻ
chưa có lời giải đáp sẵn. Và chúng ta cũng không bao giờ có thể có một lời giải sẵn
sau đó mới đi vào tiến hành đổi mới. Quá trình đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế nói
riêng và việc nhận thức quá trình đổi mới đó không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau cùng phát triển.
Vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ thực tế khách
quan, phải lấy hiện thực khách quan làm cơ sở cho hoạt động của mình. Gắn lý luận
vào thực tiễn để hoạt động trở nên khoa học, có cơ sở vững chắc. Tinh thần ấy chính là
vấn đề cần nghiên cứu trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI.
e. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác- Lênin
Thực tiễn không có lý luận hướng đẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà
không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Vì vậy cho nên trong khi nhấn mạnh sự
quan trọng của lý luận, đã nhiều lần Lênin nhắc đi nhắc lại rằng lý luận cách mạng
không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nang cho hành động cách mạng, và lý luận 16
không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo. Lý luận luôn luôn cần được
bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động. Những người
cộng sản các nước phải cụ thể hoá chủ nghĩa Mác-Lênin cho thích hợp với điều kiện,
hoàn cảnh từng lúc và từng nơi.
*Con đường biện chứng của sự nhận thức:
Nhận thức của con người diễn ra trên cơ sở thực tiễn và không ngừng vận động,
phát triển. Sự vận động và phát triển của nhận thức diễn ra một cách biện chứng:
- “Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng và từ tư duy trìu tượng đến
thực tiễn – đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”.
+ Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá trình
nhận thức, được hình thành trong quá trình thực tiễn.Giai đoạn này được hình thành
thông qua các hình thức cơ bản nối tiếp nhau: cảm giác, tri giác, biểu tượng...
+ Tư duy trì tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận
thức dựa trên cơ sở những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh động mang lại.
- Nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư duy trìu tượng chưa phải
là chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn. Nhận thức phải trở về với thực tiễn vì:
+ Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó phải trở về
chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
+ Đến giai đoạn tư duy trìu tượng vẫn có khả năng phản ánh sai lạc hiện thực.
Vì vậy, nhận thức phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra kết quả nhận thức, phân biệt
đâu là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai lầm.
+ Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển. Vì vậy nhận thức phải trở về với
thực tiễn để trên cơ sở thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức.
- Từ trực quan sinh động dến tư duy trìu tượng, và từ tư duy trìu tượng đến thực
tiễn là một vòng khâu của quá trình nhận thức. Nó cứ lặp đi lặp lại làm cho nhận thức
của con người phát triển không ngừng, ngày càng phản ánh sâu sắc bản chất, quy luật
của thế giới khách quan. 3.3.
Thực trạng ở nước ta hiện nay
Từ khi đổi mới đến nay, dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước,Đảng ta không ngừng
phát triển lý luận, nhất là lý luận về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội và bước đầu đã đạt được những thành tựu nhất định.
Về mô hình chủ nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh (1991), đã đề cập sáu đặc trưng
của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng: Do nhân dân lao động làm chủ; 17
có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện
cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ;
có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Tại Đại hội X, mô hình xã hội chủ nghĩa tiếp tục được Đảng ta bổ sung, phát
triển với tám đặc trưng: “ Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã
hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước phát quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.
Trên cơ sở kế thừa, phát triển tư tưởng Đại hội X, quan niệm về xã hội xã hội
chủ nghĩa trong Cương lĩnh (Bổ sung, phát triểm năm 2011) thông qua tại Đại hội XI
của Đảng đã được hoàn thiện hơn một bước:
“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước Pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Như vậy, có thể nói rằng trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới, lý luận của Đảng
ta về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ngày càng rõ nét hơn, cụ thể hơn. Cùng với sự
phát triển của công cuộc đổi mới, Đảng đã có những nhận thức ngày càng sâu sắc về
chủ nghĩa xã hội phù hợp hơn với thực tiễn cuộc sống, kịp thời bổ sung và hoàn chỉnh
dần quan điểm, đường lối về chủ nghĩa xã hội.
- Về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh (1991) đề ra bảy
phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội:
+ Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, lấy liên minh công nhân- nông dân- trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh 18
đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội,
chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
+ Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại
gắn liền một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm.
+ Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm
cho thế giới quan Mác-Lênin và tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh giữ được
vị trí chủ đạo trong đờ sống tinh thần xã hội; kế thừa và phát huy những truyền thống
văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa nhân loại,
xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người.
+ Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân
tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh.
Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị tất cả các nước trung
thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ
nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hòa bình dộc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội trên thế giới.
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.
+ Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức
ngang tầm nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước, đồng thời kế thừa Cương
lĩnh đại hội VII, trong Cương lĩnh (bổ sung phát triển năm 2011), Đảng ta đưa ra tám phương hướng lớn:
+ Đẩy mạnh công nghiệp công nghiệp hóa, hiện dại hóa đất nước gắn với phát
triển kinh tế trí thức, bảo vệ tài nguyên môi trường.
+ Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người,
nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
+ Bảo đảm vững chăc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
+ Thực hiện đường lối đối ngoại, độc lập. tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
+ Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. 19