Văn học Việt Nam từ năm 1885 đến năm 1945: Chữ quốc ngữ và quá trình hiện đại hóa toàn diện
Văn học Việt Nam từ năm 1885 đến năm 1945: Chữ quốc ngữ và quá trình hiện đại hóa toàn diện giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực
Preview text:
CHƯƠNG 3
VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ NĂM 1885
ĐẾN NĂM 1945: CHỮ QUỐC NGỮ
VÀ QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HOÁ TOÀN DIỆN
Văn học Việt Nam giai đoạn này gồm hai thời kì: thời kì chuyển tiếp từ văn
học trung đại sang văn học hiện đại và thời kì hình thành nền văn học hiện đại.
3.1. THỜI KÌ CHUYỂN TIẾP TỪ VĂN HỌC TRUNG ĐẠI SANG VĂN HỌC
HIỆN ĐẠI (1885 – 1932)
3.1.1. Bối cảnh lịch sử
Giai đoạn cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX chứng kiến những thay đổi to lớn
của khu vực Đông Á. Ở Việt Nam, sự phản ứng chậm chạp của triều đình Tự
Đức trước hoàn cảnh mới đã khiến Việt Nam bị đặt dưới sự thống trị của thực
dân Pháp. Chính sách thực dân của người Pháp, mục đích tuy là để phục vụ
cho ý đồ khai thác thuộc địa, nhưng khách quan cũng là nguyên nhân dẫn
đến những thay đổi trọng đại trong lịch sử V ệ
i t Nam nói chung và lịch sử văn
học Việt Nam nói riêng: từ xã hội phong kiến chuyển sang thuộc địa nửa
phong kiến, từ văn học trung đại chuyển sang văn học hiện đại. Quá trình này
diễn ra trong một thời gian dài với nhiều chặng, nhiều biến đổi phức tạp .
Sau Hiệp ước Giáp Tuất (1874), triều đình nhà Nguyễn công nhận sự
thống trị của người Pháp ở sáu tỉnh Nam Kì, năm 1884, triều đình nhà
Nguyễn lại kí Hiệp ước Giáp Thân (hay còn gọi là Patenôtr ) e với 19 điều
khoản, trong đó quan trọng nhất là công nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc Kì
và Trung Kì. Như vậy, nước Việt Nam đến đây bị chia làm ba kì, hoàn toàn do
người Pháp cai trị, triều đình nhà Nguyễn chỉ còn là trên danh nghĩa. Ngay 1
sau Hiệp ước nhục nhã này, với sự phò trợ của Tôn Thất Thuyết (1839 –
1913), ngày 13/7/1885 vua Hàm Nghi (1871 – 1944) hạ Chiếu Cần Vương,
dấy lên phong trào kháng chiến chống Pháp rộng khắp Bắc Kì và Trung Kì.
Ngày 01/11/1888, vua Hàm Nghi bị bắt nhưng phong trào Cần Vương vẫn
tiếp tục và chỉ chấm dứt sau cái chết của Phan Đình Phùng (1847 – 1895). Từ
sau năm 1896, dù vẫn còn khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám 黄花探
(1858 – 1913) chống thực dân Pháp, song về cơ bản, người Pháp đã hoàn
tất việc xâm chiếm Việt Nam. Với hai cuộc khai thác thuộc địa (lần thứ nhất:
1897 – 1914, lần thứ hai: 1919 – 1929) của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam
đã có những chuyển biến sâu sắc trong đời sống chính trị – kinh tế – văn hoá.
Về chính trị, người Pháp khẳng định vai trò cai trị của mình với hệ thống
quản lí từ trung ương đến các cấp tỉnh, thành. Về kinh tế, hoạt động khai
thác thuộc địa được đẩy mạnh, kéo theo đó là sự hình thành mạng lưới giao
thông hiện đại trong toàn quốc, hình thành nền sản xuất công nghiệp và các
đô thị hiện đại. Về văn hoá, các thiết chế của văn hoá phương Tây từng bước
được thiết lập ở các trường đại học, bệnh viện, báo chí, viện bảo tàng. . đã
hình thành một không gian văn hoá hoàn toàn mới lạ so với truyền thống.
Sự hiện diện của người Pháp ở Việt Nam đặt ra hai vấn đề: đấu tranh giành
độc lập dân tộc và duy tân đất nước để theo kịp các nước phương Tây. Trong
một môi trường mới, hướng tới những nhiệm vụ mới như thế khiến văn học
dù ở bộ phận nào (công khai hay không công khai), cũng sẽ phải thay đổi,
phải hiện đại hoá. Về cơ bản, từ năm 1885 đến năm 1945 thực chất là giai
đoạn hiện đại hoá của văn học Việt Nam mà tính chất quan trọng nhất của nó
là sự chuyển đổi hệ hình từ văn học trung đại sang văn học hiện đại. Sự
chuyển đổi hệ hình này là sự song hành của hai quá trình chính:
– Thứ nhất là phương Tây hoá. Đây là quá trình mà môi trường văn học,
quan niệm văn học, hệ thống thể loại văn học truyền thống từng bước bị giải 2
thể và cấu trúc lại theo mô hình văn học phương Tây (môi trường văn học, hệ
thống văn học, quan niệm văn học, loại hình tác giả th ộ u c phương Tây) . Nhờ
vào quá trình này mà văn học Việt Nam thoát khỏi quỹ đạo văn học Đông Á
(lấy Trung Quốc làm trung tâm, vệ tinh là Nhật Bản, Cao Ly (Triều Tiên), Việt
Nam) để gia nhập văn học thế giới.
+ Văn học phương Tây đồng nhất với văn học thế giới: thế kỉ 19, xuất hiện
trung tâm là phương Tây, VN cũng bị hút vào quá trình phương Tây hóa.
+ Văn học thế giới chính là quá trình của phương Tây hóa. (gia nhập văn học
thế giới chính là những nền văn học đã được phương Tây hóa)
– Thứ hai là dân tộc hoá. Nhờ vào quá trình này mà nhân tố phương Tây
được tích hợp với yếu tố bản địa để tạo nên những kết tinh nghệ thuật mới.
Không có phương Tây hoá thì không có dưỡng chất mới, không gian tư duy
nghệ thuật mới cho văn học, nhưng nếu không có dân tộc hoá thì văn học
cũng dễ trở thành lai căng, khó có được những thành tựu đích thực. Phương
Tây hoá và dân tộc hoá vì thế là tiền đề của nhau và cũng là yếu tố cần (phương
Tây hóa) và đủ (dân tộc hóa) cho tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam từ năm 1885 đến năm 1945 .
Trong thời kì này, một số tiền đề văn hoá cho tiến trình hiện đại hoá văn
học xuất hiện, cụ thể như sau:
Thứ nhất là chữ quốc ngữ. Chữ quốc ngữ xuất hiện ở Việt Nam từ đầu thế
kỉ XVII do công lao của các nhà truyền giáo phương Tây và một số người Việt
theo đạo Thiên Chúa. Công dụng chính ban đầu của chữ quốc ngữ là ghi chép lại các bài giản
g và truyện Thánh, phục vụ cho mục đích truyền giáo. Đây là lí
do vì sao từ đầu thế kỉ XVII cho đến cuối thế kỉ XIX, chữ quốc ngữ chủ yếu tồn
tại trong các xứ đạo. Người Pháp, khi chiếm được Nam Kì và tiến hành bình
định, đã phát hiện ra chữ quốc ngữ như một công cụ hữu dụng nhằm li khai
ảnh hưởng của các nhà nho với nông dân và qua đó kiến tạo một không gian
mới chịu ảnh hưởng sâu sắc của người Pháp. Tuy nhiên, ý đồ chính trị đó đã 3
vấp phải sự phản ứng của đa số người Việt thời kì này. Mãi đến năm 1907, các
nhà nho duy tân của Đông Kinh nghĩa thục 東京義塾 với nhận thức về những ưu điểm của chữ q ố
u c ngữ (dễ học, dễ truyền bá), đã nhận thấy chữ q ố u c ngữ
như một công cụ để truyền bá tri thức, qua đó để mở mang dân trí, chấn hưng
dân khí. Bằng uy tín văn hoá của mình, họ đã phát động một phong trào học
chữ quốc ngữ rộng khắp trong toàn quốc. Những quan hệ mật thiết giữa Đông
Kinh nghĩa thục với phong trào Đông du (do Phan Bội Châu 潘佩珠, 1867 –
1940, lãnh đạo) và phong trào Duy tân (do Phan Châu Trinh 潘周 , 楨 1872 –
1926, lãnh đạo) đã khiến người Pháp hoảng sợ. Những người theo phong trào
Đông Kinh nghĩa thục và phong trào Duy tân đã bị đàn áp bằng máy chém và
ngục tù. Tuy nhiên, từ đây chữ quốc ngữ đã có một tồn tại mới, được trả giá
bằng sự hi sinh của những người con ưu tú nhất của dân tộc, từ chỗ là một thứ
văn tự ngoại lai đã trở thành tài sản của dân tộc. Từ sau 1907, bất chấp việc
Đông Kinh nghĩa thục bị đàn áp, chữ quốc ngữ đã lan rộng khắp toàn quốc, về
cơ bản thay chế cho chữ Hán và chữ Nôm để trở thành văn tự chủ yếu trong
báo chí và sáng tác văn học.
Trong quá khứ, văn học viết bằng chữ Hán và chữ Nôm chủ yếu được sáng
tác và tiếp nhận bởi tầng lớp trí thức. Việc chữ quốc ngữ được sử dụng như
một văn tự cho sáng tác văn học vì thế đem đến một thay đổi hết sức quan
trọng: đưa văn học đến với đông đảo quần chúng. Tính đại chúng, tính phổ
thông vì thế là thuộc tính đầu tiên của văn học Việt Nam hiện đại. Màu sắc phương Tây:
- Nguồn gốc: truyền giáo phương Tây, quốc ngữ được La-tinh hóa. - Mục đích: + truyền ạ
đ o => chung sống với chữ Hán và chữ Nôm 4
+ dùng chữ quốc ngữ để li khai nhà Nho (tầm ảnh hưởng) và nông dân => đồng
hóa = giải thể vai trò của chữ Hán và chữ Nôm.
+ không gian văn hóa mới chịu ảnh hưởng của phương Tây => người Việt kháng
cự, 1908 đàn áp bằng khởi nghĩa Đông Kinh Nghĩa Thục. Màu sắc dân tộc: - Dấu mốc 1907
- Nhà Nho phát hiện chữ quốc ngữ
- Dùng quốc ngữ thay cho chữ Hán và chữ Nôm
- Trả giá bằng sự hi sinh những người con ưu tú của dân tộc
- Mục tiêu: chấn dân khí, mở mang dân trí
- Mốc 1913: Đông Dương tạp chí – Nguyễn Văn Vĩnh
- 1917: Nam Phong tạp chí – Phạm Quỳn h
Thứ hai là in ấn và báo chí hiện đại. Trong truyền thống, tác phẩm văn
học, trừ một số ít được khắc in (chỉ từ giai đoạn hậu kì của văn học trung
đại) còn lại chủ yếu truyền bá dưới hình thức thủ bản và truyền khẩu. Hình
thức truyền bá này khiến số lượng tác phẩm bị hạn chế và không thuận lợi
cho việc hình thành một đội ngũ nhà văn chuyên nghiệp. Tình hình đã hoàn
toàn thay đổi với sự hiện diện của kĩ thuật in ấn phương Tây hiện đại. So
với kĩ thuật khắc in truyền thống, in ấn phương Tây có ba lợi thế quan
trọng: nhanh, giá thành rẻ, số lượng bản in lớn.
In ấn hiện đại làm xuất hiện báo chí, lan rộng từ Nam ra Bắc. Ở giai đoạn đầu
mới chỉ là công báo bằng tiếng Pháp, nhưng cùng với thời gian, báo chí tư
nhân bằng chữ quốc ngữ dần chiếm ưu thế. Chu kì của tờ báo cũng ngày càng
được rút ngắn: từ những nguyệt san – bán nguyệt san – tuần báo – nhật báo.
Qua báo chí, các luồng tư tưởng được hiện diện và lan toả sâu rộng đến mọi
tầng lớp nhân dân. Nhà báo không chỉ là người đưa tin mà đã trở thành 5
những nhà tư tưởng, nhà hoạt động xã hội đặc biệt quan trọng. Không ngẫu
nhiên mà những nhà văn hoá, nhà chính trị quan trọng nhất của Việt Nam
thời kì này như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh (1900 –
1943), Huỳnh Thúc Kháng 黃叔抗 (1876 – 1947), Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí
Minh (1890 -1969).. đều đồng thời là những nhà báo. Theo chiều ngược
lại, chính sự thành công với vai trò của những nhà báo đã khiến những
nhân vật như Phạm Quỳnh (1892 – 1945) của Nam Phong tạp chí và Nhất
Linh (1906 – 1963) của Phong hoá, Ngày nay trở thành những nhà hoạt động
xã hội, những chính khách.
Phải đến những năm 1934, với Tiểu thuyết thứ Bảy của Vũ Đình Long
(1896 – 1960), mới có một tờ báo dành riêng cho văn học nhưng ngay từ
những buổi đầu tiên, hầu như tờ báo nào cũng có một mục dành cho văn
học (thường được gọi là Văn uyển) trên đó đăng tải thơ, truyện ngắn, tạp
văn và đặc biệt hấp dẫn là những tiểu thuyết nhiều k .ì Phần lớn những tác
phẩm quan trọng nhất của văn học Việt Nam thời kì này đều hiện diện trên
tờ báo trước khi được in sách. Đặc điểm trên dẫn đến một loạt những hệ
quả quan trọng. Một là, tồn tại trong môi trường báo chí, văn học cũng dần
được thâm nhiễm cảm quan về tính thời sự.
Hai là, tờ báo là một dạng hàng hoá. Và vì các tờ báo đều có sự hiện diện của
văn học và xuất hiện mang tính chu kì nên theo thời gian dần hình thành
nên một đội ngũ những người viết chuyên nghiệp cũng như người đọc
chuyên nghiệp. Ở mức cao nhất của sự tương tác giữa nhà văn và độc giả, từ
những năm 1920, đã từng bước làm xuất hiện những nhà phê bình và nhà
nghiên cứu văn học. Ba là, ở giai đoạn này, nhà báo và nhà văn tuy vẫn có
những sự khu biệt nhưng về cơ bản là thống nhất với nhau. Điều này khiến
văn học dù muốn hay không đều phải tham dự vào những diễn ngôn tư
tưởng hết sức phức tạp. Nhà văn không chỉ là người kể chuyện mà còn là
người trí thức, nhà tư tưởng và vì thế luôn hướng tác phẩm của mình đến 6
những vấn đề của đời sống xã hội. Vì những lí do này, có thể xem văn học
Việt Nam hiện đại là văn học báo chí.
Thứ ba, về giáo dục, cùng với sự h ệ
i n diện của người Pháp, nền giáo dục
truyền thống dần bị hạn chế và bãi bỏ. Năm 1915 là khoa thi cuối cùng của
chế độ khoa cử Nho học ở miền Bắc. Năm 1919 là khoa thi cuối cùng của
chế độ khoa cử Nho học ở miền Trung và trên toàn cõi Việt Nam. Song song
với quá trình này là sự hình thành một hệ thống giáo dục mới, được gọi là
giáo dục Pháp – Việt. Những điều chỉnh Học chính tổng quy năm 1924 đã
đưa chữ quốc ngữ trở thành một môn học chính thức trong ba năm đầu tiên
của bậc tiểu học, song về cơ bản, việc học tập và giảng dạy được tiến hành
bằng tiếng Pháp. Theo thời gian, hệ thống giáo dục Pháp – Việt ngày một
lớn mạnh và thu hút một số lượng lớn học sinh, sinh viên ở mọi cấp học.
Giáo dục Pháp – Việt đã làm thay đổi thế giới quan, nhân sinh quan của thế
hệ trẻ Việt Nam. Chẳng những thế, việc tiếp xúc với văn học Pháp một cách
sâu sắc và hệ thống đã hình thành ở họ những trải nghiệm mới về lối viết,
hệ thống thể loại cũng như những nhu cầu thẩm mĩ mới về văn học gắn với
tên tuổi của những nhà thơ và nhà văn Pháp (đặc biệt là n ững h nhà thơ,
nhà văn từ thế kỉ XVII trở đi) như: Molière, Rousseau, Hugo, Balzac,
Baudelaire, Lamartine, Maupassant. . Những trải nghiệm mới này sẽ thay
đổi tận gốc những khuôn mẫu, quan niệm văn chương trong tâm trí của một
thế hệ trí thức trẻ tuổi. Sau khi tốt nghiệp, một số ít trong họ sẽ trở thành
những nhà văn; số còn lại sẽ đóng vai trò là những độc giả. Cả người sáng
tác và độc giả đều có nhu cầu hướng tới những hình mẫu văn chương mà họ
đã thụ đắc được trên ghế của nhà trường Pháp – Việt. Một cách tự nhiên, văn học Việt Nam đ ợ
ư c phương Tây hoá một cách triệt để và nhanh chóng.
Thứ tư, về đô thị hiện đại, khác với Trung Quốc và Nhật Bản, đô thị
truyền thống của Việt Nam phát triển tương đối èo uột và không đủ sức để
tạo thành một khu vực văn hoá đủ mạnh trong tương quan với cung đình và 7
nông thôn. Nhân vật chính của đô thị truyền thống vẫn là nhà quý tộc. Sự
hiện diện của người Pháp với hai cuộc khai thác thuộc địa đã làm xuất hiện
từ Nam ra Bắc những đô thị h ệ
i n đại. Với những đô thị h ệ
i n đại này, kinh tế
thị trường thực sự xuất hiện và sự vận hành theo quy luật cung cầu của
nó đã biến văn học trở thành hàng hoá. Từ đây, văn học không còn để
hướng tới người tri kỉ như trong truyền thống mà luôn phải định hướng
vào thị hiếu của người đọc (cũng là người mua sản phẩm văn học).
=> Hệ quả: (1) Hình thành cả một dòng văn học đại chúng với những tác
giả, tác phẩm luôn chạy theo để khai thác, ve vuốt và thoả mãn những nhu
cầu của đám đông với những đề tài về tình yêu, tình dục, phiêu lưu, kì bí,
người hùng. . Mặt khác, (2) thị hiếu của độc giả đô thị thì liên tục thay đổi.
Điều này đòi hỏi các nhà văn cũng phải liên tục làm mới mình để theo kịp
sự biến đổi trên. Văn học hiện đại vì thế bị định hướng vào tiêu chí của cái
mới. Theo thời gian, ngay cả cái mới cũng trở thành cũ. Vậy nên, nhu cầu về
cái mới trở thành một ám ảnh thường trực, ngày một trở nên riết róng
trong văn học hiện đại. Đây là lí do khiến văn học hiện đại không những phá
vỡ những quy phạm truyền thống mà còn luôn tự phủ định mình để hướng
tới những cách tân, tìm tòi, thử nghiệm. Cuối cùng, thị hiếu của độc giả
chẳng những (3)luôn đòi hỏi cái mới mà còn đòi hỏi cái đa dạng. Họ muốn,
trong cùng lúc, thưởng thức những món ăn tinh thần khác nhau. Điều này
khiến (4) hoạt động sáng tác hướng tới sự khác biệt. Cái tôi được đề cao. Ai
đến với văn đàn cũng để k ẳ
h ng định mình như một chân dung độc đáo, một
ngoại lệ. Văn học trở thành một vườn hoa với rất nhiều hương sắc.
Tóm lại, bốn nhân tố trên (chữ quốc ngữ; in ấn và báo chí hiện đại;
giáo dục; đô thị hiện đại) là những tiền đề quan trọng nhất cho tiến trình
hiện đại hoá văn học Việt Nam từ năm 1885 đến năm 1945. Với những tiền
đề này, văn học Việt Nam đã chứng kiến một sự chuyển đổi sâu sắc và toàn
diện: từ văn học đặc tuyển sang văn học hướng tới đại chúng; từ văn học của 8
những thi tập, thủ bản, ngâm vịnh sang văn học in ấn dưới hình thức của tờ
báo, cuốn sách; từ văn học tải đạo, ngôn chí hướng tới văn học quan tâm đến
hiện thực; từ văn học trong không gian cung đình, nông thôn sang văn học
đô thị, thành thị; từ văn học thù tạc, quà tặng, sáng tác văn học như một thú
chơi tao nhã sang văn học hàng hoá, sáng tác văn học trở thành một nghề
với đội ngũ nhà văn và độc giả chuyên nghiệp. ?
Những nhân tố làm hình thành nhà văn chuyên nghiệp ở V N
Chuyên nghiệp Quốc ngữ: In ấn: nhanh, rẻ Đô thị Giáo dục
- Số lượng sáng - phổ thông=> số Báo chí: chu kỳ Hàng hóa=> bán Người đọc với tác. lượng người đọc => thường xuyên đi => thu nhập nhu cầu mới => - Thu nhập từ => nguồn thu + số lượng tác
- số lượng của độc thị hiếu mới => viết nhập phẩm+độc giả giả thị dân nhà văn
3.1.2. Tiến trình văn học
3.1.2.1. Thời kì từ năm 1885 đến năm 1913: Vai trò tiên phong của văn học
miền Nam và những cách tân văn học truyền thống đầu tiên
Những dấu hiệu đầu tiên của tiến trình hiện đại hoá văn học đến từ văn
học miền Nam. Điều này có thể được giải thích từ hai nguyên nhân chính.
Thứ nhất, từ rất sớm, Nam Kì đã là thuộc/nhượng (đất cắt cho người Pháp,
những công dân được hưởng những quyền lợi của người Pháp) địa ĐẦU TIÊN
của người Pháp và vì thế là nơi sớm tiếp nhận TRỰC TIẾP những ảnh hưởn g
từ phương Tây. Tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên (Gia Định báo) ra đời tại Sài
Gòn (1865). Nam Kì cũng là nơi xuất hiện những trí thức song ngữ đầu tiên
của Việt Nam. Thứ hai, là vùng đất mới, quán tính của văn học truyền thống ở m ề
i n Nam không quá lớn và miền Nam (trong toàn bộ lịch sử tồn tại của 9
mình) luôn cho thấy sự cởi mở trong việc tiếp nhận cái mới. Hiểu thế, ta sẽ
không thấy ngạc nhiên khi ba cuốn tiểu thuyết đầu tiên viết bằng chữ quốc
ngữ đã xuất hiện ở Nam Bộ, đó là Truyện thầy Lazaro Phiền (1887) của
Nguyễn Trọng Quản (1865 – 1911), Hoàng Tố Oanh hàm oan (1910) của
Trần Chánh Chiếu (1868 – 1919), Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân
(1910) của Trương Duy Toản (1885 – 1957).
Nguyễn Trọng Quản sinh năm 1865, xuất thân Công giáo, là học trò và
sau này là con rể của Trương Vĩnh Ký. Ông được đào tạo ở Algeria. Khi về
nước, ông làm nghề dạy học, đã từng giữ chức Giám đốc Trường Sơ học
Nam Kì. Ngoài Truyện thầy Lazaro Phiền, người ta còn tìm thấy tên một tác
phẩm khác của Nguyễn Trọng Quản (Kim vọng phu truyện) được quảng cáo
trên báo nhưng hiện chưa tìm thấy văn bản. Với dung lượng khiêm tốn (dù
được ghi là tiểu thuyết nhưng trên thực tế chỉ là một truyện vừa), Truyện
thầy Lazaro Phiền là một cột mốc đánh dấu sự chuyển dịch từ trung đại sang
hiện đại của văn học Việt Nam. Trong truyền thống, thể loại và cốt truyện
trong các tác phẩm tự sự của văn học Việt Nam thường vay mượn từ Trung
Quốc. Truyện thầy Lazaro Phiền đã cho thấy nó hoàn toàn đoạn tuyệt với cội
nguồn Trung Quốc để hướng tới nguồn ảnh hưởn g mới từ phương Tây.
Truyện luôn được kể từ ngôi thứ n ấ
h t, mang màu sắc của những lời tự thú
thường thấy trong văn học phương Tây; bên cạnh lời kể của nhân vật là
hình thức kể chuyện bằng viết thư; mô hình truyện lồng trong truyện; luôn
có sự xáo trộn giữa thời gian sự kiện và thời gian trần thuật; các mô típ về:
cơn ghen, người trả thù vắng mặt làm người ta nhớ đến Otello
(Shakespeare) và Le Comte de Monte-Cristo (Dumas); không còn là con
người với những phẩm chất trung – hiếu – tiết – nghĩa truyền thống, thay
vào đó là con người bình thường với những đam mê, lầm lỗi; thế giới nội
tâm đã bắt đầu là đối tượng của sự miêu tả nghệ thuật. Thời gian
sự kiện của tác phẩm kết thúc vào năm 1885, tác phẩm được in năm 1887 10
gây cảm tưởng về một câu chuyện có thật, đang diễn ra ở thời hiện tại. Đặc
biệt, lời văn của Truyện thầy Lazaro Phiền thuần một chất khẩu ngữ, không
hề bị ám ảnh bởi lối văn biền ngẫu (vẫn còn kéo dài đến năm 1925 với Tố
Tâm của Hoàng Ngọc Phách (1896 – 1973) và các tiểu thuyết của Hồ Biểu
Chánh sau này). Có thể nói, hầu hết những cách tân về kĩ thuật tự sự của
văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa trước thế kỉ XX đều đã xuất hiện ở
Truyện thầy Lazaro Phiền. Có một điều thú vị là: dù ra đời khá lâu sau tác
phẩm của Nguyễn Trọng Quản nhưng hai cuốn tiểu thuyết của Trần Chánh
Chiếu, Trương Duy Toản lại được viết theo mô hình tự sự và những mô típ,
những hình mẫu nhân vật truyền thống. Về điểm này, chúng không khác
nhiều so với truyện thơ U tình lục
(sáng tác năm 1910 và in thành sách năm 1913) của Hồ Biểu Chánh (1884 –
1958). Những sự kiện đó càng cho thấy tính đột phá, sự thách thức tầm đón
nhận và quán tính sáng tạo của Truyện thầy Lazaro Phiền. Nội dung so sánh Tự sự trung đại Thầy Lazaro Phiền Nguồn gốc Vay mượn Trung Quốc
Ảnh hưởng mới: Phương Tây
- Ngôi thứ nhất + viết thư +khẩu ngữ
- Truyện lồng trong truyện + xáo
trộn thời gian trần thuật + kết cấu vòng tròn
- Cơn ghen, trả thù giấu mặt => con người bình thường - Khai thác nội tâm
- Các mốc thời gian: chi tiết xác thực 11
viện Nhật Bản chỉ là một trong rất nhiều phương sách mà Phan Bội Châu
tìm tòi, thể nghiệm. Điều thiết yếu là phải bồi dưỡng ý thức về người quốc
dân, từ đó đoàn kết mọi thành phần khác nhau trong xã hội cho một mục
đích chung, sẵn sàng xả thân giành lại độc lập cho dân tộc. Số lượng thơ
văn mà Phan Bội Châu để lại rất lớn, đa dạng về thể loại (sử, truyện, tiểu
thuyết, thơ, tuồng, chèo. .) nhưng đều hướng tới hình tượng trung tâm:
người anh hùng cứu nước.
Nhà nho là nhà đạo đức, nhà chính trị hơn là một nghệ sĩ. Những sự kiện
lịch sử thời kì này thu hút nhà nho vào vũ đài của hoạt động đấu tranh
chính trị, tư tưởng và văn hoá hơn là quan tâm đến những vấn đề của đổi
mới văn học. Đặc điểm nổi bật của văn học thời kì này là nỗ lực cách tân
nền văn học cũ, cố gắng ở mức cao nhất việc khai thác các thể loại truyền
thống để đáp ứng những nhu cầu mới của thời đại (trường hợp Truyện thầy
Lazaro Phiền chỉ là ngoại lệ). Một sự thay đổi cơ bản của hệ thống thể loại
phải chờ đợi ở giai đoạn sau.
3.1.2.2. Thời kì từ năm 1913 đến năm 1932: Vai trò
tiên phong của dịch thuật, lí luận – phê bình văn học và sự hình
thành hệ thống thể loại văn học theo mô hình phương Tây
Sau sự đàn áp đẫm máu của thực dân Pháp với Đông Kinh nghĩa thục và
phong trào kháng thuế miền Trung (1908), lực lượng sáng tác của các nhà
nho trên văn đàn công khai bị tổn thương nghiêm trọng: một số lên đoạn
đầu đài, một số phải chạy sang hải ngoại, đa số còn lại bị chính quyền Pháp
đày ra Côn Đảo. Văn đàn công khai giai đoạn này là một khoảng trống. Bắt
đầu từ năm 1913, với sự ra đời Đông Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh,
một thế hệ những nhà văn xuất thân Tây học xuất hiện và trở thành lực
lượng sáng tác văn học chủ đạo thay thế cho thế hệ cầm bút của các nhà nho giai đoạn trước. 17