Văn học và nghệ thuật ả rập - Lịch sử văn minh thế giới | Học viện Ngoại giao Việt Nam

Ngôn ngữ Ả Rập đã là ngôn ngữ của thơ ca, mượt mà, ý nhị và tinh tế. Người Ả Rập từ xưa đã yêu thơ họ nói cũng như thơ với giọng điệu du dương, lời lẽ giàu hình ảnh, ý tứ sâu sắc. Văn học Ả Rập có những dấu ấn đặc sắc, chủ yếu biểu hiện ở hai thể loại thơ và văn xuôi

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ & NGOẠI GIAO
BÁO CÁO
HỌC PHẦN: LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
Đề tài: Văn học và nghệ thuật nền văn minh
Ả rập
Giảng viên phụ trách: GS.TS Nguyễn Thái Yên Hương
Sinh viên thực hiện: Nhóm 19
Lê Chí Nam (QHQT49-C1-1327)
Trần Phạm Trà My (QHQT49-C1-1323)
Lớp: QHQTC1.4
22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập
about:blank
1/13
Mục Lục
1. Văn h c ................................................................................................................................................ 3
a. Văn h c r p tr c khi nhà n c r p ra đ i ướ ướ ...............................................................................3
b. Văn h c r p giai đo n gi a thếế k VII - gi a thếế k VIII .................................................................3
c. Văn h c r p giai đo n gi a thếế k VIII - gi a thếế k IX ..................................................................4
d. Văn h c r p n a sau thếế k IX .......................................................................................................6
e. Văn h c r p thếế k X - XII ..............................................................................................................6
2. Ngh thu t ........................................................................................................................................... 7
a. Âm nh c ...........................................................................................................................................8
b. H i h a: ........................................................................................................................................... 9
c. Ngh thu t t o hình: Ngh thu t viếết ch đ p (th pháp) và Arabesque ư .......................................9
d. Kiếến trúc........................................................................................................................................10
Tài li u tham kh o: ....................................................................................................................................12
1
22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập
about:blank
2/13
Bảng phân chia công việc
Họ và Tên Công việc
Lê Chí Nam Văn học Ả rập cổ đại
Trần Phạm Trà My Nghệ thuật Ả rập cổ đại
2
22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập
about:blank
3/13
1. Văn học
Ngôn ngữ Ả Rập đã là ngôn ngữ của thơ ca, mượt mà, ý nhị và tinh tế. Người Ả Rập từ xưa
đã yêu thơ họ nói cũng như thơ với giọng điệu du dương, lời lẽ giàu hình ảnh, ý tứ sâu sắc. Văn
học Ả Rập có những dấu ấn đặc sắc, chủ yếu biểu hiện ở hai thể loại thơ và văn xuôi.
a. Văn học Ả rập trước khi nhà nước Ả rập ra đời
Trước khi nhà nước Ả rập ra đời, trên bán đảo Ả rập có nhiều thơ ca truyền miệng. Lúc bấy
giờ, trong dân gian có rất nhiều thi sĩ. Họ thường ngâm thơ cho các bộ lạc du mục nghe. Người
Ả Rập thích những cảm xúc mạnh mẽ, nên thơ ca của họ rất giàu hình ảnh và chất trữ tình. Thời
đó chưa có in ấn vì vậy hầu hết các người Hồi giáo chỉ biết thứ văn thơ được nghe người ta ngâm
lên hoặc kể lại. Nội dung tư tưởng của thơ ca truyền miệng tiền Hồi giáo gắn liền với đặc trưng
sống của bộ lạc Bedouin (tộc người lớn nhất trên bán đảo Ả rập) và không vượt quá khuôn khổ
của những quan niệm chung chế độ thị tộc và bộ lạc. Thơ truyền miệng này là nền tảng và kiểu
mẫu để các nhà thơ Ả rập sau này bắt chước và kết hợp với những quan niệm mới của xã hội Ả
rập thời trung đại.
b. Văn học Ả rập giai đoạn giữa thế kỷ VII - giữa thế kỷ VIII
Bối cảnh:
Dưới triều của những caliph đầu tiên cai trị đến năm 661, đồng thời dưới triều đại của các
caliph thuộc vương triều Umayyad (661 – 750), người Ả Rập đã chinh phục được Lưỡng Hà,
Syria, Palestine, Iran, Ai Cập, Bắc Phi, bán đảo Pyrenees, Trung Á, một phần Tây Bắc Ấn Độ,
Armenia, Azerbaizhan và một phần Gruzia. Kết quả của các cuộc chinh phạt đó là việc hình
thành một đế quốc Caliphate rộng lớn. Sự xuất hiện những người Ả Rập du mục ở các vùng văn
minh cổ đại và sự tiếp xúc với các dân tộc có văn hóa cao dĩ nhiên đã tạo điều kiện cho sự phát
triển văn hóa và chính trị của những kẻ chinh phạt. Những người Bedouin hôm qua nhanh chóng
từ bỏ cuộc sống du mục trong các hoang mạc của bán đảo Arabia, chuyển sang sống định cư, tậu
đất đai và những tài sản khác và bắt đầu làm quen với những phúc lộc của nền văn minh đô thị.
Xu hướng văn học:
Trong giai đoạn này hai loại hình thơ chủ yếu là: thơ Chính trị và trữ tình. Thơ chính trị
được chia ra làm hai là Maddah (tụng ca) và Hija (thơ đả kích). Các đồng minh và đối thủ
Umayyad, cũng như những môn đồ của phái Hồi giáo đều có những nhà thơ của mình. Vị trí
trung tâm trong lĩnh vực thơ chính trị gồm: Al Akhtal (640 - 710), Al-Farazdaq (641-732) và
3
22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập
about:blank
4/13
Jarir (653-733). Hai nhà thơ Akhtal và Farazdaq có xuất thân là quý tộc và đứng về vương triều
cầm quyền trong khi đó Jarir xuất thân từ một dòng tộc nghèo và chống lại quan điểm của vương
triều thời đó. Khác với hai nhà thơ còn lại, Jarir đấu tranh vì sự bình đẳng giữa các dân tộc Ả rập
và các dân tộc bản địa Hồi giáo hóa. Ông là đối thủ cạnh tranh của hai nhà thơ Akhtal và
Farazda. Tác phẩm của ba nhà thơ này đã cung cấp cho các nhà sử học một kho tư liệu phong
phú về môi trường xã hội và chính trị của Hồi giáo trong đầu thế kỷ thứ VIII.
Thơ trữ tình thời đó cũng được chia làm hai khuynh hướng là khuynh hướng Bedouin và
khuynh hướng thị dân. Thơ tình Bedouin được sáng tác ở các bộ lạc du mục Arabia, truyền
thuyết kể rằng bộ lạc Uzr ở Hijaz nổi tiếng về khả năng làm thơ, từ bộ lạc này sinh ra cả loạt nhà
thơ. Các nhà thơ khuynh hướng Uzr ca ngợi tình yêu trinh bạch của những cặp tình nhân bất
hạnh bị bứt khỏi nhau bởi những luật lệ hà khắc của bộ lạc. Về khuynh hướng thị dân, nhà thơ thị
dân nổi tiếng nhất thời bấy giờ là Omar ibn Abi Rabia (665-712). Ông là bậc thầy của thơ trữ
tình và sử dụng ngôn từ giản dị, trong sáng, nhưng đồng thời rất gợi cảm. Đối thoại tình yêu là
thủ pháp nghệ thuật chính trong những tác phẩm của ông.
Văn xuôi trong giai đoạn này chưa được định hình. Vào giai đoạn này, các loại văn xuôi
phổ biến là tục ngữ, cách ngôn, ngụ ngôn, những bài hùng biện và cả những truyền thuyết và các
chiến tích anh hùng lịch sử Ả rập. Chúng được sưu tập trong nhiều tác phẩm của Kutaiba,
Rabikhi và nhiều nhà sưu tập khác.
c. Văn học Ả rập giai đoạn giữa thế kỷ VIII - giữa thế kỷ IX
Bối cảnh:
Thời kỳ từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XII là thời kỳ thịnh vượng trong lịch sử Ả rập dưới sự
trị vì của vương triều Abbasid. Từ giữa thế kỷ VIII đến giữa thế kỷ IX, là thời kỳ “Cách tân” đối
với nền văn học Ả Rập. Các nhà thơ sáng giá nhất thời kỳ này phần nào từ chối bắt chước mù
quáng những khuôn mẫu cũ kỹ của thơ ca cổ đại và mang vào tác phẩm của mình nội dung
đương đại sinh động. Các nhà thơ “Cách tân” tạo nên những thể loại mới và đưa vào những thể
loại truyền thống những chủ đề nghệ thuật mới. Nền tảng của “Cách tân” là cuộc đấu tranh chính
trị và tư tưởng diễn ra ở Caliphate giữa một bên là giới quý tộc Ả rập muốn giữ lại những truyền
thống Bedouin cổ xưa và bên kia là tầng lớp trí thức của các dân tộc bản địa, cả quý tộc lẫn thị
dân.
4
22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập
about:blank
5/13
Xu hướng văn học:
Điều kiện sinh hoạt xa hoa của giới cung đình trong một đất nước bị tan nát bởi các cuộc
chiến tranh, các cuộc khởi nghĩa và bởi sự tàn bạo những người cầm quyền đã làm nảy sinh hai
hướng cảm nhận thế giới đối lập nhau – hưởng thụ khoái lạc và bi quan khổ hạnh
Nhà thơ xuất sắc nhất trong thời kỳ “Cách tân” với khuynh hướng hưởng thụ khoái lạc là
Abu Nuwas (ông tóc xoăn) (756 –814). Abu Nuwas là người chống lại sự bắt chước các kiểu
mẫu thơ ca Bedouin cổ xưa và cố gắng khắc phục tình trạng xa rời đời sống đương đại của thơ
ca. Nhà thơ nổi tiếng với những bài tửu thi về rượu và lạc thú bên bàn tiệc. Ông công khai tuyên
bố ái mộ sự xa hoa của thành thị đương thời và cho phép mình buông những lời xúc phạm đến
những người Bedouin và đối với Hồi giáo. Về cuối đời ông cải hoá, trọng đạo đức, đi đâu cũng
mang theo một chuỗi hạt và kinh Koran. Những bài thơ của ông cũng thay đổi từ phóng đãng
thành những bài thơ mang tính chất giáo huấn, trong đó ông thể hiện sự ăn năn sám hối về cuộc
đời phóng đãng của mình.
Giữ một vị trí đặc biệt trong thơ ca giai đoạn đầu của thời đại Abbasid là nhà thơ thuộc
dòng “Cách tân” xuất sắc thứ hai Abu-l-Atakhya (750-828). Atakhya là nhà thơ nhìn vào thế giới
bằng cái nhìn triết học khổ hạnh, thế giới quan của ông hình thành như một phản ứng trước
những lối sống tự do ngập tràn Caliphate. Trong thơ ông vừa bóc trần sự phóng đãng đồi trụy
đang thịnh hành ở kinh đô Baghdad, vừa thể hiện, tuy gián tiếp, sự phê phán gay gắt lối sống của
giới quý tộc cung đình. Cũng như những nhà thơ “Cách tân” khác, ông chống lại sự khuôn mẫu,
thậm chí bất chấp những cơn giận dữ của các nhà ngữ văn học giáo điều mà vượt qua những
chuẩn mực thi pháp truyền thống, cho rằng mình “cao hơn mọi thi luật”. Chối bỏ sự hoa mỹ, cầu
kỳ, ông hướng tới tính đại chúng của ngôn ngữ thơ ca và tránh dùng những từ ngữ cổ.
Khởi đầu thời đại Abbasid được đánh dấu không chỉ bởi sự thay đổi tính chất thi ca, mà
còn là sự xuất hiện những thể loại văn xuôi mới. Người được coi là ông tổ của văn xuôi nghệ
thuật Ả rập là Abdallah ibn al-Mukaffa (724 – 759). Ông viết một số tác phẩm về các vấn đề
chính trị và thể chế nhà nước. Ông cũng dịch nhiều tác phẩm văn học từ tiếng Ba Tư sang tiếng
Ả rập.
Ả Rập đã lưu hành một tập truyện tên là “Kalila và Dimna”, có xuất xứ từ Ấn Độ mang
tên “Panchatantra”, được dịch ra tiếng Ả Rập bởi Mukaffa vào giữa thế kỉ VIII.
5
22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập
about:blank
6/13
d. Văn học Ả rập nửa sau thế kỷ IX
Bối cảnh:
Sự đa dạng về trình độ phát triển kinh tế và đa đạng về sắc tộc làm cho nhà nước Abbasid
trở thành một thể chế hết sức thiếu bền vững. Bị chia rẽ bởi các khuynh hướng ly khai ở các tỉnh,
đế quốc Caliphate, sau một thời gian ngắn có được sự ổn định chính trị tương đối, đã bắt đầu tan
rã vào từ cuối thế kỷ VIII, chính truyền trung ương để mất uy tín trước kia và trong các tỉnh đã
hình thành những quốc gia tự trị.
Xu hướng văn học:
Thơ ca tiền Hồi giáo giờ đây được tiếp nhận như cội nguồn của những lý tưởng nghệ
thuật và đạo đức, đối lập với tinh thần khủng hoảng, đôi lúc hoài nghi yếm thế của các nhà thơ
giai đoạn trước. Trong quá khứ anh hùng và trong văn hóa cổ xưa của những người Ả rập
Bedouin, giới quý tộc cầm quyền muốn tìm kiếm sự nâng đỡ cho uy tín đạo đức và chính trị đang
bị suy yếu của những kẻ chinh phục.
Vì nhu cầu đó, lối thơ truyền thống lại được phát triển. Phục hưng các truyền thống cổ
xưa, các nhà thơ và nhà văn thế kỷ IX đồng thời là những học giả ngữ văn học, những người lập
nên những bộ hợp tuyển thơ ca Ả Rập cổ đại đầu tiên như Abu Tammam và al-Buhturi. Abu
Tammam đã sưu tầm và hiệu đính thành một tác phẩm gồm hai tập lấy đề là Anh Dũng Ca trong
đó bao gồm các tác phẩm của hơn 500 thi sĩ thời xưa.
Buhturi cũng là một nhà thơ cung đình nổi tiếng. Những bài thơ của ông miêu tả thiên
nhiên và các đền đài, cung điện, … như những bức tranh mỹ lệ với đầy những ẩn dụ, hoán dụ
phức tạp. Theo gương người thầy của mình Abu Tammam, al-Buhturi lập hợp tuyển thơ ca Ả rập
cũng được mang tên “Kitab al-khamas”, và cũng như hợp tuyển của Abu Tammam, nó trở thành
một nguồn tư liệu quan trọng về thơ ca cổ Ả rập cho nhiều thế kỷ sau.
e. Văn học Ả rập thế kỷ X - XII
Bối cảnh:
Vào thế kỷ X, các caliph ở Baghdad mất nốt những tàn dư quyền lực cuối cùng. Sự sụp
đổ của Caliphate lại được phản ánh trong tình hình văn học theo hướng thuận lợi, và thời kỳ từ
thế kỷ X đến thế kỷ XII trở thành một trong những thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của văn học.
6
22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập
about:blank
7/13
Cuộc đấu tranh gay gắt trong mọi lĩnh vực tư tưởng liên quan tới sự phát triển của các giáo phái
và các thuyết tà giáo đã tạo sức bật cho những hoạt động tinh thần đa dạng phong phú.
Xu hướng văn học:
Sự hưng thịnh của văn học Ả Rập thế kỷ X – XII gắn liền với tính chất đa bộ lạc của văn
hóa Caliphate. Văn học thời kỳ này là kết quả của hoạt động tinh thần của nhiều dân tộc được
viết bằng ngôn ngữ Ả Rập.
Trong thời kỳ này nhiều nhà thơ nổi tiếng xuất hiện nhưng chiếm vị trí nổi bật nhất thời
đó là Al Maari (973 - 1057). Ông năm 4 tuổi bị đậu mùa nên bị mù nhưng ông vẫn cố gắng siêng
năm học tập và đã trở thành một nhà thơ lớn hồi giữa thế kỉ XI. Nhà thơ Al Maari theo chủ nghĩa
khắc kỷ, ông không ngâm vịnh mỹ nữ và chiến tranh như các thi nhân khác mà thường bàn luận
về vấn đề triết lí như Chúa có không, có kiếp sau không, đời có đáng sống không, có nên theo
những lời phán bảo của Chúa không? Ông còn phê phán cả xã hội đương thời vì chỗ đó đầy rẫy
sự xấu xa và tốt nhất con người ta không nên được sinh ra. Ông được mệnh danh “nhà triết học
trong nhà thơ và nhà thơ trong nhà triết học”
Một nhà thơ khác cũng không kém phần nổi tiếng là Al Mutanabbi ( 915 – 965). Ông
được xem là thi sĩ tài nhất của người Ả Rập. Ông viết về nhiều nội dung rất đa dạng: lúc thì ca
tụng lòng quả cảm của bản thân, lúc thì nói lên nỗi buồn thất vọng, lúc thì ca ngợi cung đình.
Thơ ông sắc sảo, nhiều hình ảnh, nên vừa phổ biến ở Ả Rập nhưng cũng khó mà dịch ra được.
Về văn xuôi, vào thời kỳ này đã hình thành nên tác phẩm nổi tiếng nhất của nền văn học
Ả rập đó là bộ “Nghìn lẻ một đêm”. Tác phẩm này bắt nguồn từ một tập sách Ba Tư với nhan đề
“Hazar Afsama” (Ngàn truyện) rồi dần dần được bổ sung thêm nhiều thần thoại, truyền thuyết,
truyền kỳ của Ấn Độ, Ai Cập, Hy Lạp... Tập truyện phản ánh tất cả mọi mặt trong cuộc sống,
phong tục tập quán, thói quen tham tàn của bọn vua quan thống trị và ước nguyện của nhân dân
trong đế quốc Ả Rập. Đồng thời phản ánh sức tưởng tượng phong phú và óc sáng tạo tuyệt vời
của người Ả Rập.
2. Nghệ thuật
Khi nhà nước Ả Rập mới ra đời, cơ sở nghệ thuật của người Ả Rập còn khá nghèo nàn vì
mới thoát thai từ kinh tế du mục và buôn bán. Ngoài ra, Muhammad còn cấm điêu khắc và hội
họa vì ông sợ hai môn nghệ thuật này sẽ dẫn đến sự sùng bái ảnh tượng. Ông cấm dùng tơ lụa
7
22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập
about:blank
8/13
đẹp, các đồ trang sức đẹp làm bằng vàng bạc vì không muốn người dân ham thú vui khoái lạc mà
sinh ra đồi bại. Ngay cả âm nhạc cũng bị cấm ở Ả Rập vì tương truyền, Muhammad cho rằng lời
ca, điệu vũ của phụ nữ, tiếng nhạc cụ giống như là tiếng dụ dỗ của quỷ sứ để đày con người
xuống địa ngục. Chính những điều này đã làm cho nghệ thuật bị hạn chế. Về sau, nhờ sự bành
trướng, mở rộng về lãnh thổ của đế quốc Ả Rập, những cấm đoán dần được nới lỏng, đồng thời
đã học tập nghệ thuật của Ai Cập, Lưỡng Hà, Ba Tư, Byzantine, nghệ thuật Ả Rập có những tiến
bộ đáng kể, thăng hoa và đạt được những thành tựu rực rỡ.
a. Âm nhạc
Các nhà thần học và bốn trường phái luật chính đều chê bai âm nhạc là kích thích dục
tình nhưng một số khác cho rằng lối sống của con người luôn luôn lành mạnh hơn tín ngưỡng
của họ nên người Ả Rập có câu tục ngữ này: “Rượu như thể xác, âm nhạc như linh hồn, nhờ hai
cái đó mà đời sống mới vui vẻ”. Từ đó về sau, âm nhạc mới được mọi người ham mê tập luyện
nhưng thân phận các nhạc sĩ và ca nữ vẫn rất thấp kém, trừ một số rất nổi danh và giới thượng
lưu cũng ít ai chịu học bộ môn nghệ thuật này. Về sau, do chịu ảnh hưởng của Hy Lạp và Ba Tư
nên mới bớt thái độ khinh thường nhạc sĩ. Vua ở các triều đại Umayyad và Abbasside cũng
thưởng các nhạc sĩ tài năng rất rộng rãi. Có thể một vài người thấy nhạc Ả Rập thường đơn điệu,
buồn tẻ và nghe có vẻ hơi kỳ cục nhưng chính người Ả Rập lại cho rằng âm nhạc phương Tây
thiếu tế nhị, rắc rối, ồn ào, khác với sự dịu dàng, trầm tĩnh, đa cảm của âm nhạc nơi này. Bởi vậy,
theo lời của một một sử gia rất có tài thì “so với Ả Rập, mọi xứ khác không đáng gọi là tôn trọng
nghệ thuật, vì chỉ ở Ả Rập âm nhạc mới được mọi người ham mê luyện tập”. Có lẽ vì thế
“không một người phương Tây nào có thể hoàn toàn thưởng thức được âm nhạc Ả Rập nếu
không được luyện tai trong một thời gian lâu”. [3, 291]
Ngoài ra, lúc đầu âm nhạc Ả Rập thường dùng những thể và âm điệu cổ của người
Semite; nó phát triển thêm khi tiếp xúc với các điệu Hy Lạp mà gốc cũng từ châu Á; sau cùng
chịu ảnh hưởng mạnh của Ba Tư và Ấn Độ. Học mượn của Hy Lạp một lối ký âm và phần lớn lý
thuyết âm nhạc. Cuốn “The Great Book of Music” của al Farabi là một tác phẩm chính thời
Trung cổ về lý thuyết âm nhạc. Ông cũng viết một cuốn sách tên là “Đại thư âm nhạc”, chép tất
cả tiểu sử các nhà thơ, nhà soạn nhạc, ca sĩ, các loại nhạc cụ, nhịp, điệu và âm của các lời bài hát.
Thậm chí người Ả Rập cũng đã viết về thứ âm nhạc “có thể đo được” khi từ thế kỉ VII, người
Arab đã biết cách ký âm thể hiện độ cao và độ dài của các nốt nhạc trong khi đó người châu u
phải đến cuối thế kỉ XII mới bắt đầu biết đến.
8
22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập
about:blank
9/13
Thêm vào đó, người Ả Rập cũng có đến hàng trăm loại nhạc cụ như đàn luth, đàn lyre,
sáo, trống, chũm chọe, tù và,… Thông thường, người ta chỉ chơi khoảng bốn, năm nhạc cụ một
lần nhưng cũng có khi là một cuộc đại hoà tấu. Tương truyền, nhạc sĩ người Ả Rập Suryal ở
Medina là người đầu tiên sử dụng cây đũa nhạc trưởng để điều khiển dàn nhạc trong các cuộc đại
hòa tấu. Ngay cả Hồi giáo, trước đó mạt sát âm nhạc sau cũng đã sử dụng nó trong các buổi lễ.
b. Hội họa:
Tuy hội họa bị cấm nhưng một số nhà thần học nới tay hơn, cho phép họa sĩ vẽ các vật vô
tri. Có nhà còn cho phép vẽ hình người hoặc sinh vật trên những đồ thường dùng, không phải đồ
cúng tế. Một số vua triều đại Umayyad thì không cấm đoán gì cả như vua Walid đệ nhất trang
hoàng cung điện mùa hè của ông bằng những bức họa vẽ người đi săn, vũ nữ,… Các vua triều
đại Abbasside tuy mộ đạo nhưng trong cung điện cũng treo hình, vẽ hình. Tuy nhiên dân chúng
cũng phải giữ đúng phép tắc, có khi phải phá hủy những tác phẩm đó và những nghệ sĩ thì phải
hoàn toàn tùy thuộc vào sự bảo hộ của vua chúa và giới quý phái.
Dù hầu hết các bức họa thời ấy đã bị mất nhưng tiểu họa của Hồi giáo vẫn được liệt vào
hạng đẹp và công phu nhất thế giới. Nó tô điểm cho các bản viết tay những bức họa nhiều màu,
là một nghệ thuật chỉ dành riêng cho giới quý phái. Ta có thể chiêm ngưỡng những bức tiểu họa
này trong cuốn sách Khamsa hay Panj Ganj của Nizami Ganjavi, được sáng tác đặc biệt cho nhà
cai trị Safavid là Shah Tahmasp. Những bức tranh trong cuốn sách này đã mô tả cuộc hành trình
lên thiên đường của Nhà tiên tri Muhammad trên con chiến mã thiên thần mang tên Buraq.
c. Nghệ thuật tạo hình: Nghệ thuật viết chữ đẹp (thư pháp) và
Arabesque
Chính vì sự nghiêm cấm điêu khắc và hội họa của Hồi giáo nên hai môn nghệ thuật này
mới được ra đời và phát triển.
Nghệ thuật viết chữ đẹp của người Ả Rập hay còn gọi là thư pháp, thường được dùng để
chép kinh Qur’an, trang trí các đền thờ và các công trình kiến trúc Hồi giáo, sách vở và các đồ
vật khác.
Có 2 loại chữ để viết thư pháp: Kufic và chữ thảo. Chữ Kufic được phát triển từ rất sớm.
Đến khoảng thế kỉ X, chữ thảo, đặc biệt là chữ Naskh ra đời và dần lấn át lối chữ Kufic, trừ trong
các đền đài và trên các đồ gốm; hầu hết các sách Hồi giáo thời Trung Cổ còn lại đến nay đều viết
bằng chữ Naskh; mà hầu hết những sách đó đều là kinh Qur'an. Thời điểm đó, những thư gia rất
được tôn trọng. Họ thường được tặng những số tiền rất lớn và đa phần hạng vua chúa đại thần
cũng đều là những người giỏi về thư pháp.
9
22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập
about:blank
10/13
Nghệ thuật viết chữ đẹp của người Ả Rập có ảnh hưởng tới nghệ thuật châu u bởi có
nhiều hoạ sĩ cũng đã đưa chữ Ả Rập vào trong các bức tranh của mình. Trong đó có bức
“Coronation of the Virgin” của hoạ sĩ Filippo Lippi (1406- 1469), hiện được trưng bày ở bảo
tàng Uffizi của Florence, các thiên thần trong tranh đang cùng nhau nâng một dải khăn voan dài
thướt tha được trang trí bởi những dòng chữ Ả Rập. Vào ngày 14/12/2021, UNESCO cũng đã
thông qua và ghi danh 9 di sản trong Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại,
trong đó có nghệ thuật thư pháp Ả Rập.
Nghệ thuật Arabesque là một loại hình hội họa trang trí với những dây leo uốn lượn cầu
kì và những mô típ tượng trưng trừu tượng hình cong với những họa tiết hình học phức tạp như
hình đa giác, hình trôn ốc, mặt cầu kết hợp lại với nhau. Họ vẽ rồi chạm nổi, rồi khắc các hình
ấy. Ta có thể thấy các họa tiết này trên rất nhiều đồ vật của người Ả Rập như bìa sách, đồ thuỷ
tinh, lụa, đồ gốm.
Đạo Hồi cấm ảnh tượng nên mĩ thuật hầu như mấy không phát triển, bởi vậy, nghệ thuật
trang trí Arabesque được thể hiện rất phong phú và tuyệt vời tới nỗi tưởng chừng như từng phân
của bức tranh cũng đầy những hoạ tiết phức tạp, được vẽ hết sức cầu kỳ và vô cùng đẹp mắt.
Ngoài ra, nghệ thuật trang trí Arabesque còn được bắt gặp rất nhiều ở các đền đài, cung điện,
thánh thất Hồi giáo.
d. Kiến trúc
Nghệ thuật Ả Rập thể hiện chủ yếu ở kiến trúc độc đáo, điêu khắc đa dạng, lạ mắt, trang
hoàng rực rỡ bằng những lớp tráng giả đá hoa hoặc những hình trang trí ghép mảnh, tranh tường,
được trạm trổ tinh vi khéo léo qua nghệ thuật viết chữ đẹp và Arabesque.
Các kiến trúc thường tuân theo thiết kế ban đầu của ngôi nhà của Muhammad ở Medina
đó là sân và các gian phòng đều được che kín. Thành tích về kiến trúc chủ yếu biểu hiện ở cung
điện và thánh thất Hồi giáo. Tương truyền rằng các cung điện rất tráng lệ nhưng hiện nay đã
không còn tồn tại nữa. Ví dụ như thời Umayyad, Adu al-Dawla đã cho xây dựng tòa cung điện có
360 phòng để mỗi phòng có thể dành cho một ngày, một thư viện 2 tầng với vô vàn loại sách
khác nhau cùng cửa tò vò và các khung vòm lớn.
Thánh thất - đền thờ Hồi giáo thì được xây cất công phu và trang hoàng vô cùng
rực rỡ vì người Hồi giáo quan niệm rằng nhà cửa để ở chỉ trong một kiếp người thì thế nào cũng
được nhưng nhà của Allah thì nhất định phải được trang hoàng cho đẹp. Thế nên họ bỏ rất nhiều
công sức và của cải để xây cất, đem nghệ thuật trải dưới chân Allah như một tấm thảm mà ai
10
22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập
about:blank
11/13
cũng có thể chiêm ngưỡng được tấm thảm đẹp ấy. Do đó, những thành tựu nổi bật nhất của kiến
trúc Ả Rập đó chính là những thánh thất và đền thờ Hồi giáo. Các đền thờ thường được kiến trúc
theo hình vuông hoặc hình chữ nhật, xung quanh là nhiều hành lang cùng cửa vòng nguyệt và
một ngọn tháp.
Có rất nhiều thánh đường nổi tiếng ở Mecca, Medina, Cordoba, Jerusalem,
Damascus, Baghdad… nhưng có lẽ nổi tiếng hơn cả là Dome of the Rock - biểu tượng bền vững
của Jerusalem. Được xây dựng vào khoảng năm 690 sau công nguyên, người ta tin rằng, từ nơi
đây, nhà tiên tri Muhammad đã bay lên thiên đàng trên con ngựa có cánh. Giáo đường chính là
Al-Aqsa nằm về phía nam của đền thờ này. Đền phần dưới có hình bát giác, phía trên là một mái
vòm tròn theo kiến trúc Byzance và vẫn còn nguyên vẹn đến nay.
Tài liệu tham khảo:
1. Vũ D ng Ninh (ch biến), L ch s văn minh thếế gi i, NXB Giáo d c Vi t Namươ
11
22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập
about:blank
12/13
2. Nguyếễn Văn Ánh (ch biến), L ch s văn minh thếế gi i, NXB Giáo d c Vi t Nam
3. Will Durant (Nguyếễn Hiếến Lế d ch) (2004), L ch s văn minh R p, NXB Văn hóa - Thông
tin.
4. I.M. Filshtinsky, Arabic literature, NXB Nauka
5. Báo, H. (2020). Myễ thu t MS. Bôế C c và H a Tiếết Trong Ngh Thu t Trang Trí Islam.
https://mythuatms.com/hoc-ve--d2059.html?
fbclid=IwAR001D8y8iqQCipJgMRRy21QnkR7iijLH8IsEpEU-gRioX37-ZG8A_KjXiU
6. Anh, D. (n.d.). Ghi danh di s n văn hóa phi v t th vào các Danh sách c a UNESCO.
Dsvh.gov.vn. Retrieved November 15, 2022, from http://dsvh.gov.vn/ghi-danh-di-san-
van-hoa-phi-vat-the-vao-cac-danh-sach-cua-unesco-3428?
fbclid=IwAR2Hfu5JKe1xfxfzuI5CzwrCigog2vVSI6FWWpgsgqJz53UCaGSyWvYpr_A
7. British Library. (n.d.). Www.bl.uk. Retrieved November 13, 2022, from
https://www.bl.uk/collection-items/khamsah-of-nizami?
fbclid=IwAR01xEY6OSM9UlIqXcqK7Xs_hBAsX1joCasgQN-lkvNtAKhniTU519XAJYU
12
22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập
about:blank
13/13
| 1/13

Preview text:

22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ & NGOẠI GIAO BÁO CÁO
HỌC PHẦN: LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
Đề tài: Văn học và nghệ thuật nền văn minh Ả rập
Giảng viên phụ trách: GS.TS Nguyễn Thái Yên Hương
Sinh viên thực hiện: Nhóm 19 Lê Chí Nam (QHQT49-C1-1327)
Trần Phạm Trà My (QHQT49-C1-1323) Lớp: QHQTC1.4 about:blank 1/13 22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập Mục Lục 1. Văn h c
ọ ................................................................................................................................................ 3 a. Văn h c ọ r Ả p tr ậ c khi nhà n ướ c ướ r Ả p r ậ a đ i
ờ ...............................................................................3 b. Văn h c ọ rẢp giai đo ậ n gi ạ a thếế k ữ VII - gi ỷ a thếế k ữ VIII ỷ
.................................................................3 c. Văn h c ọ rẢp giai đo ậ n gi ạ a thếế k ữ VIII - gi ỷ a thếế k ữ IX
ỷ ..................................................................4 d. Văn h c ọ r Ả p n ậ a sau thếế k ử IX
ỷ .......................................................................................................6 e. Văn h c ọ r Ả p thếế k ậ X - XII ỷ
..............................................................................................................6 2. Nghệ thu t
ậ ........................................................................................................................................... 7 a. Âm nh c
ạ ........................................................................................................................................... 8 b. Hội h a:
ọ ........................................................................................................................................... 9 c. Ngh thu ệ t t ậ o hình: Ngh ạ thu ệ t v ậ iếết ch đ ữ p ( ẹ th pháp) và ư
Arabesque.......................................9 d.
Kiếến trúc........................................................................................................................................10 Tài li u tham kh ệ o:
ả ....................................................................................................................................12 1 about:blank 2/13 22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập Bảng phân chia công việc Họ và Tên Công việc Lê Chí Nam
Văn học Ả rập cổ đại Trần Phạm Trà My
Nghệ thuật Ả rập cổ đại 2 about:blank 3/13 22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập 1. Văn học
Ngôn ngữ Ả Rập đã là ngôn ngữ của thơ ca, mượt mà, ý nhị và tinh tế. Người Ả Rập từ xưa
đã yêu thơ họ nói cũng như thơ với giọng điệu du dương, lời lẽ giàu hình ảnh, ý tứ sâu sắc. Văn
học Ả Rập có những dấu ấn đặc sắc, chủ yếu biểu hiện ở hai thể loại thơ và văn xuôi.
a. Văn học Ả rập trước khi nhà nước Ả rập ra đời
Trước khi nhà nước Ả rập ra đời, trên bán đảo Ả rập có nhiều thơ ca truyền miệng. Lúc bấy
giờ, trong dân gian có rất nhiều thi sĩ. Họ thường ngâm thơ cho các bộ lạc du mục nghe. Người
Ả Rập thích những cảm xúc mạnh mẽ, nên thơ ca của họ rất giàu hình ảnh và chất trữ tình. Thời
đó chưa có in ấn vì vậy hầu hết các người Hồi giáo chỉ biết thứ văn thơ được nghe người ta ngâm
lên hoặc kể lại. Nội dung tư tưởng của thơ ca truyền miệng tiền Hồi giáo gắn liền với đặc trưng
sống của bộ lạc Bedouin (tộc người lớn nhất trên bán đảo Ả rập) và không vượt quá khuôn khổ
của những quan niệm chung chế độ thị tộc và bộ lạc. Thơ truyền miệng này là nền tảng và kiểu
mẫu để các nhà thơ Ả rập sau này bắt chước và kết hợp với những quan niệm mới của xã hội Ả rập thời trung đại.
b. Văn học Ả rập giai đoạn giữa thế kỷ VII - giữa thế kỷ VIII Bối cảnh:
Dưới triều của những caliph đầu tiên cai trị đến năm 661, đồng thời dưới triều đại của các
caliph thuộc vương triều Umayyad (661 – 750), người Ả Rập đã chinh phục được Lưỡng Hà,
Syria, Palestine, Iran, Ai Cập, Bắc Phi, bán đảo Pyrenees, Trung Á, một phần Tây Bắc Ấn Độ,
Armenia, Azerbaizhan và một phần Gruzia. Kết quả của các cuộc chinh phạt đó là việc hình
thành một đế quốc Caliphate rộng lớn. Sự xuất hiện những người Ả Rập du mục ở các vùng văn
minh cổ đại và sự tiếp xúc với các dân tộc có văn hóa cao dĩ nhiên đã tạo điều kiện cho sự phát
triển văn hóa và chính trị của những kẻ chinh phạt. Những người Bedouin hôm qua nhanh chóng
từ bỏ cuộc sống du mục trong các hoang mạc của bán đảo Arabia, chuyển sang sống định cư, tậu
đất đai và những tài sản khác và bắt đầu làm quen với những phúc lộc của nền văn minh đô thị. Xu hướng văn học:
Trong giai đoạn này hai loại hình thơ chủ yếu là: thơ Chính trị và trữ tình. Thơ chính trị
được chia ra làm hai là Maddah (tụng ca) và Hija (thơ đả kích). Các đồng minh và đối thủ
Umayyad, cũng như những môn đồ của phái Hồi giáo đều có những nhà thơ của mình. Vị trí
trung tâm trong lĩnh vực thơ chính trị gồm: Al Akhtal (640 - 710), Al-Farazdaq (641-732) và 3 about:blank 4/13 22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập
Jarir (653-733). Hai nhà thơ Akhtal và Farazdaq có xuất thân là quý tộc và đứng về vương triều
cầm quyền trong khi đó Jarir xuất thân từ một dòng tộc nghèo và chống lại quan điểm của vương
triều thời đó. Khác với hai nhà thơ còn lại, Jarir đấu tranh vì sự bình đẳng giữa các dân tộc Ả rập
và các dân tộc bản địa Hồi giáo hóa. Ông là đối thủ cạnh tranh của hai nhà thơ Akhtal và
Farazda. Tác phẩm của ba nhà thơ này đã cung cấp cho các nhà sử học một kho tư liệu phong
phú về môi trường xã hội và chính trị của Hồi giáo trong đầu thế kỷ thứ VIII.
Thơ trữ tình thời đó cũng được chia làm hai khuynh hướng là khuynh hướng Bedouin và
khuynh hướng thị dân. Thơ tình Bedouin được sáng tác ở các bộ lạc du mục Arabia, truyền
thuyết kể rằng bộ lạc Uzr ở Hijaz nổi tiếng về khả năng làm thơ, từ bộ lạc này sinh ra cả loạt nhà
thơ. Các nhà thơ khuynh hướng Uzr ca ngợi tình yêu trinh bạch của những cặp tình nhân bất
hạnh bị bứt khỏi nhau bởi những luật lệ hà khắc của bộ lạc. Về khuynh hướng thị dân, nhà thơ thị
dân nổi tiếng nhất thời bấy giờ là Omar ibn Abi Rabia (665-712). Ông là bậc thầy của thơ trữ
tình và sử dụng ngôn từ giản dị, trong sáng, nhưng đồng thời rất gợi cảm. Đối thoại tình yêu là
thủ pháp nghệ thuật chính trong những tác phẩm của ông.
Văn xuôi trong giai đoạn này chưa được định hình. Vào giai đoạn này, các loại văn xuôi
phổ biến là tục ngữ, cách ngôn, ngụ ngôn, những bài hùng biện và cả những truyền thuyết và các
chiến tích anh hùng lịch sử Ả rập. Chúng được sưu tập trong nhiều tác phẩm của Kutaiba,
Rabikhi và nhiều nhà sưu tập khác.
c. Văn học Ả rập giai đoạn giữa thế kỷ VIII - giữa thế kỷ IX Bối cảnh:
Thời kỳ từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XII là thời kỳ thịnh vượng trong lịch sử Ả rập dưới sự
trị vì của vương triều Abbasid. Từ giữa thế kỷ VIII đến giữa thế kỷ IX, là thời kỳ “Cách tân” đối
với nền văn học Ả Rập. Các nhà thơ sáng giá nhất thời kỳ này phần nào từ chối bắt chước mù
quáng những khuôn mẫu cũ kỹ của thơ ca cổ đại và mang vào tác phẩm của mình nội dung
đương đại sinh động. Các nhà thơ “Cách tân” tạo nên những thể loại mới và đưa vào những thể
loại truyền thống những chủ đề nghệ thuật mới. Nền tảng của “Cách tân” là cuộc đấu tranh chính
trị và tư tưởng diễn ra ở Caliphate giữa một bên là giới quý tộc Ả rập muốn giữ lại những truyền
thống Bedouin cổ xưa và bên kia là tầng lớp trí thức của các dân tộc bản địa, cả quý tộc lẫn thị dân. 4 about:blank 5/13 22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập Xu hướng văn học:
Điều kiện sinh hoạt xa hoa của giới cung đình trong một đất nước bị tan nát bởi các cuộc
chiến tranh, các cuộc khởi nghĩa và bởi sự tàn bạo những người cầm quyền đã làm nảy sinh hai
hướng cảm nhận thế giới đối lập nhau – hưởng thụ khoái lạc và bi quan khổ hạnh
Nhà thơ xuất sắc nhất trong thời kỳ “Cách tân” với khuynh hướng hưởng thụ khoái lạc là
Abu Nuwas (ông tóc xoăn) (756 –814). Abu Nuwas là người chống lại sự bắt chước các kiểu
mẫu thơ ca Bedouin cổ xưa và cố gắng khắc phục tình trạng xa rời đời sống đương đại của thơ
ca. Nhà thơ nổi tiếng với những bài tửu thi về rượu và lạc thú bên bàn tiệc. Ông công khai tuyên
bố ái mộ sự xa hoa của thành thị đương thời và cho phép mình buông những lời xúc phạm đến
những người Bedouin và đối với Hồi giáo. Về cuối đời ông cải hoá, trọng đạo đức, đi đâu cũng
mang theo một chuỗi hạt và kinh Koran. Những bài thơ của ông cũng thay đổi từ phóng đãng
thành những bài thơ mang tính chất giáo huấn, trong đó ông thể hiện sự ăn năn sám hối về cuộc
đời phóng đãng của mình.
Giữ một vị trí đặc biệt trong thơ ca giai đoạn đầu của thời đại Abbasid là nhà thơ thuộc
dòng “Cách tân” xuất sắc thứ hai Abu-l-Atakhya (750-828). Atakhya là nhà thơ nhìn vào thế giới
bằng cái nhìn triết học khổ hạnh, thế giới quan của ông hình thành như một phản ứng trước
những lối sống tự do ngập tràn Caliphate. Trong thơ ông vừa bóc trần sự phóng đãng đồi trụy
đang thịnh hành ở kinh đô Baghdad, vừa thể hiện, tuy gián tiếp, sự phê phán gay gắt lối sống của
giới quý tộc cung đình. Cũng như những nhà thơ “Cách tân” khác, ông chống lại sự khuôn mẫu,
thậm chí bất chấp những cơn giận dữ của các nhà ngữ văn học giáo điều mà vượt qua những
chuẩn mực thi pháp truyền thống, cho rằng mình “cao hơn mọi thi luật”. Chối bỏ sự hoa mỹ, cầu
kỳ, ông hướng tới tính đại chúng của ngôn ngữ thơ ca và tránh dùng những từ ngữ cổ.
Khởi đầu thời đại Abbasid được đánh dấu không chỉ bởi sự thay đổi tính chất thi ca, mà
còn là sự xuất hiện những thể loại văn xuôi mới. Người được coi là ông tổ của văn xuôi nghệ
thuật Ả rập là Abdallah ibn al-Mukaffa (724 – 759). Ông viết một số tác phẩm về các vấn đề
chính trị và thể chế nhà nước. Ông cũng dịch nhiều tác phẩm văn học từ tiếng Ba Tư sang tiếng Ả rập.
Ả Rập đã lưu hành một tập truyện tên là “Kalila và Dimna”, có xuất xứ từ Ấn Độ mang
tên “Panchatantra”, được dịch ra tiếng Ả Rập bởi Mukaffa vào giữa thế kỉ VIII. 5 about:blank 6/13 22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập
d. Văn học Ả rập nửa sau thế kỷ IX Bối cảnh:
Sự đa dạng về trình độ phát triển kinh tế và đa đạng về sắc tộc làm cho nhà nước Abbasid
trở thành một thể chế hết sức thiếu bền vững. Bị chia rẽ bởi các khuynh hướng ly khai ở các tỉnh,
đế quốc Caliphate, sau một thời gian ngắn có được sự ổn định chính trị tương đối, đã bắt đầu tan
rã vào từ cuối thế kỷ VIII, chính truyền trung ương để mất uy tín trước kia và trong các tỉnh đã
hình thành những quốc gia tự trị. Xu hướng văn học:
Thơ ca tiền Hồi giáo giờ đây được tiếp nhận như cội nguồn của những lý tưởng nghệ
thuật và đạo đức, đối lập với tinh thần khủng hoảng, đôi lúc hoài nghi yếm thế của các nhà thơ
giai đoạn trước. Trong quá khứ anh hùng và trong văn hóa cổ xưa của những người Ả rập
Bedouin, giới quý tộc cầm quyền muốn tìm kiếm sự nâng đỡ cho uy tín đạo đức và chính trị đang
bị suy yếu của những kẻ chinh phục.
Vì nhu cầu đó, lối thơ truyền thống lại được phát triển. Phục hưng các truyền thống cổ
xưa, các nhà thơ và nhà văn thế kỷ IX đồng thời là những học giả ngữ văn học, những người lập
nên những bộ hợp tuyển thơ ca Ả Rập cổ đại đầu tiên như Abu Tammam và al-Buhturi. Abu
Tammam đã sưu tầm và hiệu đính thành một tác phẩm gồm hai tập lấy đề là Anh Dũng Ca trong
đó bao gồm các tác phẩm của hơn 500 thi sĩ thời xưa.
Buhturi cũng là một nhà thơ cung đình nổi tiếng. Những bài thơ của ông miêu tả thiên
nhiên và các đền đài, cung điện, … như những bức tranh mỹ lệ với đầy những ẩn dụ, hoán dụ
phức tạp. Theo gương người thầy của mình Abu Tammam, al-Buhturi lập hợp tuyển thơ ca Ả rập
cũng được mang tên “Kitab al-khamas”, và cũng như hợp tuyển của Abu Tammam, nó trở thành
một nguồn tư liệu quan trọng về thơ ca cổ Ả rập cho nhiều thế kỷ sau.
e. Văn học Ả rập thế kỷ X - XII Bối cảnh:
Vào thế kỷ X, các caliph ở Baghdad mất nốt những tàn dư quyền lực cuối cùng. Sự sụp
đổ của Caliphate lại được phản ánh trong tình hình văn học theo hướng thuận lợi, và thời kỳ từ
thế kỷ X đến thế kỷ XII trở thành một trong những thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của văn học. 6 about:blank 7/13 22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập
Cuộc đấu tranh gay gắt trong mọi lĩnh vực tư tưởng liên quan tới sự phát triển của các giáo phái
và các thuyết tà giáo đã tạo sức bật cho những hoạt động tinh thần đa dạng phong phú. Xu hướng văn học:
Sự hưng thịnh của văn học Ả Rập thế kỷ X – XII gắn liền với tính chất đa bộ lạc của văn
hóa Caliphate. Văn học thời kỳ này là kết quả của hoạt động tinh thần của nhiều dân tộc được
viết bằng ngôn ngữ Ả Rập.
Trong thời kỳ này nhiều nhà thơ nổi tiếng xuất hiện nhưng chiếm vị trí nổi bật nhất thời
đó là Al Maari (973 - 1057). Ông năm 4 tuổi bị đậu mùa nên bị mù nhưng ông vẫn cố gắng siêng
năm học tập và đã trở thành một nhà thơ lớn hồi giữa thế kỉ XI. Nhà thơ Al Maari theo chủ nghĩa
khắc kỷ, ông không ngâm vịnh mỹ nữ và chiến tranh như các thi nhân khác mà thường bàn luận
về vấn đề triết lí như Chúa có không, có kiếp sau không, đời có đáng sống không, có nên theo
những lời phán bảo của Chúa không? Ông còn phê phán cả xã hội đương thời vì chỗ đó đầy rẫy
sự xấu xa và tốt nhất con người ta không nên được sinh ra. Ông được mệnh danh “nhà triết học
trong nhà thơ và nhà thơ trong nhà triết học”
Một nhà thơ khác cũng không kém phần nổi tiếng là Al Mutanabbi ( 915 – 965). Ông
được xem là thi sĩ tài nhất của người Ả Rập. Ông viết về nhiều nội dung rất đa dạng: lúc thì ca
tụng lòng quả cảm của bản thân, lúc thì nói lên nỗi buồn thất vọng, lúc thì ca ngợi cung đình.
Thơ ông sắc sảo, nhiều hình ảnh, nên vừa phổ biến ở Ả Rập nhưng cũng khó mà dịch ra được.
Về văn xuôi, vào thời kỳ này đã hình thành nên tác phẩm nổi tiếng nhất của nền văn học
Ả rập đó là bộ “Nghìn lẻ một đêm”. Tác phẩm này bắt nguồn từ một tập sách Ba Tư với nhan đề
“Hazar Afsama” (Ngàn truyện) rồi dần dần được bổ sung thêm nhiều thần thoại, truyền thuyết,
truyền kỳ của Ấn Độ, Ai Cập, Hy Lạp... Tập truyện phản ánh tất cả mọi mặt trong cuộc sống,
phong tục tập quán, thói quen tham tàn của bọn vua quan thống trị và ước nguyện của nhân dân
trong đế quốc Ả Rập. Đồng thời phản ánh sức tưởng tượng phong phú và óc sáng tạo tuyệt vời của người Ả Rập. 2. Nghệ thuật
Khi nhà nước Ả Rập mới ra đời, cơ sở nghệ thuật của người Ả Rập còn khá nghèo nàn vì
mới thoát thai từ kinh tế du mục và buôn bán. Ngoài ra, Muhammad còn cấm điêu khắc và hội
họa vì ông sợ hai môn nghệ thuật này sẽ dẫn đến sự sùng bái ảnh tượng. Ông cấm dùng tơ lụa 7 about:blank 8/13 22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập
đẹp, các đồ trang sức đẹp làm bằng vàng bạc vì không muốn người dân ham thú vui khoái lạc mà
sinh ra đồi bại. Ngay cả âm nhạc cũng bị cấm ở Ả Rập vì tương truyền, Muhammad cho rằng lời
ca, điệu vũ của phụ nữ, tiếng nhạc cụ giống như là tiếng dụ dỗ của quỷ sứ để đày con người
xuống địa ngục. Chính những điều này đã làm cho nghệ thuật bị hạn chế. Về sau, nhờ sự bành
trướng, mở rộng về lãnh thổ của đế quốc Ả Rập, những cấm đoán dần được nới lỏng, đồng thời
đã học tập nghệ thuật của Ai Cập, Lưỡng Hà, Ba Tư, Byzantine, nghệ thuật Ả Rập có những tiến
bộ đáng kể, thăng hoa và đạt được những thành tựu rực rỡ. a. Âm nhạc
Các nhà thần học và bốn trường phái luật chính đều chê bai âm nhạc là kích thích dục
tình nhưng một số khác cho rằng lối sống của con người luôn luôn lành mạnh hơn tín ngưỡng
của họ nên người Ả Rập có câu tục ngữ này: “Rượu như thể xác, âm nhạc như linh hồn, nhờ hai
cái đó mà đời sống mới vui vẻ”. Từ đó về sau, âm nhạc mới được mọi người ham mê tập luyện
nhưng thân phận các nhạc sĩ và ca nữ vẫn rất thấp kém, trừ một số rất nổi danh và giới thượng
lưu cũng ít ai chịu học bộ môn nghệ thuật này. Về sau, do chịu ảnh hưởng của Hy Lạp và Ba Tư
nên mới bớt thái độ khinh thường nhạc sĩ. Vua ở các triều đại Umayyad và Abbasside cũng
thưởng các nhạc sĩ tài năng rất rộng rãi. Có thể một vài người thấy nhạc Ả Rập thường đơn điệu,
buồn tẻ và nghe có vẻ hơi kỳ cục nhưng chính người Ả Rập lại cho rằng âm nhạc phương Tây
thiếu tế nhị, rắc rối, ồn ào, khác với sự dịu dàng, trầm tĩnh, đa cảm của âm nhạc nơi này. Bởi vậy,
theo lời của một một sử gia rất có tài thì “so với Ả Rập, mọi xứ khác không đáng gọi là tôn trọng
nghệ thuật, vì chỉ ở Ả Rập âm nhạc mới được mọi người ham mê luyện tập”. Có lẽ vì thế
“không một người phương Tây nào có thể hoàn toàn thưởng thức được âm nhạc Ả Rập nếu
không được luyện tai trong một thời gian lâu”. [3, 291]
Ngoài ra, lúc đầu âm nhạc Ả Rập thường dùng những thể và âm điệu cổ của người
Semite; nó phát triển thêm khi tiếp xúc với các điệu Hy Lạp mà gốc cũng từ châu Á; sau cùng
chịu ảnh hưởng mạnh của Ba Tư và Ấn Độ. Học mượn của Hy Lạp một lối ký âm và phần lớn lý
thuyết âm nhạc. Cuốn “The Great Book of Music” của al Farabi là một tác phẩm chính thời
Trung cổ về lý thuyết âm nhạc. Ông cũng viết một cuốn sách tên là “Đại thư âm nhạc”, chép tất
cả tiểu sử các nhà thơ, nhà soạn nhạc, ca sĩ, các loại nhạc cụ, nhịp, điệu và âm của các lời bài hát.
Thậm chí người Ả Rập cũng đã viết về thứ âm nhạc “có thể đo được” khi từ thế kỉ VII, người
Arab đã biết cách ký âm thể hiện độ cao và độ dài của các nốt nhạc trong khi đó người châu u
phải đến cuối thế kỉ XII mới bắt đầu biết đến. 8 about:blank 9/13 22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập
Thêm vào đó, người Ả Rập cũng có đến hàng trăm loại nhạc cụ như đàn luth, đàn lyre,
sáo, trống, chũm chọe, tù và,… Thông thường, người ta chỉ chơi khoảng bốn, năm nhạc cụ một
lần nhưng cũng có khi là một cuộc đại hoà tấu. Tương truyền, nhạc sĩ người Ả Rập Suryal ở
Medina là người đầu tiên sử dụng cây đũa nhạc trưởng để điều khiển dàn nhạc trong các cuộc đại
hòa tấu. Ngay cả Hồi giáo, trước đó mạt sát âm nhạc sau cũng đã sử dụng nó trong các buổi lễ. b. Hội họa:
Tuy hội họa bị cấm nhưng một số nhà thần học nới tay hơn, cho phép họa sĩ vẽ các vật vô
tri. Có nhà còn cho phép vẽ hình người hoặc sinh vật trên những đồ thường dùng, không phải đồ
cúng tế. Một số vua triều đại Umayyad thì không cấm đoán gì cả như vua Walid đệ nhất trang
hoàng cung điện mùa hè của ông bằng những bức họa vẽ người đi săn, vũ nữ,… Các vua triều
đại Abbasside tuy mộ đạo nhưng trong cung điện cũng treo hình, vẽ hình. Tuy nhiên dân chúng
cũng phải giữ đúng phép tắc, có khi phải phá hủy những tác phẩm đó và những nghệ sĩ thì phải
hoàn toàn tùy thuộc vào sự bảo hộ của vua chúa và giới quý phái.
Dù hầu hết các bức họa thời ấy đã bị mất nhưng tiểu họa của Hồi giáo vẫn được liệt vào
hạng đẹp và công phu nhất thế giới. Nó tô điểm cho các bản viết tay những bức họa nhiều màu,
là một nghệ thuật chỉ dành riêng cho giới quý phái. Ta có thể chiêm ngưỡng những bức tiểu họa
này trong cuốn sách Khamsa hay Panj Ganj của Nizami Ganjavi, được sáng tác đặc biệt cho nhà
cai trị Safavid là Shah Tahmasp. Những bức tranh trong cuốn sách này đã mô tả cuộc hành trình
lên thiên đường của Nhà tiên tri Muhammad trên con chiến mã thiên thần mang tên Buraq.
c. Nghệ thuật tạo hình: Nghệ thuật viết chữ đẹp (thư pháp) và Arabesque
Chính vì sự nghiêm cấm điêu khắc và hội họa của Hồi giáo nên hai môn nghệ thuật này
mới được ra đời và phát triển.
Nghệ thuật viết chữ đẹp của người Ả Rập hay còn gọi là thư pháp, thường được dùng để
chép kinh Qur’an, trang trí các đền thờ và các công trình kiến trúc Hồi giáo, sách vở và các đồ vật khác.
Có 2 loại chữ để viết thư pháp: Kufic và chữ thảo. Chữ Kufic được phát triển từ rất sớm.
Đến khoảng thế kỉ X, chữ thảo, đặc biệt là chữ Naskh ra đời và dần lấn át lối chữ Kufic, trừ trong
các đền đài và trên các đồ gốm; hầu hết các sách Hồi giáo thời Trung Cổ còn lại đến nay đều viết
bằng chữ Naskh; mà hầu hết những sách đó đều là kinh Qur'an. Thời điểm đó, những thư gia rất
được tôn trọng. Họ thường được tặng những số tiền rất lớn và đa phần hạng vua chúa đại thần
cũng đều là những người giỏi về thư pháp. 9 about:blank 10/13 22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập
Nghệ thuật viết chữ đẹp của người Ả Rập có ảnh hưởng tới nghệ thuật châu u bởi có
nhiều hoạ sĩ cũng đã đưa chữ Ả Rập vào trong các bức tranh của mình. Trong đó có bức
“Coronation of the Virgin” của hoạ sĩ Filippo Lippi (1406- 1469), hiện được trưng bày ở bảo
tàng Uffizi của Florence, các thiên thần trong tranh đang cùng nhau nâng một dải khăn voan dài
thướt tha được trang trí bởi những dòng chữ Ả Rập. Vào ngày 14/12/2021, UNESCO cũng đã
thông qua và ghi danh 9 di sản trong Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại,
trong đó có nghệ thuật thư pháp Ả Rập.
Nghệ thuật Arabesque là một loại hình hội họa trang trí với những dây leo uốn lượn cầu
kì và những mô típ tượng trưng trừu tượng hình cong với những họa tiết hình học phức tạp như
hình đa giác, hình trôn ốc, mặt cầu kết hợp lại với nhau. Họ vẽ rồi chạm nổi, rồi khắc các hình
ấy. Ta có thể thấy các họa tiết này trên rất nhiều đồ vật của người Ả Rập như bìa sách, đồ thuỷ tinh, lụa, đồ gốm.
Đạo Hồi cấm ảnh tượng nên mĩ thuật hầu như mấy không phát triển, bởi vậy, nghệ thuật
trang trí Arabesque được thể hiện rất phong phú và tuyệt vời tới nỗi tưởng chừng như từng phân
của bức tranh cũng đầy những hoạ tiết phức tạp, được vẽ hết sức cầu kỳ và vô cùng đẹp mắt.
Ngoài ra, nghệ thuật trang trí Arabesque còn được bắt gặp rất nhiều ở các đền đài, cung điện, thánh thất Hồi giáo. d. Kiến trúc
Nghệ thuật Ả Rập thể hiện chủ yếu ở kiến trúc độc đáo, điêu khắc đa dạng, lạ mắt, trang
hoàng rực rỡ bằng những lớp tráng giả đá hoa hoặc những hình trang trí ghép mảnh, tranh tường,
được trạm trổ tinh vi khéo léo qua nghệ thuật viết chữ đẹp và Arabesque.
Các kiến trúc thường tuân theo thiết kế ban đầu của ngôi nhà của Muhammad ở Medina
đó là sân và các gian phòng đều được che kín. Thành tích về kiến trúc chủ yếu biểu hiện ở cung
điện và thánh thất Hồi giáo. Tương truyền rằng các cung điện rất tráng lệ nhưng hiện nay đã
không còn tồn tại nữa. Ví dụ như thời Umayyad, Adu al-Dawla đã cho xây dựng tòa cung điện có
360 phòng để mỗi phòng có thể dành cho một ngày, một thư viện 2 tầng với vô vàn loại sách
khác nhau cùng cửa tò vò và các khung vòm lớn.
Thánh thất - đền thờ Hồi giáo thì được xây cất công phu và trang hoàng vô cùng
rực rỡ vì người Hồi giáo quan niệm rằng nhà cửa để ở chỉ trong một kiếp người thì thế nào cũng
được nhưng nhà của Allah thì nhất định phải được trang hoàng cho đẹp. Thế nên họ bỏ rất nhiều
công sức và của cải để xây cất, đem nghệ thuật trải dưới chân Allah như một tấm thảm mà ai 10 about:blank 11/13 22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập
cũng có thể chiêm ngưỡng được tấm thảm đẹp ấy. Do đó, những thành tựu nổi bật nhất của kiến
trúc Ả Rập đó chính là những thánh thất và đền thờ Hồi giáo. Các đền thờ thường được kiến trúc
theo hình vuông hoặc hình chữ nhật, xung quanh là nhiều hành lang cùng cửa vòng nguyệt và một ngọn tháp.
Có rất nhiều thánh đường nổi tiếng ở Mecca, Medina, Cordoba, Jerusalem,
Damascus, Baghdad… nhưng có lẽ nổi tiếng hơn cả là Dome of the Rock - biểu tượng bền vững
của Jerusalem. Được xây dựng vào khoảng năm 690 sau công nguyên, người ta tin rằng, từ nơi
đây, nhà tiên tri Muhammad đã bay lên thiên đàng trên con ngựa có cánh. Giáo đường chính là
Al-Aqsa nằm về phía nam của đền thờ này. Đền phần dưới có hình bát giác, phía trên là một mái
vòm tròn theo kiến trúc Byzance và vẫn còn nguyên vẹn đến nay. Tài liệu tham khảo: 1. Vũ D ng Ninh (ch ươ biến), L ủ ch s ị văn minh thếế gi ử i, NXB Giáo d ớ c Vi ụ t Nam ệ 11 about:blank 12/13 22:49 5/8/24
Văn học và nghệ thuật ả rập
2. Nguyếễn Văn Ánh (ch biến), L ủ ch s ị văn minh thếế gi ử i, NXB Giáo d ớ c Vi ụ t Nam ệ
3. Will Durant (Nguyếễn Hiếến Lế d ch) (2004), L ị ch s ị văn minh ử R Ả p, NXB V ậ ăn hóa - Thông tin.
4. I.M. Filshtinsky, Arabic literature, NXB Nauka
5. Báo, H. (2020). Myễ thu t MS. Bôế C ậ c và H ụ a Tiếết T ọ rong Ngh Thu ệ t T ậ rang Trí Islam.
https://mythuatms.com/hoc-ve--d2059.html?
fbclid=IwAR001D8y8iqQCipJgMRRy21QnkR7iijLH8IsEpEU-gRioX37-ZG8A_KjXiU
6. Anh, D. (n.d.). Ghi danh di s n văn hóa phi v ả t th ậ vào các Danh sách c ể a UNESCO ủ .
Dsvh.gov.vn. Retrieved November 15, 2022, from http://dsvh.gov.vn/ghi-danh-di-san-
van-hoa-phi-vat-the-vao-cac-danh-sach-cua-unesco-3428?
fbclid=IwAR2Hfu5JKe1xfxfzuI5CzwrCigog2vVSI6FWWpgsgqJz53UCaGSyWvYpr_A
7. British Library. (n.d.). Www.bl.uk. Retrieved November 13, 2022, from
https://www.bl.uk/collection-items/khamsah-of-nizami?
fbclid=IwAR01xEY6OSM9UlIqXcqK7Xs_hBAsX1joCasgQN-lkvNtAKhniTU519XAJYU 12 about:blank 13/13