Vận dụng phép biện chứng duy vật trong quá trình xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam | Tài iệu môn Chủ nghĩa xã hội khoa học
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã trải qua hơn ba mươi năm, đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, đã, đang và sẽ đem lại những thay đổi lớn lao cho đất nước và dân tộc. Kết quả quan trọng đó có phần quan trọng là Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng đúng đắn.. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (LLCT120405)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Vận dụng phép biện chứng duy vật trong quá trình xây dựng và thực hiện đường
lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo đã trải qua hơn ba mươi năm, đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, đã,
đang và sẽ đem lại những thay đổi lớn lao cho đất nước và dân tộc. Kết quả quan
trọng đó có phần quan trọng là Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng đúng đắn
các quy luật khách quan của triết học mác xít, trong đó có phép biện chứng duy vật
vào xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới. Ảnh minh họa: internet
Phép biện chứng duy vật là một học thuyết khoa học, là linh hồn của chủ nghĩa
Mác, là đỉnh cao của tư duy khoa học mà nhân loại đã đạt được thông qua bộ óc
thiên tài của C.Mác vào giữa thế kỷ XIX. Sau đó đã được Ph.Ăngghen bổ sung và
hoàn thiện vào cuối thế kỷ XIX và V.I.Lênin phát triển trong điều kiện cách mạng
mới vào đầu thế kỷ XX. Sau khi tiếp thu, nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy được hạt nhân của chủ nghĩa Mác - Lênin
chính là Phép biện chứng duy vật với nhận xét rất cô đọng: “chủ nghĩa Mác có ưu
điểm là phương pháp làm việc biện chứng”(1). Trên cơ sở nắm chắc nội dung cơ
bản của phép biện chứng duy vật và nhận thức rõ về vị trí, vai trò, tầm quan trọng
đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng một cách sáng tạo để
giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam; đồng thời, Người đặt ra yêu cầu
đối với những người cộng sản là phải hiểu biết chắc chắn về phép biện chứng duy
vật để vận dụng vào việc phân tích và giải quyết các vấn đề của thực tiễn cách
mạng. Có thể nói, với tài năng thiên bẩm của mình, trong tư duy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã có sẵn yếu tố duy vật biện chứng nên khi đến với lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin thì tự nhiên tư duy đó đã thấm nhuần phép biện chứng duy vật
một cách khoa học, như Người đã khái quát trong tác phẩm Thường thức chính trị
(1950): “Thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo
thực hành”. Người đã sử dụng vũ khí sắc bén đó để giải quyết mọi vấn đề khó
khăn, phức tạp trên con đường lãnh đạo cách mạng Việt Nam để giành lấy độc lập
dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội theo con đường mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra.
Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng, thế giới vật
chất tồn tại khách quan, các sự vật và hiện tượng luôn luôn vận động và biến đổi,
chuyển hóa lẫn nhau, cái cũ mất đi, cái mới ra đời. Do các sự vật và hiện tượng
trong thế giới luôn có sự vận động, biến đổi thường xuyên, nên tư duy con người
cũng phải luôn luôn đổi mới để theo kịp sự vận động, biến đổi đó, như
Ph.Ăngghen đã viết trong tác phẩm Chống Đuy rinh: “Phép biện chứng… là môn
khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên,
của xã hội loài người và của tư duy”, “là chìa khóa để giúp con người nhận thức và
chinh phục thế giới”. Cho nên khi xây dựng đường lối đổi mới, Đảng ta đã xác
định trước hết đổi mới tư duy cho cán bộ, đảng viên về cả phương pháp tư duy;
nhận thức lý luận; cơ chế, chính sách. Phép biện chứng duy vật chính là công cụ
hữu hiệu giúp Đảng ta giải quyết thấu đáo ba vấn đề lớn liên quan đến đường lối
đổi mới từ năm 1986 đến nay.
1. Cơ sở để Đảng ta đề ra đường lối đổi mới
1.1 Kinh nghiệm tiến hành đổi mới của Đảng Cộng sản Liên Xô
Tính chất chủ quan, nóng vội, vi phạm các quy luật khách quan trong quá trình
lãnh đạo đất nước (nhất là trên lĩnh vực kinh tế) là đặc điểm nổi bật trong quá trình
đổi mới của Đảng Cộng sản Liên Xô. Năm 1921, sau 4 năm thực hiện chính sách
“Cộng sản thời chiến” để huy động sức người, sức của phục vụ cho chiến tranh,
V.I.Lênin đã nhận ra những thiếu sót, khuyết điểm của Đảng Cộng sản Liên Xô là
tư tưởng tả khuynh, nóng vội khi cho rằng có thể tiến ngay lên chủ nghĩa cộng sản
nên ông đã kịp thời đưa ra chính sách kinh tế mới (NEP). Chính sách NEP của
Đảng Cộng sản Liên Xô thể hiện rõ quan điểm duy vật biện chứng trong giải quyết
những mâu thuẫn nội tại của nền kinh tế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Đó là, phải vận dụng đúng quy luật khách quan giữa quan hệ sản xuất với lực
lượng sản xuất, phải đổi mới phương thức quản lý kinh tế, cơ cấu lại các thành
phần và loại hình kinh tế trong các ngành nghề để phát triển sản xuất, đưa tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào phát triển kinh tế - xã hội… Sau 3 năm thực hiện NEP đã
giúp cho nền kinh tế Liên Xô phục hồi nhanh chóng và tạo đà phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên, sau khi V.I.Lênin qua đời (năm 1924) những người lãnh đạo trong Đảng
Cộng sản Liên Xô đã thay thế chính sách NEP bằng chủ trương xóa bỏ chế độ tư
hữu, đẩy mạnh phong trào tập thể hóa nông nghiệp và thực hiện quốc hữu hóa toàn
bộ các ngành công nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải…; tiến hành quản lý
kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, xóa bỏ kinh tế thị trường, thực hiện chế
độ bao cấp một cách bình quân… và họ coi đó là một sự vận dụng sáng tạo lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội trong điều kiện của nước Nga Xô
viết. Có thể thấy, cơ chế quản lý tập trung cao độ khi đó cũng đã phát huy được sức
mạnh của nhân dân bằng mệnh lệnh để phát triển kinh tế và tăng cường tiềm lực
quân sự, quốc phòng để Hồng quân Liên Xô đánh bại quân đội phát xít giành chiến
thắng trong Chiến tranh thế giới lần thứ II, làm cho uy tín của phe xã hội chủ nghĩa
lên cao kéo dài đến tận những năm 80 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, điều đó cũng
khiến các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô chủ quan, ngộ nhận rằng chủ
nghĩa xã hội đã hoàn toàn thắng lợi và đưa ra lý luận về chủ nghĩa xã hội phát
triển, đồng thời tuyên bố có thể đi lên chủ nghĩa cộng sản ở thời điểm đó. Cùng
thời điểm này, các nước tư bản chủ nghĩa đã biết tự điều chỉnh để thích nghi, tận
dụng triệt để những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển
mạnh mẽ, đưa nền kinh tế của họ vượt xa các nước xã hội chủ nghĩa.
Thực tế đó đã tác động mạnh mẽ đến đời sống của nhân dân Liên Xô, làm nảy sinh
tư tưởng cải cách, đổi mới trong một số nhà lãnh đạo cấp tiến bấy giờ và khi
M.X.Gorbachov lên làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô đã chính thức đề ra
công cuộc “cải tổ”. Nhưng thay vì thực hiện việc cải cách theo tinh thần của NEP
do V.I.Lênin đề ra trước kia, Đảng Cộng sản Liên Xô lại bị những người lãnh đạo
theo chủ nghĩa cơ hội, lợi dụng để “cải tổ” theo hướng phủ nhận chủ nghĩa Mác -
Lênin, thực hiện mở rộng dân chủ theo kiểu đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập
của phương Tây… làm cho trào lưu dân chủ vô chính phủ phát triển tràn lan, vô
nguyên tắc dẫn đến xã hội rối ren, nảy sinh nhiều phe phái tranh giành quyền lực
và lợi ích. Thêm vào đó, họ bị các thế lực thù địch, phản động mua chuộc, lợi
dụng, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” hòng làm sụp đổ chủ nghĩa xã hội,
phục hồi con đường tư bản chủ nghĩa.
Kết cục của sự nghiệp “cải tổ” là, năm 1991 chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu bị tan rã. Đây là thất bại to lớn của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhưng cũng để lại bài học, kinh nghiệm sâu
sắc cho những người cộng sản chân chính trong bảo vệ và kiên trì cuộc đấu tranh
cách mạng theo chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn trung thành và nắm vững quan
điểm duy vật biện chứng trong quá trình thực hiện đổi mới. Cần khẳng định rằng,
sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu không phải
là thất bại, sai lầm của của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, phép biện chứng duy
vật nói riêng. Nhiều học giả ở các nước tư bản chủ nghĩa còn khẳng định rằng, điều
đó là minh chứng cho thấy chủ nghĩa Mác - Lênin là đúng đắn, chỉ có những người
cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã không hiểu đúng, không vận dụng
đúng trong quá trình lãnh đạo cách mạng.
1.2 Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhờ nắm vững phép biện chứng duy vật mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã
đề ra đường lối cách mạng đúng đắn để lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thành
công, lập nên Nhà nước dân chủ cộng hòa đầu tiên ở Đông Nam Á (năm 1945);
sau đó qua 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, bằng chiến thắng
lịch sử Điện Biên Phủ lập lại hòa bình ở miền Bắc, Đảng ta đã tiến hành công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (năm 1954), đồng thời lãnh đạo đấu tranh
chống sự can thiệp của đế quốc Mỹ ở miền Nam. Trải qua 30 năm kiên trì kháng
chiến, bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thống nhất đất nước, Đảng ta chủ
trương xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước (năm 1975). Trước ảnh
hưởng của hệ thống xã hội chủ nghĩa và uy tín của Liên Xô lúc bấy giờ, chúng ta
đã rập khuôn theo mô hình Xô viết vào Việt Nam một cách máy móc, thiếu sự sáng
tạo nên mặc dù cố gắng vận dụng phép biện chứng duy vật vào thực tiễn cách
mạng. Đảng ta đã nhận thức được đặc điểm to lớn của Việt Nam là xuất phát điểm
quá thấp, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ lạc hậu, kinh tế
chậm phát triển, lại bị ảnh hưởng nặng nề từ chiến tranh… nhưng trong thực tiễn
xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta đã nôn nóng, đốt cháy giai đoạn như: đẩy quan
hệ sản xuất lên trước một bước, đẩy nhanh việc cải tạo giai cấp tư sản, đẩy mạnh
hợp tác hóa nông nghiệp, đưa hợp tác xã bậc thấp lên bậc cao một cách ồ ạt…;
quản lý kinh tế bằng phương pháp tập trung, quan liêu, kế hoạch hóa, xóa bỏ thị
trường, phân phối bao cấp một cách tràn lan; bộ máy nhà nước quan liêu, xa rời
quần chúng… đã đưa đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm
trọng, lạm phát kéo dài, sản xuất đình trệ, đất nước bị bao vây, cấm vận về kinh tế,
đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa bị suy
giảm nghiêm trọng. Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu cấp bách là phải tiến hành cải
cách, đổi mới trong quản lý kinh tế - xã hội.
Trước tình hình đó, Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã đề ra chủ trương
“đổi mới” một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: “Đảng phải
luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng
lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”(2).
Dưới góc độ duy vật biện chứng có thể nhận thấy đổi mới là một tất yếu lịch sử
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, là một chiến lược cách
mạng, sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa nước ta đi vào đúng quỹ đạo, theo
đúng quy luật khách quan của lịch sử.
2. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp đổi mới
Về lý luận: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội của Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ VII (năm 1991) đã khẳng định rõ:
“Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho mọi hành động”. Bởi vì, chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết
khoa học và cách mạng; chỉ ra quy luật vận động và phát triển của xã hội loài
người tất yếu sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; vạch ra đường lối
đúng đắn cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới đứng lên làm cách
mạng để giải phóng cho mình và cho cả nhân loại thoát khỏi áp bức bóc lột. Chủ
nghĩa xã hội là lý tưởng cao đẹp mà loài người mơ ước còn chủ nghĩa Mác - Lênin
là lý luận soi đường, hướng dẫn cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động tìm
thấy con đường cách mạng, biến ước mơ đó trở thành hiện thực.
Về thực tiễn: sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu trên
thực tế chỉ là sự sụp đổ của một mô hình xã hội chủ nghĩa hiện thực dẫn tới hệ
thống các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới bị tan rã chỉ là nhất thời, vì xu thế tất
yếu của lịch sử nhân loại vẫn đang hướng tới một xã hội văn minh, tiến bộ hơn mà
ở đó con người được giải phóng một cách triệt để, tự do phát triển một cách toàn
diện. Do đó, không thể đồng nhất chủ nghĩa Mác - Lênin với mô hình chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu; hay đồng nhất sự tan rã của mô hình chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu với sự phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ngày nay chủ nghĩa tư bản vẫn đang trong quá trình tự điều chỉnh để thích nghi và
phát triển trong điều kiện mới với những đặc điểm nổi bật như: toàn cầu hóa, kinh
tế tri thức, tiến bộ vượt bậc của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư… Song
những đặc điểm đó ngày càng khoét sâu mâu thuẫn nội tại cơ bản của chủ nghĩa tư
bản mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra, đó là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội
hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với tính chất chiếm hữu tư nhân của
quan hệ sản xuất. Những giải pháp mà chủ nghĩa tư bản đang sử dụng để duy trì sự
tồn tại dần vượt khỏi giới hạn thích nghi của nó. Chính những phương tiện mà chủ
nghĩa tư bản tạo ra để duy trì sự tồn tại của mình lại là “cỗ xe không phanh” đang
trên đà lao dốc đưa chủ nghĩa tư bản đến chỗ tự phủ định chính mình - Đó chính là
biện chứng khách quan của lịch sử. Hay hiểu theo quan điểm biện chứng duy vật
thì chủ nghĩa tư bản hiện đại đang “thai nghén” chủ nghĩa xã hội với những tiền đề
vật chất và những yếu tố thuận lợi cho chủ nghĩa xã hội nảy sinh và phát triển ngay
trong lòng nó. Điều này rất đúng với các nước tư bản phát triển cao. Nhưng các
nước này không thể tự phát chuyển đổi sang chủ nghĩa xã hội được mà phải thông
qua cuộc cách mạng xã hội của quần chúng nhân dân lao động do giai cấp công
nhân lãnh đạo thì mới có thể lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản.
Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản vẫn diễn ra gay gắt. Mâu
thuẫn giữa các nước đế quốc và các nước thuộc địa trước đây đã chuyển thành mâu
thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển và giữa các nước
đế quốc, các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc gia, các trung tâm
tư bản lớn vẫn đang diễn ra gay gắt vì mục tiêu lợi nhuận. Mâu thuẫn giữa tư bản
và lao động ở trong từng quốc gia và trên phạm vi quốc tế đang ngày càng được
mở rộng, thành cuộc đấu tranh rộng rãi của các tầng lớp nhân dân chống lại giai
cấp tư sản vì chủ nghĩa tư bản hiện đại có hiệu suất bóc lột giá trị thặng dư rất cao,
với sự hỗ trợ đắc lực của khoa học công nghệ thì máy móc tự động hóa đang dần
thay thế lao động chân tay làm cho nhân công ngày càng dư thừa, thất nghiệp…
làm cho xã hội ngày càng có sự phân cực rõ rệt, khoảng cách giàu - nghèo ngày
càng tăng. Tất cả những đặc điểm mới của chủ nghĩa tư bản hiện đại không hề làm
mất đi bản chất bóc lột, bất công. Vì vậy, Đảng ta đã nhận định: “Theo quy luật
tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”(3) và
“Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi mới khẳng định đường
lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”(4).
3. Giải quyết những mối quan hệ biện chứng trong công cuộc đổi mới
Tổng kết 30 năm qua đổi mới, Đảng ta đã nhận thức và giải quyết 8 mối quan hệ
lớn, đó là: quan hệ đổi mới, ổn định và phát triển; quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị; quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa;
quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập
quốc tế; quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Điều
đó cho thấy, trên cơ sở vận dụng phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác -
Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã “bước đầu xác định được mối
quan hệ hữu cơ, mối liên hệ nội tại giữa tám mối quan hệ lớn, đáp ứng yêu cầu của
phát triển đất nước với sự chi phối và thúc đẩy lẫn nhau giữa các quan hệ. Trong
từng mối quan hệ đều có hai mặt thống nhất và mâu thuẫn. Các mối quan hệ không
chỉ tác động, chi phối lẫn nhau theo tương tác nhân - quả, mà còn thâm nhập, giao
thoa, quy định lẫn nhau. Điều quan trọng trong nhận thức các mối quan hệ là ở
chỗ, tất cả các quan hệ đều thống nhất ở mục tiêu phát triển, đều tất yếu thông qua
đổi mới, đều phục vụ cho lợi ích cao nhất: phát triển đất nước, vì lợi ích của nhân
dân và của dân tộc”(5).
Từ nhận thức về 8 mối quan hệ lớn và mối liên hệ hữu cơ giữa chúng, Đảng ta xác
định rõ mục tiêu của giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
hiện nay là: “Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển
văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ
trọng yếu, thường xuyên”(6). Điều đó giúp cho chúng ta thấy rõ: “Đổi mới mang
tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là
sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân”(7). Thực tiễn
của hơn 30 năm đổi mới cho thấy, việc vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật
của chủ nghĩa Mác - Lênin vào giải quyết những vấn đề mâu thuẫn nội tại nảy sinh
trong quá trình đổi mới là hoàn toàn phù hợp. Trên quan điểm duy vật biện chứng
để tổng kết, đánh giá Đảng ta đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm quan trọng làm tiền
đề, từ đó xác định phương hướng cho chặng đường tiếp theo của sự nghiệp đổi
mới, đó là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy vận dụng sáng tạo, phát triển, chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo chính
xác và kịp thời có chủ trương, chính sách xử lý hiệu quả những vấn đề mới nảy
sinh trong thực tiễn, giải quyết tốt các mối quan hệ lớn phản ánh quy luật đổi mới
và phát triển ở nước ta”(8).
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, việc nghiên cứu, quán triệt và vận dụng phép
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào giải quyết những vấn đề thực
tiễn cách mạng đặt ra vừa là một khoa học, đồng thời là một nghệ thuật. Để triển
khai một cách hiệu quả, đòi hỏi các thế hệ cách mạng hiện nay phải nắm được bản
chất của phép biện chứng duy vật, không ngừng học tập và rèn luyện mới có thể
vận dụng một cách đúng đắn phương pháp biện chứng duy vật vào giải quyết
những vấn đề thực tiễn đang đặt ra mà không rơi vào ngụy biện, chiết trung… để
thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội./.
ThS. Vũ Tuấn - Học viện Kỹ thuật quân sự