












Preview text:
            Chương 3 
VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ BẮC THUỘC     
1. KHÁI QUÁT VỀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ VĂN HÓA   
Thời kì định hình và phát triển văn hóa của các tộc người trên lãnh thổ Việt 
Nam, cũng chính là lúc ở phía Bắc đế chế nhà Tần lớn mạnh và thực hiện dã tâm 
mở rộng bờ cõi ra các nước láng giềng. Trước âm mưu đen tối của ngoại bang, mặc 
dù, người Việt cổ đã cùng nhau anh dũng chiến đấu bảo vệ lãnh thổ của mình, 
nhưng cuối cùng họ đã bị Triệu Đà thôn tính vào năm 179 TCN. Kể từ đó cho đến 
chiến thắng Bạch Đằng, năm 938, do Ngô quyền lãnh đạo, được gọi là thời kỳ Bắc 
thuộc của lịch sử Việt Nam. Với một khoảng thời gian tiếp xúc lâu dài với văn hóa 
Hán và phải đối mặt với một kẻ thù lớn mạnh, nhiều thủ đoạn và đầy kinh nghiệm 
trong các cuộc chiến tranh mở rộng bờ cõi, đất nước âu Lạc của người Việt cổ đang 
lâm vào thảm họa diệt vong. Bởi với bản chất vốn có kẻ thù không chỉ dừng lại ở 
việc cướp bóc của cải mà còn ráo riết thực hiện chính sách đồng hóa văn hóa với ý 
đồ Hán hóa vĩnh viễn nền văn hóa của cư dân Việt. Đó thực sự là thảm họa đối với 
nền văn hóa Việt Nam và dân tộc Việt Nam:   
Nhờ có vị trí địa lý thuận lợi, người Trung Quốc cổ sớm trở thành một nước 
có nền kinh tế phát triển mạnh trên mọi lĩnh vực và một nền văn hóa phát triển ở 
trình độ cao: Từ thế kỷ 17TCN - thế kỷ 11 TCN họ đã sử dụng chữ viết, làm ra lịch 
mùa (tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, cấy trồng đúng thời vụ), họ 
biết làm ra lịch âm trên cơ sở quan sát sự vận hành của mặt trăng và các vì sao, quan 
sát tính chu kỳ dâng lên của nước sông;... Từ thời chiến quốc, người Trung Quốc cổ 
đã biết giải phẫu cơ thể con người. Trung Quốc là cũng chính là nước phát minh ra 
thuốc súng, ra kĩ thuật làm giấy, ... Từ những ưu thế đó, giai cấp thống trị Trung 
Quốc sớm lao vào hoạt động thôn tính, bành trướng và họ đã liên tục giành được 
thắùng lợi. Nhờ vậy, từ chỗ chỉ là một quốc gia nằm ở lưu vực sông Hoàng Hà vào 
thời kỳ cổ đại, Trung Quốc đã nhanh chóng phát triển thành một quốc gia rộng lớn 
có tiềm lực về kinh tế, văn hóa. Đến thời kỳ nhà Tần (khoảng 221 - 206 TCN) 
Trung quốc trở thành một đế chế mạnh nhất thế giới cổ đại. Với vùng đất mới này 
các đế chế Trung quốc lại có thêm tiềm lực về kinh tế vàvăn hóa để tiếp tục bành 
trướng xuống phương Nam. Như vậy, bằng chính sách bành trướng, các đế vương 
Trung Quốc đã nhanh chóng mở rộng cương vực lãnh thổ, và trở thành một quốc gia 
lớn mạnh nhất trong thế giới cổ đại. Hiện nay, Trung Quốc là nước có diện tích 
đứng thứ hai trên thế giới sau Cana đa.   
Với những lợi thế trên của người Hán, văn hóa Việt Nam thời kì này đứng  trước thảm họa lớn.     
2. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỀN VĂN HÓA       Trang -35            
Để thực hiện mưu đồ đồng hóa nền văn hóa Việt cổ và dân tộc Việt, kẻ thù nỗ 
lực tìm mọi cách huỷ hoại tất cả các yếu tố là nền tảng văn hóa và là sức mạnh của 
dân tộc Việt Nam như lãnh thổ, tiếng nói, lối sống, phong tục, tập quán, ý thức tư 
tưởng,... Do đó, 1000 năm Bắc thuộc là thời kì thử thách đầy gay go của dân tộc 
Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Dù vậy, cuối cùng người Việt cổ đã khôi phục được 
độc lập chủ quyền và chiến thắng chính sách đồng hóa của phong kiến phương Bắc 
vào năm 938. Từ đây, Việt Nam tồn tại với tư cách là đại diện duy nhất của cư dân 
"Bách Việt" chiến thắng được chính sách đồng hóa của kẻ thù phương Bắc. Trong 
khi đó, các dân tộc ở phía nam sông trường Giang (thuộc các tỉnh Quảng tây, Phúc 
Kiến, Vân Nam của Trung Quốc hiện nay) đều bị Hán hóa.   
Để có được kì tích lịch sử này, trong suốt hơn 1 nghìn năm Bắc thuộc, cư dân 
Việt cổ đã không ngừng rèn luyện bản lĩnh văn hóa của người Việt Phương Nam. 
Họ cũng đã phải luôn đấu tranh để giữ vững bản sắc về lối sống, về cốt cách và tâm 
hồn dân tộc và luôn tìm cách để khẳng định mình trong cộng đồng nhân loại. Đồng 
thời, cư dân Việt cổ không chối từ việc tiếp nhận chọn lọc những yếu văn hóa bên 
ngoài và thậm chí của cả chính kẻ thù đang thống trị mình để tăng thêm sức mạnh 
tinh thần cho dân tộc. Đó là cách đấu tranh rất độc đáo của cư dân Việt cổ. Vì thế, 
trái với ý đồ cưỡng bức, đồng hóa của kẻ xâm lược, quan hệ của văn hóa Việt và 
văn hóa Hán là quan hệ giao lưu: Một mặt, người Việt cổ bản địa hóa các yếu tố 
văn hóa được tiếp thu; Mặt khác, họ không ngừng phát triển các giá trị văn hóa 
tinh thần vốn có của mình.  Do đó, diễn trình văn hóa Việt Nam giai đoạn này đã  diễn ra như sau:   
a. Tiếp thu một số thành tựu kỹ thuật của người Hán 
Thời kì Bắc thuộc, có khá nhiều thành tựu kĩ thuật về các ngành thủ công và 
sản xuất nông nghiệp của người Hán được người Việt cổ tiếp nhận: Kỹ thuật luyện 
sắt, thép gang; Kỹ thuật làm giấy; Kỹ thuật làm đồ sành sứ tráng men; Kỹ thuật 
đóng guồng nước; Kỹ thuật canh tác bằng cày sắt và bón phân cho cây; Nhập một 
số giống cây trồng mới (kê, đậu,...)...   
Điều quan trọng, người Việt không tiếp nhận một cách máy móc các thành tựu 
kỹ thuật của người Hán, mà ngược lại họ tiếp nhận có đổi mới. Điều đó, thể hiện 
năng lực sáng tạo và cách ứng xử linh hoạt của người Việt. Chẳng hạn, họ chỉ tiếp 
thu kỹ thuật làm giấy, còn nguyên liệu giấy được tìm tòi và khai thác ở trong nước 
như gỗ trầm, rong biển,... Tương tự, họ chỉ tiếp thu kỹ thuật làm gốm tráng men còn 
mẫu mã, hoa văn trang trí lại dựa vào thị hiếu của cư dân trong nước và mang dấu 
ấn văn hóa Việt. Nhờ thế, họ đã làm ra các sản phẩm chất lượng và có uy tín trong 
vùng. Tiêu biểu trong số đó là giấy trầm hương. ưu điểm của loại giấy này là có mùi 
thơm, bền, trắùng và không bị thấm khi dính nước hay ướt. Nên vào năm 284, đã có 
thương nhân người La Mã mua 3 vạn tờ giấy trầm hương để dâng cho vua Trung 
quốc1. "Vải hoa bạch diệp" và "lụa Giao Chỉ", đồ trang sức chế tác từ ngọc trai và   
1 Sử cũ Trung quốc, dẫn theo Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Lịch sử Việt Nam tập 1, NXB Khoa học xã  hội, Hà Nội 1971    Trang -36            
khảm xà cừ đều là những sản phẩm nổi tiếng thời bấy giờ, được bọn quan lại Trung  quốc đánh giá cao.   
Trên lĩnh vực sản xuất, nhờ những thành tựu kĩ thuật mới của người Hán, kết 
hợp với những kinh nghiệm, những sáng kiến trong sản xuất và những thành tựu của 
người Việt trong công cuộc chế ngự thiên nhiên như đắp đê, đắp đập và ngăn lũ, nền 
nông nghiệp của Việt Nam dần dần đạt năng suất cao. Nhờ vậy, Việt Nam đã trở 
thành một nước có nền văn hóa vật chất phát triển tới trình độ tương đối cao trong 
khu vực. Thời kì này, cư dân Việt cổ đã biết làm 2 vụ lúa, biết sử dụng kiến vàng để 
diệt trừ sâu cho cây cam. Có thể nói đây là hình thức sơ khai của phương pháp sinh 
học trong bảo vệ cây trồng - được áp dụng rộng rãi ở thế kỷ XX.    2. Ngôn ngữ 
Ngôn ngữ là thành tựu của văn hóa và cũng là thành tố vô cùng quan trọng của 
văn hóa1, nên một trong những nội dung quan trọng của chính sách đồng hóa của 
các triều đại phong kiến phương Bắc là đồng hóa ngôn ngữ của người Việt. Bởi thế, 
đấu tranh để bảo tồn, phát triển và nâng cao tiếng Việt là biểu hiện tập trung nhất 
của cuộc đấu tranh chống Hán hóa và chống đồng hóa trong thời kỳ này.   
Từ đầu công nguyên, nhà Hán đã đưa một số dân nghèo và tội nhân sang định 
cư trong đất Giao Chỉ để làm chỗ dựa cho chính quyền đô hộ và cho việc đồng hóa 
người Việt (dân Mã Lưu là dân do Mã Viện đưa sang và lưu lại trên đất Giao Chỉ2). 
Đồng thời, nhà Hán cho mở các trường dạy chữ Hán. Vì thế, tiếng Hán và chữ Hán 
được du nhập mạnh mẽ vào Việt Nam. Dù vậy, người Hán vẫn không thể tiêu diệt 
được tiếng Việt. Bởi ngôn ngữ này được hình thành từ rất sớm ở Đông Nam á. Mặt 
khác, chỉ số ít người Việt thuộc tầng lớp trên nói tiếng Hán còn đại bộ phận cư dân 
Việt cổ luôn duy trì tiếng nói riêng của mình. Họ chỉ nói tiếng Việt mà không nói 
tiếng Hán vì đó là tiếng mẹ đẻ - tiếng nói thể hiện cốt cách và tâm hồn người Việt.   
Tuy nhiên, do cơ sở vật chất và tinh thần có nhiều thay đổi, nên tiếng Việt 
ngày càng được đơn âm tiết hóa và thanh điệu hóa. Ngoài ra, để làm phong phú 
thêm tiếng nói của mình, người Việt cổ đã vay mượn ngôn từ Hán. Nhưng để không 
bị đồng hóa, họ đã Việt hóa các từ Hán về cách dùng và cách đọc. Nên đã tạo nên 
một lớp từ mới - từ Hán Việt. Từ Hán Việt là từ hoàn toàn không giống tiếng Hán 
cổ cả về cấu trúc âm và ngữ nghĩa. Đó là kết quả của quá trình tìm tòi những 
phương pháp và phương tiện đấu tranh chống đồng hóa hết sức độc đáo và sáng tạo 
của người Việt cổ, để tự giải phóng mình khỏi ách thống trị của phong kiến phương 
Bắc. Nhờ vậy, tiếng nói của người Việt ngày càng trong sáng hơn và có khả năng 
diễn đạt đầy đủ hơn đời sống vật chất và tinh thần của họ. Đến nay, trong vốn từ 
tiếng Việt, bên cạnh từ thuần việt có nhiều từ hán việt.   
1 Ngôn ngữ là một trong các tiêu chuẩn để xác định thành phần dân tộc. 
2 Năm 43, sau khi thắng Hai Bà Trưng, Mã Viện đã đưa nhiều người Hán sang. Nhưng kết quả, sau một thời 
gian sinh sống trên đất Việt, người Mã Lưu bị đồng hóa vào lối sống Việt và vào văn hóa Việt. ‘’ Mã Lưu’’ là 
cái tên chỉ lưu lại trong sử sách như là một chứng tích tiêu biểu cho sự thất bại của chính sách Hán hóa của  quan lại phương Bắc.    Trang -37            
Về chữ viết, trước khi bị người phương Bắc đô hộ, người Đông Sơn đã bắt đầu 
sử dụng chữ viết tượng hình. Khi tiếp xúc với người Hán - một cộng đồng cư dân 
sớm có thành tựu chữ viết theo lối tượng hình và tượng ý, người Việt cổ đã sáng tạo 
ra chữ Nôm trên cơ sở vay mượn chữ Hán và ghép các chữ Hán lại để ghi âm tiếng 
Việt. Chữ Nôm là loại chữ vuông như chữ Hán nhưng khác chữ Hán về cấu trúc và 
về nghĩa. Sáng tạo văn hóa này thể hiện ý thức tự tôn dân tộc của người Việt và có 
vai trò mở đường cho nền văn học viết của dân tộc Việt Nam ở các thế kỷ sau.   
Chữ Nôm được sáng tạo theo nguyên tắc1: 
1. Các chữ Hán đồng âm với tiếng Việt thì sử dụng luôn làm chữ Nôm 
(lịch sử, bầu dục,...); 
2. Ghép hai chữ Hán thành 1 chữ Nôm: Theo cách, chữ làm âm bên phải và  chữ làm ý ở bên trái; 
3. Đọc chệch âm Hán ra âm Nôm: Chữ "xa" (Hán) đọc thành "xe" (Nôm; 
chữ "bồ" (Hán) đọc thành "bò" (Nôm);... 
4. Viết bớt nét chữ Hán để thành chữ Nôm.   
Chữ Nôm là chữ không dễ đọc và không dễ nhớ. Phải biết chữ Hán thì mới 
hiểu được chữ Nôm. Nhưng ý nghĩa sáng tạo của chữ Nôm là hình tượng văn tự 
không còn là chữ ngoại lai. Và trên mỗi hình tượng ấy văn tự ấy biểu đạt một tiếng 
nói của người Việt về những cảnh vật và về đời sống xung quanh mình.   
Như vậy, vượt lên trên ý đồ của phong kiến phương Bắc, cư dân Việt cổ đã 
kiên trì bảo tồn tiếng nói của dân tộc. Đồng thời, họ biết vay mượn từ Hán và chữ 
Hán một cách sáng tạo để làm cho tiếng Việt ngày càng phong phú hơn về khả năng  diễn đạt.   
3. Về tư tưởng, tôn giáo   
Từ đầu công nguyên, bằng nhiều cách khác nhau, các học thuyết tư tưởng và 
tôn giáo của các nền văn húa lớn ở phương Đông được du nhập vào Việt Nam đó là 
Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo. Sự du nhập các trào lưu tư tưởng và tôn giáo mới 
vào Việt Nam đã tạo sự thay đổi đáng kể trong đời sống tinh thần của cư dân.   
 Đạo Phật 
- Đạo Phật là tôn giáo được phát sinh ở ấn Độ, trong khoảng thời gian từ thế 
kỷ VI - V TCN, phản ánh sự bất bình của quần chúng đối với chế độ đẳng cấp hà 
khắc và quyền uy độc đoán của đẳng cấp thống trị Bà l 
a môn. Phật giáo phủ nhận 
chế độ đẳng cấp, đả phá độc quyền Bà la môn và các nghi thức của đạo Hin du.   
Thời đó, xã hội ấn Độ bị phân chia thành 4 đẳng cấp cơ bản: Tu sĩ Bà la 
môn (bratmanr) là những người chịu trách nhiệm về tôn giáo và những vấn đề 
tinh thần cao cả trong xã hội; Vương tướng (kshatriyr) là những người bảo vệ 
công lý; Thực nghiệp là những người có sứ mạng quản lý và tạo ra nguồn của 
cải cho xã hội (thương gia, nông gia,...) ; Người lao động là những người lao   
1 Nguyễn Đăng Duy, Nho giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb Hà Nội, 1998,Tr.48-49.    Trang -38            
động trực tiếp bằng chân tay ở nông thôn, thành thị; Ngoài ra, còn có người 
dân bản xứ nghèo khổ - những người không thuộc đẳng cấp xã hội.   
- Thích ca mầu ni (tức hiền nhân dòng họ Thích ca) là người sáng lập ra Phật 
giáo, nguyên là hoàng tử Siddhartha (Tất đạt đa), con vua Suddhodana trị vì dân tộc 
Sakya (một phần đất xứ Nê pan ngày nay). Bất bình về chế độ đẳng cấp nghiệt ngã 
và đồng cảm với nỗi thống khổ của người nghèo khổ chính là lý do ông từ bỏ đạo 
Bà la môn và sáng lập ra tôn giáo mới - Phật giáo: Kinh Phật kể rằng, thái tử Tất đạt 
đa từ nhỏ đã có biểu hiện khác thường. Chẳng hạn, có lần cùng các bạn vào chơi ở 
một xóm dân quê, nhưng sau đó ông tách khỏi cuộc vui của các bạn cùng trang lứa 
và ngồi trầm tư nghĩ ngợi dưới gốc cây to. Tập trung suy nghĩ đến mức quên cả trời 
tối để vua cha và quân lính phải đi tìm. Lần khác, khi cùng vua cha dự lễ tịch điền, 
ông buồn bã nghĩ tới hai cảnh trái ngược đó là cảnh những người nông dân đang vất 
vả dưới ruộng với cảnh phồn hoa và phú quý chốn cung đình;... Lo sợ về sự khác 
thường của thái tử, vua cha đã cưới vợ cho ông năm ông 16 tuối. Vợ của ông người 
là công chúa của một nước láng giềng. Song tất cả vẫn không làm ông nguôi ngoai 
được nỗi bận tâm. Năm 29 tuổi, ông quyết định từ bỏ cuộc sống vinh hoa và tổ ấm 
gia đình để đi tìm con đường cứu chúng sinh. Lúc đầu, ông đồng cùng với 5 người 
bạn theo cách tu hành khổ hạnh, đến khi kiệt sức ông thay đổi con đường đi. Thấy 
vậy, những người bạn của ông khinh bỉ từ bỏ ông. Vậy là cuối cùng chỉ còn mình 
ông độc hành trên con đường riêng. Vào một đêm trăng sáng, dưới gốc cây lớn, với 
lời tự hứa chưa tìm ra chân lý thì chưa thể đứng dậy. Sau 49 ngày đêm tập trung suy 
nghĩ ông đã đạt đến cái nhìn sáng suốt nhất về vấn đề nỗi khổ của con người - 
Siddartha trở thành đức Phật (Buddha) - Đấng giác ngộ, vào năm 35 tuổi. Cây nơi 
ông ngồi thiền và đắc đạo được gọi là cây bồ đề (Boddhi) - Cây minh triết. Ngay 
sau đó, ông nghĩ ngay tới 5 người bạn cùng tu đã bỏ đi khi xưa, ông tìm họ và tiến 
hành buổi thuyết pháp đầu tiên. Họ trở thành 5 đệ tử đầu tiên của Đức Phật. Suốt 45 
năm còn lại của cuộc đời mình , Thích ca mầu ni đi khắp nơi thuyết giảng chân lý 
của mình cho mọi người với hy vọng cứu vớt chúng sinh ra khỏi bể khổ. Năm 80 
tuối, đức Phật nhập cõi niết bàn.   
- Nội dung căn bản của Phật giáo nguyên thủy tập trung ở “thuyết thập nhị 
nhân duyên” và ‘’tứ diệu đế” . “Nhân” là nguyên nhân tạo ra sự vật và “duyên” là 
các điều kiện, các mối quan hệ. Theo Phật giáo, có 12 nhân duyên, vận hành thành 
chuỗi liên tục, giam hãm con người trong vòng sinh tử luân hồi. “Tứ diệu đế” tức 
là bốn chân lý cao cả của đạo Phật gồm có khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế. 
+ Khổ đế: Chân lý về bản chất sự khổ. 
Phật cho rằng " sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, tử khổ, phải kết hợp cái 
mình không muốn là khổ và bất kỳ những gì ta muốn mà không được thỏa mãn là 
khổ. Tóm lại ngũ uẩn là khổ: ' Đời là bể khổ ... nước mắt chúng sinh còn nhiều hơn 
nước của tất cả các đại dương cộng lại. Chính bởi vậy, nhiều người đã cho rằng Phật  giáo là bi quan. 
+ Tập đế: Chân lý về nguyên nhân dẫn đến đau khổ. Theo đức Phật có nhiêỡu 
nguyên nhân nhưng nguyên nhân chủ yếu là ái dục (ham muốn) và vô minh. 
Theo Phật giáo, duyên hợp ngũ uẩn thì sinh ra ta, duyên tan ngũ uẩn thì ta 
không còn là ta nữa. Nhưng ta không mất đi mà trở về ngủ uẩn. Do không biết được    Trang -39            
rằng cái tôi có mà không không mà có nên lầm tưởng rằng ta tồn tại mãi mãi, cái gì 
cũng của ta, do ta. Mà sinh ra lòng khát ái, kham dục, mắc vào bể khổ chịu sự chi 
phối của kiếp nghiệp báo luân hồi. 
Luân hồi vốn là khái niệm theo phạm trù đạo Bà la môn, đạo Phật tiếp nhận 
nhưng có nội dung hoàn toàn khác: Ba la môn cho rằng tinh thần con người (Atman) 
là một phần của linh hồn thế giới (Bratman). Nếu khi sống, tuân theo giáo lý của Bà 
la môn thì khi chết atman sẽ trở về với Bratman. Ngược lại, linh hồn sẽ đi lang 
thang và bị quỷ dữ hãm hại (mà cái người ta lo nhất là phần hồn sau khi chết). 
Nhưng Phật giáo cho rằng, nếu trong cuộc đời hiện hữu, con người suy nghĩ tốt và 
sống thiện thì sẽ thoát được sự chi phối của nghiệp báo luân hồi. Tính thiện của Phật  giáo rất cao. 
+ Diệt đế: Là chân lý về sư ỷthật diệt trừ nguyên nhân của nỗi khổ. Theo Phật, 
con người muốn diệt trừ nỗi khổ phải tiêu diệt tận gốc rễ của chính của nó là ái dục 
và vô minh. Và diệt trừ được nỗi khổ, chính là niết bàn - Sự giả thoát cuối cùng khỏi 
mọi ràng buộc tử sinh, mọi phiền não ám ảnh 
Như vậy, “niết bàn” là khái niệm khác với “thiên đàng”. Niết bàn là cảnh 
an lạc tuyệt đối đạt đến khi ánh sáng trí tuệ xua tan bóng tối của sự vô minh, 
trong lức đó, thiên đàng là nơi chúa ngự trị. Các con chiên phải nghe theo lời 
dạy bảo của chúa sẽ được lên thiên đàng 
+ Tập đế: Chân lý về con đường để diệt trừ nỗi khổ gồm “Bát chính đạo” tức 
8 con đường đạo chân chính bao gồm chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính 
nghiệp, chính mạng, chính tinh tiến, chính niệm và chính định.  1. Chính kiế : n Nhìn nhận đúng đắn; 
2. Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn;  3. Chính ng :
ữ Lời nói đúng đắn, trung thư , c thận trọng; 
4. Chính nghiệp: Thực hiện những hành động đúng đắn, tránh những hành  động sai trái; 
5. Chính mạng: Kiếm sống bằng ngề chính đáng, lương thiện;  6. Chính tinh tiế :
n Siêng năng phấn đấu để tiến bộ; 
7. Chính niệm: Luôn tâm niệm điều thiện, điều lành;  8. Chính địn :
h Tập trung tư tưởng đúng đắn, dẫn tới giác ngộ và giải thoát. 
 Phật khuyên: " hãy tự mình côù gắng để tự giải thoát cho mình ...”.   
Như vậy, con đường giải thoát của Phật giáo đơn giản nhưng đòi hỏi sự kiên 
trì nỗ lực và chủ yếu là sự tu dưỡng bản thân. Thực chất đạo Phật là một học thuyết 
về nỗi khổ và sự giải thoát, là học thuyết vô thần. Phật từng nói: " Ta chỉ dạy có 
mỗi điều khổ và diệt khổ”.   
- Những năm đầu Công nguyên (vào khoảng năm 159), theo chân các nhà sư 
ấn Độ, Đạo Phật đã đến Việt Nam. Khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo nhanh 
chóng hòa nhập với tín ngưỡng bản địa và hình thành nên Phật giáo dân gian. Có hai 
trung tâm Phật giáo lớn trên lãnh thổ Việt Nam thời đó là Luy Lâu (chùa Dâu) ở 
miền Bắc và Đồng Dương (Laksmindralokeevara) ở miền Trung. Ban đầu, Phật giáo 
du nhập vào Việt Nam mang màu sắc Sihva giáo và tiểu thừa. Dấu vết còn lại hiện 
nay là chùa Dâu thờ Phật Thạch Quang: Thờ Phật Thạch Quang tức là thờ hòn đá - 
đó là một lin ga tượng trưng cho thần Sihva của Bà la môn giáo. Sau này có một số    Trang -40            
chùa thờ Đế thích cũng là một dạng thờ Sihva. Thờ dấu chân cũng là một dạng thờ 
phổ biến của cư dân ấn cổ đại, biểu thị hàm ý là con đường mà các bậc thầy đã đi 
qua và các tín đồ phải đi theo.   
 Đồng thời, theo chân kẻ xâm lược Phật giáo Đại thừa từ Trung Quốc cũng 
được du nhập vào nước ta.   
Phật giáo Tiểu thừa và phật giáo Đại thừa khác nhau như thế nào? 
“Tiểu thừa” là “cỗ xe nhỏ” với hàm ý cứu vớt được ít chúng sinh. Ngược lại 
với Tiểu thừa là Đại thừa có nghĩa là cỗ xe lớn, với hàm ý cứu vớt được nhiều 
chúng sinh: Sau khi Đức Phật tạ thế, trong nội bộ các phật tử đã nảy sinh mâu thuẫn 
về quan điểm: Có người chủ trương duy trì giáo luật nguyên thuỷ, có người chủ 
trương cải cách. Kết quả của quá trình này là sự chia tách Phật giáo thành hai phái, 
phái Tiểu thừa và phái Đại thừa. Phái Đại thừa chủ trương không câu nệ kinh điển, 
khoan dung đại lượng trong việc thực hiện giáo luật, thu nạp rộng rãi tất cả những ai 
muốn quy y, giác ngộ giải thoát cho nhiều người. Ngược lại phái Tiểu thừa, chủ 
trương bám sát kinh điển, giữ nguyên giáo luật, phật tử chỉ giác ngộ cho bản thân  mình,...;   
Như vậy, Phật giáo được du nhập vào Việt Nam cả hai dòng Nam tông (Tiểu 
thừa) và Bắc tông (Đại thừa). Do nội dung của Phật giáo có nhiều điểm phù hợp với 
tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt, nên tôn giáo này có điều kiện thấm sâu, tỏa 
rộng vào đất Việt và nhanh chóng hòa nhập vào đời sống của cư dân Việt.   
Chùa Trấn quốc là di sản kiến trúc Phật giáo tiêu biểu của thời kì này. Chùa 
được xây dựng bên bờ sông Hồng theo ý nguyện của vua Lý Nam Đế. Đến nay, 
chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu và đổi tên: Ban đầu chùa được vua đặt tên là 
chùa Khai Quốc với hàm ý mở nước (nước Vạn Xuân). Đến thời Lê Thánh Tông 
(1460-1497) chùa đổi tên là chùa An Quốc. Thời vua Lê Kính Tông (1599-1619), 
do nền đất chùa bị sạt lỡ, chùa được dời về vị trí Hồ Tây và được đổi tên thành chùa 
Trấn Quốc với ý nghĩa giữ nước. Chùa được thiết kế theo lối kiến trúc chữ Tam. 
Chùa Trấn Quốc là công trình kiến trúc Phật giáo cổ duy nhất còn lại được xây dựng 
thời đất nước mang tên Vạn Xuân. Chùa còn là nơi lưu giữ nhiều pho tượng Phật và 
bia cổ có giá trị. Trong đó, tiêu biểu nhất là pho tượng Thích Ca nhập cõi Niết bàn 
và bia ghi lại lịch sử xây dựng chùa được lập vào năm 1639.  b. Nho giáo 
- Người sáng lập ra học thuyết nho giáo là Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu 
(551 - 479 TCN). Ông là một nhà tư tưởng, nhà đạo đức và nhà giáo dục của Trung  Quốc: 
Khổng Tử xuất thân trong một gia đình quý tộc suy vong. Thời trẻ nghèo 
khó, tuổi trung niên mở trường tư dạy học. ông là người đầu tiên mở trường tư thục 
ở Trung Quốc. Ông được mời ra làm quan trong một thời gian nhưng vì tư tưởng và 
phương thức cải cách của ông xa rời thực tế nên không được dùng. Tổng kết cuộc 
đời mình, ông nói:" Ta, 15 tuổi để chí vào việc học, 30 tuổi vững vàng, 40 tuổi 
không nghi hoặc, 50 biết mệnh trời, 60 không nghe điều trái tai, 70 làm theo ý 
muốn”, ..". Tương truyền rằng ông nhận học trò rất dễ nhưng trong quá trình học đòi    Trang -41            
hỏi rất cao: “Dạy một biết 10 thì ta dạy cho, dạy một biết một thì ta không dạy nữa”. 
Bởi thế, ông có rất nhiều trò giỏi.   
- Hạt nhân cơ bản trong học thuyết của Khống Tử là nhân và lễ. Chữ nhân của 
Khổng Tử là khái niệm đạo đức chỉ phẩm chất cần có của người quân tử. Phẩm chất 
đó được nhìn nhận từ hai mặt, đối với mình và đối với người: Đối với mình phải 
trong sạch không nghĩ và làm điều xấu, điều ác, phải giữ đúng lễ và vươn lên không 
ngừng. Theo cách nói của các nhà nho là phải "tu thân", theo các tiêu chuẩn nhân, 
nghĩa, lễ, trí và tín để có thể " tề gia, trị quốc, thiên hạ bình". Đối với người phải 
thương yêu người, phải giúp thành đạt như chính mình, phải tránh cho người khác 
những điều mình không muốn. Khổng Tử dạy: 
1. "Nhân giả, nhân ái" tức yêu người như yêu mình; 
2. "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân", tức là những gì mình không muốn chớ 
làm cho người, để ở trong nước không có điều oán, ở trong nhà không  có điều oán; 
3. "Khắc kỷ phục lễ quy nhân": Hạn chế lòng mình trở lại điều lễ là nhân; 
4. Chí sĩ, nhân nhân không cầu sống mà hại điều nhân, sát thân để thành  nhân;  5. v.v.   
Tư tưởng của ông vĩ đại như thế nên người đời sau phong cho ông "Chí thánh 
tiên sư, vạn thế sự biểu". Tức người thầy đầu tiên như vị thánh, người thầy dạy bảo  cho muôn đời mai sau.   
 + Lễ trong học thuyết của Khổng Tử là lễ nghi, thể hiện các quy tắc lễ nghi 
thể hiện những quan hệ đạo đức giữa người và người. Lễ mà ông nói là lễ của nhà 
Chu ông nói "ngộ tòng Chu". Vì quê hương của ông là quê hương của dòng dõi 
thiên tử nhà Chu - một vương triều đạt đến hoàng kim trên rất nhiều lĩnh vực. Song 
đến thời kỳ ông đang sống, uy quyền của nhà Chu không còn như trước nữa, các 
nước chư hầu tranh hùng, tranh bá, tôi giết vua, con giết cha, anh giết em, đây là 
thời kỳ loạn lạc của Trung Quốc, sử Trung Quốc gọi là thời kỳ Xuân thu, Chiến  quốc.   
Theo Khổng Tử, nhân và lễ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó nhân 
là nội dung và lễ là hình thức biểu hiện. Khổng Tử cho rằng giữa người và người 
trong xã hội có nhiều mối quan hệ. Trong đó ông coi những quan hệ chính trị, đạo 
đức là mối quan hệ cơ bản. Nên ông đề cao những mối quan hệ đó, và thâu tóm các 
mối qua hệ này thành 3 mối quan hệ cơ bản, được coi là rường cột chi phối các mối 
quan hệ khác: Quan hệ vua - tô ;i cha - con; vợ - chồng. Để giải quyết tốt mối quan 
hệ tam cương, Khổng Tử nêu thuyết chính danh: Để cho đất nước được thái bình 
thịnh trị cần phải có kỷ cương đường lối đó là quân - quân; thần - thần; phụ - phụ; 
tử - tử và không phải lễ thì không nghe, không phải lễ thì không nhìn, không phải lễ 
thì không hành động, nói năng và hành động phải theo đúng chính danh. Quan điểm 
này của ông có ý nghĩa nhân loại rất lớn, rất tiến bộ.        Trang -42            
 Tư tưởng của Khổng Tử có giá trị quan trọng, Nhưng về sau chính quan điểm 
này bị giai cấp phong kiến Trung Quốc giai cấp hóa thành hệ tư tưởng của giai cấp 
phong kiến: Đến thời nhà Tần thuyết tam cương của Khổng Tử phát triển theo 
hướng quân xử thần tử, thần bất tử bất trung (chém đầu); phu xử tử tử tử bất tử bất 
hiếu. Đối với nữ phải tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử   
- Từ thời Tây Hán, với ý đồ nô dịch nhân dân ta về mặt tinh thần, kẻ thù đã 
tìm mọi cách để du nhập hệ tư tưởng nho giáo đã bị phong kiến hóa vào Việt Nam. 
Cùng với quá trình đó là sự hình thành tầng lớp phong kiến Việt làm tay sai cho 
phong kiến Trung Quốc. Song nhìn tổng thể, với tư cách là hệ tư tưởng chính thống 
của giai cấp phong kiến Trung Quốc, được đưa vào nước ta bằng ngọn cờ của kẻ 
xâm lược, do đó nho giáo khó xâm nhập vào đời sống của cư dân Việt - những 
người quan sống trong các làng xã nông thôn với thiết chế dân chủ. Nói cụ thể là 
nho giáo thời kỳ này chỉ có khả năng thâm nhập vào các trung tâm châu quận, còn ở 
trong các làng quê nó luôn bị nhân dân ta chối từ dưới nhiều hình thức. Nhờ vậy, 
trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, nhân dân ta trong các xóm làng vẫn sống theo phong 
tục tâp quán của mình và cùng nhau vững vàng vượt qua mọi thủ đoạn của kẻ thù. 
Chẳng hạn, nho giáo coi trời là tối thượng, thì người dân Việt quan niệm " Nhất vợ, 
nhì trời "; Theo nho giáo, vua là thiên tử, là con trời, trị vì thiên hạ ở dưới gầm trời. 
Nhưng người Việt ứng xử theo tập tục " Phép vua thua lệ làng"; hoặc coi vua và 
giặc là 2 phạm trù có thể chuyênứ hóa lẫn nhau nên " được làm vua, thua làm giặc " ;
Nếu trong gia đình theo quan điểm nho giáo lấy người cha làm trung tâm, thì cư dân 
Việt lại cân đối luân lý giữa cha và mẹ. Bởi "cha sinh chẳng tày mẹ dưỡng"; Nho 
giáo tuyệt đối hóa vai trò của người cha, cha được coi là định hướng cho cả cuộc đời 
của con cái, thì người Việt vừa coi trọng vai trò của người cha "con không cha như 
nhà thiếu nóc' , nhưng đồng thời cũng đề cao vai trò của người mẹ nên " con dại cái 
mang" hoặc " con hư tại mẹ, cháu hư tại bà". Đồng thời, người Việt đề ra cách ứng 
xử bao dung nhân đạo " con hơn cha là nhà có phúc"; hay trong quan hệ vợ chồng 
trong nho giáo rất nghiệt ngã theo lề lối " phu xướng, phụ tùy " và thắt chặt người 
phụ nữ vào đạo tam tòng, thì với người Việt thì quan hệ vợ chồng là "thuận vợ thuận 
chồng tát biển đông cũng cạn";… 
Trong xã hội, nếu nho giáo đề cao tam cương, thì đối với người Việt ngoài các 
mối quan hệ đó còn rất coi trọng mối quan hệ " họ hàng, làng nước" với phương 
châm " trong họ ngoài làng", " sống ở làng, sang ở nước"; Với họ hàng thì: " máu 
chảy, ruột mềm ", " một giotỹ máu đào hơn ao nước lã"; Với xóm làng là tinh thần 
cộng cư, giúp đỡ lẫn nhau " lá lành đùm lá rách"   
Như vậy, ngược lại với Phật giáo, Nho giáo - với tư cách là hệ tư tưởng chính 
trị của người Hán, hầu như rất khó thâm nhập vào đời sống xã hội Việt Nam thời kì 
Bắc thuộc. Đó là biểu hiện sinh động về sức đề kháng của văn hóa Việt nhằm chống 
lại chính sách đồng hóa của kẻ thù.   
c. Đạo giáo: Đạo giáo là một loại triết lý trừu tượng, ra đời vào khoảng cuối 
thế kỷ II (thời Đông hán), trong phong trào nông dân khởi nghĩa của Trung Quốc do 
Trương Đạo Lăng chủ xướng. Nó là sự hỗn hợp của rất nhiều mê tín dân gian và 
phương thuật thời trước và dựa vào học phái Lão gia suy tôn Lão Tử làm Thái    Trang -43            
Thượng lão quân. Đạo giáo chủ trương trọng sinh, lạc sinh và đi tìm trường sinh bất 
tử. Về sau, Đạo giáo dần trở thành đạo phù thủy lễ bái quỷ thần. Nên đã bị kẻ thù lợi 
dụng và tìm cách du nhập vào Việt Nam với ý đồ làm mai một tinh thần chống Bắc 
thuộc của cư dân Việt.   
Khi vào Việt Nam, Đạo giáo nhanh chóng hòa nhập với tín ngưỡng dân gian 
như đạo Saman, tín ngưỡng nông nghiệp, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên,... tạo thành 
các tín ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ ... mà biểu hiện độc đáo của nó là đồng bóng, các 
hình thức thờ thần tiên, những phương thuật nội đạo tràng.   
4. Về phong tục, lễ g á
i o và sinh hoạt văn hóa truyền thống  
- Với ý đồ phá hoại tín ngưỡng của người Việt về tôn thờ các anh hùng dân tộc 
và coi trọng linh khí núi sông, nhà Hán kiểm soát chặt chẽ các lễ giáo của người 
Việt cổ. Mặc dù, phải sống cảnh "cá chậu, chim lồng", nhưng các truyền thống tốt 
đẹp của xã hội Văn Lang, Âu Lạc vẫn được duy trì và bảo tồn: Tiêu biểu là diễn 
xướng sử thi và thờ cúng các anh hùng huyền thoại và anh hùng lịch sử. Điều đáng 
chú ý là diễn xướng sử thi thời kỳ này gắn liền với vận mệnh của giống nòi và 
được thể hiện dưới màu sắc tôn giáo. Các anh hùng huyền thoại (Lạc Long Quân, âu 
Cơ, Thánh gióng,...) và các anh hùng lịch sử của thời kỳ Bắc thuộc (Hai Bà Trưng, 
Bà Triệu,...) được nhân dân lập đền thờ và xây dựng thành các truyền thuyết để đưa  vào sử thi. 
Nhờ thế, sử thi ngày càng phong phú hơn và có tác dụng thiết thực nuôi dưỡng 
tinh thần chống ngoại xâm. Tín ngưỡng thờ cúng các anh hùng dân tộc đã góp phần 
khẳng định ý thức dân tộc, duy trì và phát triển cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. 
Chính nhờ ý thức đề kháng văn hóa mạnh mẽ đó của người Việt mà chính sách đồng 
hóa truyền thống của phong kiến phương Bắc cuối cùng bị thất bại.   
- Về sinh hoạt lễ hội: Mặc dù bị đô hộ bởi ngoại bang, nhưng hội lễ thời kì Bắc 
thuộc đã phong phú hơn giai đoạn trước và có những biến đổi nhất định. Cụ thể là: 
+ Về thời gian mở hội: Lễ hội được mở vào 2 mùa xuân và mùa thu, trong đó 
hội xuân được tổ chức nhiều hơn. 
+ Hội chùa xuất hiện. Bởi thế, nội dung của lễ hội thời kỳ không chỉ phản ánh 
tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước mà còn thể hiện ý 
nghĩa Phật giáo đã được Việt hóa. 
+ Tổ chức lễ hội là một dịp quan trọng để cư dân Việt tưởng niệm, sùng bái và 
diễn lại các sự tích các anh hùng dân tộc. Nhiều người trong số họ đã trở thành thần 
thành hoàng của nhiều xóm làng cư dân Việt.   
Trong số lễ hội thời này, lễ hội Triều Khúc là lễ hội có dấu ấn của sự kiện lịch 
sử cuộc khởi nghĩa Phùng Hưng. Triều Khúc là địa danh thuộc tỉnh Hà Đông cũ. Lễ 
hội Triều Khúc được tổ chức từ ngày 10 đến ngày 12 âm lịch hằng năm. Lễ chính 
được tổ chức vào ngày 10 - là ngày mở đầu cuộc khởi nghĩa Phùng Hưng, lễ rước 
triều phục, long bào của Phùng Hưng. Ngày tan hội - ngày 12, được kết thúc bằng 
biểu diễn múa cờ. Đó là hoạt động nhằm tái hiện lại việc tuyển quân bổ sung của 
Phùng Hưng để vây thành Tống Bình ngày trước.      Trang -44            
- Nhà Hán buộc người Việt buộc người Việt phải tuân theo lễ giáo phong kiến 
của họ như hôn nhân, tang ma và những tập tục khác. Nhưng trong các xóm làng 
của người Việt, người dân vẫn duy trì những phong tục tập quán vốn có của mình 
như ý thức coi trọng phụ nữ1, tinh thần dân chủ chất phác, tục nhộm răng đen, tục 
ăn trầu, tục chôn người chết trong quan tài hình thuyền,... Tuy nhiên, sự tiếp xúc 
cưỡng bức van húa Hán - Việt trong một thời gian lâu dài đã để lại dấu ấn trong nền 
van húa Việt ở một mức độ nhất định. Tương tự như tiếng nói, các yếu tố văn hóa 
ngoại sinh này dần bị nội sinh hóa cho phù hợp với tâm thức và văn hóa Việt. Cụ 
thể là do du nhập lịch phương Bắc, nên người Việt ở các làng quê đã tiếp thu một số 
phong tục tập quán theo lịch này như ăn tết Nguyên Đán, tết Đoan Ngọ, tết Trung 
thu,... Sách Tùy thư của Trung Quốc có ghi rằng: Năm nào 3 ngày tết nguyên đán 
người Việt cũng dọn cỗ bàn linh đình cúng tổ tiên, trai gái ăn chay, dùng hương hoa 
niệm phật, chơi đu, ném còn, hát múa, kéo co ...   
Như vậy: Mặc dù phải trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc nhưng nền văn 
hóa Việt Nam vẫn không ngừng phát triển. Nội lực của kết quả đó không chỉ xem 
xét đơn thuần ở khả năng và quy mô chống xâm lược của người Việt, mà chính ở 
sức sống tinh thần của một dân tộc. Những nhân tố quan trọng để người Việt chiến 
thắng được chính sách đô hộ của kẻ thù phương Bắc là:   
- Yếu tố cơ bản và có vai trò quyết định nhất là trước khi bước vào thời 
kỳ Bắc thuộc, người Việt Cổ đã xây dựng cho cộng đồng của mình một nền văn hóa 
riêng, được bắt nguồn từ sự khác biệt về điều kiện tự nhiên và truyền thống văn hóa 
có cội nguồn hàng chục vạn năm của thời kỳ tiền sử. Thành tựu văn hóa thời tiền 
sơ sử của người Việt Cổ là cái vốn hết sức quý báu và cơ bản tạo đà cho họ liên tục 
vươn lên vượt qua những thảm họa của thời kỳ Bắc thuộc. Và đó cũng chính là cốt 
lõi mà người Hán không thể phá vỡ và không thể nhào nặn theo mẫu hình văn hóa  của họ. 
Cư dân Việt cổ cư trú ở lưu vực sông Hồng, với khí hậu nhiệt đới gió mùa, 
nhiệt ẩm. Còn người Hán cổ sống ở lưu vực sông Hoàng Hà, với khí hậu đại lục, 
mùa đông băng giá, lượng mưa tập trung vào cuối hè, độ bốc hơi cao. Chính do sống 
trong điều kiện tự nhiên khác nhau nên đã dẫn đến một loạt các yếu tố văn hóa khác  nhau như: 
+ Điều kiện tự nhiên thời tiền sử đã quyết định người Việt trồng lúa nước trên 
phù sa châu thổ và sử dụng hệ thống thủy lợi dưới nhiều hình thức (ao, hồ, đê điều) 
- Chế độ lạc điền. Ngược lại, người Hán chủ yếu là nông nghiệp trồng khô (trồng kê 
và cao lương) trên đất vàng hoàng thổ do gió cuốn tạo nên. Để có nước tưới cho 
cây, người Hán dùng mạch nước ngầm và phải đào giếng - Chế độ tĩnh điền. 
+ Người Việt cổ kết hợp nghề nông trồng lúa nước với nghề chài cá, nghề thủ 
công và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Người Hán, sớm kết hợp trồng trọt vơiù chăn 
nuôi gia súc trên quy mô lớn. ở đó có sự đan xen giữa văn hóa gốc du mục và văn  hóa gốc nông nghiệp. 
+ Người Việt cổ ăn cơm, dụng cụ ăn đôi đũa. Ngược lại, người Hán cổ ăn các 
loại cháo ngũ cốc hoặc ăn bánh làm từ các sản phẩm kê mạch. Họ ăn bằng thìa;   
1 Caïc gia âçnh khi coï con gaïi låïn hoü náúu ræåüu    Trang -45            
+ Người Việt cổ ở nhà sàn thoáng mát. Ngược lại, người Hán ở nhà hầm nhà  trệt; 
+ Người Việt cổ đi lại chủ yếu bằng thuyền, voi. Ngược lại, người Hán đi lại 
chủ yếu bàng ngựa và xe (biểu tượng văn hóa Hán là cỗ xe song mã, tứ mã). Vì thế, 
người Việt cổ giỏi về thủy binh, còn người Hán giỏi về bộ binh 
+ Người Việt cổ phát triển mạnh nền văn hóa xóm làng, văn hóa dân gian. Vai 
trò người phụ nữ được đề cao, gia đình tiểu nông ra đời sớm. Mối quan hệ giữa họ 
hàng và làng nước được đặc biệt coi trọng. Ngược lại, người Hán cổ lại hình thành 
nền văn hóa đế vương, văn hóa cung đình. Chế độ phụ quyền ra đời sớm và cực kỳ 
nghiêm khắc. Về khuynh hướng chính trị xã hội manng tính độc quyền chuyên  chế;...   
- Thời đại Hùng Vương, tuy nhà nước mới ra đời ở trình độ sơ khai, nhưng đã 
có vai trò rất lớn trong việc cấu kết văn hóa và tạo dựng văn minh. Đành rằng, trong 
thời gian dài 1000 năm Bắc thuộc, người Việt phải sống cảnh "cá chậu chim lồng" 
của cơ cấu văn hóa ngoại lai. Nhưng xã hội luôn là xã hội của người Việt cổ. Nên họ 
có điều kiện đấu tranh đêớ phát triển sản xuất và văn hóa theo yêu cầu của mình.   
- Nhờ có tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng mạnh mẽ và quyết tâm bảo vệ 
lãnh thổ của người Việt Cổ nên họ không chịu hy sinh quốùc thể để hòa đồng vào 
chính sách đồng hóa của kẻ thù. Từ trong các xóm làng Việt cổ, tổ tiên ta vẫn phát 
huy được những vốn liếng văn hóa của mình , những yếu tố nội sinh đã được tích 
lũy từ hàng ngàn năm trước. Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, đã diễn ra cuộc đấu 
tranh liên tục của người Việt để giữ vững bản sắc văn hóa của mình. Giữ được bản 
sắc văn hóa của mình thì ranh giới giữa ta và địch không bao giờ bị xóa nhòa. Ranh 
giới ấy còn thì cuộc đấu tranh giải phóng không bao giờ bị đập tắt. Sự đề kháng văn 
hóa diễn ra liên tục, thường xuyên. Sự đề kháng ấy thường là âm ỉ, nhưng hễ có điều 
kiện thì lập tức bùng nổ thành cuộc khởi nghĩa vũ trang.   
- Cuối cùng, người Việt đã linh hoạt thu nạp và dung hóa những cái hay, cái 
đẹp của các nền văn hóa bên ngoài kể cả nền văn hóa của dân tộc hiện đang thống  trị mình.   
Dẫu vậy, một thực tế khách quan trong tiến trình văn hóa của thời kỳ này có 
sự hội nhập, sự tiếp xúc, sự hỗn dung văn hóa. Đó là một quá trình năng động nhiều 
chiều, trong đó nền văn hóa Việt tiếp xúc và gặp gỡ lâu dài với văn hóa Hán phần 
nào chịu sự ảnh hưởng của văn hóa Hán, nên đã chuyển biến từ mô thức văn hóa 
Đông Sơn, văn minh Đông Sơn sang mô thức văn hóa mới trên tất cả các lĩnh vực 
văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần và thiết chế xã hội. Vì thế, trong tiến trình văn 
hóa Việt Nam thời kỳ này đã nảy sinh 2 khuynh hướng trái ngược sau đây: 
- Khuynh hướng Hán hóa: Khuynh hướng này thuộc về bọn đô hộ, tay sai và 
phần nào có tác dụng gần như vô thức đối với dân gian. 
- Khuynh hướng Việt hóa: Nhằm giữ lại tinh hoa văn hóa cổ truyền, đồng thời 
hấp thụ, hội nhập những yếu tố văn hóa bên ngoài theo yêu cầu của cuộc sống mới, 
từ đó có sự sắp xếp lại cấu trúc cho phù hợp với văn hóa Việt. Đây là khuynh hướng 
chủ đạo, tạo cơ sở cho sự phát triển không ngừng của nền văn hóa dân tộc, làm cho    Trang -46            
nền văn hóa dân tộc có đủ sức mạnh vật chất để chiến thắng sự nô dịch của kẻ thù 
về phương diện văn hóa.      CÂU HỎI ÔN TẬP   
1. Quá trình tiếp xúc và giao lưu với văn hóa bên ngoài diễn ra trong bối cảnh  lịch sử như thế nào? 
2. Giao lưu và tiếp biến với văn hóa Trung Quốc diễn ra như thế nào? Trình 
bày một số thành tựu minh họa cho quá trình này. 
3. Giao lưu và tiếp biến với văn hóa Ấn Độ diễn ra như thế nào? Trình bày một 
số thành tựu minh họa cho quá trình này. 
4. Trình bày quá trình du nhập Phật giáo và Nho giáo vào Việt Nam. 
5. Đứng trên gốc độ văn hóa, phân tích các nhân tố quan trọng đảm bảo cư dân 
Việt cổ chiến thắng được chính sách đồng hóa của phương Bắc.        -   -     Trang -47