Văn mẫu 10: Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến (3 Dàn ý + 17 mẫu) | Cánh diều

Phân tích bài thơ Thu điếu (Câu cá mùa thu) của Nguyễn Khuyến gồm 17 bài văn mẫu siêu hay kèm theo 3 gợi ý cách viết chi tiết. Qua phân tích Thu điếu các bạn học sinh có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức tâm đắc của chính mình.

Dàn ý phân tích bài thơ Câu cá mùa thu
Dàn ý chi tiết số 1
I. Mở bài
Đôi nét về tác giả Nguyễn Khuyến: một tác giả chịu ảnh hưởng đậm nét tư
tưởng Nho giáo, sáng tác của ông thường về đạo đức con người, người quân tử.
Sau khi thấy thực tại rối ren, ông ở ẩn sáng tác các tác phẩm thể hiện sự hòa
hợp với thiên nhiên thanh tịnh
Bài thơ Câu cá mùa thu: Là một bài thơ trong chùm thơ thu ba bài được sáng
tác trong thời gian tác giả ở ẩn
II. Thân bài
1. Hai câu đề
- Mùa thu gợi ra với hai hình ảnh vừa đối lập vừa cân đối hài hoà “ao thu”, “chiếc
thuyền câu” bé tẻo teo;
Màu sắc “trong veo”: sự dịu nhẹ, thanh sơ của mùa thu
Hình nh: Chiếc thuyn câu bé to teo rt nh
Cách gieo vần “eo”: giàu sức biểu hiện
- Cũng từ ao thu ấy c giả nhìn ra mặt ao không gian quanh ao đặc trưng của
vùng đồng bằng Bắc Bộ.
bộc lộ rung cảm của tâm hồn thi trước cảnh đẹp mùa thu và của tiết trời mùa thu,
gợi cảm giác yên tĩnh lạ thường
2. Hai câu thực
- Tiếp tục nét vẽ về mùa thu giàu hình ảnh:
Sóng biếc: Gợi hình ảnh nhưng đồng thời gợi được cả màu sắc, đó là sắc xanh
dịu nhẹ và mát mẻ, phải chăng là sự phản chiếu màu trời thu trong xanh
Lá vàng trước gió: Hình ảnh và màu sắc đặc trưng của mùa thu Việt Nam
- Sự chuyển động:
hơi gợn tí chuyển động rất nhẹ sự chăm chú quan sát của tác giả
“khẽ đưa vèo” chuyển động rất nhẹ rất khẽ Sự cảm nhận sâu sắc và tinh tế
Nét đặc sắc rất riêng của mùa thu làng quê được gợi lên từ những hình ảnh bình dị,
đó chính là “cái hồn dân dã”
3. Hai câu luận
- Cảnh thu đẹp một vẻ bình dị nhưng tĩnh lặng và đượm buồn:
Không gian của bức tranh thu được mở rộng cả về chiều cao và chiều sâu
Tầng mây lơ lửng: gợi cảm giác thanh nhẹ, quen thuộc gần gũi, yên bình, tĩnh
lặng.
Hình ảnh trời xanh ngắt: sắc xanh của mùa thu lại được tiếp tục sử dụng, nhưng
không phải là màu xanh dịu nhẹ, mát mẻ mà xanh thuần một màu trên diện
rộng đặc trưng của mùa thu.
Hình ảnh làng quê được gợi lên với “ngõ trúc quanh co”: hình ảnh quen thuộc
Khách vắng teo: Gieo vần “eo” gợi sự thanh vắng, yên ả, tĩnh lặng
Không gian của mùa thu làng cảnh Việt Nam được mở rộng lên cao rồi lại hướng
trực tiếp vào chiều sâu, không gian tĩnh lặng và thanh vắng
4. Hai câu kết
- Xuất hiện hình ảnh con người câu cá trong không gian thu tĩnh lặng với thế “Tựa
gối buông cần”:
“ Buông”: Thả ra (thả lỏng) đi câu để giải trí, ngắm cảnh mùa thu
“Lâu chẳng được” : Không câu được cá
Đằng sau đó là tư thế thư thái thong thả ngắm cảnh thu, câu cá như một thú vui làm
thư thái tâm hồn sự hòa hợp với thiên nhiên của con người
- Toàn bài thơ mang vẻ tĩnh lặng đến câu cuối mới xuất hiện tiếng động:
+ Tiếng “đớp động dưới chân o” schăm chú quan sát của nhà thơ trong
không gian yên tĩnh của mùa thu, nghệ thuật “lấy động tả tĩnh”
Tiếng động rất khẽ, rất nhẹ trong không gian rộng lớn càng làm ng vẻ tĩnh vắng ,
“cái tĩnh tạo nên từ một cái động rất nhỏ”
Nói câu nhưng thực ra không phải bàn chuyện u cá, sự tĩnh lặng của cảnh vật
cho cảm nhận về nỗi cô quạnh, uẩn khúc trong tâm hồn nhà thơ, đó là tâm sự đầy đau
buồn trước tình cảnh đất nước đầy đau thương
5. Nghệ thuật
Bút pháp thuỷ mặc (dùng đường nét chấm phá) Đường thi và vẻ đẹp thi trung
hữu hoạ của bức tranh phong cảnh
Vận dụng tài tình nghệ thuật đối.
Nghệ thuật lấy động tả tĩnh được sử dụng thành công
Cách gieo vần “eo” và sử dụng từ láy tài tình
III. Kết bài
Khẳng định lại những nét tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của bài thơ
Bài thơ đem đến cho độc giả những cảm nhận sâu lắng về một tâm hồn yêu
nước thầm kín mà thiết tha
Dàn ý chi tiết số 2
a. Mở bài
Giới thiệu bài thơ Câu cá mùa thu và tác giả
b. Thân bài
*Hai câu đề
"Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Ao thu là một hình ảnh rất gần gũi với cuộc sống thường ngày, cùng với thời
tiết se lạnh và dòng nước trong veo
Cảnh sắc màu thu ở vùng quê được thể hiện qua hai câu thơ
* Hai câu thực "Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo".
Hình ảnh sóng biếc gợn tí và hình ảnh lá vàng, cảm giác như những hình ảnh
rất nhỏ bé
Không gian tĩnh lặng của mùa thu được tăng dần so với câu trước
Tâm hồn rất nhạy cảm, tinh tế của tác giả
*Hai câu luận
"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo".
Sự êm đềm nhẹ nhàng
Cảm giác mông lung huyền ảo
Cảnh buồn, tĩnh mịch, lòng người nặng trĩu, luẩn quẩn không lối thoát
* Hai câu kết "Tựa gối ôm cần lâu chẳng được, Cá đâu đớp động dưới chân bèo"
Một bức tranh thiên nhiên hài hòa
Ném mọi tâm tư không vương vấn tới thế, thói đời
c. Kết bài
Nêu cảm nhận của em về bài thơ Câu cá mùa thu
Dàn ý chi tiết số 3
a. Mở bài
Trước kia, trong văn chương Việt Nam thỉnh thoảng cũng tác phẩm viêt về nông
thôn, nhưng hình ảnh về cảnh quê nói chung còn mờ nhạt. Phải đến Nguyễn Khuyến,
lần đầu tiên cảnh nông thôn mới thực sự đi vào văn học. Nguyễn Khuyến viết nhiều về
thiên nhiên với ngòi bút ấm áp bình dị, khi còn gửi gắm chút tâm sự. Một trong
những bài thơ thể hiện nội dung trên là bài Câu cá mùa thu.
b. Thân bài
Từ tên bài thơ đến mọi chi tiết miêu tả đều trực tiếp hay gián tiếp làm hai từ Thu
điếu (Câu mùa thu). Hai câu đề cho thấy cảnh được báo hiệu từ tên gọi tác phẩm:
có ao, có thu (hợp lại thành ao thu), có nước trong veo, có chiếc thuyền câu nhỏ. Đúng
bài thơ nói chuyện Câu a thu, tuy câu chỉ hình thức bề ngoài. Các câu
thơ tiếp theo đều được tổ chức xoay xung quanh "trục" này, người đọc cảm
tưởng tác giả nhấn mạnh vào yếu tố thu hơn yếu tố u cá. Cảnh thu đã được nhìn từ
con mắt của một người ngồi câu trên ao.
* Sắc thái riêng của mùa thu nông thôn Bắc Bộ
- Cảnh thu vừa trong vừa tình. Ao ớc trong tưởng thể nhìn thấu đáy (trong veo),
sóng biêng biếc phản chiếu màu cây, màu trời, trời ít mây nên càng nổi bật màu xanh
ngắt (xanh đây cũng thể hiểu trong). Tĩnh: mặt ao lặng, lạnh lẽo (cái lạnh)
thường hay sóng đôi với cái lặng, sóng hơi gợn (gợn tí), gió khẽ đưa vàng, khách
vắng teo, tiếng cá đớp bỗng nghe hồ như như không (cái động của liêng cá đớp
bỗng càng làm nổi bật cái tình chung của cảnh). Ở đây, trong gắn liền với tĩnh.
- Đây cảnh thu đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ, xứ đồng chiêm trũng. Các chi
tiết miêu tả trong bài đều giàu tính hiện thực, hầu như không vướng chút ước lệ nào,
có thể gợi những cảm xúc sâu lắng về quê hương.
- ới ngòi bút của tác giả, tất cả các sự vật được nhắc tới đều xứng hợp với nhau: ao
thu nhỏ - thuyền câu bé, gió nhẹ - sóng gợn tí, trời xanh - nước trong, khách vắng teo -
người ngồi câu trầm ngâm yên lặng, đặc biệt các mảng màu xanh của nước, của tre
trúc thật hoa diệu với màu xanh của bầu trời.
- Từ láy trong thơ chẳng những tạo ra vẻ thuần Nôm cho tác phẩm mà còn có tác dụng
làm tăng nhạc tính. Từ láy vừa phỏng dáng dấp, động thái của svật, làm cho sự
vật hiện lên sống động, vừa thể hiện được biến đổi tinh vi trong cảm xúc chủ quan của
người sáng tạo: lạnh lẽo, tẻo teo, lơ lửng. Lạnh lẽo không hẳn nói về cái lạnh của nước
nói về không khí đượm vẻ hiu hắt của cảnh vật cũng như tâm trạng u uẩn của nhà
thơ. Tẻo teo thể được giải thích rất nhỏ (chiếc thuyền câu nhỏ), âm eo được lặp
lại gợi liên tưởng về một "đối tượng" đang mỗi lúc một thu hẹp diện tích, phù hợp với
cái nhìn của nhà thơ muốn mọi vật thu lại vừa trong tầm mắt, không mở ra quá rộng
làm cho không khí suy bị loãng đi. lửng vừa gợi hình ảnh đám mây đọng lại
lưng chừng giữa tầng không, vừa gợi trạng thái mơ màng của nhà thơ.
* Không gian trong thu điếu
- Cảnh trong Thu điếu cảnh đẹp nhưng tĩnh lặng đượm buồn. Không gian Thu
điếu một không gian tĩnh, vắng người, vắng tiếng: Ngõ trúc quanh co khách vắng
teo. Các chuyển động rất nhẹ, rất khẽ không đủ tạo âm thanh: sóng hơi gợn, mây
lửng, lá khẽ đưa.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
- đâu đớp động dưới chân bèo không thể hiểu theo nghĩa đâu đớp (nghĩa
không đớp). Từ đâu trong câu này đại từ phiếm chỉ chứ không phải từ phủ
định. Một tiếng động duy nhất - tiếng đớp mồi càng làm tăng thêm sự yên ắng, tĩnh
mịch của cảnh vật. Cái tĩnh bao trùm được gợi lên từ một cái "động" rất nhỏ. Đây
nghệ thuật lấy "động" nói "tĩnh", một thủ pháp nghệ thuật gợi tả quen thuộc của thơ cổ
điển.
* Tâm tình nhà thơ
- Nói câu nhưng thực ra không phải chú ý vào việc câu cá. Nói câu nhưng thực
ra đón nhận trời thu, cảnh thu vào cõi lòng. Cõi lòng của nhà thơ yên tĩnh, vắng
lặng. Tĩnh lặng trong scảm nhận độ trong veo của nước, cái hơi gợn của sóng, cái
độ rơi khe khẽ của lá. Đặc biệt sự tĩnh lặng trong tâm hồn thi nhân được gợi lên một
cách sâu sắc từ tiếng động duy nhất của bài thơ: tiếng đớp mồi dưới chân bèo. Cái
động rất nhỏ ngoại cảnh lại gây ấn tượng đậm đến thế, m cảnh đang trong sự
tĩnh lặng tuyệt đối. Sự tĩnh lặng đem đến sự cảm nhận về một nỗi quạnh, u uẩn
trong lòng nhà thơ.
- Bài thơ còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của tác giả: đó là một con người bình dị, gắn bó
sâu sắc với quê hương, biết rung động với những vẻ đẹp đơn của chốn thôn
thanh bình, hướng về sthanh sạch cao quý luôn tinh thần trách nhiệm đối với
cuộc đời.
c. Kết bài
- Cảm nhân được vẻ đẹp u tĩnh của cảnh sắc mùa thu, tâm hồn thanh cao niềm ưu
tư của nhân vật trữ tình trong bài.
- Thấy được sự tinh tế, tài hoa trong cách miêu tả thiên nhiên biểu lộ tâm trạng của
nhà thơ.
Phân tích Thu điếu đạt điểm 10 - Mu 1
Nguyn Khuyến là một nhà thơ lớn ca nền văn học trung đại Việt Nam. Ông là ngưi
hc rộng, tài cao, đỗ đu c ba thi (Thi Hương, thi Hội, thi Đình) nên được người
đời tôn trng gi bằng tên Tam nguyên Yên Đ. Tuy tài cao, hiu rộng nhưng Nguyễn
Khuyến ch làm quan mười năm rồi cáo quan, v quê n. Chính vy, ông gn
bó rt sâu nng với làng quê đồng bng Bc B và thường viết v nhng s vt bình d,
gần gũi quê hương. “Câu cá mùa thu” chính là bài thơ tiêu biu cho hồn thơ Nguyễn
Khuyến viết v đề tài mùa thu. Bài thơ đã làm ni khung cnh mùa thu làng q
qua đó nói lên tâm s thi thế ca tác gi.
“Câu cá mùa thu” nằm trong chùm tđề tài v mùa thu gồm ba bài thơ nức tiếng:
Thu điếu, Thu m, Thu vịnh đưc sáng tác khi Nguyn Khuyến đã từ quan v n ti
quê nhà. Tác phẩm đưc viết bng ch Nôm theo th thất ngôn bát Đưng lut vi
b cc bn phần: đề, thc, lun, kết.
Bài thơ mở đầu bng mt không gian quen thuc chn làng q mt chiếc ao thu
mt chiếc thuyn câu nh bé:
Ao thu lnh lẽo nước trong veo
Mt chiếc thuyn câu bé to teo
“Ao thu”, “thuyền câu” mt hình ảnh quá đỗi thân thuc với người dân vùng đồng
bằng chiêm trũng Bắc B. Ao mt không gian nh hp, thế s xut hin ca
chiếc thuyền “bé tẻo teo” đã trở nên hài a, cân xng. Chiếc ao nh hp nên con
thuyền cũng phải nh theo. Nhà thơ đã đặc t đặc điểm của ao thu đó làn c
“trong veo”. Trong veo rt trong, rất tĩnh lặng th nhìn đến c tận đáy. có
lẽ, đã vào cuối thu nên không khí ao thu đã nhuốm hơi th ca tiết trời mùa đông
tr nên “lạnh lẽo”. Từ láy “lạnh lẽova gi ra tiết tri se lnh li va din t tĩnh
lng ca không gian. Cnh thu thật đẹp, tht trong trẻo, êm đềm. Tác gi rt tinh tế khi
s dng ti bn vần “eo” trong hai câu thơ, nó không ch tác dng miêu t không
khí lnh lo, không gian eo hp rất đặc trưng của vùng chiêm trũng Bc B còn
gi ra cm giác bun bã, cô đơn trong lòng người.
Sang đến hai câu thc, bc tranh thu tiếp tục đưc khc ha qua nhng nét v c th
hơn, sắc nét hơn:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió kh đưa vèo
Tác gi đã vận dng rt tài tình ngh thut lấy động t tĩnh. Tả cái động “hơi gợn tí”
của sóng, “khẽ đưa vèo” của để đậm cái s tĩnh lặng ca mùa thu làng quê Vit
Nam xưa. Bởi không gian tĩnh lặng thì người ta mới nghe đưc nhng âm thanh
rt nh, rt kh y. Không ch miêu t cái tĩnh, hai câu thơ còn tiếp tc làm ni bt v
đẹp trong tro, nên thơ của mùa thu. Điểm xuyết vào gia bức tranh thu tĩnh lặng y là
màu vàng ca chiếc thu rơi mt màu sc rất đặc trưng cho mùa thu. Tuy nhiên,
Nguyn Khuyến không ly màu vàng làm gam màu ch đạo điểm xuyết, len li
gia màu xanh ca tri, của nước, ca ngõ trúc thôi. Ch “vèo” được tác gi s
dng tht tinh tế, din t trng thái rt nhanh dt khoát. Ch cn mt làn gió nh,
chiếc vàng đã nhanh chóng đánh “vèo” xuống mặt ao, rơi khỏi cành không h
lưu luyến. th nói, hai câu thơ đã đậm thêm v trong trẻo, tĩnh lặng, nên thơ của
bức tranh mùa thu qua đó, người đọc cm nhận được tình yêu thiên nhiên tha thiết
ca nhà thơ Nguyn Khuyến.
Bc tranh thu tiếp tục đưc m rng c không gian chiu cao và chiu sâu:
Tầng mây lơ lửng, tri xanh ngt
Ngõ trúc quanh co, khách vng teo.
Nhà thơ ng tm mắt lên cao để ngm nhìn bu tri cao rng, xanh trong, thoáng
đãng vi những áng mây lng giữa không trung. Màu “xanh ngắt” t đặc trưng
đặc bit ca bu tri thu Bc B. Trên nn tri xanh thm y những áng mây “lơ
lửng”. Từ láy “lơ lửngdin t những áng mây ờng như không trôi theo gió
ngưng đọng lại lưng chng trời đồng thi n gi ra trng thái màng trong lòng
người. Nhà thơ lại hướng tm mt v gần hơn, dưi mặt đất để ngm nhìn quang cnh
xung quanh vi ngõ trúc quanh co, ngon ngoèo, sâu hun hút, không h bóng dáng
qua li của con người. T “quanh co” không ch để t con ngõ nh, sâu còn gi
cho người đọc liên tưởng đến nhng suy nghĩ không li thoát của con người. Bi vy,
cảnh tuy đẹp nhưng tĩnh lặng đượm buồn. Đằng sau bc tranh phong cnh, ta vn
cm nhận được tâm hn tha thiết vi thiên nhiên, cuc sng.
Ti hai câu kết của bài thơ, người đc mi thy bóng dáng ca người đi câu cá:
Ta gi ôm cn, lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Người đi câu hiện ra với thế phn nhàn tn: ta gi ôm cn. Dường như người
ngồi câu nhưng lại không để tâm đến vic câu cá. S ch đợi không ch đợi,
không kêu ca, bun phin v việc không được “lâu chẳng được” dường như
đang suy nghĩ mông lung để cui cùng th ơ với việc “cá đâu đớp động dưới chân
bèo”. ràng, người đi câu nhưng không chú tâm đến việc câu đó cũng chẳng
phi mục đích khiến ông “ôm cần”. Đó chính hình nh của nhà thơ trong những
ngày cáo quan, lui v n. Chốn quan trường khiến ông chưng tai gai mt, ông tìm
v quê với thú vui điền viên. Ông đi câu chẳng qua để tìm mt chốn thanh tĩnh
mong thoát khi những ý nghĩ về thi cuc. Thế nhưng, ông đã không m được điều
đó bởi tâm trí ông vn không nguôi những suy nghĩ miên man về non sông, đất c.
Nhà thơ muốn tìm s bình yên khi ôm cần, buông câu, đắm chìm trong cnh vt
nhưng vẫn không th thôi trăn trở, ưu tư với s đời.
Vi bút pháp thy mặc Đường thi và v đẹp thi trung hu ha cùng vi ngh thuật đối
tài tình h thng t ng giàu sc thái biu cm , Nguyn Khuyến đã vẽ nên bc
tranh mùa thu trong trẻo, thanh , tĩnh lặng man mác đượm bun t cõi lòng ca
thi nhân.
th nói “Câu mùa thu” thực s bài thơ “điển hình hơn cả cho mùa thu ca
làng cnh Việt Nam” như nhà thơ Xuân Diệu đã từng nhận định. Qua bài thơ, ta hiu
được tấm lòng yêu thiên nhiên, đất nước tâm s thi thế ca tác giả. Bài thơ nói
riêng, chùm thơ thu nói chung s còn mãi trong lòng người yêu thơ bao thế h.
Phân tích bài thơ Thu điếu - Mu 2
Đưc mệnh danh “Tam Nguyên Yên Đổ”, Nguyễn Khuyến không ch một người
tài công với đất c, ông còn mt thi nhân vi nhiu tác phm sng mãi vi
thời gian. Bài thơ “Thu điếu” được trích t mt trong ba bài v chùm thơ thu ca ông.
Bài thơ bức tranh miêu t khung cnh mùa thu ca làng quê Vit Nam khi thi tiết
đã cuối thu đầu đông. Không chỉ vậy, đó còn những hoạt động, tâm ca con
người v cuc sng.
Nguyn Khuyến mt trong những nhà thơ lớn ca nền văn học nước nhà, thơ của
ông luôn nh nhàng, u lắng nhưng lại mang nhiu giá tr nhân sinh cũng như những
triết sâu sc. Không ch vy, ông còn một người hiền tài, yêu nước thương dân,
sẵn sàng đặt li ích ca đất c lên trên li ích ca bản thân nh. Cũng l bi
vậy, trong thơ của mình, ông thường viết v thiên nhiên, v con ngưi, v cuc
sng nơi làng quê Việt Nam. Lên làm quan vào thời điểm c mt nhà tan, tình
hình chính tr lon lc, ông la chn cáo quan v quê n, sng mt cuc đi an nhàn,
bình d nơi quê nhà, nhưng trong thâm tâm, ông vẫn chưa từng nguôi ni lòng, suy
nghĩ về vic dân, việc nước.
Tập thơ thu của ông gm ba bài thơ “Thu Vịnh”, “Thu Điếu” và “Thu Ẩm”. Trong đó,
“Thu Điếu” cũng bài thơ ni bt nht trong tập ba bài thơ trên. Bài thơ “Thu Điếu”
đã miêu tả cho chúng ta bc tranh thu tĩnh lặng, cũng là nỗi nim, tình cm ln lao ca
nhà thơ đối với quê hương của mình. Đt trong hoàn cảnh đó, đó còn sự trm lng
ca một thi nhân “tài hoa bất đắc chí”.
Ao thu lnh lẽo nước trong veo,
Mt chiếc thuyn câu bé to teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió kh đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng tri xanh ngt,
Ngõ trúc quanh co khách vng teo.
Ta gi, ôm cn lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
M đầu bài thơ, tác gi đã miêu tả cho chúng ta v khung cảnh i nhân vật tr
tình ngi câu cá, mt không gian rng ln, cảm tưởng như li càng rng lớn hơn khi
ch mt s vt gia không gian y. Mặt ớc “trong veo” như một tấm gương
rng ln, phn chiếu cnh vt xung quanh. Khi cúi xuống, tưởng chừng như thể
nhìn thy nhng sinh vt dưới phía đáy. Thế nhưng, khung cảnh to ln y càng m
chúng ta thu cm đưc cái lnh lo ca không gian.
Nhưng, gia không gian lnh lo y, vn không làm s sng b m nhạt đi. Hai câu
thơ tả thc tiếp theo đã cho chúng ta thấy được v đẹp ca s sng vẫn đang hiện hu.
Màu sắc như hòa quyn vi nhau, to nên s hài hòa ca s vt, hiện tượng đời sng.
Màu xanh tuy làm ch đạo cho bài thơ với những gam màu xanh khác nhau như “xanh
biếc”, “xanh ngắt” làm không gian trầm lặng hơn, mang sắc lnh nhiều hơn, nhưng
điểm xuyết vào đó vẫn màu vàng ca cây. Ch mt chm nh ấy thôi, nhưng
như làm bng sáng c một không gian, cũng như khiến con ngưi ta cảm giác như
đang được sưởi ấm. Phép đi tài tình làm ni bật nét thu, đm lên hai giác quan
con người cm nhận được không gian xung quanh. Ch “vèo” ng chng như nh
thường, nhưng lại phát hin tuyt vời, sau này nhân Tản Đà va khâm phc,
cũng lại vừa tâm đắc. Không gian như lại đưc m rng ra hai câu thơ tiếp theo.
Bu tri cao, trong xanh vi vi mt trong những đặc điểm ni bt nht khi nhc
đến mùa thu. Mây trắng lười biếng, lửng trôi ni trên nn tri trong vắt. Con người
dường như cũng không xuất hiện, khi “khách vắng teo”. Cảm tưởng như thật tĩnh lặng,
heo hút. Tt c như đã gói gọn lại, như đã đọng lại để to n mt bc tranh thiên
nhiên tuyệt đẹp. Đây cũng khung cảnh thưng nhìn thy mi khi mùa thu ghé ti
thăm chúng ta.
Sáu câu thơ đầu tiên đã đưa ta đến gần hơn vi khung cnh thiên nhiên làng quê Vit
Nam vào mùa thu. Ch tới hai câu thơ cuối cùng, thì mi s xut hin ca con
người. Nhưng con người cũng thật yên lặng, như hòa mình vào cùng với không gian
vy. Hình nh của con ngưi tht nhàn nhã, cảm tưởng như đang tận hưởng v đẹp
của đất trời mùa thu. Người câu như đang th mình theo làn sương hơi, trôi bồng
bnh vào mộng đẹp ca mùa thu mang li. Ch ti khi nghe thy tiếng quẫy c,
người câu cá dường như mới cht bng tnh khi mng cnh. Mt tâm hn thanh cao,
không vướng bụi đi. Trông thì thật đơn, nhưng l lại không đơn như chúng
ta vn hng tưởng. Trông thì thật tĩnh lặng, thế nhưng trong thâm tâm nhân vt tr
tình - đây cũng thể hiu tác gi Nguyn Khuyến l đang trào dâng những
suy nghĩ, những trăn trở vì vic dân, việc nước.
Có th nói, bài thơ “Thu Điếu” (hay “Câu cá mùa thu”) là mt tác phm ấn tưng, ni
bt mi khi chúng ta nhc tới thơ ca Trung Đại. Tam Nguyên Yên Đ Nguyn
Khuyến hay “Thu Điếu” sẽ mãi là ánh sao sáng trên nn trời văn hc Vit Nam.
Phân tích Câu cá mùa thu - Mẫu 3
Đi câu là một cái thú thanh tao của các bậc trí giả. Có bậc hiền nhântài, bất đắc chi
đi câu để chờ thời. Ngồi trên bờ ai nghĩ đến chuyện năm châu bốn biển, nghĩ đến
thế sự đảo điên. “Cá ăn đứt nhợ vểnh râu ngồi bờ” (có người còn dùng lưỡi câu thẳng
như Khương Tử Nha - Trung Quốc). bậc đại nhân vác cần đi câu để hương thú
nhàn tản, a hợp với thiên nhiên, suy trong trạng thái thư giãn. Nguyễn Khuyến đi
câu theo kiểu này. Ông đã mở hết các giác quan để cảm nhận mùa thu, cũng mùa
câu của xứ Bắc. Như những đứa trẻ trong xóm, ông câu cũng chăm chú, cũng hồi
hộp, cũng say mê. Kết quả của cuộc chơi ấy ông đã được một i thơ “Thu điếu”
vào loại kiệt tác của nền văn học nước nhà:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt.
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Hình ảnh mùa thu hiện lên trong bài thơ với một không gian hẹp chốn làng quê của
tác giả, trong một cái ao nhỏ với chiếc thuyền câu nhẹ thênh thênh:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Cái tôi trữ tình lặn phía sau ngôn từ. Cảm giác của thi nhân thì hiện lên sắc sảo và tinh
tế. Mùa thu đã vào chiều sâu, “ao thu lạnh lẽo” với mặt nước “trong veo” rất muốn
nhìn, ao thu như chiếc gương tròn của làng quê. Làng Bùi của nhà thơ đồng
chiêm trũng rất nhiều ao, ao nhỏ. Ao nhỏ thì thuyền câu cũng nhỏ theo “bé tẻo teo”,
vần eo thử vận hiểm hóc, vậy u thơ trôi chảy tự nhiên như không, như không
có chút gì là kĩ xảo cả.
Thuyền câu đã hiện ra đấy người câu đâu chẳng thấy. Cũng chưa thấy cần thấy
nhớ gì cả. Người đi câu còn mải mê với trời nước của mùa thu:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng, trước gió khẽ đưa vèo.
Ao thu không còn nh lặng nữa đã nổi sóng với hai thanh trắc đầu câu (sóng
biếc) hai thanh trắc cuối câu (gợn tí). ng nhỏ ao nhỏ, lại trong chỗ khuất.
Gió nhẹ, gió heo may mùa thu. Sóng lại màu sắc, sóng biếc” thật đẹp. Ngòi t
của tác giả tinh tế đến từng chi tiết nhỏ. Hai câu thực đối rất chỉnh “sóng biếc" đối với
“lá vàng”, đều màu sắc đặc trưng của mùa thu. “Hơi gợn tí” đối với “khẽ đưa vèo”,
vận động của chiều dọc tương xứng với vận động của chiều ngang thật tài tình.
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Nhà thơ đã thả hồn theo chiếc vàng “khẽ đưa vèo" trên mặt ao trong veo. Cái màu
vàng của mùa thu mà bao nhiêu thi nhân đã ngợi ca:
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
(Lưu Trọng Lư)
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.
(Bích Khê)
đây chiếc vàng của Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu điếu” dưới ánh mắt
của Xuân Diệu: “Cái thú vị của bài Thu Điếu các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh
sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, một màu vàng đâm ngang của chiếc thu
rơi...”. Lời bình của Xuân Diệu thật là tâm đắc.
Nhà thơ mở không gian lên chiều cao tạo nên không khí khoáng đạt không gian
được mở rộng nên bức tranh "Thu điếu” thêm đường nét, thêm màu sắc:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Màu da trời “xanh ngắt” thật đẹp, u xanh xao tha thiết. Trong màu “xanh
ngắt” cái thăm thẳm của chiều cao. Mây không trôi “lơ lửng” những áng mây
trắng “lơ lửng” trên bầu trời “xanh ngắt” thật thanh bình. Rồi tác giả lại trở về cận
cảnh với hình ảnh của làng quê. “Ngõ trúc quanh co”, đường làng quanh co thân thuộc
với bóng tre trùm mát rượi. Nhưng bao giờ trong thơ Nguyễn Khuyến tre cũng nói
trúc, “Cần trúc phơ gió hắt hiu” (Thu vịnh), “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”.
Nguyễn Khuyến thích cái hình thể loại cây ckhí ấy “Trúc dẫu cháy đốt ngay vẫn
thẳng”. Những nét trúc thẳng đối lập với những nét quanh co của đường làng thật
gợi cảm. Trời lạnh, đường quê vắng vẻ, “khách vắng teo”. Bức tranh thu đượm buồn.
Các thi thích miêu tả cảnh thu trong tĩnh lặng, đẹp, nhưng buồn. Sau Nguyễn
Khuyến, nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu cũng viết:
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
(Đây mùa thu tới)
Bài thơ kết thúc với hình ảnh của người đi câu như một nét tự họa:
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần”, dường như để tương xứng với khung ao nhỏ,
với chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Người đi câu đang đắm chìm trong suy thì một cử
động đã làm cho nhà thơ sực tỉnh:
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Ba chữ “đ” (đâu, đớp, động) miêu tả một chút xao động trong làn ao rất nhiều xao
động trong lòng thật là tài tình.
ý kiến cho rằng cử chỉ đi câu của Nguyễn Khuyến giống với Khương Tử Nha
nhà bình luận đó hết lời ngợi ca cả hai ông. Không! Nguyễn Khuyến đâu còn chờ
thời. Nhà thơ chỉ muốn tan hòa vào thiên nhiên, vào non nước. Toàn bộ hình tượng
thơ “Thu điếu” đã sửa soạn cho thái độ này. Khung cảnh hẹp, ao nhỏ, chiếc thuyền
“bé tẻo teo”. Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần” hòa điệu với thiên nhiên, tan hòa
với non nước. Thế thì làm sao thái độ đi câu của Nguyễn Khuyến lại giống với thái độ
đi câu của Khương Tử Nha được? Còn đồng tình với ai đó là chuyện riêng. Tôi đồng
tình với Nguyễn Khuyến.
Trong chùm thơ bài viết về mùa thu của Nguyễn Khuyến, nếu được chọn một bài thì
đó bài “Thu điếu”. Bài thơ "Thu điếu” kiệt tác trong nền thơ cổ điển nước nhà.
Bức tranh mùa thu được miêu tả bằng những hòa sắc tinh tế, những đường nét gợi
cảm. Nhạc điệu cũng độc đáo. vần gieo hiểm hóc tự nhiên, hồn nhiên. Theo Xuân
Diệu, cả bài thơ không còn lép chữ nào. Thật một nghệ cao tay. Cái tình của nhà
thơ cũng theo kịp cái tài. Cái tình của nhà thơ đối với quê hương làng cảnh, với non
sông đất nước thấm trong mỗi chữ mỗi lời làm xúc động hết thảy mỗi tâm hồn Việt
Nam.
Phân tích Câu cá mùa thu - Mẫu 4
Nguyễn Khuyến nhà thơ nổi tiếng với phong cách thơ đặc trưng, riêng biệt. Một
trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của ông chính bài Câu mùa
thu.
Mở đầu bài thơ tác giả miêu tả khung cảnh thiên nhiên gần gũi với làng quê:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
“Ao” hình nh gần gũi, thân thuộc với người nông dân. Thời tiết chuyển sang mùa
thu, ngay cả cái ao cũng mang hơi hướng, âm hưởng mùa thu với làn nước mát lạnh
trong veo. Trong khung cảnh mùa thu với ao nước trong xanh, làn nước mát lạnh
ấy hình ảnh chiếc thuyền câu của người thi nhỏ bé, lọt thỏm trong không gian
rộng lớn trở nên “bé tẻo teo”. Khung cảnh thiên nhiên, bức tranh mùa thu trở nên đẹp
đẽ và mang màu sắc riêng biệt không lẫn với bất cứ nơi nào.
Bức tranh mùa thu ở làng quê được miêu tả ở những cảnh vật thân thuộc khác:
“Sóng nước theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Làn gió thổi lăn tăn sóng trên mặt ớc “hơi gợn tí” m cho bức tranh tuy động
nhưng vẫn tĩnh. Tiếng sóng nước nhỏ ti li gợn gợn gợi cảm giác thanh bình. Hình
ảnh chiếc vàng rụng khỏi cây rơi xuống đất được miêu tả sinh động “khẽ đưa
vèo” vừa gợi sự mỏng manh yếu đuối của chiếc bị gió cuốn bay vừa gợi âm thanh
mùa thu - âm thanh của những chiếc lá rơi.
Bầu trời mùa thu mang vẻ đẹp thanh bình:
"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo"
Bầu trời mùa thu có những đám mây lơ lửng trên không trung tầng tầng lớp lớp nhưng
vẫn để lộ ra khoảng trời trong xanh tạo ra bầu không khí dịu mát. Thêm vào đó
quang cảnh xung quanh thi với con ngõ chạy quanh co nhưng vắng lặng không một
bóng người làm cho không gian trở nên vô cùng yên tĩnh.
Trong bức tranh mùa thu thanh bình đó là hình ảnh người thi sĩ ung dung, tự do tự tại:
"Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo"
Trong bức tranh thiên nhiên mùa thu ấy hình ảnh người thi thong dong buông
chiếc cần câu để câu cá mà không chút vướng bận nhưng đợi mãi không có con cá nào
cắn câu. Hình ảnh đàn “đớp động dưới chân bèo” tạo cảm giác thú vị. Người thi
thể nhìn thấy con cá, nghe thấy tiếng động của nhưng không thể bắt được
chúng. Bức tranh mùa thu với những cảnh vật quen thuộc của làng quê Việt Nam tuy
giản dị nhưng vô cùngơi đẹp. Trong bức tranh thiên nhiên đó là hình ảnh con người
ung dung, thong dong tận hưởng cuộc sống.
Vần “eo” thường được người ta cho rằng mang ý nghĩa không tốt không may mắn
nhưng nhờ sự sáng tạo của mình, Nguyễn Khuyến đã mang đến cho bạn đọc cái nhìn
mới mẻ, sự tươi vui khi gieo vần này tạo ra một bài thơ hay, độc đáo. Nhiều năm
tháng qua đi nhưng i thơ vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của để lại ấn
tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc.
Phân tích Câu cá mùa thu - Mẫu 5
Nhắc đến mùa thu, thường gợi cho ta nghĩ đến vẻ đẹp dịu dàng, êm bàng bạc
một nỗi sầu khắc khoải, man mác một nỗi niềm tha thiết. Bởi vậy, thu đi vào
những trang thơ của người nghệ vừa đẹp cảnh lại vừa đẹp tình. Trong kho tàng văn
thơ trung đại Việt Nam, đã nhắc đến mùa thu thì không thể không kể đến chùm thơ
thu của “ông hoàng mùa thu” Nguyễn Khuyến. Qua bức tranh “Thu điếu” (Câu
mùa thu) , cùng đến với cái tình của Nguyễn- một bầu tâm sự nói mấy cũng không
vơi, nhìn vào đâu cũng thấy thơ, cũng có thể bắt vào thơ.
Chỉ bằng một vài đường nét, một vài sắc màu điểm tô, ta thấy được qua bức tranh
“câu mùa thu” của Nguyễn Khuyến chan chứa mênh mang những cái tình của thi
nhân. Mà có lẽ trước hết, “tình” đây chính cái tình gắn bó, cái nh quyện hòa, cái
tình tha thiết với thiên nhiên non nước. Đọc “Thu điếu”, ta như được đắm mình o
một không gian thu rất riêng của nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.
Nếu qua “Thu hứng”, Đỗ Phủ vẽ ra một bức tranh mùa thu đặc trưng của miền Bắc
Trung Quốc, kết hợp giữa cái xác xơ, tiêu điều với cái dữ dội, chao đảo; nếu qua “Thu
vịnh”, mùa thu được Nguyễn Khuyến đón nhận từ không gian thoáng đãng mênh
mông với cặp mắt hướng thượng, khám phá dần các tầng cao của không gian, thì đến
“thu điếu” mùa thu được tạo nên bằng tất cnhững thi liệu “đượm chất thu” hết
mực cổ điển.
Hình ảnh “thu thủy”- làn nước mùa thu sóng đôi với “thu thiên”- bầu trời thu, kết hợp
cùng “thu diệp” thu hình ảnh “ngư ông” người câu cá. Ao thu vốn một
không gian chẳng còn xa lạ của vùng quê Bắc Bộ. Trung tâm của bức tranh thu một
chiếc thuyền câu “bé tẻo teo”. Từ chính chiếc thuyền con giữa lòng ao nhỏ ấy, ánh
mắt của thi nhân bao quát ra xung quanh cảm nhận mặt nước ao thu lạnh lẽo
trong veo đến hết độ.
Rồi mùa thu hiện lên với nào ng biếc “gợn tí”, xa hơn một chút hình ảnh vàng
“khẽ đưa vèo” trong gió, cao hơn khoảng không gian vời vợi của bầu trời “xanh
ngắt”, men theo lối đi của chiếc ao nhỏ là ngõ trúc “quanh co” uốn lượn… và đến cuối
cùng, tầm mắt của thi nhân lại quay về với chiếc thuyền câu bởi âm thanh của tiếng cá
“đớp động” dưới chân bèo. Khung cảnh hiện lên đẹp tựa tiên cảnh, nhưng lại là vẻ đẹp
vô cùng giản dị thân thuộc, gắn liền với đồng đất quê hương.
Xuân Diệu từng nhận xét: “…Thu điếu (Câu mùa thu) điển hình hơn cả cho mùa
thu của làng cảnh Việt Nam”. Mùa thu của thi nhân không chỉ y ấn tượng u
sắc, không những đẹp trong từng nét họa mà còn vang động những thanh âm rất riêng.
Ao thu hiện ra qua hai tính từ: “lạnh lẽo“trong veo” ao lạnh, ớc yên trong
đến tận đáy. đây, cái trong đã song hành cùng cái tĩnh: càng trong lại càng tĩnh,
càng tĩnh lại càng trong.
Còn bầu trời, Nguyễn lựa chọn điểm tô màu “xanh ngắt” sợi chỉ xuyên suốt kết
nối chùm thơ thu ba bài của thi nhân, cũng bởi vậy trở thành gam màu đặc trưng
cho hồn thơ thu Nguyễn Khuyến. “Xanh ngắt” xanh trong tuyệt đối không chút pha
trộn, không chút gợn tạp. Nguyễn Khuyến đã mở lòng để đón nhận cái thần thái rất
riêng của bầu trời thu như thế.
Còn với “gió thu” tác giả không miêu tả trực tiếp sử dụng bút pháp cổ điển “vẽ
mây nảy trăng”. Tả sóng nước “gợn tí”, tả vàng “khẽ đưa vèo” chính nhà thơ
đang họa nên gió. Với hình ảnh “ngõ trúc quanh co vắng teo” không một bóng
người qua gợi nên một không gian thu yên tĩnh đến êm ả. Câu thơ cuối đã được tác gi
khéo léo lồng vào bút pháp thi ca cổ điển “lấy động đánh tĩnh”.
Phải là một không gian tĩnh lặng tuyệt đối thì cả con người với thiên nhiên mới thể
giật mình trước âm thanh rất nhỏ “cá đớp động”. Cái động của tiếng đớp càng
làm nổi bật cái tĩnh chung của cảnh. Bức tranh thu hiện lên với vẻ đẹp thanh vắng,
quạnh hiu, chỉ duy nhất thi nhân đang trong vai của một ngư ông đối diện với thiên
nhiên mà như đang chìm vào cõi suy tư trầm ngâm. Không gian tĩnh lặng, vắng người,
vắng tiếng, cảnh hẹp và thu nhỏ trong khuôn ao làng xóm.
Bức tranh thu của Nguyễn Khuyến còn sự hòa quyện tinh tế giữa muôn vàn cung
bậc của các “điệu xanh” (Xuân Diệu): xanh ao, xanh sóng, xanh bèo, xanh bờ, xanh
trời xanh trúc. Rồi điểm xuyết giữa những sắc xanh ấy, người ta thấy nổi bật một
màu “lá vàng” đã tạo nên sự hòa sắc nhẹ nhàng cho cả bức tranh. “Lá vàng” thường
gợi sự tàn phai, tiêu điều, vốn là biểu tượng cho mùa thu phương Bắc.
Nguyễn Khuyến gợi chứ không tả, chỉ với ba từ “khẽ đưa vèo” gợi được cả cái
thanh nơi màu vàng của chiếc trên nền trời xanh đang chao nghiêng, trên ng
biếc gợn nhẹ. Đây chính khoảnh khắc bất ngờ đầy chất thơ của tạo vật cho thấy
đôi mắt với ánh nhìn chủ động của người nghệ sĩ. Tác giả như đang nghiêng lòng
mình, lắng nghe mọi tàn phai trong sự chuyển động khẽ khàng của cảnh.
Cả bức tranh thu sự hòa điệu về đường nét chuyển động mảnh mai, nhẹ nhàng đến
tinh tế thông qua chuỗi các động từ: “khơi gợn tí”, “lơ lửng”, “khẽ đưa vèo”… Ao thu
nhỏ nên thuyền câu bé, trời xanh ngắt nên nước thêm trong, khách vắng teo nên người
ngồi câu cũng trầm ngâm, yên lặng. Bức tranh thiên nhiên được hòa sắc vào nét, bỗng
trở nên hài hòa xứng hợp, xinh xắn đến lạ kì.
Như vậy, để làm sống dậy hồn của cảnh trên trang viết, Nguyễn Khuyến đã sử dụng
một hệ thống ngôn từ vô cùng tài hoa thứ ngôn ngữ gợi cảm, giàu nhạc điệu và được
biến hóa qua nhiều sắc thái bất ngờ. Trước hết là hệ thống các từ láy vừa gợi hình, vừa
gợi cảm, những nh từ chỉ mức độ được kết hợp hết sức tinh tế: “lạnh lẽo, trong veo,
bé tẻo teo, gợn tí, vèo, lơ lửng, xanh ngắt, quanh co, vắng teo”.
Việc lựa chọn vần “eo vốn được coi vần chết trong thi ca, dưới ngòi bút tài tình
của tác giả đã thành công bất ngờ, gợi cho ta cảm giác không gian mỗi lúc một thu
hẹp, bức tranh càng gợi cảm giác xinh xắn, bé nhỏ rất phù hợp với quan điểm thẩm
truyền thống của người Việt xưa. Cảnh thanh đạm, đơn sơ, không lộng lẫy nhưng vẫn
hết sức gợi cảm; cảnh đẹp nhưng lại đượm buồn.
Nguyễn Du đã từng đúc kết một qui luật: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu”, bức tranh
thu của Nguyễn Khuyến cũng vậy, cũng mang nặng những nỗi niềm tâm sự u hoài của
tác giả trước thời cuộc đổi thay. Bài thơ, thể nói, đã được hình thành từ sự cộng
hưởng giữa nỗi sầu ủ sẵn trong cảnh và niềm cô đơn ẩn sâu trong lòng người.
Với nhan đề: Câu mùa thu” nhưng nhân vật trữ tình lại chẳng mấy bận tâm đến
chuyện câu cá, nói “câu cá” thực ra để đón nhận cảnh thu vào lòng gửi gắm
tâm sự. Bức tranh thu tĩnh lặng hay chính một cõi lòng tĩnh lặng tuyệt đối. Cái se
lạnh của cảnh thu đang thấm vào tâm hồn của nhà thơ hay cái lạnh của lòng thi nhân
đang tỏa lan ra cảnh vật?
Nguyễn Khuyến, ta thấy một nỗi buồn u hoài thăm thẳm đơn của một nhà nho
lánh đời thoát tục, nhưng trong lòng vẫn canh cánh nỗi niềm dân nước. Cũng giống
như Nguyễn Trãi năm xưa về Côn Sơn ẩn, Nguyễn Khuyến nhàn thân nhưng không
nhàn tâm. Khi ông đạt đến đỉnh cao sự nghiệp thì cũng lúc dân tộc bước vào một
giai đoạn lịch sử đầy bi thương.
Chế độ phong kiến bấy giờ trở thành một nh nặng của lịch sử, không n đủ kh
năng để đưa đất nước thoát khỏi họa ngoại xâm dịch. Hệ tưởng Nho giáo
nhà thơ từng tôn thờ đã trở nên lạc hậu, lỗi thời. Nguyễn Khuyến ý thức sâu sắc sự bất
lực của bản thân. Ông luôn cảm thấy băn khoăn, bứt rứt không thlàm hơn cho
đất nước, cho nhân dân.
Điều duy nhất ông thể làm bất hợp tác với kẻ thù, lui về quê ẩn, giữ gìn tiết
tháo nhân cách, quên đi những dằn vặt sự đời nhưng muốn quên chẳng thể quên
được. Tại nơi thôn quê thanh sơ, Nguyễn Khuyến vẫn đau đáu một nỗi quan hoài
thường trực ông một con người nặng tình với đất nước, với quê hương. Hai câu
thơ cuối kết lại mạch cảm xúc, gợi ra lòng người thanh thản với thế thu nh ngồi
đến lặng lẽ của một ngư ông “lánh đục về trong”
“Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
Nhà thơ chăm chú dõi nhìn cảnh sắc mùa thu, cho đến khi nghe tiếng đớp động
dưới chân bèo mới giật mình sực tỉnh. Vừa trở về với thực tại, nhà thơ đã đưa mình
vào trạng thái lửng lơ… Một chữ “đâu” không thể phân biệt được đâu , đâu
mới thực. Đâu” đâu hay “đâu” đâu đó? Bức tranh thu liệu thực tiếng
đớp động hay không? Người đọc không biết, thi nhân cũng không tài nào lí giải nổi.
Người ngồi câu mà như hóa thạch giữa không gian, thời gian, đi câu cái chí lại
không đặt ở việc đi câu.
Mỗi thi sĩ làm thơ, trước hết là phải thổi được cái hồn mình vào đó, phải biết biến hóa
những con chữ thô cứng ngập tràn thi vị “nhảy múa” trong cảm xúc. “Đọc một câu
thơ hay tức là ta gặp gỡ một m hồn con người” (A--ni Phơ-răng). Qua “Thu điếu”,
ta thấy được ở Nguyễn Khuyến một tâm hồn gắn bó với thiên nhiên, một tấm lòng yêu
nước thuần hậu, thầm kín.
Đó phải là cái nhìn đầy tinh tế của bậc thầy thơ Nôm trung đại mới có thể họa nên bức
tranh đẹp nhường ấy. Nỗi buồn trong cảnh không bị đẩy tới mức độ u uất lan tỏa
nhẹ nhàng ra xung quanh, vừa đủ để tạo ra một khoảng lặng trong tâm hồn. Chính nỗi
u hoài ấy của tác giả mới làm nên lưu luyến trong tâm trí người đọc, làm nên nỗi day
dứt với đời và tạo thành giá trị trường tồn, sức sống lâu bền cho tác phẩm.
Với “Thu điếu” Nguyễn Khuyến đã tạo nên cho mình một chỗ đứng quan trọng
trong nền thơ ca trung đại Việt Nam nói chung trong những thi phẩm lựa chọn đề
tài mùa thu nói riêng. Đong đầy trong từng vần thơ con chữ, ta thấy được mênh mang
cái tình của thi nhân. Nguyễn Khuyến, hơn một nhà họa một nhà thi sĩ. Thơ ông
hơn một bức tranh tả cảnh là những ngôn từ gợi tình.
Phân tích Câu cá mùa thu - Mẫu 6
Nguyễn Khuyến vừa nhà thơ trào phúng vừa nhà thơ trữ tình, nhuốm đậm
tưởng Lão Trang triết Đông phương. Tchữ Hán của ông hầu hết thơ trữ
tình. thể i cả trên hai lĩnh vực, Nguyễn Khuyến đều thành công. Thu điếu được
trích từ chùm thơ thu gồm ba bài: Thu điếu, thu vịnh. Cả ba thi phẩm đều được viết
bằng từ chương, bút pháp thi trung hữu họa, lấy động tả tĩnh của văn học trung đại,
nhưng vẫn mang đậm dấu ấn riêng của một trong những bậc thầy thơ Nôm đường luật
xuất sắc.
Cảnh vật được đón nhận từ gần đến cao xa rồi từ cao xa trờ lại gần. Từ điểm nhìn của
một người ngồi chiếc thuyền nhìn ra mặt ao, nhìn lên bầu trời, nhìn tới ngõ vắng rồi
lại trở người về với ao thu, nhà thơ đã quan sát không gian, cảnh sắc thu theo người
lương thật sinh động.
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.”
Nguyễn Khuyến đã chọn những chi tiết rất tiêu biểu cho mùa thu xứ Bắc (ao thu, gió
thu, trời thu). Ao thu là thứ ao rất riêng chỉ mùa thu mới xuất hiện. Nguyễn Khuyến đã
ghi nhận được hai đặc trưng của ao thu lạnh lẽo trong veo ao lạnh nước yên,
trong đến tận đáy. Ao nét thường gặp trong thơ Nguyễn Khuyến, nói đến ao gợi
đến một cái rất gần gũi, thân quen, tâm hồn Nguyễn Khuyến thế: thân mật, bình
dị, chân thành với hồn quê. Trời thu trong xanh cũng hình quen thuộc trong thơ
Nguyễn Khuyến. Bầu trời thu xanh ngắt xưa nay vẫn biểu tượng đẹp của mùa thu.
Những án mây không trôi nổi bay khắp bầu trời lửng. Xanh ngắt trong thơ
Nguyễn Khuyến xanh trong, tinh khiết đến tuyệt đối, không hề pha lẫn, không hề
gợn tạp.
Đường nét chuyển động nhẹ nhàng, mảnh mai, tinh tế: hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, mây lơ
lửng, đường bao thanh mảnh của rặng trúc, đường gợn của lượn sóng ao thu. Cảnh vật
toát lên sự hài hòa, xứng hợp: Ao nhỏ thuyền bé; gió nh sóng gợn; trời xanh
nước trong; khách vắng teo chủ thể trầm ngâm tĩnh lặng. Sau này Xuân Diệu trong
bài Đây mùa thu tới cũng đã bắt được những nét điển hình đó của sông nước vùng
quê, khi trời đã bắt đầu bước vào những ngày giá lạnh:
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
… Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò.
Nghệ thuật sử dụng ngôn từ của tác giả các từ láy vừa tạo hình, vừa gợi cảm, những
tính từ các từ chỉ mức độ như lạnh lẽo, trong veo, tẻo teo, hơi gợn tí, khẽ đưa
vèo, lơ lửng, xanh ngắt, vắng teo, quanh co việc lựa chọn vần eo đã gợi nên cảm nhận
mỗi lúc một thu hẹp diện tích
Cảnh buồn cảnh chẳng đeo sầu bức tranh cảnh thu đã mở cho chúng ta tình thu
của người trong cảnh. Phải chăng đâytâm trạng thời thế của nhà thơ? Thời thế thay
đổi nhanh quá! Thoáng chốc non sông đã mất trong tay kẻ thù. Thoáng chốc thời cuộc
đã vụt qua: Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Mặt nước, tầng mây lơ lửng và sắc trời mở
ra không gian cho bài thơ phải chăng ng đồng thời ẩn chứa những nỗi niềm tâm sự
liệu chút lửng về thời cuộc? Chọn con đường ẩn để giữ trọn thân danh, giữ
lấy cái cao khiết để như biểu tượng đăm đắm của bầu trời kia phải chăng đã thật đúng,
hay chỉ là để “chạy làng” trong cách nói cay đắng của một vị đại khoa.
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo phải chăng tâm sự đơn, quạnh? Nguyễn
Khuyến có lần tự thấy mình như một cành trúc đó thôi! Lẻ loi đơn, vắng teo
trước thời cuộc rộn ràng. Đó tâm sự của một nhà nho lánh đời thoát tục song vẫn
không nguôi nghĩ về đất nước, nhân dân, vsự bế tắc, bất lực của bản thân? Nhàn
thân song không nhàn tâm, Nguyễn Khuyến không thể ung dung đi câu như một ẩn
thực thụ.
Câu thơ cuối, với tiếng động duy nhất: tiếng đớp động. Phải chăng đó âm thanh
của cõi lòng người câu cá? Nguyễn Khuyến nói chuyện câu nhưng thực ra tác giả
không chú ý vào việc câu cá. Nói câu nhưng thật ra để đón nhận trời thu vào
lòng, gửi gắm tâm sự. Cõi lòng tĩnh lặng để cảm nhận độ trong veo của nước, cảm
nhận cái hơi gợn của sóng, cảm nhận độ rơi khẽ của lá. Đặc biệt cõi lòng tĩnh lặng
được gợi lên sâu sắc từ một tiếng động nhỏ: tiếng cá đớp mồi. Đó là sự tĩnh lặng tuyệt
đối của tâm cảnh, cõi lòng của thi nhân cũng tĩnh lặng, trong trẻo như làng quê Việt
trong tiết thu.
Bài thơ Câu mùa thu thể hiện sự cảm nhận nghệ thuật gợi tả tinh tế của Nguyễn
Khuyến về cảnh sắc thu đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời cho thấy tình yêu thiên nhiên,
đất nước, tâm trạng thời thế về tài thơ Nôm của tác giả.
Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu - Mẫu 7
Trời vào thu với màu sắc thê lương ảm đạm, với gió heo may se sắt lạnh lùng
những chiếc vàng nhẹ rơi bỏ lại thân cây trơ trọi, não nề. Mùa thu lẽ làm cho
người ta bâng khuâng hoài cảm nhiều nhất nguồn cảm hứng bất tận cho người
nghệ sĩ. Quay ngược bánh xe lịch sử ta sẽ bắt gặp những mùa thu tuyệt vời ngập tràn
trong những trang thơ của bao thế hệ. Nhắc đến mùa thu không thể không nhắc đến
“Câu mùa thu” của Nguyễn Khuyến một bức tranh mùa thu Xuân Diệu đã
từng nhận xét: “Là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Tiếp xúc với bài thơ điều đầu tiên cho ta ấn ợng mật độ xuất hiện vần “eo” trong
bài thơ. Chúng ta y đếm xem: tất cả bảy tiếng sử dụng vần “eo”. Nếu để ý khảo
sát trong tiếng Việt thì ta sẽ phát hiện ra một điều thú vị vần “eo” trong ngôn ngữ
của ta thường làm cho không gian, sự vật bị dồn nén, co lại, kết tinh lại trong cái
khuôn khổ nhỏ nhất của nó. Trời thu đã mang sẵn cái khí lạnh trong lại càng lạnh
thêm trong cái từ “lạnh lẽo” ấy. Nước hồ thu đã trong rồi nay lại càng trong thêm nữa
bởi từ “trong veo”. Khoảng trống rộng lớn m cho chiếc thuyền câu nhỏ lại càng
nhỏ thêm khi được tác giả thấy rằng tẻo teo”. Hình ảnh vàng trước gió
khẽ đưa vèo” làm chúng ta chợt nhớ đến hai câu thơ của Trần Đăng Khoa:
Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.
Trở về câu thơ của Nguyễn Khuyến động từ “vèo” gợi cảm giác rơi nghiêng của lá.
“Khẽ đưa vèo” câu thơ cấu trúc động từ thật lạ, làm cho ta thấy dường ntiếng
rơi ấy không hiện thực đang diễn ra trong tâm thức của nhà thơ. Chiếc lá
ấy của nhà thơ làng Yên Đỗ Trần Đăng Khoa như ảo ảnh. Trong cái ảo ảnh đó,
người đọc cả tác gidường như không kiểm soát kịp thật hay không nữa.
Bức tranh mùa thu đến đây khẽ lay động dưới nét phác họa của nhà thơ.
Qua hai câu đề của bài thơ bức tranh mùa thu không được đặt trong không gian rộng
lớn như “Thu vịnh” bị giới hạn lại trong cái phạm vi nhỏ của “ao thu”.
“Ao thu” hai tiếng ấy vẻ đó lạ, đặc thù. Hình ảnh “ao thu” như muốn chứng
minh sự nhỏ bé khác thường của nó.
Toàn bộ khung ảnh được vẽ lên như một bức tranh hon thđặt trọn trong lòng
bàn tay ta vậy. một cái đó ngồ ngộ, dễ thương cuốn hút lạ thường. thu
tóm toàn bộ không gian, làng cảnh Việt Nam im lìm, vắng lặng nhưng lại ẩn chứa một
sức sống mãnh liệt.
Đến đây không gian được mở rộng ra, nhà thơ đã di chuyển điểm nhìn từ khoảng gian
nhỏ bé của “ao thu” hướng về không gian lớn của bầu trời. Ở đấy nhà thơ bắt gặp:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”
Cái động từ “lơ lửng” như gợi cho ta một cảm giác về một chuyển động ngỡ như
đứng yên. Những đám mây a thu như khẽ nhích từng một, bồng bềnh trong
bầu trời thu xanh ngắt. Cái chuyển động của chiếc thuyền u cũng vậy, như hơi
khẽ lắc trong sóng nước mùa thu.
Trở lại câu thơ:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí”
Ta thấy nó có một cái gì đó dễ gây ấn tượng. Chữ “làn” xuất hiện làm cho cảnh vật nó
như hồ, khó nắm bắt được. “Hơi gợn tí” gợi lên trước mắt chúng ta một
hình dáng của sóng.không ồn ào dữ dội như sóng biển mà có nó lăn tăn lan ra trên
mặt hồ. Bức tranh mùa thu như trầm mình trong cái yên ả, tĩnh mịch ấy.
một câu châm ngôn cho rằng: không một vẻ đẹp xuất sắc nào không mang
đôi nét kì quặc. Cho nên câu thơ:
"Ngõ trúc quanh co khách vắng teo"
Tuy gợi cho ta cảm giác rờn rợn da thịt nhưng bức tranh mùa thu ở đây vẫn có một nét
đẹp rất nên thơ, bình yên trong sáng. Con người nhà tđây có phần nào lộ diện
hơn:
"Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo"
Thế câu "Tựa gối ôm cần" thật lạ. như thú nhận rằng nhà thơ đang lo nghĩ về một
việc đó rất dữ dội, như đang giằng lấy ông. Phải chăng đó chính nỗi buồn
thời cuộc, nỗi buồn đến cuối đời nhà thơ vẫn không nguôi ngoai được phần nào.
Kết thúc i thơ cảnh vật mùa thu im lìm như bị đánh thức dậy trước cái âm thanh bật
hơi thật mạnh của cụm từ "đâu đớp động". Tạo ra một nét đối nghịch trong bài thơ:
Cảnh vật trên được miêu tả một bức tranh tĩnh lặng đến hoang vắng thì đến cuối
bài thơ như bắt đầu tiếp nhận được sức sống, bức tranh như sinh động hẳn lên.
Nhưng lại cũng khiến cho bài thơ im ắng cùng. Ba tiếng "đâu đớp động" chõi
lên một chút rồi lại đè xuống dưới sự áp chế mãnh liệt của vần "eo". Cách sử dụng
nghệ thuật, dùng cái động để diễn tả cái tĩnh làm cho cảnh vật trong bài thơ càng vắng
lặng hơn, nỗi buồn như bao trùm cả một khung cảnh rộng lớn.
Bài thơ còn mang trong một sắc điệu xanh sắc xanh của mây trời, của cây, của
nước mùa thu. Tất cả như hòa quyện vào nhau làm cho bài thơ tạo nên một bức tranh
hài hòa cân đối, có một màu sắc rất riêng của Việt Nam. Một chiếc lá vàng đâm ngang
tô thêm cho bức tranh mùa thu một vẻ đẹp mới lạ.
Đọc "Câu mùa thu" ta càng yêu thêm non sông xứ sở đất Việt này. Bức tranh mùa
thu đậm chất vẻ đẹp thiên nhiên của Việt Nam trong bao biến động xô bồ của cuộc đời
này. cần chăng nhiều lúc lòng chúng ta nên lắng lại để thưởng thức "Thu điếu" để
thanh lọc lại hồn mình, để yêu quê hương đất ớc, yêu tiếng Việt trong sáng giàu
đẹp này hơn nữa ...
Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu - Mẫu 8
Trong lịch sử thơ ca cũng một vài bài thơ tuyệt hay nói về mùa thu. Riêng Nguyễn
Khuyến đã chùm thơ ba bài: Thu thanh, Thu khê Thu điếu. Bài thơ nào cũng
hay, cũng đều cho thấy một tình quê dào dạt. Riêng bài “Thu điếu” thì nhà thơ Xuân
Diệu đã khẳng định “đại diện hơn tất cả cho mùa thu của ng cảnh Việt Nam”.
“Thu điếu” bài thơ tả cảnh sông tình sâu sắc: Cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình
yêu đất ớc, yêu mùa thu gắn liền với tình yêu quê hương đôi lứa. “Thu điếu”
được viết với thể thơ của Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình ảnh rất biểu cảm. Cảnh
thu, cây thu thơ mộng của làng quê Việt Nam đã hiện lên trong hình hài màu sắc
hoàn hảo dưới ngọn bút tinh tế của Nguyễn Khuyến.
Hai câu đầu nói về ao thu cùng chiếc thuyền câu. Nước ao “trong veo” toả hơi thu
“lạnh lẽo”. Sương khói mùa thu đã bao trùm cảnh vật. Nước ao thu đã trong lại trong
xanh Dòng khí thu tinh khiết bỗng trở nên “lạnh lẽo”. Trên mặt nước hiện lên xa xa
một chiếc thuyền câu knhỏ “bé tẻo teo”. Cái ao cùng chiếc thuyền câu hình
ảnh trung tâm của bài thơ, cũng hình ảnh giản dị, thân thương, đáng yêu của quê
nhà. Theo Xuân Diệu cho thấy vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Nam chỗ nào
là ao, cứ ao to ao sâu, ao rộng chiếc thuyền câu cũng theo đó mà “bé tẻo teo “:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo“.
Các từ ngữ: “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo” gợi tả bố cục, ng hình, màu sắc
của cảnh vật, sắc nước mùa thu; nhịp điệu lời thơ như gió thu đưa tiếng thu trở về.
Hai câu thơ cuối cùng trong phần này những nét vẽ tài hoạ đậm hơn vẻ đẹp của
mùa thu:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn chút
Lá vàng trước gió khẽ đưa tay “.
Màu “biếc” của ng hòa hợp với sắc “vàng” của tạo lên bức tranh đồng quê mộc
mạc rực rỡ. Nghệ thuật đối trong tranh thật cũng điêu luyện kết hợp “lá vàng” với
“sóng biếc”, tốc độ “vèo” của bay ơng đương với mức độ “tí” của sóng gợn. Nhà
thơ Tản Đà đã hết lời ca ngợi từ “vèo” trong thơ của Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một
đời thơ của mình i mới được một câu tvừa ý trong i “Đón thu, tiễn thu”,
“Ngồi nhìn lá rơi đầy sân”.
Hai câu luận mở rộng không gian diễn tả. Bức tranh thu thêm độ cao của bầu trời
“xanh ngắt” với nhiều tầng mây “lơ lửng” xuôi theo chiều gió thổi. Trong chùm thơ
thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc trời thu là “xanh ngắt “:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
(Thu ngâm)
“Da trời ai nhuộm mà xanh biếc”.
(Thu ẩm)
Tầng mây lơ lửng trời xanh biếc”.
(Thu tàn)
Cái hay của bài thơ “Thu điếu” là ở hai câu kết:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo “.
“Tựa gối ôm cần” thế của người câu cũng một tâm thế nhàn của nhà tđã
rời vòng danh lợi. Cái tiếng “cá đâu đớp động”, những chữ đâu” gợi nên cảm giác
mơ hồ, mông lung và chợt thức. Người câu cá ở đây chính là nhà thơ, một ông quan to
triều Nguyễn, yêu nước thương dân nhưng lực bất tòng tâm với thời cuộc, không
muốn trở thành tay sai cho thực dân Pháp đã cáo bệnh từ quan. Đằng sau câu chữ
hiện lên một nhà nho thanh bạch bỏ quê đi trọ. Đang ôm cần đi câu nhưng tâm
hồn nhà thơ đang chìm đắm trong giấc mộng mùa thu thì bỗng bừng tỉnh quay trở lại
thực tại khi “Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Cho nên cảnh vật ao thu, hồ thu êm
đềm, tĩnh lặng như chính tâm trạng của nhà thơ vậy — buồn cô đơn và trống trải.
Âm thanh tiếng “đớp động dưới chân bèo” đã làm nổi bật không gian tĩnh lặng của
chiếc ao thu. Cảnh vật như luôn luôn quấn quýt với lòng người. Thiên nhiên đối với
Nguyễn Khuyến như một bầu bạn tri kỷ. Ông đã trang trải tình cảm, gửi gắm tâm
và tìm kiếm sự an ủi thiên nhiên, sắc “vàng” của nắng thu, màu “xanh ngắt” của
lá thu, ở những “sóng biếc” trên mặt ao thu “lạnh lẽo”. ..
Câu mùa thu một trong số những áng văn hay mang đậm t trữ tình cảm
xúc của Nguyễn Khuyến. Mùa thu ngâm câu thơ thưởng vị trà thì còn bình yên
bằng. Qua những câu thơ trên, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Khuyến đã
khắc họa cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền
với tình yêu quê hương đất nước tha thiết và đằm thắm.
Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu - Mẫu 9
Mùa thu vốn một đề tài quen thuộc trong tca Việt Nam. Thu thường mang đến
cho thi sĩ một nỗi buồn man mác, gợi nhớ hay nuối tiếc về một cái gì đó xa xôi, đầy
ẩn. Dường như không ai tình không nói đến cảnh thu, tình thu khi đã thi sĩ!
Đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ thấy được điều đó. Cảnh mùa thu trong thơ ông
không phải mùa thu bất cứ miền nào, thời nào, mùa thu quê ông, vùng
đồng chiêm Bắc Bộ lúc bấy giờ. Chỉ với bầu trời “xanh ngắt” (Thu vịnh), với cái nước
“trong veo” của ao (Thu điếu), cái “lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, làn ao
lóng lánh bóng trăng loe” (Thu ẩm). Nguyễn Khuyến đã làm say đắm lòng bao thế hệ!
Khi nhận xét về bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu viết: “Bài t
Thu vịnh thần hơn hết, nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu điển hình hơn cả
cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Vậy ta thử tìm hiểu xem thế nào mà “Thu điếu
là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”?
Nếu như Thu vịnh, mùa thu được Nguyễn Khuyến đón nhận t cái không gian
thoáng đãng, mênh mông, bát ngát, với cặp mắt hướng thượng, khám phá dần các tầng
cao của mùa thu để thấy được: “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”, thì ở Thu điếu, n
thơ không tả mùa thu một khung cảnh thiên nhiên rộng rãi, không phải trời thu,
rừng thu hay hồ thu, lại chỉ gói gọn trong một ao thu: ao chuôm đặc điểm của
vùng đồng chiêm trũng, vùng quê của Nguyễn Khuyến:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Câu thơ đầu tồn tại hai vần “eo”, câu thơ thể hiện sự co lại, đọng lại không nhúc
nhích, cho ta một cảm giác lạnh lẽo, yên tĩnh một cách lạ thường. Không từ “lẽo”
từ “veo” cũng đủ cho ta thấy cảnh tĩnh, nhưng thêm hai từ này lại càng thấy cảnh
tĩnh hơn nữa. Khung ao tuy nhỏ nhưng tác giả lại không bị giới hạn mở rộng ra
nhiều chiều, trong cái không khí se lạnh đó dường như làm cho làn nước ao độ giữa
thu, cuối thu như trong trẻo hơn. Những tưởng trong “ao thu lạnh lẽo” ấy, mọi vật sẽ
không xuất hiện, thế thật bất ngờ: Khung ao không trống vắng “một chiếc
thuyền câu tẻo teo”. khung cảnh thiên nhiên dấu vết của cuộc sống con
người, khiến cảnh thu thêm được phần nào ấm cúng. Chiếc thuyền “tẻo teo” trông thật
xinh xắn. Câu thơ đọc lên, làm cho đối tượng miêu tả trở nên gần gũi thân mật biết
bao! Với hai câu mở đầu, nhà thơ sử dụng những từ ngữ gợi hình ảnh, tạo độ gợi cao:
“lẽo”, “veo”, “tẻo teo” mang đến cho người đọc một nỗi buồn man mác, cảnh vắng vẻ,
ít người qua lại. Và rồi hình ảnh:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Càng làm cho không khí trở nên tĩnh lặng hơn, nhà thơ đã dùng cái động của “lá vàng
trước gió” để miêu tả cái tĩnh của cảnh thu làng quê Việt Nam. Những cơn gió mùa
thu đã xuất hiện mang theo cái lạnh trở về, khiến ao thu không còn “lạnh lẽo”,
không còn tĩnh lặng nữa vì mặt hồ đã “gợn tí”, “lá vàng khẽ đưa vèo”, cảnh vật dường
như đã bắt đầu thay đổi hẳn đi! Cơn “sóng biếc” nhỏ “hơi gợn tí” chiếc “trước
gió khẽ đưa vèo” tưởng như mâu thuẫn với nhau, nhưng thật ra ở đây Nguyễn Khuyến
đã quan sát theo chiếc bay trong gió, chiếc rất nhẹ và thon thon hình thuyền,
chao đảo liệng đi trong không gian, rơi xuống mặt hồ yên tĩnh. Quả là phải có một tâm
hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống thật sâu sắc thì Nguyễn Khuyến mới thể cảm
nhận được những âm thanh tinh tế, tưởng chừng như chẳng ai để ý đến như thế! Như
trên đã nói: mđầu bài thơ, c giả sử dụng vần “eo” nhưng tác giả không bị giới hạn
đã mở rộng không gian theo chiều cao, tạo nên sự khoáng đạt, rộng rãi cho cảnh
vật:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Bầu trời thu xanh ngắt xưa nay vẫn biểu tượng đẹp của mùa thu. Những áng mây
không trôi nổi bay khắp bầu trời “lơ lửng”. Trước đây Nguyễn Du đã từng viết về
mùa thu với:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
Nay Nguyễn Khuyến cũng thế. Mở ra không gian rộng, cảm hứng Nguyễn Khuyến lại
trở về với khung cảnh làng quê quen thuộc cũng vẫn hình ảnh tre trúc, vẫn bầu trời thu
ngày nào, vẫn ngõ xóm quanh co… tất cả đều thân thương nhuốm màu sắc thôn
quê Việt Nam. Chỉ đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta mới thấy được những nét quê
tĩnh lặng, êm như vậy. Trời sang thu, không khí giá lạnh, đường làng cũng vắng vẻ.
“Ngõ trúc quanh cocũng “vắng teo” không bóng người qua lại. Sau này Xuân Diệu
trong bài Đây mùa thu tới cũng đã bắt được những nét điển hình đó của sông nước
vùng quê, khi trời đã bắt đầu bước vào những ngày giá lạnh:
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
Cành biếc run run chân ý nhi (Thu)
Thế rồi trong cái không khí se lạnh đó của thôn quê, những tưởng sẽ không bóng
dáng của con người, ấy vậy mà thật bất ngờ đối với người đọc:
Tựa gối buông cần, lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Hai câu thơ kết thúc đã góp phần bộc lộ đôi nét về chân dung tác giả. Tôi nhớ không
lầm dường nđã tài liệu cho rằng: “tựa gối, ôm cần lâu chẳng được”, “ôm” chứ
không phải “buông”. Theo Việt Nam tự điển thì “buông” hay hơn, phù hợp với tính
cách của nhà thơ hơn. Trong những ngày từ quan lui về ở ẩn, mùa thu câu cá, đó là thú
vui của nhà thơ nơi làng quê đtiêu khiển trong công việc, để hòa mình vào thiên
nhiên, quên đi những bận lòng với nước non, cho tâm hồn thanh thản. “Buông”:
thả lỏng, đi câu không cốt để kiếm cái ăn (hiểu theo đúng nghĩa của nó), mà để giải trí,
cho nên “ôm” không phù hợp với hoàn cảnh. Từ “buông” mang đến cho câu thơ hiệu
quả nghệ thuật cao hơn.
Tóm lại, qua Thu điếu, ta phần nào thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với thiên
nhiên, đối với cuộc sống: chỉ những ao nhỏ, những “ngõ trúc quanh co”, màu xanh
của bầu trời, cũng đã làm say đắm lòng người. Thì ra mùa thu thôn quê chẳng
xa lạ, mùa thu thôn quê chính cái hồn của cuộc sống, cái duyên của nông thôn.
Câu cuối này thú vnhất, vừa gợi được cảm giác, vừa biểu hiện được cuộc sống
ngây thơ nhất với sự việc sử dụng những âm thanh rất trong trẻo tính chất vang
ngân của những cặp vần, đã chiếm được cảm tình của độc giả, đã đọc qua một lần thì
khó mà quên được.
Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu - Mẫu 10
Nguyễn Khuyến người cốt cách thanh cao giàu lòng yêu nước, ông một lòng
không hợp tác với kẻ thù. Ông được mệnh danh “nhà thơ của dân tình, làng cảnh
Việt Nam”. Ông để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm thơ hay đặc biệt chùm ba i
thơ thu điển hình cho làng quê, phong cảnh Việt Nam. Trong đó nổi bật hơn cả bài
Câu cá mùa thu.
Nếu như ở bài Thu vịnh cảnh thu được đón nhận từ cao xa rồi mới đến gần thì bài Câu
cá mùa thu khung cảnh thiên nhiên mùa thu lại được đón nhận một chiều kích khác:
từ gần rồi tiến ra cao xa từ cao xa trở về gần. Khung cảnh được mở ra với nhiều
chiều hướng vô cùng sinh động.
Cảnh thu được mở ra với hình ảnh không gian hết sức trong trẻo:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Không khí mùa thu được gợi nên từ sự dịu nhẹ, nguyên nhất của cảnh vật với làn
nước trong veo, không một gợn đục. Mùa đã đi qua, những n mưa lớn với dòng
nước đỏ đục đã không còn thay vào đó cái thanh tĩnh, trong trẻo của làn nước, của
cảnh vật. Trong không gian nhỏ hẹp ấy hình ảnh của chiếc thuyền câu nhưng
không hề lọt thỏm giữa không gian thiên nhiên lại rất hài hòa, cân xứng. Tác giả
vẽ ra khung cảnh tưởng như đối lập ao thu thuyền câu, nhưng thực chúng lại hòa
quyện với nhau đến lạ. Bởi vật tác giả chọn ao thu chứ không phải hồ thu gợi
cảm giác rộng lớn, choáng ngợp. Ao thu ấy khi thuyền câu bên cạnh trở nên hài
hòa, cân xứng đậm chất khung cảnh làng quê Bắc Bộ Việt Nam. Hai câu thơ đầu
gieo vần eo nhưng không hề gợi lên cảm giác eo hẹp, nhỏ bé, tù túng mà ngược lại gợi
nên cái nhỏ nhắn, thanh thoát của cảnh vật.
Bức tranh thu tiếp tục được Nguyễn Khuyến phác họa ở cặp câu thơ tiếp theo:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Những đường nét của khung cảnh cũng hết sức mảnh mai với sóng hơi gợn tí, khẽ
đưa vèo, dường như mọi chuyển động đều cùng nhẹ nhàng, thanh thoát. Vận dụng
thủ pháp lấy động tả tĩnh Nguyễn Khuyến đã làm nổi bật sự tĩnh lặng tuyệt đối của
không gian, của cảnh vật. Phải không gian cùng yên tĩnh thì thi nhân mới có thể
cảm nhận tiếng động thật khẽ, thật êm của cảnh vật, sóng gợn hay chiếc
khẽ đưa, bằng giác quan tinh tế, nhạy cảm Nguyễn Khuyến đã nắm trọn từng khoảnh
khắc của thiên nhiên. Sắc vàng nếu như những bài thơ khác chính sắc màu chủ
đạo, là điểm nhấn để gợi nhắc mùa thu thì trong câu thơ của Nguyễn Khuyến sắc vàng
ấy cũng như bao sắc màu khác trong bức tranh: xanh của trời, trong veo của nước,…
chỉ góp phần tạo nên đường nét hài a cho bức tranh, tuyệt nhiên không gợi cảm
giác buồn của tâm trạng, hay o úa của cảnh vật. Không chỉ vậy, cái hồn dân dã,
vẻ đẹp mùa thu của làng quê Bắc Bộ còn được gợi lên từ những ngõ trúc quanh co:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Không gian được mở rộng chiều cao, tác giả hướng ánh mắt lên bầu trời để cảm
nhận được cái “xanh ngắt” của bầu trời, rất tự nhiên thu tầm nhìn về với ngõ trúc
quanh co. Không gian mùa thu cùng tĩnh lặng. Mọi chuyển động đều quá nhẹ
nhàng, êm ái không đủ để gợi nên âm thanh, duy chỉ tiếng động của tiếng đớp
mồi: “Cá đâu khẽ động dưới chân bèo”. Nhưng cái động đó kết hợp với từ “khẽ” lại
chỉ càng nhấn mạnh, tô đậm hơn cái yên ắng, tĩnh mịch của cảnh vật. Với nghệ thuật
lấy động tả tĩnh, Nguyễn Khuyến đã cho thấy cái thanh tĩnh tuyệt đối của làng quê
Việt Nam trong cảnh thu thanh bình, dịu nhẹ.
Bài thơ nhan đề Câu mùa thu, nói vchuyện câu thực lại không phải
vậy. Mượn chuyện câu để cảm nhận hết trời thu, cảnh thu o i lòng mình. Hẳn
Nguyễn Khuyến phải tâm hồn thanh tĩnh đến tuyệt đối mới có thể nhận đầy đủ
vẻ đẹp của mùa thu: trong veo, cái hơi gợn của nước, độ rơi khẽ khàng của lá. Đặc
biệt sự tĩnh lặng trong tâm hồn thi nhân được gợi lên một cách sâu sắc từ tiếng động
duy nhất trong bài thơ tiếng đớp mồi dưới chân bèo. Sự tĩnh lặng trong cảnh vật
gợi cho người đọc cảm nhận về sự đơn, uẩn khúc trong tâm hồn nhà thơ. Trong bài
các gam màu lạnh xuất hiện nhiều: trong veo, xanh ngắt,… dường như cái lạnh của
thu thấm vào tâm hồn nhà thơ hay chính tâm hồn đơn của tác giả lan tỏa sang cảnh
vật. Đặt trong bối cảnh đất nước đầy biến thiên lúc bấy giờ, thể thấy bài thơ thể
hiện tâm trạng đau buồn của Nguyễn Khuyến trước hiện tình đất nước đầy đau
thương.
Bài thơ thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Khuyến. Tiếng Việt
trong sáng, giản dị nhưng lại diễn tả được tất cả những gì tinh tế, đẹp đẽ nhất của cảnh
vật, diễn tả được tâm trạng tấm lòng của nhà thơ. Gieo vần “eo” từ vận tài tình
góp phần miêu tả không gian nhỏ hẹp tâm trạng đầy uẩn khúc của tác giả. Nghệ
thuật lấy động tả tĩnh gợi lên cái tĩnh lặng tuyệt đối của thiên nhiên.
Bài thơ Câu mùa thu với ngôn ngữ bậc thầy không chỉ cho người đọc thấy tài năng
của Nguyễn Khuyến trong việc dùng từ. đằng sau đó ta còn cảm nhận được một
tâm hồn gắn tha thiết với thiên nhiên, đất nước, tấm lòng yêu nước thầm lặng
nhưng không kém phần sâu nặng.
Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu - Mẫu 11
Viết về đề tài mùa thu nếu như văn học Trung Quốc “Thu hứng” của Đỗ Phủ
tiêu biểu đặc sắc thì nền n học dân tộc Việt không thể không nhắc đến chùm thơ
thu của cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến. Chùm thơ thu gồm ba bài “Thu
vịnh”, “Thu điếu”, “Thu ẩm” mùa thu hiện n qua cái nhìn đa tình của nhà thơ. Đặc
biệt bài thơ“Thu điếu” (Câu a thu) mang nét đặc sắc riêng điển hình hơn cả
cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”, đằng sau cảnh thu, tình thu tâm trạng, nỗi
niềm thầm kín của tác giả.
Nguyễn Khuyến người học rộng tài cao ba lần đỗ tài ra làm quan dưới triều
vua Tự Đức, chứng kiến “từng bước cơn hấp hối” của chế độ phong kiến thối nát. Ông
không chịu hợp tác với giặc, muốn giữ mình thanh sạch đã về ẩn sau hơn ời
năm làm quan. Chùm tthu được Nguyễn Khuyến sáng c sau khi về ẩn nơi quê
nhà.
“Thu điếu” cũng như hai bài thơ thu đều được viết theo th thơ thất ngôn bát
Đường luật bằng ngôn ngữ dân tộc chữ Nôm. Toàn bộ cảnh thu, tình thu được miêu tả
hiện lên rõ nét trong tám câu thơ.
Mở đầu bài thơ là không gian, thời gian của mùa thu ở làng quê Bắc Bộ:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Không gian ở đây là ao thu. Ao đặc trưng của vùng quê chiêm trũng quê hương của
tác giả. Thời gian không phải đầu thu chút oi xen lẫn của mùa hạ lẽ
lúc phân thu nên mới hơi lạnh của sự “lạnh lẽo”. Tính từ “Trong veo” đặc tả độ
trong của nước dường như thể nhìn xuyên thấu xuống bên ới, gợi ra sự thanh
sạch tĩnh lặng trên bề mặt ao. Tính từ “lạnh lẽo” như càng làm cho sự vắng lặng
tăng thêm. Không chỉ vậy “một chiếc thuyền câu” số từ chỉ số ít “một chiếc” cùng với
tính từ “bé tẻo teo” gợi sự nhỏ đến cùng. Chiếc thuyền câu như co lại một
chấm trên nền của ao thu. Tác giả sử dụng nghệ thuật chấm phá điểm nhãn. Trên cái
nền yên tĩnh của mặt ao xuất hiện một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Hai câu thơ đầu đã
mở ra một không gian thu với cảnh sắc rất mộc mạc, giản dị mang nét đặc trưng chất
thu, khí thu của làng quê Bắc Bộ.
Nếu như hai câu đề nổi bật lên sự tĩnh lặng thì hai câu thực đã mang những nét
vận động nhưng nó lại động để tĩnh. Lấy cái động của cảnh vật mà tả cái tĩnh của mùa
thu chốn thôn quê.
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Hai hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng” tưởng chừng như không có mối liên hệ mà có một
sự logic, chặt chẽ với nhau. gió thổi làm cho sóng gợn, rơi. Cảnh vật chuyển
động chẳng phải ào ạt của lá mùa thu như trong thơ Đỗ Phủ mà nó thật khẽ khàng, nhẹ
nhàng sóng chỉ hơi gợn tí, chỉ khẽ đưa vèo. Các tính từ, trạng từ “biếc”, “tí”,
“vàng”, “khẽ” được sử dụng thật tài tình, kết hợp với nhau tạo nên màu sắc, hình ảnh
làm cho cảnh thu trở nên sống động hồn. Chữ “vèo”khiến cho Tản Đà khâm phục,
tâm đắc cùng. Ông thổ lộ một đời thơ, ông mới được một câu thơ vừa ý “Vèo
trông lá rụng đầy sân”. Nguyễn Khuyến phải là một con ngườimột tâm hồn tinh tế,
nhạy cảm mới thể cảm nhận được sự chuyển động như tĩnh tại. Nghệ thuật lấy
động tả tĩnh đã được sử dụng thành công đem lại hiệu quả cao.
Không gian cảnh vật không chỉ hẹp trong khoảng không của mặt nước, của ao thu
được mở rộng ra hai chiều với một tầm nhìn cao hơn, xa hơn. Đó cái nhìn toàn
cảnh bao quát lên cả bầu trời với nhiều đường nét, màu sắc thoáng đạt:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Bầu trời xanh ngắt vẫn luôn là biểu tượng đẹp của mùa thu, có lần Nguyễn Du đã từng
viết: “Long lanh đáy nước in trời/ Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng” Bầu trời
xanh trong, cao thẳm của “Thu điếu sự nhất quán với không gian mây trời của
“Thu vịnh” “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” hay trong “Thu ẩm” với “Da trời ai
nhuộm xanh ngắt”. Mây trời trong “Thu điếu” không trôi lửng” gợi một
cảnh thu đẹp yên tĩnh như ngưng đọng lại trên khoảng không bao la, rộng lớn.
Chiều sâu không gian được cụ thể hóa bằng độ “quanh co” của ngõ trúc. Hình ảnh cây
trúc xuất hiện khá nhiều trong thơ của ông, nhìn khái quát mang một nét vắng lặng
và đượm buồn mà Nguyễn Khuyến đã viết: “Dặm thế ngõ trúc đâu từng ấy/Cần trúc lơ
phơ gió hắt hiu”. Màu xanh của da trời, màu xanh của trúc bao trùm lên sắc màu của
không gian. Cảnh vật trở nên u tịch, liêu, hiu hắt với tính từ “vắng teo” tức vắng
tanh, vắng ngắt không một bóng người đồng thời cũng cho thấy sự thoáng đãng, trong
lành của không gian nơi đây.
Sự tác động của ngoại cảnh làm cho con người không khỏi chạnh lòng đơn.
Nguyễn Khuyến lần đã từng tự thán về nỗi độc của đời mình: “Đời loạn đưa về
như hạc độc/Tuổi già hình bóng tựa mây côi” (Cảm hứng).
Sáu câu thơ đầu là sự miêu tả về cảnh vật, về mây trời non nước mùa thu. Đến hai câu
kết ta mới thấy sự xuất hiện của con người. Cái ý vị nhất của bài “Thu điếunằm
hai câu cuối: “Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Hình ảnh cụ Tam Nguyên Yên Đổ xuất hiện với thế ngồi gối buông cần thả câu
tạo nên một đường nét bất động trên bức tranh thu tĩnh lặng. Nhà thơ ngồi câu
tâm thế như đặt nơi nào không chú tâm đến việc câu để rồi giật mình trước tiếng
“đớp động dưới chân bèo”. Một lần nữa nghệ thuật lấy động tả tĩnh được sử dụng
thành công. Tiếng đớp tạo nên chuyển động nhỏ cũng khiến cho nhà thơ giật mình
tỉnh giấc tựa chiêm bao gợi lên sự tĩnh lặng, tĩnh mịch đến cùng. Cách hỏi “cá
đâu” thật đặc sắc tạo nên sự hồ trong không gian sự ngngàng trong lòng của
người điếu ngư. Hình ảnh ấy khiến cho ta liên tưởng đến cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm ung
dung ngồi uống rượu dưới gốc cây:
“Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”
Thực ra, câu cá chỉ là cái cớ để Nguyễn Khuyến miêu tả bức tranh thu, qua đó nhà thơ
bộc lộ tâm hồn tâm trạng của mình. Hình ảnh người đi câu thể khiến ta liên
tưởng tới con người thi sĩ, nho trước tình hình đất nước lúc bấy giờ. Theo kinh
nghiệm của dân gian nước trong thì không có nhưng tiếng cá đớp động chân bèo đã
tiếp thêm động lực cho người điếu ngư không nản chí tiếp tục công việc của mình.
Cũng giống như vậy chính trị nước ta bấy giờ rối ren, thực dân Pháp xâm lược, triều
đình nhà Nguyễn chống cự yếu ớt nhanh chóng thỏa hiệp để hồn nước rơi vào tay
giặc. Nhà thơ muốn bảo toàn khí tiết nên lựa chọn con đường về ẩn noi gương
tiền nhân Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm hay cụ Đào Tiềm Đào Uyên Minh bên
Trung Quốc một đời quyết giữ để mình thanh sạch. Tuy nhiên, âm thanh đớp động
như đánh thức nhà Nho, nhà chí yêu nước như thức tỉnh thôi thúc ông đứng lên đấu
tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc. Nhưng âm thanh ấy thật hcũng như trăn trở
trong lòng nhà thơ liệu rằng mình thể góp sức giúp đời hay bất hợp tác với giặc
lánh mình ẩn cư.
Như vậy Nguyễn Khuyến không chỉ bộc lộ những tình cảm yêu mến thiên nhiên, quê
hương đất ớc n kín đáo bày tnỗi buồn trong sáng nhưng đơn của một ẩn
sĩ, tuy nặng lòng yêu nước nhưng cam phận đành bất lực trước thời thế lựa chọn con
đường lánh đục về trong.
Nguyễn Khuyến một trong những đại diện lớn nhất cuối cùng của văn học trung
đại Việt Nam ở giai đoạn cuối thế kỉ XIX. Thơ ông sự kết hợp tài tình giữa tinh hoa
văn học bác học với văn học dân gian. “Thu điếu” một trong những bài thơ hay
đặc sắc với sự thành công của bút pháp nghệ thuật lấy động tả tĩnh, chấm phá điểm
nhãn, sử dụng các từ láy tính gợi hình, gợi cảm cao đặc biệt cách gieo vần “eo”
thật tài tình. Bài thơ được làm theo đúng niêm, đúng luật của thể tvừa mang tính
quy phạm của thơ ca trung đại cũng thực hiện giải quy phạm với những sáng tạo mới
không còn sử dụng những hình ảnh ước lệ, tượng trưng thay vào đó sự mộc
mạc, chất phác của đời sống nông thôn.
“Thu điếu” cùng với hai bài thơ trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến đã góp phần
làm nên sự phong phú đặc sắc cho đề tài viết về mùa thu của nền văn học dân tộc
với nét đặc trưng là sự tĩnh lặng, thanh bình với những hình ảnh bình dị của làng quê.
Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu - Mẫu 12
Nguyễn Khuyến được biết đến nhiều nhất với chùm thơ thu gồm.ba bài thơ bằng tiếng
Nôm một trong số đó chính Câu mùa thu” . Xuyên suốt bài thơ một nét thu
đẹp tĩnh lặng nơi làng quê thời xa a, biểu lộ một nét đơn trong tâm hồn một nhà
Nho yêu quê hương yêu đất nước thời bấy giờ. Sau khoảng thời gian ông từ quan về
quê nhà, một loạt những tác phẩm ra đời như “ Thu điếu”, “ Thu ẩm” , “ Thu vịnh”.
Mở đầu bài thơ là hai câu thơ
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Chỉ cần đọc hai câu thơ ta thể tưởng tượng ra cảnh sắc mùa thu, một không gian
nghệ thuật đang bao trùm xung quanh chúng ta. ớc trong veo của ao thể giúp ta
nhìn xuyên thấu được qua lòng ao, một không khí lạnh lẽo đang lan tỏa ra khắp không
gian. Không n cái se lạnh đầu thu nữa là đã thu phân, thu mạt rồi nên mới lạnh
lẽo như vậy. Không biết từ bao giờ trong lòng ao đã xuất hiện một chiếc thuyền
câu giữa không gian bao la rộng lớn dường như sự đơn của chiếc thuyền đang lan
tỏa rộng ra khắp không gian. tẻo teo nghĩa là rất nhỏ; âm điệu của vần thơ cũng
gợi ra sự hun hút của cảnh vật (trong veo tẻo teo). Đó một nét thu đẹp êm
đềm. Tiếp đó cùng bước vào thế giới nghệ thuật của hai câu thơ tiếp theo:
“Sóng nước theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Hai câu thơ đang gợi tả cảnh vật xung quanh theo không gian hai chiều thể nhìn
bằng mắt sóng đang gợn tai có thể nghe thấy tiếng lá được gió đưa vèo. Vô cùng
mộc mạc giản dị nhưng cũng thể cho người ta thấy được sự hài hòa của màu sắc
được tác giả miêu tả sóng biếc vàng. Gió thổi nhẹ cũng đủ làm cho chiếc
thu màu ng khẽ đưa vèo, làm cho sóng biếc lăn tăn từng làn từng làn hơi gợn .
Ngoài ra bên cạnh đó tác giả còn kết hợp sử dụng phép đối một cách cùng tài tình
giúp cho nét thu được nhấn mạnh giúp người đọc có thể hình dung ra không gian
tác giả đang miêu tả nđang trước mặt mình một cách cùng chân thực
nét. Phải công nhận một điều ngòi bút của tác giả Nguyễn Khuyến cùng tinh tế
trong dùng từ cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng hơi gợn phối cảnh với độ bay
xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc lá thu. Chữ vèo là một nhân tự sau này thi sĩ Tản
Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc. Ông thổ lmột đời thơ mới được một câu vừa ý:
vèo trông rụng đầy sân (cảm thu, tiễn thu). Chưa dừng lại đấy Nguyễn Khuyến
còn giúp chúng ta mở rộng tầm mắt hơn ở hai câu thơ tiếp theo:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Một bầu trời xanh ngắtthăm thẳm bao la và rộng lớn đang bao trùm lấy không gian
nơi đây. Những áng mây đang lẳng lặng trôi trên bầu trời rộng lớn như đang nhấn
mạnh sự rộng lớn của không gian nơi đây. Thoáng đãng, êm đềm, tĩnh lặng nhẹ
nhàng. Không một ng người lại qua trên con đường làng đi về các ngõ xóm: Ngõ
trúc quanh co khách vắng teo. Vắng teo nghĩa cùng vắng lặng không một tiếng
động nhỏ nào, cũng gợi tả sự cô đơn, trống vắng. Ngõ trúc trong thơ Tam nguyên Yên
Đổ lúc nào cũng gợi tả một tình quê nhiều bâng khuâng, man mác:
Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?
(Nhớ núi Đọi)
Có lẽ một trong những sự vật quen thuộc với hình ảnh làng quê đó ngõ trúc và tầng
mây. Hai sự vật này đã từng xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm nghệ thuật. vẻ
như tác giả đang tự hòa mình đắm chìm vào trong cảnh sắc nơi đây nên mới thể
miêu tả một cách cùng chân thực như vậy được. Đến hai câu kết thì bức tranh thu
mới xuất hiện một đối tượng khác:
“ Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Thu điếu nghĩa mùa thu câu cá. Sáu câu đầu mới chỉ cảnh vật: ao thu, chiếc
thuyền câu, sóng biếc, vàng, tầng mây, ngõ trúc.. Hình ảnh người câu đến tận
phần cuối cùng mới thấy xuất hiện với một thế tựa gối ôm cần cùng nhàn nhã.
Trong tâm thế đợi chờ lâu chẳng được bỗng nhiên tác giả bỗng nhiên chợt tỉnh vì nghe
thấy tiếng đớp động dưới chân bèo. Sự chờ đợi đã từ rất lâu mãi đến bây giờ đã
một chút kết quả. Người câu như đang không quan tâm đến mọi thứ tạp niệm chỉ
tập trung hòa mình vào trong không gian bây giờ, trong cảnh sắc vô cùng tuyệt đẹp, và
trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ vmột Vọng câu chờ thời bên bờ
sông Vị hơn mấy nghìn năm về trước. Chỉ một tiếng đớp động sau tiếng thu
đưa vèo, đó tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh ấy hòa quyện với một tiếng trên
không ngỗng nước nào, như đưa hồn ta về với mùa thu quê hương. Người câuđang
sống trong một tâm trạng đơn và lặng lẽ buồn. Một cuộc đời thanh bạch, một tâm
hồn thanh cao đáng trọng.
Thu điếu một trong những tác phẩm quá tuyệt vời của tác giả Nguyễn Khuyến.
Xuân Diệu đã từng bộc bạch rằng trong Thu điếu một nét diệu xanh người ta
không tài nào hiểu hết vẻ đẹp, vẻ tinh túy của được. xanh ao, xanh sóng, xanh
trời, xanh tre, xanh bèo… và chỉ có một màu vàng của chiếc lá thu đưa vèo. Tuy nhiên
ẩn sâu trong cái tĩnh lặng này lại một nỗi buồn man mác của tác giả. Một tâm thế
an nhàn thanh cao gắn với mùa thu quê hương, với tình u tha thiết. Mỗi nét
thu một sắc thu, tiếng thu gợi tả cái hồn thu đồng quê thân thiết, vần thơ: veo teo
tèo teo bèo, phép đối tạo nên sự hài hòa cân xứng, điệu thơ nhẹ nhàng bâng
khuâng cho thấy một bút pháp nghệ thuật cùng điêu luyện, hồn nhiên đúng
xuất khẩu thành chương.
Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu - Mẫu 13
Cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, tưởng chừng như cùng với sự kết thúc của chế độ
hội phong kiến suy tàn lạc hậu, nền văn học Việt Nam trung đại sẽ rơi vào ngõ cụt
của sự bế tắc với một phương thức phản ánh đã lỗi thời. Nhưng thật lạ trong sự
suy thoái tưởng chừng đã đến đỉnh điểm ấy lại xuất hiện một tài năng thơ ca vào loại
xuất chúng như Nguyễn Khuyến. Ông giống như một dấu chấm cảm thán khẳng định
tính cổ điển có sức lay động lòng người của văn học trung đại vào giai đoạn cuối cùng
của thời văn học dài hàng chục thế kỷ này. Ông để lại cho quê hương, cho đất nước
một di sản văn chương phong phú, đồ sộ. Nhưng nói đến nhà tNguyễn Khuyến,
người đọc mệnh danh ông nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam, ông đã
viết nhiều bài thơ hay về cảnh làng quê. Đặc biệt là chùm thơ thu của ông, trong đó
bài thơ Thu điếu:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần, lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Chùm thơ ba bài Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Bài nào cũng hay, cũng đẹp cho thấy
một tình quê dạt dào. Riêng Thu điếu, nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định điển
hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam, bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc:
Cảnh mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu
quê hương tha thiết.
Bài thơ được viết bằng thể thơ thất ngôn bát Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình
tượng biểu cảm. Cảnh thu, trời thu của ng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng
vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngòi bút thần tình của Nguyễn Khuyến.
Hai câu đầu:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Nhà thơ hầu như không hứng tgì với chuyện câu đắm say với không khí
cảnh sắc a thu, ngay câu đầu nhà thơ đã gọi cái ao của mình ao thu, với tính
chất lạnh lẽo nước trong veo thì đó đúng ao thu chứ không phải môi trường thích
hợp cho việc câu cá, bên cạnh đó cảm hứng của nhà thơ hoàn toàn đắm chìm trong
cảnh sắc a thu, một cảnh trong tĩnh gần như tuyệt đối, nước trong veo, trời xanh
ngắt, khách vắng teo, giác quan của nhà thơ cực kì tinh nhậy và phải hết sức chăm chú
thì mới nhận ra được những biểu hiện nhỏ nhặt tinh vi chỉ làm tôn thêm cho cái trong
và tĩnh của một khung cảnh đầy màu sắc:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Màu biếc của sóng hòa hợp với sắc vàng của vẽ nên bức tranh quê đơn lộng
lẫy. Nghệ thuật trong phần thực rất điêu luyện, vàng với sóng biếc, tốc độ vèo của
bay tương ứng với mức độ của gợn sóng. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ca ngợi chữ
vèo trong thơ Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình may ra mới được
câu thơ vừa ý trong bài Cảm thu, tiễn thu:
Vèo trông lá rụng đầy sân
Đến câu luận:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Không gian được mở rộng, bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời xanh ngắt với
những từng mây lơ lửng trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến
nhận diện sắc trời thu xanh ngắt. Thu vịnh Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Thu ẩm Da trời ai nhuộm xanh ngắt, và Thu điếu Tầng mây lửng trời xanh
ngắt.
Xanh ngắt xanh chiều sâu. Trời thu không mây (xám) xanh ngắt, thăm
thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái u, cái lắng của không gian, i nhìn vời vợi của nhà
thơ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi ông đãng đưa mắt nhìn về bốn phía làng quê.
Xóm thôn vắng lặng, nh mịch, con đường quanh co, heo hút, không một bóng người
qua lại.
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm
trong giấc mộng thu. Tất cả cảnh vật, từ mặt nước Ao thu lạnh lẽo đến chiếc thuyền
câu bé tí teo, từ sóng biếc đến lá vàng, từ tầng mây lơ lửng đến ngõ trúc... đều hiện lên
với đường nét, màu sắc, âm thanh thoáng chút bâng khuâng, man mác, rất gần gũi,
thân thiết với mọi người Việt Nam.
Biết bao thời gian trôi qua trong không gian của sáng tĩnh mịch y, thế ngồi của
ông câu cá như cũng bất động trong thời gian:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Tựa gối ôm cần thế đợi chờ mòn mỏi của người câu cá. Người a kẻ lấy câu
làm việc đợi thời, đợi người xứng đáng để phò tá. Văn thơ truyền thống lấy việc
câu để từ chối việc làm quan coi câu việc câu người, câu quạnh, câu lưỡi.
Bài thơ Thu điếu này cũng thể hiện khát vọng câu thanh, câu vắng cho tâm hồn của
một nhà thơ có phẩm chất thanh cao.
Cái âm thanh cá đớp động gợi lên sự mơ hồ xa vắng, đánh thức tỉnh.
Bài thơ Câu mùa thu một bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Khuyến.
Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt, nét vẽ xa
gần tinh tế gợi cảm. Âm thanh của tiếng rơi đưa vèo trong làn gió thu tiếng đớp
động chân o - đó tiếng thu dân dã, thân thuộc của đồng quê đã khơi gợi trong
lòng chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê hương đất nước.
Thơ sự cách điệu m hồn, Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc
đồng quê với tất cả tình đồng quê nồng hậu. Ông nhà thơ của ng cảnh Việt Nam.
Đọc Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh, chúng ta thêm yêu quê hương, thêm yêu xóm thôn
đồng nội, đất nước. Với Nguyễn Khuyến, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng yêu
quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một địa vị vẻ vang
trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam.
Phân tích bài Câu cá mùa thu - Mẫu 14
Mùa thu, mùa của hoa sữa thoang thoảng, mùa của rơm rạ vàng thơm, mùa được các
nhà thơ yêu đưa vào trong những trang thơ nhiều nhất.Với Nguyễn Thỉnh nhẹ
nhàng mùi hương ổi ông đã cảm nhận được thu về: “Bỗng nhận raơng ổi phả vào
trong gió se- sương chùng chình qua ngõ -nh như thu đã về”.Nhưng mùa thu trong
mắt Nguyễn Khuyến thì lại khác.Qua bài thu điếu ta thấy đằng sau cảnh thu tĩnh lặng
thì lại là nỗi niềm tâm sự sâu kín của người thi sĩ
Thu điếu viết bằng ch Nôm theo thể thất ngôn bát cú,hầu hết tám câu thơ đều tả
cảnh, hình ảnh con người chỉ xuất hiện hai câu cuối.Cảnh của bài thơ vẫn trời,
nước gió, trúc.. những hình ảnh quen thuộc trong thơ xưa
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Hình ảnh “ao thu” miêu tả với tính từ “lạnh lẽo”.Có lẽ cái lạnh của mùa thu cũng
ngấm dần vào làn nước và ngấm dần vào tâm hồn nhà thơ.Tính từ “trong veo” miêu tả
làn ớc, không gian tĩnh lặng.Nước trong veo chứ không phải lăn tăn gợn ng,
hai âm “eo” được lặp liên tiếp câu trên câu dưới khiến cho cảm giác về sự tĩnh
lặng càng trở nên thật hơn
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Không gian lạnh lẽo của mùa thu ấy xuất hiện chiếc thuyền cô đơn lẻ loi.Tác giả dùng
từ “bé tẻo teo” khiến cho chiếc thuyền càng trở nên nhỏ hơn,đơn độc hơn. Nhà thơ
Nguyễn Du đã từng nói: người buồn cảnh vui đâu bao giờ”.Thật đúng cảnh dưới
con mắt nhà thơ sao buồn tẻ, sao đơn đến lạ.Cuộc sống bây gitĩnh lặng
đến nghẹt thở chẳng có âm thanh để chứng tỏ cuộc sống ồn ã vẫn đang tiếp diễn
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Bức tranh thu tiếp tục hiện lên hình ảnh “Sóng vàng”.Mọi vận động đều khẽ
khàng và nhẹ nhàng như thế “sóng lăn tăn gợn tí”, “lá vàng đưa vèo”.Tác giả thật tinh
tế về việc sử dụng từ tượng hình và từ tượng thanh.Cảnh vật miêu tả theo chiều hướng
lấy động tả tĩnh, bức tranh ấy âm thanh nhưng âm thanh khẽ khàng quá lại càng
toát lên vẻ tĩnh lặng của mùa thu
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Không gian được mở rộng ra cả tầm cao tầm rộng. “Tầng mây lửng” mây cứ
chùng chình lửng, mây cũng chẳng muốn bay.Cuộc sống chẳng hối hả hay tâm hồn
nhà thơ đang sâu đầy tâm tư.Bầu trời thu “xanh ngắt”, màu sắc đậm nét của bức tranh
thu,mỗi nét vẽ của Nguyễn Khuyến đều rất dứt khoát để tả cảnh vật đưa vèo”, “hơi
gợn tí”, “xanh ngắt”.Mây trời đơn điệu tẻ nhạt.Còn ngõ trúc “quanh co”,“vắng
teo”.Nguyên từ “vắng” đã nói sự tĩnh lặng rồi nhưng tác giả lại còn sử dụng vắng
teo” thì nghĩa không gian thu ấy không âm thanh,không chút cử động,không bóng
người chỉ có màu sắc ơ thờ không hòa quyện
Bởi thế hai câu thơ cuối bài là một sự trống vắng, là nỗi cô đơn đến thắt lòng
Tựa Gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Đến đây hình ảnh con người đã xuất hiện nhưng lại với thế ngồi tựa gối”, “ôm
cần”. Trong trạng thái trầm sâu cảm, cảnh vật đã đơn con người lại càng
đơn hơn. Nthơ ngồi câu lâu chẳng được.Từ “cá đâu” cách hỏi hồ không định
hướng,nhưng cũng thể sự ngỡ ngàng trong lòng người. Nhà thơ chìm sâu trong
suy nghĩ miên man,mất cảm giác thực tại nên mới “cá đâu đớp động dưới chân
bèo”.Nhà thơ muốn tìm sự thư thái trong tâm hồn nên mới đi câu. Nhưng cảnh vật tĩnh
lặng đến nghẹt thở lại càng làm nhà thơ chìm sâu trong nỗi cô đơn.
Cảnh thu đẹp buồn trong bài thu điếu đã được Nguyễn Khuyến miêu tả thật khéo
léo và tinh tế.Cảm xúc, tâm tư của nhà thơ được dồn nén qua từng câu thơ, trong cảnh
vật thu ấy.Thu điếu đi vào lòng người nhẹ nhàng buồn man mác, khiến người đọc
biết thêm về làng quê Việt Nam với những nét đẹp khác.
Phân tích Thu điếu - Mẫu 15
Mùa thu luôn một đề tài muôn thuở của c thi sĩ. Trong nền n học Việt Nam từ
thơ Trung đại cho đến thơ Hiện đại, từ thể thơ cổ cho đến thơ tự do, đã có rất nhiều tác
phẩm hay viết về mùa thu, nhưng nhắc đến đề tài mùa thu, ta vẫn không thể không
nhắc đến nhà thơ Nguyễn Khuyến. Với ông, dường như mùa thu nguồn cảm hứng
đặc biệt, chẳng vậy ông cả một chùm thơ hay viết về mùa thu, trong đó nổi bật
nhất là bài “Thu Điếu”, hay còn gọi “Câu cá mùa thu”.
Chùm thơ thu của nhà thơ Nguyễn Khuyến gồm ba bài thơ: “Thu vịnh”, “Thu ẩm”
“Thu điếu”. Bài thơ nào cũng hay, cũng đẹp, cũng dạt dào tình quê, cảnh quê. Tuy
nhiên, như Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu từng khẳng định bài thơ “thu điếu” “bài
thơ điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Đây quả lời nhận xét
vừa chính xác, vừa tinh tế!
“Thu điếu” được viết bằng thể thơ Thất ngôn bát Đường luật, ngôn ngữ tinh tế,
giàu tính hình tượng biểu cảm. Cảnh thu, trời thu, khí thu xinh đẹp của làng quê
Việt Nam hiện lên trong dáng vẻ màu sắc tuyệt vời dưới ngòi bút Nguyễn Khuyến
qua bốn câu thơ đầu:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng theo gió khẽ đưa vèo.”
Với “Thu điếu” cảnh thu được đón nhận theo hướng mở rộng về không gian từ gần ra
xa, từ thấp lên cao, rồi sau đó lại từ cao xa quay trở lại gần. Cụ thể là từ chiếc thuyền
câu nhìn ra mặt ao rồi sau đó nhìn lên bầu trời, nhìn ra ngõ trúc rồi lại trở về với ao
thu, với chiếc thuyền câu. Từ một khung ao nhỏ bé, không gian mùa thu được mở
rộng ra nhiều ớng thật sinh động, gần gũi đến chân thực, nhưng vẫn không mất đi
nét đẹp tinh tế.
câu thơ đầu, không khí của mùa thu được gợi lên từ sự dịu nhẹ, thanh của cảnh
vật. Nhà thơ không bắt đầu bằng việc tả cảnh sắc mùa thu qua u sắc như thông
thường, ông vẽ những nét đầu cho bức tranh thu bằng những nét chấm phá hồ
từ không khí thu rất dịu nhẹ, pha chút lạnh se se:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo”
Nước ao “trong veo” tỏa hơi thu “lạnh lẽo”. Sương khói mùa thu như bao trùm lên
toàn bộ cảnh vật xung quanh. ớc ao thu trong vắt, khí thu lành lạnh lại càng
điểm, khiến nước thu đã trong lại càng trong. cảm giác như chúng ta thể nhìn
thấy vài chú chậm rãi bơi lưng chừng trên những đám rêu xanh mướt dưới đáy ao
vậy! Nước ao trong nhkhí lạnh, khí lại càng thêm lạnh khi kết hợp với sự trong đến
lặng của ao thu. Quả là sự kết hợp tuyệt vời!
Trên bề mặt của nước ao thu trong nngọc ấy thấp thoáng hình ảnh một chiếc
thuyền câu bé nhỏ:
“Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Chỉ duy nhất một chiếc thuyền, không những lại còn “bé tẻo teo”. Cái ao
và chiếc thuyền chính là hình ảnh trung tâm của bài thơ, nhưng cũng chính là hình ảnh
bình dị, dân nhất nơi thôn quê. Tác giả không hề đặc tả độ rộng của ao thu, thậm
chí khi đọc câu thơ đầu, người đọc thể liên tưởng rằng ao thu đây rất nhỏ, vì theo
như nhà thơ từng nhắc tới, vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Nam quê nhà cơ
man nào ao, nhiều ao nên ao nhỏ, ao nhỏ thì theo đó thuyền câu cũng “bé tẻo
teo”. Nhưng đọc u thơ thứ hai, đột nhiên ta cảm giác ao thu như rộng hơn lên,
chính cái nhỏ đến “tẻo teo” của thuyền u lại càng làm cho ao thu nhỏ trở nên
mênh mông biết mấy. Hai câu thơ đầu với c từ ngữ “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo
teo” khắc họa đường nét, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, của nước mùa thu một
cách tinh tế. Cách gieo vần “eo” trong miêu tả không chỉ làm tăng mức độ thanh lặng,
quạnh vắng của cảnh vật, còn tạo nên nhịp thơ âm vang như thể tiếng thu, như thể
hồn thu vọng về.
Nếu như hai câu thơ đầu những nét chấm phá phác họa bức tranh mùa thu thì đến
hai câu thơ sau, nhà thơ tiếp tục dùng ngòi bút tài ba, vẽ lên một bức tranh thủy mặc
đẹp đến thanh bình:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng theo gió khẽ đưa vèo”
Màu “biếc” của sóng nước hòa hợp với màu “vàng” của đã khắc lên bức tranh quê
đơn đấy không kém phần lộng lẫy. Nghệ thuật đối trong phần thực quả thực rất
điêu luyện, “lá vàng” đối với “sóng biếc”; tốc độ “vèo” của bay tương ứng với mức
độ “tí” của sóng gợn. hai câu đề, chúng ta đã thấy được độ trong của nước, nhưng
đến đây, ta nhận ra nước thu không những trong còn rất xanh, xanh trong đến độ
“biếc” như thể ánh lên màu lấp lánh như ngọc vậy!. Gió thu trong thơ Nguyễn Khuyến
cũng rất độc đáo, không phải nhè nhẹ thổi theo khí se lạnh lại đủ mạnh để cuốn
“đưa vèo”. Tưởng chừng như nghịch nhưng lại rất hợp với cảnh sắc đang được
miêu tả ở phần trên.
Hai câu luận tiếp tục mở rộng không gian mùa thu qua miêu tả của nhà thơ. Bức tranh
thu thêm chiều cao của bầu trời nhuộm màu “xanh ngắt” với những tầng mây “lơ
lửng” trôi theo chiều gió nhẹ:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Dường như trời thu trong thơ của Nguyễn Khuyến luôn màu xanh, còn một
màu “xanh ngắt”:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” trong “Thu Vịnh”
hay “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” trong “Thu ẩm”.
Màu “xanh ngắt” không chỉ sắc xanh còn cả chiều sâu, đối với trời thu,
xanh ngắt không chỉ xanh còn trong, tạo cảm giác bầu trời trở nên cao rộng.
Trời thu xanh ngắt, bao la một màu thăm thẳm gợi ra cái sâu, cái lặng của không
gian,cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu trên chiếc thuyền tẻo
teo”. Thế rồi ông lão ấy đãng nhìn ra bốn phía làng quê, đột nhiên nhận ra không
chỉ bầu trời trên cao hay mặt nước bên dưới, thậm chí ngay cả không gian xung quanh
cũng trở nên vắng lặng, vắng lặng đến yên bình, thậm chí đến cô đơn. Cô đơn khi thấy
xung quanh không một bóng người, xóm thôn vắng lặng, con đường nhỏ phía trước
chỉ có mấy khóm trúc khẽ đưa trong gió nhẹ, ngõ vắng quanh co lại càng thêm im lìm.
Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm
trong giấc mộng tĩnh lặng của mùa thu, tất cả cảnh vật đều tạo nên cảm giác bâng
khuâng, man mác nhưng không vậy trnên xa lạ, ngược lại rất thanh bình, gần
gũi đúng chất làng quê Việt Nam.
Khung cảnh ấy càng trở nên thôn dã, giản dị khi xuất hiện nét hình ảnh cả một
người ngồi trên thuyền câu cá ở hai câu kết:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
Tư thế “tựa gối ôm cần” xuất hiện trong thơ Nguyễn Khuyến là một hình ảnh đẹp, đẹp
đến bình dị. Phải chăng đó là tâm thế nhàn của một thi sĩ đã thoát khỏi vòng danh lợi.?
Hình ảnh con người xuất hiện trực tiếp với thế gối càng điểm cho bức tranh
thu thêm sinh động.Tuy nhiên, nhà thơ ngồi câu cá đấy lại chẳng chú tâm đến việc
câu , chẳng vậy lại bị giật mình trước tiếng “cá đớp động dưới chân bèo”. Phải
chăng nhà thơ còn mải thả hồn thi nhìn ngắm trời xanh, còn ngắm làn nước hơi gợn
tí, đưa mắt nhìn vàng trước gió khẽ đưa vèo, rồi lại bất chợt vu buồn trước ngõ
trúc vắng lạnh quanh co nên mới bị giật mình trước thanh âm nhỏ ấy? Không gian
hẳn phải yên tĩnh lắm, tâm hồn hẳn phải trong trẻo, lắng đọng lắm mới có thể nghe, có
thể cảm thụ âm thanh như vậy! Tuy nhiên, dù xuất hiện âm thanh nhưng không
gian mùa thu vẫn hoàn toàn yên tĩnh, quá tĩnh nên mới nghe thấy thứ âm thanh
mỏng nhẹ như vậy, nghe được cả tiếng rơi, tiếng động vẫn thấy tĩnh, đó
mới chính là cái tài trong nghệ thuật lấy động tả tĩnh của hồn thơ quê Nguyễn Khuyến.
Đến cả sự bất ngờ trước âm thanh cá đớp động chân bèo của Nguyễn Khuyến cũng rất
lạ, rất hay. Hay chỗ nhà thơ sử dụng từ “cá đâu”. “Cá đâu” cách hỏi vừa tạo nên
sự hồ trong không gian vừa gợi ra sự ngỡ ngàng của lòng người. Nhà thơ ờng
như nhất thời mất đi cảm nhận về không gian thực tại chìm đắm trong không gian
suy tưởng nên không thể lập tức xác định được hướng gây ra tiếng động mặc đang
trong một chiếc ao rất nhỏ. sao ư? nhà thơ u không phải để bắt cá!
Câu cá chỉ cái cớ để tìm sự thái trong tâm hồn, để tĩnh tâm, để thu hút hết hương
sắc mùa thu vào trái tim nhạy cảm của người thi sĩ. Vậy mới nói bài thơ không phải kể
chuyện câu cá vào mùa thu chính mượn việc câu để tả trời thu, để khen ngợi
trời thu.
Trước Nguyễn Khuyến có rất nhiều thi sĩ viết về mùa thu,sau Nguyễn Khuyến thơ hay
viết về mùa thu cũng không phải không có, tuy nhiên, “Thu Điếu” vẫn luôn mang
trong mình một sắc thu riêng, không lẫn lộn. Cảnh thu trong bài thơ là cảnh đẹp nhưng
tĩnh lặng buồn, không gian vắng lặng nhưng không tạo cảm giác độc, sầu não.
Ngược lại, còn nhờ đó mở ra một bức tranh sống động tuyệt đẹp về làng quê cổ
Việt Nam, rất gần gũi, rất thanh bình.
Phân tích Câu cá mùa thu - Mẫu 16
Thu điếu nằm trong chùm thơ thu gồm ba bài nức danh nhất về thơ Nôm của Nguyễn
Khuyến. Bài thơ nói lên một nét thu đẹp tĩnh lặng nơi làng quê xưa, biểu lộ mối tình
thu đẹp đơn, buồn của một nhà Nho nặng tình với quê hương đất nước. Thu
điếu cũng như Thu ẩm, Thu vịnh chỉ thể được Nguyễn Khuyến viết vào thời gian
sau khi ông đã từ quan về sống ở quê nhà (1884)
Hai câu thơ: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo - Một chiếc thuyền câu tẻo teo mở ra
một không gian nghệ thuật, một cảnh sắc mùa thu đồng quê. Chiếc ao thu nước trong
veo thể nhìn được rong rêu tận đáy, tỏa ra khí thu lạnh lẽo như bao trùm không
gian. Không n cái se lạnh đầu thu nữa là đã thu phân, thu mạt rồi nên mới lạnh
lẽo như vậy. Trên mặt ao thu đã một chiếc thuyền câu tẻo teo từ bao giờ. Một
chiếc gợi tả sựđơn của thuyền câu. tẻo teo nghĩa rất bé nhỏ; âm điệu của vần
thơ cũng gợi ra sự hun hút của cảnh vật (trong veo - tẻo teo). Đó một nét thu đẹp
và êm đềm.
Hai câu thực (Sóng nước theo làn hơi gợn - Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo) tả
không gian hai chiều. Màu sắc hòa hợp, sóng biếc với vàng. Gió thổi nhẹ cũng
đủ làm cho chiếc thu màu vàng khẽ đưa vèo, làm cho sóng biếc lăn tăn từng làn
từng làn hơi gợn tí. Phép đối tài tình làm nổi bật một nét thu, đậm cái nhìn thấy
cái nghe thấy. Ngòi bút của Nguyễn Khuyến rất tinh tế trong dùng từ và cảm nhận, lấy
cái lăn tăn của sóng i gợn phối cảnh với độ bay xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc
lá thu. Chữ vèo một nhân tự mà sau này thi Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc.
Ông thổ lộ một đời thơ mới được một câu vừa ý: vèo trông rụng đầy sân (cảm
thu, tiễn thu).
Bức tranh thu được mở rộng dần ra qua hai câu thơ:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Bầu trời thu xanh ngắt thăm thẳm, bao la. Áng mây, tầng mây (trắng hay hồng?) lơ
lửng nhè nhẹ trôi. Thoáng đãng, êm đềm, nh lặng nhẹ nhàng. Không một ng
người lại qua trên con đường làng đi về các ngõ xóm: Ngõ trúc quanh co khách vắng
teo. Vắng teo nghĩa cùng vắng lặng không một tiếng động nhnào, cũng gợi tả
sự đơn, trống vắng. Ngõ trúc trong thơ Tam nguyên Yên Đổ lúc nào cũng gợi tả
một tình quê nhiều bâng khuâng, man mác:
Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?
(Nhớ núi Đọi)
Ngõ trúc tầng mây cũng một nét thu đẹp thân thuộc của làng quê. Thi như
đang lặng ngắm và mơ màng đắm chìm vào cảnh vật.
Đến hai câu kết thì bức tranh thu mới xuất hiện một đối tượng khác:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Thu điếu nghĩa mùa thu câu cá. Sáu câu đầu mới chỉ cảnh vật: ao thu, chiếc
thuyền câu, sóng biếc, vàng, tầng mây, ngõ trúc. Mãi đến phần kết mới xuất hiện
người câu cá. Một thế nhàn: tựa gối ôm cần. Một sự đợi chờ: lâu chẳng được. Một
cái chợt tỉnh khi hồ nghe đâu đớp động dưới chân bèo. Người câu như đang
ru hồn mình trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về một Vọng câu chờ
thời bên bờ sông Vị hơn mấy nghìn năm về trước. Chỉ một tiếng đớp động sau
tiếng lá thu đưa vèo, đó là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh ấy hòa quyện với một
tiếng trên không ngỗng nước nào, như đưa hồn ta về với mùa thu quê hương. Người
câu đang sống trong một tâm trạng đơn lặng lẽ buồn. Một cuộc đời thanh
bạch, một tâm hồn thanh cao đáng trọng.
Xuân Diệu đã hết lời ca ngợi cái diệu xanh trong Thu điếu. xanh ao, xanh sóng,
xanh trời, xanh tre, xanh bèo… chỉ một màu vàng của chiếc thu đưa vèo.
Cảnh đẹp êm đềm, tĩnh lặng mà man mác buồn. Một tâm thế an nhàn và thanh cao gắn
bó với mùa thu quê hương, với tình yêu tha thiết. Mỗi nét thu là một sắc thu, tiếng thu
gợi tả cái hồn thu đồng quê thân thiết, vần thơ: veo - teo - tèo - teo - bèo, phép đối tạo
nên sự hài hòa cân xứng, điệu thơ nhẹ nhàng bâng khuâng cho thấy một bút pháp nghệ
thuật cùng điêu luyện, hồn nhiên - đúng xuất khẩu thành chương. Thu điếu
một bài thơ thu, tả cảnh ngụ tình tuyệt bút.
Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu - Mẫu 17
Trong nền thơ ca dân tộc nhiều bài thơ tuyệt hay nói về mùa thu. Riêng Nguyễn
Khuyến đã chùm thơ ba bài: Thu vịnh, Thu ẩm Thu điếu. Bài thơ nào cũng hay,
cũng đẹp cho thấy một tình quê dào dạt. Riêng bài "Thu điếu", nhà thơ Xuân Diệu đã
khẳng định "điển nh hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam". "Thu điếu"
bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc: Cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên,
yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết.
"Thu điếu" được viết bằng thể thơ thất ngôn bát Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình
tượng biểu cảm. Cảnh thu, trời thu xinh đẹp của làng quê Việt Nam như hiện lên
trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngọn bút thần tình của Nguyễn Khuyến.
Hai câu đầu nói về ao thu chiếc thuyền câu. Nước ao "trong veo" toả hơi thu "lạnh
lẽo". Sương khói mùa thu như bao trùm cảnh vật. Nước ao thu đã trong lại trong thêm,
khí thu lành lạnh lại trnên"lạnh lẽo". Trên mặt nước hiện lên thấp thoáng một chiếc
thuyền câu rất nhỏ -"bé tẻo teo". Cái ao chiếc thuyền câu nh ảnh trung tâm
của bài thơ, cũng hình ảnh bình dị, thân thuộc, đáng yêu của quê nhà. Theo Xuân
Diệu cho biết vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Nam rất nhiều ao cho nên ao
to, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà "bé tẻo teo":
"Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo".
Các từ ngữ: "lạnh lẽo", "trong veo","bé tẻo teo" gợi tả đường nét, dáng hình, màu sắc
của cảnh vật, sắc nước mùa thu; âm vang lời thơ như tiếng thu, hồn thu vọng về.
Hai câu thơ tiếp theo trong phần thực những nét vẽ tài hoạ làm thêm cái hồn của
cảnh thu:
"Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo".
Màu "biếc" của sóng hòa hợp với sắc "vàng" của vẽ n bức tranh quê đơn
lộng lẫy. Nghệ thuật đối trong phần thực rất điêu luyện, "lá vàng" với "sóng biếc", tốc
độ "vèo" của bay tương ng với mức độ "tí" của sóng gợn. Nhà thơ Tản Đà đã hết
lời ca ngợi chữ "vèo" trong thơ của Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình
may ra mới được một câu thơ vừa ý trong bài "Cảm thu, tiễn thu", "Vèo trông
rụng đầy sân".
Hai câu luận mở rộng không gian miêu tả. Bức tranh thu thêm chiều cao của bầu
trời "xanh ngắt" với những tầng mây "lơ lửng" trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm
thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc trời thu là "xanh ngắt":
"Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
(Thu vịnh)
"Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt".
(Thu ẩm)
"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt".
(Thu điếu)
"Xanh ngắt" xanh chiều sâu. Trời thu không y (mây xám), xanh ngắt
một màu thăm thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của không gian, cái nhìn vời
vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi, ông đãng đưa mắt nhìn về bốn
phía làng quê. Hình như người dân quê đã ra đồng hết. Xóm thôn vắng lặng, vắng teo.
Mọi con đường quanh co, hun hút, không một bóng người qua lại:
"Ngõ trúc quanh co khách vắng teo".
Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm
trong giấc mộng mùa thu. Tất cả cảnh vật từ mặt ớc "ao thu lạnh lẽo" đến "chiếc
thuyền câu tẻo teo", từ "sóng biếc" đến "lá vàng", từ"tầng mây lửng đến "ngõ
trúc quanh co" hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh, khi thoáng chút bâng
khuâng, man mác, nhưng rất gần gũi, thân thiết với mỗi con người Việt Nam. Phong
cảnh thiên nhiên của mùa thu quê hương sao đáng yêu thế!
Cái ý vị của bài thơ "Thu điếu" là ở hai câu kết:
"Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo".
"Tựa gối ôm cần" thế của người câu cũng một tâm thế nhàn của nhà thơ đã
thoát vòng danh lợi. Cái âm thanh"cá đâu đớp động", nhất từ "đâu" gợi lên sự
hồ, xa vắng chợt tỉnh. Người câu đây chính nhà thơ, một ông quan to triều
Nguyễn, u nước thương dân nhưng bất lực trước thời cuộc, không cam tâm m tay
sai cho thực dân Pháp đã cáo bệnh, từ quan. Đằng sau câu chữ hiện lên một nhà nho
thanh bạch trốn đời đi ẩn. Đang ôm cần đi câu nhưng tâm hồn nhà thơ đang đắm
chìm trong giấc mộng mùa thu, bỗng chợt tỉnh trở về thực tại khi"Cá đâu đớp động
dưới chân bèo". Cho nên cảnh vật ao thu, trời thu êm đềm, vắng lặng như chính nỗi
lòng của nhà thơ vậy - buồn cô đơn và trống vắng.
Âm thanh tiếng cá"đớp động dưới chân bèo" đã làm nổi bật khung cảnh tịch mịch của
chiếc ao thu. Cảnh vật như luôn luôn quấn quýt với tình người. Thiên nhiên đối với
Nguyễn Khuyến như một bầu bạn tri kỷ. Ông đã trang trải tình cảm, gửi gắm tâm hồn,
tìm lời an ủi ở thiên nhiên, ở sắc "vàng" của lá thu, ở màu"xanh ngắt" của bầu trời thu,
ở làn "sóng biếc" trên mặt ao thu "lạnh lẽo"...
Thật vậy, "Thu điếu" một bài thơ tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc của Nguyễn Khuyến.
Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt, những nét
vẽ xa gần, tinh tế gợi cảm. Âm thanh của tiếng rơi đưa"vèo" trong làn gió thu, tiếng
cá"đớp động" chân bèo - đó là tiếng thu dân dã, thân thuộc của đồng quê đã khơi gợi
trong lòng chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê hương đất nước.
Nghệ thuật gieo vần của Nguyễn Khuyến rất độc đáo. Vần "eo" đi vào bài thơ rất tự
nhiên thoải mái, để lại ấn tượng khó quên cho người đọc; âm hưởng của những vần
thơ như cuốn hút chúng ta: trong veo - tẻo teo - đưa vèo - vắng teo - chân bèo. Thi
Xuân Diệu đã từng viết: "Cái thú vị của bài "Thu điếu" các điệu xanh, xanh ao,
xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, một màu vàng đâm ngang của
chiếc lá thu rơi"...
Thơ sự cách điệu m hồn. Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc
đồng quê với tất cả tình quê nồng hậu. Ông nhà thơ của làng cảnh Việt Nam.
Đọc"Thu điếu","Thu vịnh","Thu ẩm", chúng ta yêu thêm mùa thu quê hương, u
thêm xóm thôn đồng nội, đất nước. Với Nguyễn Khuyến, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp
cũng yêu quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một
địa vị vẻ vang trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam.
| 1/57

Preview text:


Dàn ý phân tích bài thơ Câu cá mùa thu
Dàn ý chi tiết số 1 I. Mở bài
● Đôi nét về tác giả Nguyễn Khuyến: một tác giả chịu ảnh hưởng đậm nét tư
tưởng Nho giáo, sáng tác của ông thường về đạo đức con người, người quân tử.
Sau khi thấy thực tại rối ren, ông ở ẩn sáng tác các tác phẩm thể hiện sự hòa
hợp với thiên nhiên thanh tịnh
● Bài thơ Câu cá mùa thu: Là một bài thơ trong chùm thơ thu ba bài được sáng
tác trong thời gian tác giả ở ẩn II. Thân bài 1. Hai câu đề
- Mùa thu gợi ra với hai hình ảnh vừa đối lập vừa cân đối hài hoà “ao thu”, “chiếc
thuyền câu” bé tẻo teo;
● Màu sắc “trong veo”: sự dịu nhẹ, thanh sơ của mùa thu
● Hình ảnh: Chiếc thuyền câu bé tẻo teo ⇒ rất nhỏ
● Cách gieo vần “eo”: giàu sức biểu hiện
- Cũng từ ao thu ấy tác giả nhìn ra mặt ao và không gian quanh ao ⇒ đặc trưng của
vùng đồng bằng Bắc Bộ.
⇒ bộc lộ rung cảm của tâm hồn thi sĩ trước cảnh đẹp mùa thu và của tiết trời mùa thu,
gợi cảm giác yên tĩnh lạ thường 2. Hai câu thực
- Tiếp tục nét vẽ về mùa thu giàu hình ảnh:
● Sóng biếc: Gợi hình ảnh nhưng đồng thời gợi được cả màu sắc, đó là sắc xanh
dịu nhẹ và mát mẻ, phải chăng là sự phản chiếu màu trời thu trong xanh
● Lá vàng trước gió: Hình ảnh và màu sắc đặc trưng của mùa thu Việt Nam - Sự chuyển động:
● hơi gợn tí ⇒ chuyển động rất nhẹ ⇒sự chăm chú quan sát của tác giả
● “khẽ đưa vèo” ⇒ chuyển động rất nhẹ rất khẽ ⇒ Sự cảm nhận sâu sắc và tinh tế
⇒ Nét đặc sắc rất riêng của mùa thu làng quê được gợi lên từ những hình ảnh bình dị,
đó chính là “cái hồn dân dã” 3. Hai câu luận
- Cảnh thu đẹp một vẻ bình dị nhưng tĩnh lặng và đượm buồn:
● Không gian của bức tranh thu được mở rộng cả về chiều cao và chiều sâu
● Tầng mây lơ lửng: gợi cảm giác thanh nhẹ, quen thuộc gần gũi, yên bình, tĩnh lặng.
● Hình ảnh trời xanh ngắt: sắc xanh của mùa thu lại được tiếp tục sử dụng, nhưng
không phải là màu xanh dịu nhẹ, mát mẻ mà xanh thuần một màu trên diện
rộng ⇒ đặc trưng của mùa thu.
● Hình ảnh làng quê được gợi lên với “ngõ trúc quanh co”: hình ảnh quen thuộc
● Khách vắng teo: Gieo vần “eo” gợi sự thanh vắng, yên ả, tĩnh lặng
⇒ Không gian của mùa thu làng cảnh Việt Nam được mở rộng lên cao rồi lại hướng
trực tiếp vào chiều sâu, không gian tĩnh lặng và thanh vắng 4. Hai câu kết
- Xuất hiện hình ảnh con người câu cá trong không gian thu tĩnh lặng với tư thế “Tựa gối buông cần”:
● “ Buông”: Thả ra (thả lỏng) đi câu để giải trí, ngắm cảnh mùa thu
● “Lâu chẳng được” : Không câu được cá
⇒ Đằng sau đó là tư thế thư thái thong thả ngắm cảnh thu, câu cá như một thú vui làm
thư thái tâm hồn ⇒ sự hòa hợp với thiên nhiên của con người
- Toàn bài thơ mang vẻ tĩnh lặng đến câu cuối mới xuất hiện tiếng động:
+ Tiếng cá “đớp động dưới chân bèo” → sự chăm chú quan sát của nhà thơ trong
không gian yên tĩnh của mùa thu, nghệ thuật “lấy động tả tĩnh”
⇒ Tiếng động rất khẽ, rất nhẹ trong không gian rộng lớn càng làm tăng vẻ tĩnh vắng ,
“cái tĩnh tạo nên từ một cái động rất nhỏ”
⇒ Nói câu cá nhưng thực ra không phải bàn chuyện câu cá, sự tĩnh lặng của cảnh vật
cho cảm nhận về nỗi cô quạnh, uẩn khúc trong tâm hồn nhà thơ, đó là tâm sự đầy đau
buồn trước tình cảnh đất nước đầy đau thương 5. Nghệ thuật
● Bút pháp thuỷ mặc (dùng đường nét chấm phá) Đường thi và vẻ đẹp thi trung
hữu hoạ của bức tranh phong cảnh
● Vận dụng tài tình nghệ thuật đối.
● Nghệ thuật lấy động tả tĩnh được sử dụng thành công
● Cách gieo vần “eo” và sử dụng từ láy tài tình III. Kết bài
● Khẳng định lại những nét tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của bài thơ
● Bài thơ đem đến cho độc giả những cảm nhận sâu lắng về một tâm hồn yêu
nước thầm kín mà thiết tha
Dàn ý chi tiết số 2 a. Mở bài
Giới thiệu bài thơ Câu cá mùa thu và tác giả b. Thân bài *Hai câu đề
"Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
● Ao thu là một hình ảnh rất gần gũi với cuộc sống thường ngày, cùng với thời
tiết se lạnh và dòng nước trong veo
● Cảnh sắc màu thu ở vùng quê được thể hiện qua hai câu thơ
* Hai câu thực "Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo".
● Hình ảnh sóng biếc gợn tí và hình ảnh lá vàng, cảm giác như những hình ảnh rất nhỏ bé
● Không gian tĩnh lặng của mùa thu được tăng dần so với câu trước
● Tâm hồn rất nhạy cảm, tinh tế của tác giả *Hai câu luận
"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo".
● Sự êm đềm nhẹ nhàng
● Cảm giác mông lung huyền ảo
● Cảnh buồn, tĩnh mịch, lòng người nặng trĩu, luẩn quẩn không lối thoát
* Hai câu kết "Tựa gối ôm cần lâu chẳng được, Cá đâu đớp động dưới chân bèo"
● Một bức tranh thiên nhiên hài hòa
● Ném mọi tâm tư không vương vấn tới thế, thói đời c. Kết bài
Nêu cảm nhận của em về bài thơ Câu cá mùa thu
Dàn ý chi tiết số 3 a. Mở bài
Trước kia, trong văn chương Việt Nam thỉnh thoảng cũng có tác phẩm viêt về nông
thôn, nhưng hình ảnh về cảnh quê nói chung còn mờ nhạt. Phải đến Nguyễn Khuyến,
lần đầu tiên cảnh nông thôn mới thực sự đi vào văn học. Nguyễn Khuyến viết nhiều về
thiên nhiên với ngòi bút ấm áp bình dị, có khi còn gửi gắm chút tâm sự. Một trong
những bài thơ thể hiện nội dung trên là bài Câu cá mùa thu. b. Thân bài
Từ tên bài thơ đến mọi chi tiết miêu tả đều trực tiếp hay gián tiếp làm rõ hai từ Thu
điếu (Câu cá mùa thu). Hai câu đề cho thấy cảnh được báo hiệu từ tên gọi tác phẩm:
có ao, có thu (hợp lại thành ao thu), có nước trong veo, có chiếc thuyền câu nhỏ. Đúng
là bài thơ nói chuyện Câu cá mùa thu, tuy câu cá chỉ là hình thức bề ngoài. Các câu
thơ tiếp theo đều được tổ chức xoay xung quanh "trục" này, dù người đọc có cảm
tưởng tác giả nhấn mạnh vào yếu tố thu hơn yếu tố câu cá. Cảnh thu đã được nhìn từ
con mắt của một người ngồi câu trên ao.
* Sắc thái riêng của mùa thu nông thôn Bắc Bộ
- Cảnh thu vừa trong vừa tình. Ao nước trong tưởng có thể nhìn thấu đáy (trong veo),
sóng biêng biếc phản chiếu màu cây, màu trời, trời ít mây nên càng nổi bật màu xanh
ngắt (xanh ở đây cũng có thể hiểu là trong). Tĩnh: mặt ao lặng, lạnh lẽo (cái lạnh)
thường hay sóng đôi với cái lặng, sóng hơi gợn (gợn tí), gió khẽ đưa lá vàng, khách
vắng teo, tiếng cá đớp bỗng nghe mơ hồ như có như không (cái động của liêng cá đớp
bỗng càng làm nổi bật cái tình chung của cảnh). Ở đây, trong gắn liền với tĩnh.
- Đây là cảnh thu đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ, ở xứ đồng chiêm trũng. Các chi
tiết miêu tả trong bài đều giàu tính hiện thực, hầu như không vướng chút ước lệ nào,
có thể gợi những cảm xúc sâu lắng về quê hương.
- Dưới ngòi bút của tác giả, tất cả các sự vật được nhắc tới đều xứng hợp với nhau: ao
thu nhỏ - thuyền câu bé, gió nhẹ - sóng gợn tí, trời xanh - nước trong, khách vắng teo -
người ngồi câu trầm ngâm yên lặng, đặc biệt là các mảng màu xanh của nước, của tre
trúc thật hoa diệu với màu xanh của bầu trời.
- Từ láy trong thơ chẳng những tạo ra vẻ thuần Nôm cho tác phẩm mà còn có tác dụng
làm tăng nhạc tính. Từ láy vừa mô phỏng dáng dấp, động thái của sự vật, làm cho sự
vật hiện lên sống động, vừa thể hiện được biến đổi tinh vi trong cảm xúc chủ quan của
người sáng tạo: lạnh lẽo, tẻo teo, lơ lửng. Lạnh lẽo không hẳn nói về cái lạnh của nước
mà nói về không khí đượm vẻ hiu hắt của cảnh vật cũng như tâm trạng u uẩn của nhà
thơ. Tẻo teo có thể được giải thích là rất nhỏ (chiếc thuyền câu nhỏ), âm eo được lặp
lại gợi liên tưởng về một "đối tượng" đang mỗi lúc một thu hẹp diện tích, phù hợp với
cái nhìn của nhà thơ muốn mọi vật thu lại vừa trong tầm mắt, không mở ra quá rộng
làm cho không khí suy tư bị loãng đi. Lơ lửng vừa gợi hình ảnh đám mây đọng lại
lưng chừng giữa tầng không, vừa gợi trạng thái mơ màng của nhà thơ.
* Không gian trong thu điếu
- Cảnh trong Thu điếu là cảnh đẹp nhưng tĩnh lặng và đượm buồn. Không gian Thu
điếu là một không gian tĩnh, vắng người, vắng tiếng: Ngõ trúc quanh co khách vắng
teo. Các chuyển động rất nhẹ, rất khẽ không đủ tạo âm thanh: sóng hơi gợn, mây lơ lửng, lá khẽ đưa.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
- Cá đâu đớp động dưới chân bèo không thể hiểu theo nghĩa cá đâu có đớp (nghĩa là
không đớp). Từ đâu trong câu này là đại từ phiếm chỉ chứ không phải là hư từ phủ
định. Một tiếng động duy nhất - tiếng cá đớp mồi càng làm tăng thêm sự yên ắng, tĩnh
mịch của cảnh vật. Cái tĩnh bao trùm được gợi lên từ một cái "động" rất nhỏ. Đây là
nghệ thuật lấy "động" nói "tĩnh", một thủ pháp nghệ thuật gợi tả quen thuộc của thơ cổ điển. * Tâm tình nhà thơ
- Nói câu cá nhưng thực ra không phải chú ý vào việc câu cá. Nói câu cá nhưng thực
ra là đón nhận trời thu, cảnh thu vào cõi lòng. Cõi lòng của nhà thơ yên tĩnh, vắng
lặng. Tĩnh lặng trong sự cảm nhận độ trong veo của nước, cái hơi gợn tí của sóng, cái
độ rơi khe khẽ của lá. Đặc biệt sự tĩnh lặng trong tâm hồn thi nhân được gợi lên một
cách sâu sắc từ tiếng động duy nhất của bài thơ: tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo. Cái
động rất nhỏ ở ngoại cảnh lại gây ấn tượng đậm đến thế, vì tâm cảnh đang trong sự
tĩnh lặng tuyệt đối. Sự tĩnh lặng đem đến sự cảm nhận về một nỗi cô quạnh, u uẩn trong lòng nhà thơ.
- Bài thơ còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của tác giả: đó là một con người bình dị, gắn bó
sâu sắc với quê hương, biết rung động với những vẻ đẹp đơn sơ của chốn thôn dã
thanh bình, hướng về sự thanh sạch cao quý và luôn có tinh thần trách nhiệm đối với cuộc đời. c. Kết bài
- Cảm nhân được vẻ đẹp u tĩnh của cảnh sắc mùa thu, tâm hồn thanh cao và niềm ưu
tư của nhân vật trữ tình trong bài.
- Thấy được sự tinh tế, tài hoa trong cách miêu tả thiên nhiên và biểu lộ tâm trạng của nhà thơ.
Phân tích Thu điếu đạt điểm 10 - Mẫu 1
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của nền văn học trung đại Việt Nam. Ông là người
học rộng, tài cao, đỗ đầu cả ba kì thi (Thi Hương, thi Hội, thi Đình) nên được người
đời tôn trọng gọi bằng tên Tam nguyên Yên Đổ. Tuy tài cao, hiểu rộng nhưng Nguyễn
Khuyến chỉ làm quan có mười năm rồi cáo quan, về quê ở ẩn. Chính vì vậy, ông gắn
bó rất sâu nặng với làng quê đồng bằng Bắc Bộ và thường viết về những sự vật bình dị,
gần gũi ở quê hương. “Câu cá mùa thu” chính là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Nguyễn
Khuyến viết về đề tài mùa thu. Bài thơ đã làm nổi khung cảnh mùa thu ở làng quê và
qua đó nói lên tâm sự thời thế của tác giả.
“Câu cá mùa thu” nằm trong chùm thơ có đề tài về mùa thu gồm ba bài thơ nức tiếng:
Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh được sáng tác khi Nguyễn Khuyến đã từ quan về ở ẩn tại
quê nhà. Tác phẩm được viết bằng chữ Nôm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật với
bố cục bốn phần: đề, thực, luận, kết.
Bài thơ mở đầu bằng một không gian quen thuộc chốn làng quê – một chiếc ao thu và
một chiếc thuyền câu nhỏ bé:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
“Ao thu”, “thuyền câu” – một hình ảnh quá đỗi thân thuộc với người dân vùng đồng
bằng chiêm trũng Bắc Bộ. Ao là một không gian nhỏ hẹp, vì thế mà sự xuất hiện của
chiếc thuyền “bé tẻo teo” đã trở nên hài hòa, cân xứng. Chiếc ao nhỏ hẹp nên con
thuyền cũng phải nhỏ bé theo. Nhà thơ đã đặc tả đặc điểm của ao thu đó là làn nước
“trong veo”. Trong veo là rất trong, rất tĩnh lặng và có thể nhìn đến cả tận đáy. Và có
lẽ, đã vào cuối thu nên không khí ao thu đã nhuốm hơi thở của tiết trời mùa đông và
trở nên “lạnh lẽo”. Từ láy “lạnh lẽo” vừa gợi ra tiết trời se lạnh lại vừa diễn tả tĩnh
lặng của không gian. Cảnh thu thật đẹp, thật trong trẻo, êm đềm. Tác giả rất tinh tế khi
sử dụng tới bốn vần “eo” trong hai câu thơ, nó không chỉ có tác dụng miêu tả không
khí lạnh lẽo, không gian eo hẹp rất đặc trưng của vùng chiêm trũng Bắc Bộ mà còn
gợi ra cảm giác buồn bã, cô đơn trong lòng người.
Sang đến hai câu thực, bức tranh thu tiếp tục được khắc họa qua những nét vẽ cụ thể hơn, sắc nét hơn:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tác giả đã vận dụng rất tài tình nghệ thuật lấy động tả tĩnh. Tả cái động “hơi gợn tí”
của sóng, “khẽ đưa vèo” của lá để tô đậm cái sự tĩnh lặng của mùa thu làng quê Việt
Nam xưa. Bởi vì không gian có tĩnh lặng thì người ta mới nghe được những âm thanh
rất nhỏ, rất khẽ ấy. Không chỉ miêu tả cái tĩnh, hai câu thơ còn tiếp tục làm nổi bật vẻ
đẹp trong trẻo, nên thơ của mùa thu. Điểm xuyết vào giữa bức tranh thu tĩnh lặng ấy là
màu vàng của chiếc lá thu rơi – một màu sắc rất đặc trưng cho mùa thu. Tuy nhiên,
Nguyễn Khuyến không lấy màu vàng làm gam màu chủ đạo mà điểm xuyết, len lỏi
giữa màu xanh của trời, của nước, của ngõ trúc mà thôi. Chữ “vèo” được tác giả sử
dụng thật tinh tế, diễn tả trạng thái rất nhanh và dứt khoát. Chỉ cần một làn gió nhẹ,
chiếc lá vàng đã nhanh chóng đánh “vèo” xuống mặt ao, rơi khỏi cành mà không hề
lưu luyến. Có thể nói, hai câu thơ đã tô đậm thêm vẻ trong trẻo, tĩnh lặng, nên thơ của
bức tranh mùa thu và qua đó, người đọc cảm nhận được tình yêu thiên nhiên tha thiết
của nhà thơ Nguyễn Khuyến.
Bức tranh thu tiếp tục được mở rộng ở cả không gian chiều cao và chiều sâu:
Tầng mây lơ lửng, trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo.
Nhà thơ hướng tầm mắt lên cao để ngắm nhìn bầu trời cao rộng, xanh trong, thoáng
đãng với những áng mây lơ lửng giữa không trung. Màu “xanh ngắt” là nét đặc trưng
đặc biệt của bầu trời thu Bắc Bộ. Trên nền trời xanh thẳm ấy là những áng mây “lơ
lửng”. Từ láy “lơ lửng” diễn tả những áng mây dường như không trôi theo gió mà
ngưng đọng lại lưng chừng trời đồng thời còn gợi ra trạng thái mơ màng trong lòng
người. Nhà thơ lại hướng tầm mắt về gần hơn, dưới mặt đất để ngắm nhìn quang cảnh
xung quanh với ngõ trúc quanh co, ngoằn ngoèo, sâu hun hút, không hề có bóng dáng
qua lại của con người. Từ “quanh co” không chỉ để tả con ngõ nhỏ, sâu mà còn gợi
cho người đọc liên tưởng đến những suy nghĩ không lối thoát của con người. Bởi vậy,
cảnh tuy đẹp nhưng tĩnh lặng và đượm buồn. Đằng sau bức tranh phong cảnh, ta vẫn
cảm nhận được tâm hồn tha thiết với thiên nhiên, cuộc sống.
Tới hai câu kết của bài thơ, người đọc mới thấy bóng dáng của người đi câu cá:
Tựa gối ôm cần, lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Người đi câu hiện ra với tư thế có phần nhàn tản: tựa gối ôm cần. Dường như người
ngồi câu nhưng lại không để tâm đến việc câu cá. Sự chờ đợi mà không chờ đợi,
không kêu ca, buồn phiền về việc không được cá “lâu chẳng được” mà dường như
đang suy nghĩ mông lung để cuối cùng thờ ơ với việc “cá đâu đớp động dưới chân
bèo”. Rõ ràng, người đi câu nhưng không chú tâm đến việc câu cá và đó cũng chẳng
phải là mục đích khiến ông “ôm cần”. Đó chính là hình ảnh của nhà thơ trong những
ngày cáo quan, lui về ở ẩn. Chốn quan trường khiến ông chướng tai gai mắt, ông tìm
về quê với thú vui điền viên. Ông đi câu chẳng qua là để tìm một chốn thanh tĩnh
mong thoát khỏi những ý nghĩ về thời cuộc. Thế nhưng, ông đã không làm được điều
đó bởi tâm trí ông vẫn không nguôi những suy nghĩ miên man về non sông, đất nước.
Nhà thơ muốn tìm sự bình yên khi ôm cần, buông câu, đắm chìm trong cảnh vật
nhưng vẫn không thể thôi trăn trở, ưu tư với sự đời.
Với bút pháp thủy mặc Đường thi và vẻ đẹp thi trung hữu họa cùng với nghệ thuật đối
tài tình và hệ thống từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm , Nguyễn Khuyến đã vẽ nên bức
tranh mùa thu trong trẻo, thanh sơ , tĩnh lặng và man mác đượm buồn từ cõi lòng của thi nhân.
Có thể nói “Câu cá mùa thu” thực sự là bài thơ “điển hình hơn cả cho mùa thu của
làng cảnh Việt Nam” như nhà thơ Xuân Diệu đã từng nhận định. Qua bài thơ, ta hiểu
được tấm lòng yêu thiên nhiên, đất nước và tâm sự thời thế của tác giả. Bài thơ nói
riêng, chùm thơ thu nói chung sẽ còn mãi trong lòng người yêu thơ bao thế hệ.
Phân tích bài thơ Thu điếu - Mẫu 2
Được mệnh danh là “Tam Nguyên Yên Đổ”, Nguyễn Khuyến không chỉ là một người
tài có công với đất nước, ông còn là một thi nhân với nhiều tác phẩm sống mãi với
thời gian. Bài thơ “Thu điếu” được trích từ một trong ba bài về chùm thơ thu của ông.
Bài thơ là bức tranh miêu tả khung cảnh mùa thu của làng quê Việt Nam khi thời tiết
đã cuối thu đầu đông. Không chỉ vậy, đó còn là những hoạt động, tâm tư của con người về cuộc sống.
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học nước nhà, thơ của
ông luôn nhẹ nhàng, sâu lắng nhưng lại mang nhiều giá trị nhân sinh cũng như những
triết lý sâu sắc. Không chỉ vậy, ông còn là một người hiền tài, yêu nước thương dân,
sẵn sàng đặt lợi ích của đất nước lên trên lợi ích của bản thân mình. Cũng có lẽ bởi
vậy, mà trong thơ của mình, ông thường viết về thiên nhiên, về con người, về cuộc
sống ở nơi làng quê Việt Nam. Lên làm quan vào thời điểm nước mất nhà tan, tình
hình chính trị loạn lạc, ông lựa chọn cáo quan về quê ở ẩn, sống một cuộc đời an nhàn,
bình dị nơi quê nhà, nhưng trong thâm tâm, ông vẫn chưa từng nguôi nỗi lòng, suy
nghĩ về việc dân, việc nước.
Tập thơ thu của ông gồm ba bài thơ “Thu Vịnh”, “Thu Điếu” và “Thu Ẩm”. Trong đó,
“Thu Điếu” cũng là bài thơ nổi bật nhất trong tập ba bài thơ trên. Bài thơ “Thu Điếu”
đã miêu tả cho chúng ta bức tranh thu tĩnh lặng, cũng là nỗi niềm, tình cảm lớn lao của
nhà thơ đối với quê hương của mình. Đặt trong hoàn cảnh đó, đó còn là sự trầm lắng
của một thi nhân “tài hoa bất đắc chí”.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã miêu tả cho chúng ta về khung cảnh nơi mà nhân vật trữ
tình ngồi câu cá, một không gian rộng lớn, cảm tưởng như lại càng rộng lớn hơn khi
chỉ có một sự vật ở giữa không gian ấy. Mặt nước “trong veo” như một tấm gương
rộng lớn, phản chiếu cảnh vật xung quanh. Khi cúi xuống, tưởng chừng như có thể
nhìn thấy những sinh vật ở dưới phía đáy. Thế nhưng, khung cảnh to lớn ấy càng làm
chúng ta thấu cảm được cái lạnh lẽo của không gian.
Nhưng, ở giữa không gian lạnh lẽo ấy, vẫn không làm sự sống bị mờ nhạt đi. Hai câu
thơ tả thực tiếp theo đã cho chúng ta thấy được vẻ đẹp của sự sống vẫn đang hiện hữu.
Màu sắc như hòa quyện với nhau, tạo nên sự hài hòa của sự vật, hiện tượng đời sống.
Màu xanh tuy làm chủ đạo cho bài thơ với những gam màu xanh khác nhau như “xanh
biếc”, “xanh ngắt” làm không gian trầm lặng hơn, mang sắc lạnh nhiều hơn, nhưng
điểm xuyết vào đó vẫn có màu vàng của lá cây. Chỉ là một chấm nhỏ ấy thôi, nhưng
như làm bừng sáng cả một không gian, cũng như khiến con người ta cảm giác như
đang được sưởi ấm. Phép đối tài tình làm nổi bật nét thu, tô đậm lên hai giác quan mà
con người cảm nhận được không gian xung quanh. Chữ “vèo” tưởng chừng như bình
thường, nhưng lại là phát hiện tuyệt vời, mà sau này nhân sĩ Tản Đà vừa khâm phục,
cũng lại vừa tâm đắc. Không gian như lại được mở rộng ra ở hai câu thơ tiếp theo.
Bầu trời cao, trong xanh vời vợi là một trong những đặc điểm nổi bật nhất khi nhắc
đến mùa thu. Mây trắng lười biếng, lơ lửng trôi nổi trên nền trời trong vắt. Con người
dường như cũng không xuất hiện, khi “khách vắng teo”. Cảm tưởng như thật tĩnh lặng,
heo hút. Tất cả như đã gói gọn lại, như đã cô đọng lại để tạo nên một bức tranh thiên
nhiên tuyệt đẹp. Đây cũng là khung cảnh thường nhìn thấy mỗi khi mùa thu ghé tới thăm chúng ta.
Sáu câu thơ đầu tiên đã đưa ta đến gần hơn với khung cảnh thiên nhiên làng quê Việt
Nam vào mùa thu. Chỉ tới hai câu thơ cuối cùng, thì mới có sự xuất hiện của con
người. Nhưng con người cũng thật yên lặng, như hòa mình vào cùng với không gian
vậy. Hình ảnh của con người thật nhàn nhã, cảm tưởng như đang tận hưởng vẻ đẹp
của đất trời mùa thu. Người câu cá như đang thả mình theo làn sương hơi, trôi bồng
bềnh vào mộng đẹp của mùa thu mang lại. Chỉ tới khi nghe thấy tiếng cá quẫy nước,
người câu cá dường như mới chợt bừng tỉnh khỏi mộng cảnh. Một tâm hồn thanh cao,
không vướng bụi đời. Trông thì thật cô đơn, nhưng có lẽ lại không cô đơn như chúng
ta vẫn hằng tưởng. Trông thì thật tĩnh lặng, thế nhưng trong thâm tâm nhân vật trữ
tình - ở đây cũng có thể hiểu là tác giả Nguyễn Khuyến có lẽ đang trào dâng những
suy nghĩ, những trăn trở vì việc dân, việc nước.
Có thể nói, bài thơ “Thu Điếu” (hay “Câu cá mùa thu”) là một tác phẩm ấn tượng, nổi
bật mỗi khi chúng ta nhắc tới thơ ca Trung Đại. Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn
Khuyến hay “Thu Điếu” sẽ mãi là ánh sao sáng trên nền trời văn học Việt Nam.
Phân tích Câu cá mùa thu - Mẫu 3
Đi câu là một cái thú thanh tao của các bậc trí giả. Có bậc hiền nhân có tài, bất đắc chi
đi câu để chờ thời. Ngồi trên bờ ai mà nghĩ đến chuyện năm châu bốn biển, nghĩ đến
thế sự đảo điên. “Cá ăn đứt nhợ vểnh râu ngồi bờ” (có người còn dùng lưỡi câu thẳng
như Khương Tử Nha - Trung Quốc). Có bậc đại nhân vác cần đi câu để hương thú
nhàn tản, hòa hợp với thiên nhiên, suy tư trong trạng thái thư giãn. Nguyễn Khuyến đi
câu theo kiểu này. Ông đã mở hết các giác quan để cảm nhận mùa thu, cũng là mùa
câu của xứ Bắc. Như những đứa trẻ trong xóm, ông câu cá cũng chăm chú, cũng hồi
hộp, cũng say mê. Kết quả của cuộc chơi ấy là ông đã được một bài thơ “Thu điếu”
vào loại kiệt tác của nền văn học nước nhà:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt.
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Hình ảnh mùa thu hiện lên trong bài thơ với một không gian hẹp ở chốn làng quê của
tác giả, trong một cái ao nhỏ với chiếc thuyền câu nhẹ thênh thênh:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Cái tôi trữ tình lặn phía sau ngôn từ. Cảm giác của thi nhân thì hiện lên sắc sảo và tinh
tế. Mùa thu đã vào chiều sâu, “ao thu lạnh lẽo” với mặt nước “trong veo” rất muốn
nhìn, ao thu như là chiếc gương tròn của làng quê. Làng Bùi của nhà thơ là đồng
chiêm trũng rất nhiều ao, ao nhỏ. Ao nhỏ thì thuyền câu cũng nhỏ theo “bé tẻo teo”,
vần eo là thử vận hiểm hóc, vậy mà câu thơ trôi chảy tự nhiên như không, như không
có chút gì là kĩ xảo cả.
Thuyền câu đã hiện ra đấy mà người câu đâu chẳng thấy. Cũng chưa thấy cần thấy
nhớ gì cả. Người đi câu còn mải mê với trời nước của mùa thu:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng, trước gió khẽ đưa vèo.
Ao thu không còn tĩnh lặng nữa mà đã nổi sóng với hai thanh trắc ở đầu câu (sóng
biếc) và hai thanh trắc ở cuối câu (gợn tí). Sóng nhỏ vì ao nhỏ, lại là trong chỗ khuất.
Gió nhẹ, gió heo may mùa thu. Sóng lại có màu sắc, “sóng biếc” thật đẹp. Ngòi bút
của tác giả tinh tế đến từng chi tiết nhỏ. Hai câu thực đối rất chỉnh “sóng biếc" đối với
“lá vàng”, đều là màu sắc đặc trưng của mùa thu. “Hơi gợn tí” đối với “khẽ đưa vèo”,
vận động của chiều dọc tương xứng với vận động của chiều ngang thật tài tình.
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Nhà thơ đã thả hồn theo chiếc lá vàng “khẽ đưa vèo" trên mặt ao trong veo. Cái màu
vàng của mùa thu mà bao nhiêu thi nhân đã ngợi ca:
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô (Lưu Trọng Lư)
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông. (Bích Khê)
Và đây là chiếc lá vàng của Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu điếu” dưới ánh mắt
của Xuân Diệu: “Cái thú vị của bài Thu Điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh
sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu
rơi...”. Lời bình của Xuân Diệu thật là tâm đắc.
Nhà thơ mở không gian lên chiều cao tạo nên không khí khoáng đạt và không gian
được mở rộng nên bức tranh "Thu điếu” thêm đường nét, thêm màu sắc:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Màu da trời “xanh ngắt” thật là đẹp, màu xanh xao mà tha thiết. Trong màu “xanh
ngắt” có cái thăm thẳm của chiều cao. Mây không trôi mà “lơ lửng” những áng mây
trắng “lơ lửng” trên bầu trời “xanh ngắt” thật là thanh bình. Rồi tác giả lại trở về cận
cảnh với hình ảnh của làng quê. “Ngõ trúc quanh co”, đường làng quanh co thân thuộc
với bóng tre trùm mát rượi. Nhưng bao giờ trong thơ Nguyễn Khuyến tre cũng nói là
trúc, “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” (Thu vịnh), “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”.
Nguyễn Khuyến thích cái hình thể loại cây chí khí ấy “Trúc dẫu cháy đốt ngay vẫn
thẳng”. Những nét trúc thẳng đối lập với những nét quanh co của đường làng thật là
gợi cảm. Trời lạnh, đường quê vắng vẻ, “khách vắng teo”. Bức tranh thu đượm buồn.
Các thi sĩ thích miêu tả cảnh thu trong tĩnh lặng, đẹp, nhưng buồn. Sau Nguyễn
Khuyến, nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu cũng viết:
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò (Đây mùa thu tới)
Bài thơ kết thúc với hình ảnh của người đi câu như một nét tự họa:
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần”, dường như để tương xứng với khung ao nhỏ,
với chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Người đi câu đang đắm chìm trong suy tư thì một cử
động đã làm cho nhà thơ sực tỉnh:
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Ba chữ “đ” (đâu, đớp, động) miêu tả một chút xao động trong làn ao và rất nhiều xao
động trong lòng thật là tài tình.
Có ý kiến cho rằng cử chỉ đi câu của Nguyễn Khuyến giống với Khương Tử Nha và
nhà bình luận đó hết lời ngợi ca cả hai ông. Không! Nguyễn Khuyến đâu có còn chờ
thời. Nhà thơ chỉ muốn tan hòa vào thiên nhiên, vào non nước. Toàn bộ hình tượng
thơ “Thu điếu” đã sửa soạn cho thái độ này. Khung cảnh hẹp, ao nhỏ, chiếc thuyền
“bé tẻo teo”. Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần” hòa điệu với thiên nhiên, tan hòa
với non nước. Thế thì làm sao thái độ đi câu của Nguyễn Khuyến lại giống với thái độ
đi câu của Khương Tử Nha được? Còn đồng tình với ai đó là chuyện riêng. Tôi đồng
tình với Nguyễn Khuyến.
Trong chùm thơ bài viết về mùa thu của Nguyễn Khuyến, nếu được chọn một bài thì
đó là bài “Thu điếu”. Bài thơ "Thu điếu” là kiệt tác trong nền thơ cổ điển nước nhà.
Bức tranh mùa thu được miêu tả bằng những hòa sắc tinh tế, những đường nét gợi
cảm. Nhạc điệu cũng độc đáo. vần gieo hiểm hóc mà tự nhiên, hồn nhiên. Theo Xuân
Diệu, cả bài thơ không còn lép chữ nào. Thật là một nghệ sĩ cao tay. Cái tình của nhà
thơ cũng theo kịp cái tài. Cái tình của nhà thơ đối với quê hương làng cảnh, với non
sông đất nước thấm trong mỗi chữ mỗi lời làm xúc động hết thảy mỗi tâm hồn Việt Nam.
Phân tích Câu cá mùa thu - Mẫu 4
Nguyễn Khuyến là nhà thơ nổi tiếng với phong cách thơ đặc trưng, riêng biệt. Một
trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của ông chính là bài Câu cá mùa thu.
Mở đầu bài thơ tác giả miêu tả khung cảnh thiên nhiên gần gũi với làng quê:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
“Ao” là hình ảnh gần gũi, thân thuộc với người nông dân. Thời tiết chuyển sang mùa
thu, ngay cả cái ao cũng mang hơi hướng, âm hưởng mùa thu với làn nước mát lạnh
và trong veo. Trong khung cảnh mùa thu với ao nước trong xanh, làn nước mát lạnh
ấy là hình ảnh chiếc thuyền câu của người thi sĩ nhỏ bé, lọt thỏm trong không gian
rộng lớn trở nên “bé tẻo teo”. Khung cảnh thiên nhiên, bức tranh mùa thu trở nên đẹp
đẽ và mang màu sắc riêng biệt không lẫn với bất cứ nơi nào.
Bức tranh mùa thu ở làng quê được miêu tả ở những cảnh vật thân thuộc khác:
“Sóng nước theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Làn gió thổi lăn tăn sóng trên mặt nước “hơi gợn tí” làm cho bức tranh tuy động
nhưng vẫn tĩnh. Tiếng sóng nước nhỏ bé ti li gợn gợn gợi cảm giác thanh bình. Hình
ảnh chiếc lá vàng rụng khỏi cây và rơi xuống đất được miêu tả sinh động “khẽ đưa
vèo” vừa gợi sự mỏng manh yếu đuối của chiếc lá bị gió cuốn bay vừa gợi âm thanh
mùa thu - âm thanh của những chiếc lá rơi.
Bầu trời mùa thu mang vẻ đẹp thanh bình:
"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo"
Bầu trời mùa thu có những đám mây lơ lửng trên không trung tầng tầng lớp lớp nhưng
vẫn để lộ ra khoảng trời trong xanh tạo ra bầu không khí dịu mát. Thêm vào đó là
quang cảnh xung quanh thi sĩ với con ngõ chạy quanh co nhưng vắng lặng không một
bóng người làm cho không gian trở nên vô cùng yên tĩnh.
Trong bức tranh mùa thu thanh bình đó là hình ảnh người thi sĩ ung dung, tự do tự tại:
"Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo"
Trong bức tranh thiên nhiên mùa thu ấy là hình ảnh người thi sĩ thong dong buông
chiếc cần câu để câu cá mà không chút vướng bận nhưng đợi mãi không có con cá nào
cắn câu. Hình ảnh đàn cá “đớp động dưới chân bèo” tạo cảm giác thú vị. Người thi sĩ
có thể nhìn thấy con cá, nghe thấy tiếng động của nó nhưng không thể bắt được
chúng. Bức tranh mùa thu với những cảnh vật quen thuộc của làng quê Việt Nam tuy
giản dị nhưng vô cùng tươi đẹp. Trong bức tranh thiên nhiên đó là hình ảnh con người
ung dung, thong dong tận hưởng cuộc sống.
Vần “eo” thường được người ta cho rằng mang ý nghĩa không tốt và không may mắn
nhưng nhờ sự sáng tạo của mình, Nguyễn Khuyến đã mang đến cho bạn đọc cái nhìn
mới mẻ, sự tươi vui khi gieo vần này và tạo ra một bài thơ hay, độc đáo. Nhiều năm
tháng qua đi nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó và để lại ấn
tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc.
Phân tích Câu cá mùa thu - Mẫu 5
Nhắc đến mùa thu, thường gợi cho ta nghĩ đến vẻ đẹp dịu dàng, êm ả mà bàng bạc
một nỗi sầu khắc khoải, mà man mác một nỗi niềm tha thiết. Bởi vậy, thu đi vào
những trang thơ của người nghệ sĩ vừa đẹp cảnh lại vừa đẹp tình. Trong kho tàng văn
thơ trung đại Việt Nam, đã nhắc đến mùa thu thì không thể không kể đến chùm thơ
thu của “ông hoàng mùa thu” – Nguyễn Khuyến. Qua bức tranh “Thu điếu” (Câu cá
mùa thu) , cùng đến với cái tình của Nguyễn- một bầu tâm sự nói mấy cũng không
vơi, nhìn vào đâu cũng thấy thơ, cũng có thể bắt vào thơ.
Chỉ bằng một vài đường nét, một vài sắc màu điểm tô, ta thấy được qua bức tranh
“câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến chan chứa mênh mang những cái tình của thi
nhân. Mà có lẽ trước hết, “tình” ở đây chính là cái tình gắn bó, cái tình quyện hòa, cái
tình tha thiết với thiên nhiên non nước. Đọc “Thu điếu”, ta như được đắm mình vào
một không gian thu rất riêng của nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.
Nếu qua “Thu hứng”, Đỗ Phủ vẽ ra một bức tranh mùa thu đặc trưng của miền Bắc
Trung Quốc, kết hợp giữa cái xác xơ, tiêu điều với cái dữ dội, chao đảo; nếu qua “Thu
vịnh”, mùa thu được Nguyễn Khuyến đón nhận từ không gian thoáng đãng mênh
mông với cặp mắt hướng thượng, khám phá dần các tầng cao của không gian, thì đến
“thu điếu” – mùa thu được tạo nên bằng tất cả những thi liệu “đượm chất thu” và hết mực cổ điển.
Hình ảnh “thu thủy”- làn nước mùa thu sóng đôi với “thu thiên”- bầu trời thu, kết hợp
cùng “thu diệp” – lá thu và hình ảnh “ngư ông” – người câu cá. Ao thu – vốn là một
không gian chẳng còn xa lạ của vùng quê Bắc Bộ. Trung tâm của bức tranh thu là một
chiếc thuyền câu “bé tẻo teo”. Từ chính chiếc thuyền con giữa lòng ao nhỏ ấy, ánh
mắt của thi nhân bao quát ra xung quanh và cảm nhận mặt nước ao thu lạnh lẽo và trong veo đến hết độ.
Rồi mùa thu hiện lên với nào sóng biếc “gợn tí”, xa hơn một chút là hình ảnh lá vàng
“khẽ đưa vèo” trong gió, cao hơn là khoảng không gian vời vợi của bầu trời “xanh
ngắt”, men theo lối đi của chiếc ao nhỏ là ngõ trúc “quanh co” uốn lượn… và đến cuối
cùng, tầm mắt của thi nhân lại quay về với chiếc thuyền câu bởi âm thanh của tiếng cá
“đớp động” dưới chân bèo. Khung cảnh hiện lên đẹp tựa tiên cảnh, nhưng lại là vẻ đẹp
vô cùng giản dị thân thuộc, gắn liền với đồng đất quê hương.
Xuân Diệu từng nhận xét: “…Thu điếu (Câu cá mùa thu) là điển hình hơn cả cho mùa
thu của làng cảnh Việt Nam”. Mùa thu của thi nhân không chỉ gây ấn tượng ở màu
sắc, không những đẹp trong từng nét họa mà còn vang động những thanh âm rất riêng.
Ao thu hiện ra qua hai tính từ: “lạnh lẽo” và “trong veo” – ao lạnh, nước yên và trong
đến tận đáy. Ở đây, cái trong đã song hành cùng cái tĩnh: càng trong lại càng tĩnh,
càng tĩnh lại càng trong.
Còn bầu trời, Nguyễn lựa chọn điểm tô màu “xanh ngắt” – là sợi chỉ xuyên suốt kết
nối chùm thơ thu ba bài của thi nhân, cũng bởi vậy mà trở thành gam màu đặc trưng
cho hồn thơ thu Nguyễn Khuyến. “Xanh ngắt” là xanh trong tuyệt đối không chút pha
trộn, không chút gợn tạp. Nguyễn Khuyến đã mở lòng để đón nhận cái thần thái rất
riêng của bầu trời thu như thế.
Còn với “gió thu” tác giả không miêu tả trực tiếp mà sử dụng bút pháp cổ điển “vẽ
mây nảy trăng”. Tả sóng nước “gợn tí”, tả lá vàng “khẽ đưa vèo” chính là nhà thơ
đang họa nên gió. Với hình ảnh “ngõ trúc quanh co – vắng teo” không một bóng
người qua gợi nên một không gian thu yên tĩnh đến êm ả. Câu thơ cuối đã được tác giả
khéo léo lồng vào bút pháp thi ca cổ điển “lấy động đánh tĩnh”.
Phải là một không gian tĩnh lặng tuyệt đối thì cả con người với thiên nhiên mới có thể
giật mình trước âm thanh rất nhỏ – “cá đớp động”. Cái động của tiếng cá đớp càng
làm nổi bật cái tĩnh chung của cảnh. Bức tranh thu hiện lên với vẻ đẹp thanh vắng,
quạnh hiu, chỉ có duy nhất thi nhân đang trong vai của một ngư ông đối diện với thiên
nhiên mà như đang chìm vào cõi suy tư trầm ngâm. Không gian tĩnh lặng, vắng người,
vắng tiếng, cảnh hẹp và thu nhỏ trong khuôn ao làng xóm.
Bức tranh thu của Nguyễn Khuyến còn là sự hòa quyện tinh tế giữa muôn vàn cung
bậc của các “điệu xanh” (Xuân Diệu): xanh ao, xanh sóng, xanh bèo, xanh bờ, xanh
trời và xanh trúc. Rồi điểm xuyết giữa những sắc xanh ấy, người ta thấy nổi bật một
màu “lá vàng” đã tạo nên sự hòa sắc nhẹ nhàng cho cả bức tranh. “Lá vàng” thường
gợi sự tàn phai, tiêu điều, vốn là biểu tượng cho mùa thu phương Bắc.
Nguyễn Khuyến gợi chứ không tả, chỉ với ba từ “khẽ đưa vèo” mà gợi được cả cái
thanh sơ nơi màu vàng của chiếc lá trên nền trời xanh đang chao nghiêng, trên sóng
biếc gợn nhẹ. Đây chính là khoảnh khắc bất ngờ mà đầy chất thơ của tạo vật cho thấy
đôi mắt với ánh nhìn chủ động của người nghệ sĩ. Tác giả như đang nghiêng lòng
mình, lắng nghe mọi tàn phai trong sự chuyển động khẽ khàng của cảnh.
Cả bức tranh thu là sự hòa điệu về đường nét chuyển động mảnh mai, nhẹ nhàng đến
tinh tế thông qua chuỗi các động từ: “khơi gợn tí”, “lơ lửng”, “khẽ đưa vèo”… Ao thu
nhỏ nên thuyền câu bé, trời xanh ngắt nên nước thêm trong, khách vắng teo nên người
ngồi câu cũng trầm ngâm, yên lặng. Bức tranh thiên nhiên được hòa sắc vào nét, bỗng
trở nên hài hòa xứng hợp, xinh xắn đến lạ kì.
Như vậy, để làm sống dậy hồn của cảnh trên trang viết, Nguyễn Khuyến đã sử dụng
một hệ thống ngôn từ vô cùng tài hoa – thứ ngôn ngữ gợi cảm, giàu nhạc điệu và được
biến hóa qua nhiều sắc thái bất ngờ. Trước hết là hệ thống các từ láy vừa gợi hình, vừa
gợi cảm, những tính từ chỉ mức độ được kết hợp hết sức tinh tế: “lạnh lẽo, trong veo,
bé tẻo teo, gợn tí, vèo, lơ lửng, xanh ngắt, quanh co, vắng teo”.
Việc lựa chọn vần “eo” – vốn được coi là vần chết trong thi ca, dưới ngòi bút tài tình
của tác giả đã thành công bất ngờ, gợi cho ta cảm giác không gian mỗi lúc một thu
hẹp, bức tranh càng gợi cảm giác xinh xắn, bé nhỏ rất phù hợp với quan điểm thẩm mĩ
truyền thống của người Việt xưa. Cảnh thanh đạm, đơn sơ, không lộng lẫy nhưng vẫn
hết sức gợi cảm; cảnh đẹp nhưng lại đượm buồn.
Nguyễn Du đã từng đúc kết một qui luật: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu”, bức tranh
thu của Nguyễn Khuyến cũng vậy, cũng mang nặng những nỗi niềm tâm sự u hoài của
tác giả trước thời cuộc đổi thay. Bài thơ, có thể nói, đã được hình thành từ sự cộng
hưởng giữa nỗi sầu ủ sẵn trong cảnh và niềm cô đơn ẩn sâu trong lòng người.
Với nhan đề: “Câu cá mùa thu” nhưng nhân vật trữ tình lại chẳng mấy bận tâm đến
chuyện câu cá, mà nói “câu cá” thực ra là để đón nhận cảnh thu vào lòng mà gửi gắm
tâm sự. Bức tranh thu tĩnh lặng hay chính là một cõi lòng tĩnh lặng tuyệt đối. Cái se
lạnh của cảnh thu đang thấm vào tâm hồn của nhà thơ hay cái lạnh của lòng thi nhân
đang tỏa lan ra cảnh vật?
Ở Nguyễn Khuyến, ta thấy một nỗi buồn u hoài thăm thẳm cô đơn của một nhà nho
lánh đời thoát tục, nhưng trong lòng vẫn canh cánh nỗi niềm dân nước. Cũng giống
như Nguyễn Trãi năm xưa về Côn Sơn ở ẩn, Nguyễn Khuyến nhàn thân nhưng không
nhàn tâm. Khi ông đạt đến đỉnh cao sự nghiệp thì cũng là lúc dân tộc bước vào một
giai đoạn lịch sử đầy bi thương.
Chế độ phong kiến bấy giờ trở thành một gánh nặng của lịch sử, không còn đủ khả
năng để đưa đất nước thoát khỏi họa ngoại xâm và nô dịch. Hệ tư tưởng Nho giáo mà
nhà thơ từng tôn thờ đã trở nên lạc hậu, lỗi thời. Nguyễn Khuyến ý thức sâu sắc sự bất
lực của bản thân. Ông luôn cảm thấy băn khoăn, bứt rứt vì không thể làm gì hơn cho
đất nước, cho nhân dân.
Điều duy nhất ông có thể làm là bất hợp tác với kẻ thù, lui về quê ở ẩn, giữ gìn tiết
tháo nhân cách, quên đi những dằn vặt sự đời nhưng muốn quên mà chẳng thể quên
được. Tại nơi thôn quê thanh sơ, Nguyễn Khuyến vẫn đau đáu một nỗi quan hoài
thường trực – ông là một con người nặng tình với đất nước, với quê hương. Hai câu
thơ cuối kết lại mạch cảm xúc, gợi ra lòng người thanh thản với tư thế thu mình ngồi
đến lặng lẽ của một ngư ông “lánh đục về trong”
“Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
Nhà thơ chăm chú dõi nhìn cảnh sắc mùa thu, cho đến khi nghe tiếng cá đớp động
dưới chân bèo mới giật mình sực tỉnh. Vừa trở về với thực tại, nhà thơ đã đưa mình
vào trạng thái lửng lơ… Một chữ “đâu” mà không thể phân biệt được đâu là hư, đâu
mới là thực. “Đâu” là đâu có hay “đâu” là đâu đó? Bức tranh thu liệu thực có tiếng cá
đớp động hay không? Người đọc không biết, thi nhân cũng không tài nào lí giải nổi.
Người ngồi câu mà như hóa thạch giữa không gian, thời gian, đi câu mà cái chí lại
không đặt ở việc đi câu.
Mỗi thi sĩ làm thơ, trước hết là phải thổi được cái hồn mình vào đó, phải biết biến hóa
những con chữ thô cứng ngập tràn thi vị và “nhảy múa” trong cảm xúc. “Đọc một câu
thơ hay tức là ta gặp gỡ một tâm hồn con người” (A-tô-ni Phơ-răng). Qua “Thu điếu”,
ta thấy được ở Nguyễn Khuyến một tâm hồn gắn bó với thiên nhiên, một tấm lòng yêu
nước thuần hậu, thầm kín.
Đó phải là cái nhìn đầy tinh tế của bậc thầy thơ Nôm trung đại mới có thể họa nên bức
tranh đẹp nhường ấy. Nỗi buồn trong cảnh không bị đẩy tới mức độ u uất mà lan tỏa
nhẹ nhàng ra xung quanh, vừa đủ để tạo ra một khoảng lặng trong tâm hồn. Chính nỗi
u hoài ấy của tác giả mới làm nên lưu luyến trong tâm trí người đọc, làm nên nỗi day
dứt với đời và tạo thành giá trị trường tồn, sức sống lâu bền cho tác phẩm.
Với “Thu điếu” – Nguyễn Khuyến đã tạo nên cho mình một chỗ đứng quan trọng
trong nền thơ ca trung đại Việt Nam nói chung và trong những thi phẩm lựa chọn đề
tài mùa thu nói riêng. Đong đầy trong từng vần thơ con chữ, ta thấy được mênh mang
cái tình của thi nhân. Nguyễn Khuyến, hơn một nhà họa sĩ là một nhà thi sĩ. Thơ ông
hơn một bức tranh tả cảnh là những ngôn từ gợi tình.
Phân tích Câu cá mùa thu - Mẫu 6
Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuốm đậm tư
tưởng Lão Trang và triết lí Đông phương. Thơ chữ Hán của ông hầu hết là thơ trữ
tình. Có thể nói cả trên hai lĩnh vực, Nguyễn Khuyến đều thành công. Thu điếu được
trích từ chùm thơ thu gồm ba bài: Thu điếu, thu vịnh. Cả ba thi phẩm đều được viết
bằng từ chương, bút pháp thi trung hữu họa, lấy động tả tĩnh của văn học trung đại,
nhưng vẫn mang đậm dấu ấn riêng của một trong những bậc thầy thơ Nôm đường luật xuất sắc.
Cảnh vật được đón nhận từ gần đến cao xa rồi từ cao xa trờ lại gần. Từ điểm nhìn của
một người ngồi chiếc thuyền nhìn ra mặt ao, nhìn lên bầu trời, nhìn tới ngõ vắng rồi
lại trở người về với ao thu, nhà thơ đã quan sát không gian, cảnh sắc thu theo người lương thật sinh động.
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.”
Nguyễn Khuyến đã chọn những chi tiết rất tiêu biểu cho mùa thu xứ Bắc (ao thu, gió
thu, trời thu). Ao thu là thứ ao rất riêng chỉ mùa thu mới xuất hiện. Nguyễn Khuyến đã
ghi nhận được hai đặc trưng của ao thu là lạnh lẽo và trong veo – ao lạnh nước yên,
trong đến tận đáy. Ao là nét thường gặp trong thơ Nguyễn Khuyến, nói đến ao là gợi
đến một cái gì rất gần gũi, thân quen, tâm hồn Nguyễn Khuyến là thế: thân mật, bình
dị, chân thành với hồn quê. Trời thu trong xanh cũng là hình quen thuộc trong thơ
Nguyễn Khuyến. Bầu trời thu xanh ngắt xưa nay vẫn là biểu tượng đẹp của mùa thu.
Những án mây không trôi nổi bay khắp bầu trời mà lơ lửng. Xanh ngắt trong thơ
Nguyễn Khuyến là xanh trong, tinh khiết đến tuyệt đối, không hề pha lẫn, không hề gợn tạp.
Đường nét chuyển động nhẹ nhàng, mảnh mai, tinh tế: hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, mây lơ
lửng, đường bao thanh mảnh của rặng trúc, đường gợn của lượn sóng ao thu. Cảnh vật
toát lên sự hài hòa, xứng hợp: Ao nhỏ – thuyền bé; gió nhẹ – sóng gợn; trời xanh –
nước trong; khách vắng teo – chủ thể trầm ngâm tĩnh lặng. Sau này Xuân Diệu trong
bài Đây mùa thu tới cũng đã bắt được những nét điển hình đó của sông nước ở vùng
quê, khi trời đã bắt đầu bước vào những ngày giá lạnh:
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
… Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò.
Nghệ thuật sử dụng ngôn từ của tác giả các từ láy vừa tạo hình, vừa gợi cảm, những
tính từ và các từ chỉ mức độ như lạnh lẽo, trong veo, bé tẻo teo, hơi gợn tí, khẽ đưa
vèo, lơ lửng, xanh ngắt, vắng teo, quanh co việc lựa chọn vần eo đã gợi nên cảm nhận
mỗi lúc một thu hẹp diện tích
Cảnh buồn cảnh chẳng đeo sầu – bức tranh cảnh thu đã hé mở cho chúng ta tình thu
của người trong cảnh. Phải chăng đây là tâm trạng thời thế của nhà thơ? Thời thế thay
đổi nhanh quá! Thoáng chốc non sông đã mất trong tay kẻ thù. Thoáng chốc thời cuộc
đã vụt qua: Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Mặt nước, tầng mây lơ lửng và sắc trời mở
ra không gian cho bài thơ phải chăng cũng đồng thời ẩn chứa những nỗi niềm tâm sự
liệu có chút gì lơ lửng về thời cuộc? Chọn con đường ở ẩn để giữ trọn thân danh, giữ
lấy cái cao khiết để như biểu tượng đăm đắm của bầu trời kia phải chăng đã thật đúng,
hay chỉ là để “chạy làng” trong cách nói cay đắng của một vị đại khoa.
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo phải chăng là tâm sự cô đơn, cô quạnh? Nguyễn
Khuyến có lần tự thấy mình như một cành cô trúc đó thôi! Lẻ loi và cô đơn, vắng teo
trước thời cuộc rộn ràng. Đó là tâm sự của một nhà nho lánh đời thoát tục song vẫn
không nguôi nghĩ về đất nước, nhân dân, về sự bế tắc, bất lực của bản thân? Nhàn
thân song không nhàn tâm, Nguyễn Khuyến không thể ung dung đi câu như một ẩn sĩ thực thụ.
Câu thơ cuối, với tiếng động duy nhất: tiếng cá đớp động. Phải chăng đó là âm thanh
của cõi lòng người câu cá? Nguyễn Khuyến nói chuyện câu cá nhưng thực ra tác giả
không chú ý vào việc câu cá. Nói câu cá nhưng thật ra là để đón nhận trời thu vào
lòng, gửi gắm tâm sự. Cõi lòng tĩnh lặng để cảm nhận độ trong veo của nước, cảm
nhận cái hơi gợn của sóng, cảm nhận độ rơi khẽ của lá. Đặc biệt cõi lòng tĩnh lặng
được gợi lên sâu sắc từ một tiếng động nhỏ: tiếng cá đớp mồi. Đó là sự tĩnh lặng tuyệt
đối của tâm cảnh, cõi lòng của thi nhân cũng tĩnh lặng, trong trẻo như làng quê Việt trong tiết thu.
Bài thơ Câu cá mùa thu thể hiện sự cảm nhận và nghệ thuật gợi tả tinh tế của Nguyễn
Khuyến về cảnh sắc thu đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời cho thấy tình yêu thiên nhiên,
đất nước, tâm trạng thời thế về tài thơ Nôm của tác giả.
Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu - Mẫu 7
Trời vào thu với màu sắc thê lương ảm đạm, với gió heo may se sắt lạnh lùng và
những chiếc lá vàng nhẹ rơi bỏ lại thân cây trơ trọi, não nề. Mùa thu có lẽ làm cho
người ta bâng khuâng hoài cảm nhiều nhất và là nguồn cảm hứng bất tận cho người
nghệ sĩ. Quay ngược bánh xe lịch sử ta sẽ bắt gặp những mùa thu tuyệt vời ngập tràn
trong những trang thơ của bao thế hệ. Nhắc đến mùa thu không thể không nhắc đến
“Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến – một bức tranh mùa thu mà Xuân Diệu đã
từng nhận xét: “Là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Tiếp xúc với bài thơ điều đầu tiên cho ta ấn tượng là mật độ xuất hiện vần “eo” trong
bài thơ. Chúng ta hãy đếm xem: có tất cả bảy tiếng sử dụng vần “eo”. Nếu để ý khảo
sát trong tiếng Việt thì ta sẽ phát hiện ra một điều thú vị là vần “eo” trong ngôn ngữ
của ta thường làm cho không gian, sự vật bị dồn nén, co lại, kết tinh lại trong cái
khuôn khổ nhỏ nhất của nó. Trời thu đã mang sẵn cái khí lạnh trong nó lại càng lạnh
thêm trong cái từ “lạnh lẽo” ấy. Nước hồ thu đã trong rồi nay lại càng trong thêm nữa
bởi từ “trong veo”. Khoảng trống rộng lớn làm cho chiếc thuyền câu nhỏ bé lại càng
nhỏ bé thêm khi nó được tác giả thấy rằng “bé tẻo teo”. Hình ảnh “Lá vàng trước gió
khẽ đưa vèo” làm chúng ta chợt nhớ đến hai câu thơ của Trần Đăng Khoa:
Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.
Trở về câu thơ của Nguyễn Khuyến động từ “vèo” gợi cảm giác rơi nghiêng của lá.
“Khẽ đưa vèo” câu thơ có cấu trúc động từ thật là lạ, làm cho ta thấy dường như tiếng
rơi ấy nó không là hiện thực mà nó đang diễn ra trong tâm thức của nhà thơ. Chiếc lá
ấy của nhà thơ làng Yên Đỗ và Trần Đăng Khoa như là ảo ảnh. Trong cái ảo ảnh đó,
người đọc và cả tác giả dường như không kiểm soát kịp nó có thật hay không nữa.
Bức tranh mùa thu đến đây khẽ lay động dưới nét phác họa của nhà thơ.
Qua hai câu đề của bài thơ bức tranh mùa thu không được đặt trong không gian rộng
lớn như ở “Thu vịnh” mà nó bị giới hạn lại trong cái phạm vi nhỏ bé của “ao thu”.
“Ao thu” hai tiếng ấy có vẻ gì đó là lạ, đặc thù. Hình ảnh “ao thu” như muốn chứng
minh sự nhỏ bé khác thường của nó.
Toàn bộ khung ảnh được vẽ lên như một bức tranh tí hon có thể đặt trọn trong lòng
bàn tay ta vậy. Nó có một cái gì đó ngồ ngộ, dễ thương và cuốn hút lạ thường. Nó thu
tóm toàn bộ không gian, làng cảnh Việt Nam im lìm, vắng lặng nhưng lại ẩn chứa một sức sống mãnh liệt.
Đến đây không gian được mở rộng ra, nhà thơ đã di chuyển điểm nhìn từ khoảng gian
nhỏ bé của “ao thu” hướng về không gian lớn của bầu trời. Ở đấy nhà thơ bắt gặp:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”
Cái động từ “lơ lửng” như gợi cho ta một cảm giác về một chuyển động mà ngỡ như
là đứng yên. Những đám mây mùa thu như khẽ nhích từng tí một, bồng bềnh trong
bầu trời thu xanh ngắt. Cái chuyển động của chiếc thuyền câu cũng vậy, nó như hơi
khẽ lắc trong sóng nước mùa thu. Trở lại câu thơ:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí”
Ta thấy nó có một cái gì đó dễ gây ấn tượng. Chữ “làn” xuất hiện làm cho cảnh vật nó
như mơ hồ, khó mà nắm bắt được. “Hơi gợn tí” nó gợi lên trước mắt chúng ta một
hình dáng của sóng. Nó không ồn ào dữ dội như sóng biển mà có nó lăn tăn lan ra trên
mặt hồ. Bức tranh mùa thu như trầm mình trong cái yên ả, tĩnh mịch ấy.
Có một câu châm ngôn cho rằng: không có một vẻ đẹp xuất sắc nào mà không mang
đôi nét kì quặc. Cho nên câu thơ:
"Ngõ trúc quanh co khách vắng teo"
Tuy gợi cho ta cảm giác rờn rợn da thịt nhưng bức tranh mùa thu ở đây vẫn có một nét
đẹp rất nên thơ, bình yên và trong sáng. Con người nhà thơ ở đây có phần nào lộ diện hơn:
"Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo"
Thế câu "Tựa gối ôm cần" thật lạ. Nó như thú nhận rằng nhà thơ đang lo nghĩ về một
việc gì đó rất dữ dội, nó như đang giằng xé lấy ông. Phải chăng đó chính là nỗi buồn
thời cuộc, nỗi buồn mà đến cuối đời nhà thơ vẫn không nguôi ngoai được phần nào.
Kết thúc bài thơ cảnh vật mùa thu im lìm như bị đánh thức dậy trước cái âm thanh bật
hơi thật mạnh của cụm từ "đâu đớp động". Tạo ra một nét đối nghịch trong bài thơ:
Cảnh vật ở trên được miêu tả là một bức tranh tĩnh lặng đến hoang vắng thì đến cuối
bài thơ nó như bắt đầu tiếp nhận được sức sống, bức tranh như sinh động hẳn lên.
Nhưng nó lại cũng khiến cho bài thơ im ắng vô cùng. Ba tiếng "đâu đớp động" chõi
lên một chút rồi lại đè xuống dưới sự áp chế mãnh liệt của vần "eo". Cách sử dụng
nghệ thuật, dùng cái động để diễn tả cái tĩnh làm cho cảnh vật trong bài thơ càng vắng
lặng hơn, nỗi buồn như bao trùm cả một khung cảnh rộng lớn.
Bài thơ còn mang trong nó một sắc điệu xanh sắc xanh của mây trời, của lá cây, của
nước mùa thu. Tất cả như hòa quyện vào nhau làm cho bài thơ tạo nên một bức tranh
hài hòa cân đối, có một màu sắc rất riêng của Việt Nam. Một chiếc lá vàng đâm ngang
tô thêm cho bức tranh mùa thu một vẻ đẹp mới lạ.
Đọc "Câu cá mùa thu" ta càng yêu thêm non sông xứ sở đất Việt này. Bức tranh mùa
thu đậm chất vẻ đẹp thiên nhiên của Việt Nam trong bao biến động xô bồ của cuộc đời
này. Có cần chăng nhiều lúc lòng chúng ta nên lắng lại để thưởng thức "Thu điếu" để
thanh lọc lại hồn mình, để yêu quê hương đất nước, yêu tiếng Việt trong sáng và giàu đẹp này hơn nữa ...
Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu - Mẫu 8
Trong lịch sử thơ ca cũng có một vài bài thơ tuyệt hay nói về mùa thu. Riêng Nguyễn
Khuyến đã có chùm thơ ba bài: Thu thanh, Thu khê và Thu điếu. Bài thơ nào cũng
hay, cũng đều cho thấy một tình quê dào dạt. Riêng bài “Thu điếu” thì nhà thơ Xuân
Diệu đã khẳng định là “đại diện hơn tất cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”.
“Thu điếu” là bài thơ tả cảnh sông tình sâu sắc: Cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình
yêu đất nước, yêu mùa thu và gắn liền với tình yêu quê hương đôi lứa. “Thu điếu”
được viết với thể thơ của Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình ảnh rất biểu cảm. Cảnh
thu, cây thu thơ mộng của làng quê Việt Nam đã hiện lên trong hình hài và màu sắc
hoàn hảo dưới ngọn bút tinh tế của Nguyễn Khuyến.
Hai câu đầu nói về ao thu cùng chiếc thuyền câu. Nước ao “trong veo” toả hơi thu
“lạnh lẽo”. Sương khói mùa thu đã bao trùm cảnh vật. Nước ao thu đã trong lại trong
xanh Dòng khí thu tinh khiết bỗng trở nên “lạnh lẽo”. Trên mặt nước hiện lên xa xa
một chiếc thuyền câu khá bé nhỏ – “bé tẻo teo”. Cái ao cùng chiếc thuyền câu là hình
ảnh trung tâm của bài thơ, cũng là hình ảnh giản dị, thân thương, đáng yêu của quê
nhà. Theo Xuân Diệu cho thấy vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam có chỗ nào
là ao, cứ ao to ao sâu, ao rộng chiếc thuyền câu cũng theo đó mà “bé tẻo teo “:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo“.
Các từ ngữ: “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo” gợi tả bố cục, dáng hình, màu sắc
của cảnh vật, sắc nước mùa thu; nhịp điệu lời thơ như gió thu đưa tiếng thu trở về.
Hai câu thơ cuối cùng trong phần này là những nét vẽ tài hoạ tô đậm hơn vẻ đẹp của mùa thu:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn chút
Lá vàng trước gió khẽ đưa tay “.
Màu “biếc” của sóng hòa hợp với sắc “vàng” của lá tạo lên bức tranh đồng quê mộc
mạc mà rực rỡ. Nghệ thuật đối trong tranh thật cũng điêu luyện kết hợp “lá vàng” với
“sóng biếc”, tốc độ “vèo” của lá bay tương đương với mức độ “tí” của sóng gợn. Nhà
thơ Tản Đà đã hết lời ca ngợi từ “vèo” trong thơ của Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một
đời thơ của mình mãi mới có được một câu thơ vừa ý trong bài “Đón thu, tiễn thu”,
“Ngồi nhìn lá rơi đầy sân”.
Hai câu luận mở rộng không gian diễn tả. Bức tranh thu có thêm độ cao của bầu trời
“xanh ngắt” với nhiều tầng mây “lơ lửng” xuôi theo chiều gió thổi. Trong chùm thơ
thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc trời thu là “xanh ngắt “:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao (Thu ngâm)
“Da trời ai nhuộm mà xanh biếc”. (Thu ẩm)
Tầng mây lơ lửng trời xanh biếc”. (Thu tàn)
Cái hay của bài thơ “Thu điếu” là ở hai câu kết:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo “.
“Tựa gối ôm cần” là tư thế của người câu cá cũng là một tâm thế nhàn của nhà thơ đã
rời vòng danh lợi. Cái tiếng “cá đâu đớp động”, những chữ “đâu” gợi nên cảm giác
mơ hồ, mông lung và chợt thức. Người câu cá ở đây chính là nhà thơ, một ông quan to
triều Nguyễn, yêu nước thương dân nhưng lực bất tòng tâm với thời cuộc, không
muốn trở thành tay sai cho thực dân Pháp đã cáo bệnh và từ quan. Đằng sau câu chữ
hiện lên một nhà nho thanh bạch bỏ quê đi ở trọ. Đang ôm cần đi câu cá nhưng tâm
hồn nhà thơ đang chìm đắm trong giấc mộng mùa thu thì bỗng bừng tỉnh quay trở lại
thực tại khi “Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Cho nên cảnh vật ao thu, hồ thu êm
đềm, tĩnh lặng như chính tâm trạng của nhà thơ vậy — buồn cô đơn và trống trải.
Âm thanh tiếng cá “đớp động dưới chân bèo” đã làm nổi bật không gian tĩnh lặng của
chiếc ao thu. Cảnh vật như luôn luôn quấn quýt với lòng người. Thiên nhiên đối với
Nguyễn Khuyến như một bầu bạn tri kỷ. Ông đã trang trải tình cảm, gửi gắm tâm tư
và tìm kiếm sự an ủi ở thiên nhiên, ở sắc “vàng” của nắng thu, ở màu “xanh ngắt” của
lá thu, ở những “sóng biếc” trên mặt ao thu “lạnh lẽo”. ..
Câu cá mùa thu là một trong số những áng văn hay và mang đậm nét trữ tình và cảm
xúc của Nguyễn Khuyến. Mùa thu ngâm câu thơ thưởng vị trà thì còn gì bình yên
bằng. Qua những câu thơ trên, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Khuyến đã
khắc họa cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền
với tình yêu quê hương đất nước tha thiết và đằm thắm.
Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu - Mẫu 9
Mùa thu vốn là một đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam. Thu thường mang đến
cho thi sĩ một nỗi buồn man mác, gợi nhớ hay nuối tiếc về một cái gì đó xa xôi, đầy bí
ẩn. Dường như không ai vô tình mà không nói đến cảnh thu, tình thu khi đã là thi sĩ!
Đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ thấy được điều đó. Cảnh mùa thu trong thơ ông
không phải là mùa thu ở bất cứ miền nào, thời nào, mà là mùa thu ở quê ông, vùng
đồng chiêm Bắc Bộ lúc bấy giờ. Chỉ với bầu trời “xanh ngắt” (Thu vịnh), với cái nước
“trong veo” của ao cá (Thu điếu), và cái “lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, làn ao
lóng lánh bóng trăng loe” (Thu ẩm). Nguyễn Khuyến đã làm say đắm lòng bao thế hệ!
Khi nhận xét về bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu có viết: “Bài thơ
Thu vịnh là có thần hơn hết, nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là điển hình hơn cả
cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Vậy ta thử tìm hiểu xem thế nào mà “Thu điếu
là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”?
Nếu như ở Thu vịnh, mùa thu được Nguyễn Khuyến đón nhận từ cái không gian
thoáng đãng, mênh mông, bát ngát, với cặp mắt hướng thượng, khám phá dần các tầng
cao của mùa thu để thấy được: “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”, thì ở Thu điếu, nhà
thơ không tả mùa thu ở một khung cảnh thiên nhiên rộng rãi, không phải là trời thu,
rừng thu hay hồ thu, mà lại chỉ gói gọn trong một ao thu: ao chuôm là đặc điểm của
vùng đồng chiêm trũng, vùng quê của Nguyễn Khuyến:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Câu thơ đầu tồn tại hai vần “eo”, câu thơ thể hiện sự co lại, đọng lại không nhúc
nhích, cho ta một cảm giác lạnh lẽo, yên tĩnh một cách lạ thường. Không có từ “lẽo”
và từ “veo” cũng đủ cho ta thấy cảnh tĩnh, nhưng thêm hai từ này lại càng thấy cảnh
tĩnh hơn nữa. Khung ao tuy nhỏ nhưng tác giả lại không bị giới hạn mà mở rộng ra
nhiều chiều, trong cái không khí se lạnh đó dường như làm cho làn nước ao ở độ giữa
thu, cuối thu như trong trẻo hơn. Những tưởng trong “ao thu lạnh lẽo” ấy, mọi vật sẽ
không xuất hiện, thế mà thật bất ngờ: Khung ao không trống vắng mà có “một chiếc
thuyền câu bé tẻo teo”. Có khung cảnh thiên nhiên và có dấu vết của cuộc sống con
người, khiến cảnh thu thêm được phần nào ấm cúng. Chiếc thuyền “tẻo teo” trông thật
xinh xắn. Câu thơ đọc lên, làm cho đối tượng miêu tả trở nên gần gũi và thân mật biết
bao! Với hai câu mở đầu, nhà thơ sử dụng những từ ngữ gợi hình ảnh, tạo độ gợi cao:
“lẽo”, “veo”, “tẻo teo” mang đến cho người đọc một nỗi buồn man mác, cảnh vắng vẻ,
ít người qua lại. Và rồi hình ảnh:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Càng làm cho không khí trở nên tĩnh lặng hơn, nhà thơ đã dùng cái động của “lá vàng
trước gió” để miêu tả cái tĩnh của cảnh thu làng quê Việt Nam. Những cơn gió mùa
thu đã xuất hiện và mang theo cái lạnh trở về, khiến ao thu không còn “lạnh lẽo”,
không còn tĩnh lặng nữa vì mặt hồ đã “gợn tí”, “lá vàng khẽ đưa vèo”, cảnh vật dường
như đã bắt đầu thay đổi hẳn đi! Cơn “sóng biếc” nhỏ “hơi gợn tí” và chiếc lá “trước
gió khẽ đưa vèo” tưởng như mâu thuẫn với nhau, nhưng thật ra ở đây Nguyễn Khuyến
đã quan sát kĩ theo chiếc lá bay trong gió, chiếc lá rất nhẹ và thon thon hình thuyền,
chao đảo liệng đi trong không gian, rơi xuống mặt hồ yên tĩnh. Quả là phải có một tâm
hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống thật sâu sắc thì Nguyễn Khuyến mới có thể cảm
nhận được những âm thanh tinh tế, tưởng chừng như chẳng ai để ý đến như thế! Như
trên đã nói: mở đầu bài thơ, tác giả sử dụng vần “eo” nhưng tác giả không bị giới hạn
mà đã mở rộng không gian theo chiều cao, tạo nên sự khoáng đạt, rộng rãi cho cảnh vật:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Bầu trời thu xanh ngắt xưa nay vẫn là biểu tượng đẹp của mùa thu. Những áng mây
không trôi nổi bay khắp bầu trời mà “lơ lửng”. Trước đây Nguyễn Du đã từng viết về mùa thu với:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
Nay Nguyễn Khuyến cũng thế. Mở ra không gian rộng, cảm hứng Nguyễn Khuyến lại
trở về với khung cảnh làng quê quen thuộc cũng vẫn hình ảnh tre trúc, vẫn bầu trời thu
ngày nào, vẫn ngõ xóm quanh co… tất cả đều thân thương và nhuốm màu sắc thôn
quê Việt Nam. Chỉ đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta mới thấy được những nét quê
tĩnh lặng, êm ả như vậy. Trời sang thu, không khí giá lạnh, đường làng cũng vắng vẻ.
“Ngõ trúc quanh co” cũng “vắng teo” không bóng người qua lại. Sau này Xuân Diệu
trong bài Đây mùa thu tới cũng đã bắt được những nét điển hình đó của sông nước ở
vùng quê, khi trời đã bắt đầu bước vào những ngày giá lạnh:
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
Cành biếc run run chân ý nhi (Thu)
Thế rồi trong cái không khí se lạnh đó của thôn quê, những tưởng sẽ không có bóng
dáng của con người, ấy vậy mà thật bất ngờ đối với người đọc:
Tựa gối buông cần, lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Hai câu thơ kết thúc đã góp phần bộc lộ đôi nét về chân dung tác giả. Tôi nhớ không
lầm dường như đã có tài liệu cho rằng: “tựa gối, ôm cần lâu chẳng được”, “ôm” chứ
không phải là “buông”. Theo Việt Nam tự điển thì “buông” hay hơn, phù hợp với tính
cách của nhà thơ hơn. Trong những ngày từ quan lui về ở ẩn, mùa thu câu cá, đó là thú
vui của nhà thơ nơi làng quê để tiêu khiển trong công việc, để hòa mình vào thiên
nhiên, mà quên đi những bận lòng với nước non, cho tâm hồn thanh thản. “Buông”:
thả lỏng, đi câu không cốt để kiếm cái ăn (hiểu theo đúng nghĩa của nó), mà để giải trí,
cho nên “ôm” không phù hợp với hoàn cảnh. Từ “buông” mang đến cho câu thơ hiệu
quả nghệ thuật cao hơn.
Tóm lại, qua Thu điếu, ta phần nào thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với thiên
nhiên, đối với cuộc sống: chỉ có những ao nhỏ, những “ngõ trúc quanh co”, màu xanh
của bầu trời, cũng đã làm say đắm lòng người. Thì ra mùa thu ở thôn quê chẳng có gì
là xa lạ, mùa thu ở thôn quê chính là cái hồn của cuộc sống, cái duyên của nông thôn.
Câu cuối này là thú vị nhất, vừa gợi được cảm giác, vừa biểu hiện được cuộc sống
ngây thơ nhất với sự việc sử dụng những âm thanh rất trong trẻo có tính chất vang
ngân của những cặp vần, đã chiếm được cảm tình của độc giả, đã đọc qua một lần thì khó mà quên được.
Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu - Mẫu 10
Nguyễn Khuyến là người có cốt cách thanh cao và giàu lòng yêu nước, ông một lòng
không hợp tác với kẻ thù. Ông được mệnh danh là “nhà thơ của dân tình, làng cảnh
Việt Nam”. Ông để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm thơ hay và đặc biệt là chùm ba bài
thơ thu điển hình cho làng quê, phong cảnh Việt Nam. Trong đó nổi bật hơn cả là bài Câu cá mùa thu.
Nếu như ở bài Thu vịnh cảnh thu được đón nhận từ cao xa rồi mới đến gần thì bài Câu
cá mùa thu khung cảnh thiên nhiên mùa thu lại được đón nhận ở một chiều kích khác:
từ gần rồi tiến ra cao xa và từ cao xa trở về gần. Khung cảnh được mở ra với nhiều
chiều hướng vô cùng sinh động.
Cảnh thu được mở ra với hình ảnh không gian hết sức trong trẻo:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Không khí mùa thu được gợi nên từ sự dịu nhẹ, nguyên sơ nhất của cảnh vật với làn
nước trong veo, không một gợn đục. Mùa hè đã đi qua, những cơn mưa lớn với dòng
nước đỏ đục đã không còn thay vào đó là cái thanh tĩnh, trong trẻo của làn nước, của
cảnh vật. Trong không gian nhỏ hẹp ấy là hình ảnh của chiếc thuyền câu nhưng nó
không hề lọt thỏm giữa không gian thiên nhiên mà lại rất hài hòa, cân xứng. Tác giả
vẽ ra khung cảnh tưởng như đối lập ao thu – thuyền câu, nhưng kì thực chúng lại hòa
quyện với nhau đến kì lạ. Bởi vật tác giả chọn là ao thu chứ không phải hồ thu – gợi
cảm giác rộng lớn, choáng ngợp. Ao thu ấy khi có thuyền câu bên cạnh trở nên hài
hòa, cân xứng và đậm chất khung cảnh làng quê Bắc Bộ Việt Nam. Hai câu thơ đầu
gieo vần eo nhưng không hề gợi lên cảm giác eo hẹp, nhỏ bé, tù túng mà ngược lại gợi
nên cái nhỏ nhắn, thanh thoát của cảnh vật.
Bức tranh thu tiếp tục được Nguyễn Khuyến phác họa ở cặp câu thơ tiếp theo:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Những đường nét của khung cảnh cũng hết sức mảnh mai với sóng hơi gợn tí, lá khẽ
đưa vèo, dường như mọi chuyển động đều vô cùng nhẹ nhàng, thanh thoát. Vận dụng
thủ pháp lấy động tả tĩnh Nguyễn Khuyến đã làm nổi bật sự tĩnh lặng tuyệt đối của
không gian, của cảnh vật. Phải là không gian vô cùng yên tĩnh thì thi nhân mới có thể
cảm nhận tiếng động thật khẽ, thật êm của cảnh vật, dù là sóng có gợn hay chiếc lá
khẽ đưa, bằng giác quan tinh tế, nhạy cảm Nguyễn Khuyến đã nắm trọn từng khoảnh
khắc của thiên nhiên. Sắc vàng nếu như ở những bài thơ khác chính là sắc màu chủ
đạo, là điểm nhấn để gợi nhắc mùa thu thì trong câu thơ của Nguyễn Khuyến sắc vàng
ấy cũng như bao sắc màu khác trong bức tranh: xanh của trời, trong veo của nước,…
nó chỉ góp phần tạo nên đường nét hài hòa cho bức tranh, tuyệt nhiên không gợi cảm
giác buồn bã của tâm trạng, hay héo úa của cảnh vật. Không chỉ vậy, cái hồn dân dã,
vẻ đẹp mùa thu của làng quê Bắc Bộ còn được gợi lên từ những ngõ trúc quanh co:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Không gian được mở rộng ở chiều cao, tác giả hướng ánh mắt lên bầu trời để cảm
nhận được cái “xanh ngắt” của bầu trời, và rất tự nhiên thu tầm nhìn về với ngõ trúc
quanh co. Không gian mùa thu vô cùng tĩnh lặng. Mọi chuyển động đều quá nhẹ
nhàng, êm ái không đủ để gợi nên âm thanh, duy chỉ có tiếng động của tiếng cá đớp
mồi: “Cá đâu khẽ động dưới chân bèo”. Nhưng cái động đó kết hợp với từ “khẽ” lại
chỉ càng nhấn mạnh, tô đậm hơn cái yên ắng, tĩnh mịch của cảnh vật. Với nghệ thuật
lấy động tả tĩnh, Nguyễn Khuyến đã cho thấy cái thanh tĩnh tuyệt đối của làng quê
Việt Nam trong cảnh thu thanh bình, dịu nhẹ.
Bài thơ có nhan đề là Câu cá mùa thu, nói về chuyện câu cá mà thực lại không phải
vậy. Mượn chuyện câu cá để cảm nhận hết trời thu, cảnh thu vào cõi lòng mình. Hẳn
Nguyễn Khuyến phải có tâm hồn thanh tĩnh đến tuyệt đối mới có thể có nhận đầy đủ
vẻ đẹp của mùa thu: trong veo, cái hơi gợn tí của nước, độ rơi khẽ khàng của lá. Đặc
biệt sự tĩnh lặng trong tâm hồn thi nhân được gợi lên một cách sâu sắc từ tiếng động
duy nhất trong bài thơ là tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo. Sự tĩnh lặng trong cảnh vật
gợi cho người đọc cảm nhận về sự cô đơn, uẩn khúc trong tâm hồn nhà thơ. Trong bài
các gam màu lạnh xuất hiện nhiều: trong veo, xanh ngắt,… dường như cái lạnh của
thu thấm vào tâm hồn nhà thơ hay chính tâm hồn cô đơn của tác giả lan tỏa sang cảnh
vật. Đặt trong bối cảnh đất nước đầy biến thiên lúc bấy giờ, có thể thấy bài thơ thể
hiện tâm trạng đau buồn của Nguyễn Khuyến trước hiện tình đất nước đầy đau thương.
Bài thơ thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Khuyến. Tiếng Việt
trong sáng, giản dị nhưng lại diễn tả được tất cả những gì tinh tế, đẹp đẽ nhất của cảnh
vật, diễn tả được tâm trạng và tấm lòng của nhà thơ. Gieo vần “eo” – từ vận tài tình
góp phần miêu tả không gian nhỏ hẹp và tâm trạng đầy uẩn khúc của tác giả. Nghệ
thuật lấy động tả tĩnh gợi lên cái tĩnh lặng tuyệt đối của thiên nhiên.
Bài thơ Câu cá mùa thu với ngôn ngữ bậc thầy không chỉ cho người đọc thấy tài năng
của Nguyễn Khuyến trong việc dùng từ. Mà đằng sau đó ta còn cảm nhận được một
tâm hồn gắn bó tha thiết với thiên nhiên, đất nước, tấm lòng yêu nước thầm lặng
nhưng không kém phần sâu nặng.
Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu - Mẫu 11
Viết về đề tài mùa thu nếu như ở văn học Trung Quốc có “Thu hứng” của Đỗ Phủ là
tiêu biểu và đặc sắc thì nền văn học dân tộc Việt không thể không nhắc đến chùm thơ
thu của cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến. Chùm thơ thu gồm ba bài “Thu
vịnh”, “Thu điếu”, “Thu ẩm” mùa thu hiện lên qua cái nhìn đa tình của nhà thơ. Đặc
biệt là bài thơ“Thu điếu” (Câu cá mùa thu) mang nét đặc sắc riêng “điển hình hơn cả
cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”, đằng sau cảnh thu, tình thu là tâm trạng, nỗi
niềm thầm kín của tác giả.
Nguyễn Khuyến là người học rộng tài cao ba lần đỗ tú tài và ra làm quan dưới triều
vua Tự Đức, chứng kiến “từng bước cơn hấp hối” của chế độ phong kiến thối nát. Ông
không chịu hợp tác với giặc, muốn giữ mình thanh sạch mà đã về ở ẩn sau hơn mười
năm làm quan. Chùm thơ thu được Nguyễn Khuyến sáng tác sau khi về ẩn cư nơi quê nhà.
“Thu điếu” cũng như hai bài thơ thu đều được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú
Đường luật bằng ngôn ngữ dân tộc chữ Nôm. Toàn bộ cảnh thu, tình thu được miêu tả
hiện lên rõ nét trong tám câu thơ.
Mở đầu bài thơ là không gian, thời gian của mùa thu ở làng quê Bắc Bộ:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Không gian ở đây là ao thu. Ao là đặc trưng của vùng quê chiêm trũng quê hương của
tác giả. Thời gian không phải là đầu thu có chút oi ả xen lẫn của mùa hạ mà có lẽ là
lúc phân thu nên mới có hơi lạnh của sự “lạnh lẽo”. Tính từ “Trong veo” đặc tả độ
trong của nước dường như có thể nhìn xuyên thấu xuống bên dưới, nó gợi ra sự thanh
sạch và tĩnh lặng trên bề mặt ao. Tính từ “lạnh lẽo” như càng làm cho sự vắng lặng
tăng thêm. Không chỉ vậy “một chiếc thuyền câu” số từ chỉ số ít “một chiếc” cùng với
tính từ “bé tẻo teo” gợi sự nhỏ bé đến vô cùng. Chiếc thuyền câu như co lại là một
chấm trên nền của ao thu. Tác giả sử dụng nghệ thuật chấm phá điểm nhãn. Trên cái
nền yên tĩnh của mặt ao xuất hiện một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Hai câu thơ đầu đã
mở ra một không gian thu với cảnh sắc rất mộc mạc, giản dị mang nét đặc trưng chất
thu, khí thu của làng quê Bắc Bộ.
Nếu như ở hai câu đề nổi bật lên là sự tĩnh lặng thì hai câu thực đã mang những nét
vận động nhưng nó lại động để tĩnh. Lấy cái động của cảnh vật mà tả cái tĩnh của mùa thu chốn thôn quê.
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Hai hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng” tưởng chừng như không có mối liên hệ mà có một
sự logic, chặt chẽ với nhau. Vì gió thổi làm cho sóng gợn, lá rơi. Cảnh vật chuyển
động chẳng phải ào ạt của lá mùa thu như trong thơ Đỗ Phủ mà nó thật khẽ khàng, nhẹ
nhàng sóng chỉ hơi gợn tí, lá chỉ khẽ đưa vèo. Các tính từ, trạng từ “biếc”, “tí”,
“vàng”, “khẽ” được sử dụng thật tài tình, kết hợp với nhau tạo nên màu sắc, hình ảnh
làm cho cảnh thu trở nên sống động có hồn. Chữ “vèo”khiến cho Tản Đà khâm phục,
tâm đắc vô cùng. Ông thổ lộ một đời thơ, ông mới có được một câu thơ vừa ý “Vèo
trông lá rụng đầy sân”. Nguyễn Khuyến phải là một con người có một tâm hồn tinh tế,
nhạy cảm mới có thể cảm nhận được sự chuyển động mà như tĩnh tại. Nghệ thuật lấy
động tả tĩnh đã được sử dụng thành công đem lại hiệu quả cao.
Không gian cảnh vật không chỉ bó hẹp trong khoảng không của mặt nước, của ao thu
mà được mở rộng ra hai chiều với một tầm nhìn cao hơn, xa hơn. Đó là cái nhìn toàn
cảnh bao quát lên cả bầu trời với nhiều đường nét, màu sắc thoáng đạt:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Bầu trời xanh ngắt vẫn luôn là biểu tượng đẹp của mùa thu, có lần Nguyễn Du đã từng
viết: “Long lanh đáy nước in trời/ Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng” Bầu trời
xanh trong, cao thẳm của “Thu điếu” có sự nhất quán với không gian mây trời của
“Thu vịnh” “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” hay trong “Thu ẩm” với “Da trời ai
nhuộm mà xanh ngắt”. Mây trời trong “Thu điếu” không trôi mà “lơ lửng” gợi một
cảnh thu đẹp và yên tĩnh như ngưng đọng lại trên khoảng không bao la, rộng lớn.
Chiều sâu không gian được cụ thể hóa bằng độ “quanh co” của ngõ trúc. Hình ảnh cây
trúc xuất hiện khá nhiều trong thơ của ông, nhìn khái quát nó mang một nét vắng lặng
và đượm buồn mà Nguyễn Khuyến đã viết: “Dặm thế ngõ trúc đâu từng ấy/Cần trúc lơ
phơ gió hắt hiu”. Màu xanh của da trời, màu xanh của trúc bao trùm lên sắc màu của
không gian. Cảnh vật trở nên u tịch, cô liêu, hiu hắt với tính từ “vắng teo” tức là vắng
tanh, vắng ngắt không một bóng người đồng thời cũng cho thấy sự thoáng đãng, trong
lành của không gian nơi đây.
Sự tác động của ngoại cảnh làm cho con người không khỏi chạnh lòng mà cô đơn.
Nguyễn Khuyến có lần đã từng tự thán về nỗi cô độc của đời mình: “Đời loạn đưa về
như hạc độc/Tuổi già hình bóng tựa mây côi” (Cảm hứng).
Sáu câu thơ đầu là sự miêu tả về cảnh vật, về mây trời non nước mùa thu. Đến hai câu
kết ta mới thấy sự xuất hiện của con người. Cái ý vị nhất của bài “Thu điếu” nằm ở
hai câu cuối: “Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Hình ảnh cụ Tam Nguyên Yên Đổ xuất hiện với tư thế ngồi bó gối buông cần thả câu
tạo nên một đường nét bất động trên bức tranh thu tĩnh lặng. Nhà thơ ngồi câu cá mà
tâm thế như đặt ở nơi nào không chú tâm đến việc câu để rồi giật mình trước tiếng cá
“đớp động dưới chân bèo”. Một lần nữa nghệ thuật lấy động tả tĩnh được sử dụng
thành công. Tiếng cá đớp tạo nên chuyển động nhỏ cũng khiến cho nhà thơ giật mình
tỉnh giấc tựa chiêm bao nó gợi lên sự tĩnh lặng, tĩnh mịch đến vô cùng. Cách hỏi “cá
đâu” thật đặc sắc tạo nên sự mơ hồ trong không gian và sự ngỡ ngàng trong lòng của
người điếu ngư. Hình ảnh ấy khiến cho ta liên tưởng đến cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm ung
dung ngồi uống rượu dưới gốc cây:
“Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”
Thực ra, câu cá chỉ là cái cớ để Nguyễn Khuyến miêu tả bức tranh thu, qua đó nhà thơ
bộc lộ tâm hồn và tâm trạng của mình. Hình ảnh người đi câu cá có thể khiến ta liên
tưởng tới con người thi sĩ, nho sĩ trước tình hình đất nước lúc bấy giờ. Theo kinh
nghiệm của dân gian nước trong thì không có cá nhưng tiếng cá đớp động chân bèo đã
tiếp thêm động lực cho người điếu ngư không nản chí mà tiếp tục công việc của mình.
Cũng giống như vậy chính trị nước ta bấy giờ rối ren, thực dân Pháp xâm lược, triều
đình nhà Nguyễn chống cự yếu ớt mà nhanh chóng thỏa hiệp để hồn nước rơi vào tay
giặc. Nhà thơ vì muốn bảo toàn khí tiết nên lựa chọn con đường về ở ẩn noi gương
tiền nhân Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm hay cụ Đào Tiềm Đào Uyên Minh bên
Trung Quốc một đời quyết giữ để mình thanh sạch. Tuy nhiên, âm thanh cá đớp động
như đánh thức nhà Nho, nhà chí sĩ yêu nước như thức tỉnh thôi thúc ông đứng lên đấu
tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc. Nhưng âm thanh ấy thật mơ hồ cũng như trăn trở
trong lòng nhà thơ liệu rằng mình có thể góp sức giúp đời hay là bất hợp tác với giặc lánh mình ẩn cư.
Như vậy Nguyễn Khuyến không chỉ bộc lộ những tình cảm yêu mến thiên nhiên, quê
hương đất nước mà còn kín đáo bày tỏ nỗi buồn trong sáng nhưng cô đơn của một ẩn
sĩ, tuy nặng lòng yêu nước nhưng cam phận đành bất lực trước thời thế lựa chọn con
đường lánh đục về trong.
Nguyễn Khuyến là một trong những đại diện lớn nhất và cuối cùng của văn học trung
đại Việt Nam ở giai đoạn cuối thế kỉ XIX. Thơ ông là sự kết hợp tài tình giữa tinh hoa
văn học bác học với văn học dân gian. “Thu điếu” là một trong những bài thơ hay và
đặc sắc với sự thành công của bút pháp nghệ thuật lấy động tả tĩnh, chấm phá điểm
nhãn, sử dụng các từ láy có tính gợi hình, gợi cảm cao đặc biệt là cách gieo vần “eo”
thật tài tình. Bài thơ được làm theo đúng niêm, đúng luật của thể thơ vừa mang tính
quy phạm của thơ ca trung đại cũng thực hiện giải quy phạm với những sáng tạo mới
không còn sử dụng những hình ảnh ước lệ, tượng trưng mà thay vào đó là sự mộc
mạc, chất phác của đời sống nông thôn.
“Thu điếu” cùng với hai bài thơ trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến đã góp phần
làm nên sự phong phú và đặc sắc cho đề tài viết về mùa thu của nền văn học dân tộc
với nét đặc trưng là sự tĩnh lặng, thanh bình với những hình ảnh bình dị của làng quê.
Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu - Mẫu 12
Nguyễn Khuyến được biết đến nhiều nhất với chùm thơ thu gồm.ba bài thơ bằng tiếng
Nôm một trong số đó chính là “ Câu cá mùa thu” . Xuyên suốt bài thơ là một nét thu
đẹp tĩnh lặng nơi làng quê thời xa xưa, biểu lộ một nét cô đơn trong tâm hồn một nhà
Nho yêu quê hương yêu đất nước thời bấy giờ. Sau khoảng thời gian ông từ quan về
quê nhà, một loạt những tác phẩm ra đời như “ Thu điếu”, “ Thu ẩm” , “ Thu vịnh”.
Mở đầu bài thơ là hai câu thơ
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Chỉ cần đọc hai câu thơ ta có thể tưởng tượng ra cảnh sắc mùa thu, một không gian
nghệ thuật đang bao trùm xung quanh chúng ta. Nước trong veo của ao có thể giúp ta
nhìn xuyên thấu được qua lòng ao, một không khí lạnh lẽo đang lan tỏa ra khắp không
gian. Không còn cái se lạnh đầu thu nữa mà là đã thu phân, thu mạt rồi nên mới lạnh
lẽo như vậy. Không biết từ bao giờ mà trong lòng ao đã xuất hiện một chiếc thuyền
câu giữa không gian bao la rộng lớn dường như sự cô đơn của chiếc thuyền đang lan
tỏa rộng ra khắp không gian. Bé tẻo teo nghĩa là rất bé nhỏ; âm điệu của vần thơ cũng
gợi ra sự hun hút của cảnh vật (trong veo – bé tẻo teo). Đó là một nét thu đẹp và êm
đềm. Tiếp đó cùng bước vào thế giới nghệ thuật của hai câu thơ tiếp theo:
“Sóng nước theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Hai câu thơ đang gợi tả cảnh vật xung quanh theo không gian hai chiều có thể nhìn
bằng mắt là sóng đang gợn và tai có thể nghe thấy tiếng lá được gió đưa vèo. Vô cùng
mộc mạc giản dị nhưng cũng có thể cho người ta thấy được sự hài hòa của màu sắc
được tác giả miêu tả có sóng biếc có lá vàng. Gió thổi nhẹ cũng đủ làm cho chiếc lá
thu màu vàng khẽ đưa vèo, làm cho sóng biếc lăn tăn từng làn từng làn hơi gợn tí.
Ngoài ra bên cạnh đó tác giả còn kết hợp sử dụng phép đối một cách vô cùng tài tình
giúp cho nét thu được nhấn mạnh giúp người đọc có thể hình dung ra không gian mà
tác giả đang miêu tả như đang ở trước mặt mình một cách vô cùng chân thực và rõ
nét. Phải công nhận một điều là ngòi bút của tác giả Nguyễn Khuyến vô cùng tinh tế
trong dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ bay
xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc lá thu. Chữ vèo là một nhân tự mà sau này thi sĩ Tản
Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc. Ông thổ lộ một đời thơ mới có được một câu vừa ý:
vèo trông lá rụng đầy sân (cảm thu, tiễn thu). Chưa dừng lại ở đấy Nguyễn Khuyến
còn giúp chúng ta mở rộng tầm mắt hơn ở hai câu thơ tiếp theo:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Một bầu trời xanh ngắt và thăm thẳm bao la và rộng lớn đang bao trùm lấy không gian
nơi đây. Những áng mây đang lẳng lặng trôi trên bầu trời rộng lớn như đang nhấn
mạnh sự rộng lớn của không gian nơi đây. Thoáng đãng, êm đềm, tĩnh lặng và nhẹ
nhàng. Không một bóng người lại qua trên con đường làng đi về các ngõ xóm: Ngõ
trúc quanh co khách vắng teo. Vắng teo nghĩa là vô cùng vắng lặng không một tiếng
động nhỏ nào, cũng gợi tả sự cô đơn, trống vắng. Ngõ trúc trong thơ Tam nguyên Yên
Đổ lúc nào cũng gợi tả một tình quê nhiều bâng khuâng, man mác:
Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây? (Nhớ núi Đọi)
Có lẽ một trong những sự vật quen thuộc với hình ảnh làng quê đó là ngõ trúc và tầng
mây. Hai sự vật này đã từng xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm nghệ thuật. Có vẻ
như tác giả đang tự hòa mình và đắm chìm vào trong cảnh sắc nơi đây nên mới có thể
miêu tả một cách vô cùng chân thực như vậy được. Đến hai câu kết thì bức tranh thu
mới xuất hiện một đối tượng khác:
“ Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Thu điếu nghĩa là mùa thu câu cá. Sáu câu đầu mới chỉ có cảnh vật: ao thu, chiếc
thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc.. Hình ảnh người câu cá đến tận
phần cuối cùng mới thấy xuất hiện với một tư thế tựa gối ôm cần vô cùng nhàn nhã.
Trong tâm thế đợi chờ lâu chẳng được bỗng nhiên tác giả bỗng nhiên chợt tỉnh vì nghe
thấy tiếng cá đớp động dưới chân bèo. Sự chờ đợi đã từ rất lâu mãi đến bây giờ đã có
một chút kết quả. Người câu cá như đang không quan tâm đến mọi thứ tạp niệm chỉ
tập trung hòa mình vào trong không gian bây giờ, trong cảnh sắc vô cùng tuyệt đẹp, và
trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về một Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ
sông Vị hơn mấy nghìn năm về trước. Chỉ có một tiếng cá đớp động sau tiếng lá thu
đưa vèo, đó là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh ấy hòa quyện với một tiếng trên
không ngỗng nước nào, như đưa hồn ta về với mùa thu quê hương. Người câu cá đang
sống trong một tâm trạng cô đơn và lặng lẽ buồn. Một cuộc đời thanh bạch, một tâm
hồn thanh cao đáng trọng.
Thu điếu là một trong những tác phẩm quá tuyệt vời của tác giả Nguyễn Khuyến.
Xuân Diệu đã từng bộc bạch rằng trong Thu điếu có một nét diệu xanh mà người ta
không tài nào hiểu hết vẻ đẹp, vẻ tinh túy của nó được. Có xanh ao, xanh sóng, xanh
trời, xanh tre, xanh bèo… và chỉ có một màu vàng của chiếc lá thu đưa vèo. Tuy nhiên
ẩn sâu trong cái tĩnh lặng này lại có một nỗi buồn man mác của tác giả. Một tâm thế
an nhàn và thanh cao gắn bó với mùa thu quê hương, với tình yêu tha thiết. Mỗi nét
thu là một sắc thu, tiếng thu gợi tả cái hồn thu đồng quê thân thiết, vần thơ: veo – teo
– tèo – teo – bèo, phép đối tạo nên sự hài hòa cân xứng, điệu thơ nhẹ nhàng bâng
khuâng cho thấy một bút pháp nghệ thuật vô cùng điêu luyện, hồn nhiên – đúng là
xuất khẩu thành chương.
Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu - Mẫu 13
Cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, tưởng chừng như cùng với sự kết thúc của chế độ
xã hội phong kiến suy tàn lạc hậu, nền văn học Việt Nam trung đại sẽ rơi vào ngõ cụt
của sự bế tắc với một phương thức phản ánh đã lỗi thời. Nhưng thật kì lạ là trong sự
suy thoái tưởng chừng đã đến đỉnh điểm ấy lại xuất hiện một tài năng thơ ca vào loại
xuất chúng như Nguyễn Khuyến. Ông giống như một dấu chấm cảm thán khẳng định
tính cổ điển có sức lay động lòng người của văn học trung đại vào giai đoạn cuối cùng
của thời kì văn học dài hàng chục thế kỷ này. Ông để lại cho quê hương, cho đất nước
một di sản văn chương phong phú, đồ sộ. Nhưng nói đến nhà thơ Nguyễn Khuyến,
người đọc mệnh danh ông là nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam, vì ông đã
viết nhiều bài thơ hay về cảnh làng quê. Đặc biệt là chùm thơ thu của ông, trong đó có bài thơ Thu điếu:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần, lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Chùm thơ ba bài Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Bài nào cũng hay, cũng đẹp cho thấy
một tình quê dạt dào. Riêng Thu điếu, mà nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định là điển
hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam, là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc:
Cảnh mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết.
Bài thơ được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình
tượng là biểu cảm. Cảnh thu, trời thu của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng
vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngòi bút thần tình của Nguyễn Khuyến. Hai câu đầu:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Nhà thơ hầu như không hứng thú gì với chuyện câu cá mà đắm say với không khí
cảnh sắc mùa thu, ngay câu đầu nhà thơ đã gọi cái ao của mình là ao thu, và với tính
chất lạnh lẽo nước trong veo thì đó đúng là ao thu chứ không phải là môi trường thích
hợp cho việc câu cá, bên cạnh đó cảm hứng của nhà thơ hoàn toàn đắm chìm trong
cảnh sắc mùa thu, một cảnh trong và tĩnh gần như tuyệt đối, nước trong veo, trời xanh
ngắt, khách vắng teo, giác quan của nhà thơ cực kì tinh nhậy và phải hết sức chăm chú
thì mới nhận ra được những biểu hiện nhỏ nhặt tinh vi chỉ làm tôn thêm cho cái trong
và tĩnh của một khung cảnh đầy màu sắc:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Màu biếc của sóng hòa hợp với sắc vàng của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà lộng
lẫy. Nghệ thuật trong phần thực rất điêu luyện, lá vàng với sóng biếc, tốc độ vèo của
lá bay tương ứng với mức độ tí của gợn sóng. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ca ngợi chữ
vèo trong thơ Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình may ra mới có được
câu thơ vừa ý trong bài Cảm thu, tiễn thu:
Vèo trông lá rụng đầy sân Đến câu luận:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Không gian được mở rộng, bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời xanh ngắt với
những từng mây lơ lửng trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến
nhận diện sắc trời thu là xanh ngắt. Ở Thu vịnh là Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Thu ẩm là Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt, và Thu điếu là Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt.
Xanh ngắt là xanh mà có chiều sâu. Trời thu không mây (xám) mà xanh ngắt, thăm
thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của không gian, cái nhìn vời vợi của nhà
thơ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi ông lơ đãng đưa mắt nhìn về bốn phía làng quê.
Xóm thôn vắng lặng, tĩnh mịch, con đường quanh co, heo hút, không một bóng người qua lại.
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm
trong giấc mộng thu. Tất cả cảnh vật, từ mặt nước Ao thu lạnh lẽo đến chiếc thuyền
câu bé tí teo, từ sóng biếc đến lá vàng, từ tầng mây lơ lửng đến ngõ trúc... đều hiện lên
với đường nét, màu sắc, âm thanh thoáng chút bâng khuâng, man mác, rất gần gũi,
thân thiết với mọi người Việt Nam.
Biết bao thời gian trôi qua trong không gian của sáng tĩnh mịch ấy, tư thế ngồi của
ông câu cá như cũng bất động trong thời gian:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Tựa gối ôm cần là tư thế đợi chờ mòn mỏi của người câu cá. Người xưa có kẻ lấy câu
cá làm việc đợi thời, đợi người xứng đáng để phò tá. Văn thơ truyền thống lấy việc
câu cá để từ chối việc làm quan và coi câu cá là việc câu người, câu quạnh, câu lưỡi.
Bài thơ Thu điếu này cũng thể hiện khát vọng câu thanh, câu vắng cho tâm hồn của
một nhà thơ có phẩm chất thanh cao.
Cái âm thanh cá đớp động gợi lên sự mơ hồ xa vắng, đánh thức tỉnh.
Bài thơ Câu cá mùa thu là một bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Khuyến.
Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt, nét vẽ xa
gần tinh tế gợi cảm. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa vèo trong làn gió thu tiếng cá đớp
động chân bèo - đó là tiếng thu dân dã, thân thuộc của đồng quê đã khơi gợi trong
lòng chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê hương đất nước.
Thơ là sự cách điệu tâm hồn, Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc
đồng quê với tất cả tình đồng quê nồng hậu. Ông là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam.
Đọc Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh, chúng ta thêm yêu quê hương, thêm yêu xóm thôn
đồng nội, đất nước. Với Nguyễn Khuyến, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng là yêu
quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một địa vị vẻ vang
trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam.
Phân tích bài Câu cá mùa thu - Mẫu 14
Mùa thu, mùa của hoa sữa thoang thoảng, mùa của rơm rạ vàng thơm, mùa được các
nhà thơ yêu và đưa vào trong những trang thơ nhiều nhất.Với Nguyễn Thỉnh nhẹ
nhàng mùi hương ổi ông đã cảm nhận được thu về: “Bỗng nhận ra hương ổi – phả vào
trong gió se- sương chùng chình qua ngõ -hình như thu đã về”.Nhưng mùa thu trong
mắt Nguyễn Khuyến thì lại khác.Qua bài thu điếu ta thấy đằng sau cảnh thu tĩnh lặng
thì lại là nỗi niềm tâm sự sâu kín của người thi sĩ
Thu điếu viết bằng chữ Nôm theo thể thất ngôn bát cú,hầu hết tám câu thơ đều tả
cảnh, hình ảnh con người chỉ xuất hiện ở hai câu cuối.Cảnh của bài thơ vẫn là trời,
nước gió, trúc.. những hình ảnh quen thuộc trong thơ xưa
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Hình ảnh “ao thu” miêu tả với tính từ “lạnh lẽo”.Có lẽ cái lạnh của mùa thu cũng
ngấm dần vào làn nước và ngấm dần vào tâm hồn nhà thơ.Tính từ “trong veo” miêu tả
làn nước, không gian tĩnh lặng.Nước trong veo chứ không phải là lăn tăn gợn sóng,
hai âm “eo” được lặp liên tiếp ở câu trên và câu dưới khiến cho cảm giác về sự tĩnh
lặng càng trở nên thật hơn
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Không gian lạnh lẽo của mùa thu ấy xuất hiện chiếc thuyền cô đơn lẻ loi.Tác giả dùng
từ “bé tẻo teo” khiến cho chiếc thuyền càng trở nên nhỏ bé hơn,đơn độc hơn. Nhà thơ
Nguyễn Du đã từng nói: người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.Thật đúng cảnh dưới
con mắt nhà thơ sao mà buồn tẻ, sao mà cô đơn đến lạ.Cuộc sống bây giờ tĩnh lặng
đến nghẹt thở chẳng có âm thanh để chứng tỏ cuộc sống ồn ã vẫn đang tiếp diễn
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Bức tranh thu tiếp tục hiện lên hình ảnh “Sóng và lá vàng”.Mọi vận động đều khẽ
khàng và nhẹ nhàng như thế “sóng lăn tăn gợn tí”, “lá vàng đưa vèo”.Tác giả thật tinh
tế về việc sử dụng từ tượng hình và từ tượng thanh.Cảnh vật miêu tả theo chiều hướng
lấy động tả tĩnh, dù bức tranh ấy có âm thanh nhưng âm thanh khẽ khàng quá lại càng
toát lên vẻ tĩnh lặng của mùa thu
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Không gian được mở rộng ra cả tầm cao và tầm rộng. “Tầng mây lơ lửng” mây cứ
chùng chình lơ lửng, mây cũng chẳng muốn bay.Cuộc sống chẳng hối hả hay tâm hồn
nhà thơ đang sâu đầy tâm tư.Bầu trời thu “xanh ngắt”, màu sắc đậm nét của bức tranh
thu,mỗi nét vẽ của Nguyễn Khuyến đều rất dứt khoát để tả cảnh vật “ đưa vèo”, “hơi
gợn tí”, “xanh ngắt”.Mây trời đơn điệu và tẻ nhạt.Còn ngõ trúc “quanh co”,“vắng
teo”.Nguyên từ “vắng” đã nói rõ sự tĩnh lặng rồi nhưng tác giả lại còn sử dụng “ vắng
teo” thì có nghĩa không gian thu ấy không âm thanh,không chút cử động,không bóng
người chỉ có màu sắc ơ thờ không hòa quyện
Bởi thế hai câu thơ cuối bài là một sự trống vắng, là nỗi cô đơn đến thắt lòng
Tựa Gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Đến đây hình ảnh con người đã xuất hiện nhưng lại với tư thế “ ngồi tựa gối”, “ôm
cần”. Trong trạng thái trầm tư và sâu cảm, cảnh vật đã cô đơn con người lại càng cô
đơn hơn. Nhà thơ ngồi câu lâu chẳng được.Từ “cá đâu” là cách hỏi mơ hồ không định
hướng,nhưng cũng có thể là sự ngỡ ngàng trong lòng người. Nhà thơ chìm sâu trong
suy nghĩ miên man,mất cảm giác ở thực tại nên mới “cá đâu đớp động dưới chân
bèo”.Nhà thơ muốn tìm sự thư thái trong tâm hồn nên mới đi câu. Nhưng cảnh vật tĩnh
lặng đến nghẹt thở lại càng làm nhà thơ chìm sâu trong nỗi cô đơn.
Cảnh thu đẹp và buồn trong bài thu điếu đã được Nguyễn Khuyến miêu tả thật khéo
léo và tinh tế.Cảm xúc, tâm tư của nhà thơ được dồn nén qua từng câu thơ, trong cảnh
vật thu ấy.Thu điếu đi vào lòng người nhẹ nhàng và buồn man mác, khiến người đọc
biết thêm về làng quê Việt Nam với những nét đẹp khác.
Phân tích Thu điếu - Mẫu 15
Mùa thu luôn là một đề tài muôn thuở của các thi sĩ. Trong nền văn học Việt Nam từ
thơ Trung đại cho đến thơ Hiện đại, từ thể thơ cổ cho đến thơ tự do, đã có rất nhiều tác
phẩm hay viết về mùa thu, nhưng nhắc đến đề tài mùa thu, ta vẫn không thể không
nhắc đến nhà thơ Nguyễn Khuyến. Với ông, dường như mùa thu là nguồn cảm hứng
đặc biệt, chẳng vậy mà ông có cả một chùm thơ hay viết về mùa thu, trong đó nổi bật
nhất là bài “Thu Điếu”, hay còn gọi “Câu cá mùa thu”.
Chùm thơ thu của nhà thơ Nguyễn Khuyến gồm có ba bài thơ: “Thu vịnh”, “Thu ẩm”
và “Thu điếu”. Bài thơ nào cũng hay, cũng đẹp, cũng dạt dào tình quê, cảnh quê. Tuy
nhiên, như Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu từng khẳng định bài thơ “thu điếu” là “bài
thơ điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Đây quả là lời nhận xét
vừa chính xác, vừa tinh tế!
“Thu điếu” được viết bằng thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế,
giàu tính hình tượng và biểu cảm. Cảnh thu, trời thu, khí thu xinh đẹp của làng quê
Việt Nam hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngòi bút Nguyễn Khuyến qua bốn câu thơ đầu:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng theo gió khẽ đưa vèo.”
Với “Thu điếu” cảnh thu được đón nhận theo hướng mở rộng về không gian từ gần ra
xa, từ thấp lên cao, rồi sau đó lại từ cao xa quay trở lại gần. Cụ thể là từ chiếc thuyền
câu nhìn ra mặt ao rồi sau đó nhìn lên bầu trời, nhìn ra ngõ trúc rồi lại trở về với ao
thu, với chiếc thuyền câu. Từ một khung ao nhỏ bé, không gian mùa thu được mở
rộng ra nhiều hướng thật sinh động, gần gũi đến chân thực, nhưng vẫn không mất đi nét đẹp tinh tế.
Ở câu thơ đầu, không khí của mùa thu được gợi lên từ sự dịu nhẹ, thanh sơ của cảnh
vật. Nhà thơ không bắt đầu bằng việc tả cảnh sắc mùa thu qua màu sắc như thông
thường, mà ông vẽ những nét đầu cho bức tranh thu bằng những nét chấm phá mơ hồ
từ không khí thu rất dịu nhẹ, pha chút lạnh se se:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo”
Nước ao “trong veo” tỏa hơi thu “lạnh lẽo”. Sương khói mùa thu như bao trùm lên
toàn bộ cảnh vật xung quanh. Nước ao thu trong vắt, khí thu lành lạnh lại càng tô
điểm, khiến nước thu đã trong lại càng trong. Có cảm giác như chúng ta có thể nhìn
thấy vài chú cá chậm rãi bơi lưng chừng trên những đám rêu xanh mướt dưới đáy ao
vậy! Nước ao trong nhờ khí lạnh, khí lại càng thêm lạnh khi kết hợp với sự trong đến
lặng của ao thu. Quả là sự kết hợp tuyệt vời!
Trên bề mặt của nước ao thu trong như ngọc ấy có thấp thoáng hình ảnh một chiếc thuyền câu bé nhỏ:
“Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Chỉ có duy nhất một chiếc thuyền, không những bé mà lại còn là “bé tẻo teo”. Cái ao
và chiếc thuyền chính là hình ảnh trung tâm của bài thơ, nhưng cũng chính là hình ảnh
bình dị, dân dã nhất nơi thôn quê. Tác giả không hề đặc tả độ rộng của ao thu, thậm
chí khi đọc câu thơ đầu, người đọc có thể liên tưởng rằng ao thu ở đây rất nhỏ, vì theo
như nhà thơ từng nhắc tới, vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam quê nhà có cơ
man nào là ao, vì nhiều ao nên ao nhỏ, ao nhỏ thì theo đó mà thuyền câu cũng “bé tẻo
teo”. Nhưng đọc câu thơ thứ hai, đột nhiên ta có cảm giác ao thu như rộng hơn lên,
chính cái nhỏ bé đến “tẻo teo” của thuyền câu lại càng làm cho ao thu nhỏ bé trở nên
mênh mông biết mấy. Hai câu thơ đầu với các từ ngữ “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo
teo” khắc họa đường nét, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, của nước mùa thu một
cách tinh tế. Cách gieo vần “eo” trong miêu tả không chỉ làm tăng mức độ thanh lặng,
quạnh vắng của cảnh vật, mà còn tạo nên nhịp thơ âm vang như thể tiếng thu, như thể hồn thu vọng về.
Nếu như hai câu thơ đầu là những nét chấm phá phác họa bức tranh mùa thu thì đến
hai câu thơ sau, nhà thơ tiếp tục dùng ngòi bút tài ba, vẽ lên một bức tranh thủy mặc đẹp đến thanh bình:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng theo gió khẽ đưa vèo”
Màu “biếc” của sóng nước hòa hợp với màu “vàng” của lá đã khắc lên bức tranh quê
đơn sơ đấy mà không kém phần lộng lẫy. Nghệ thuật đối trong phần thực quả thực rất
điêu luyện, “lá vàng” đối với “sóng biếc”; tốc độ “vèo” của lá bay tương ứng với mức
độ “tí” của sóng gợn. Ở hai câu đề, chúng ta đã thấy được độ trong của nước, nhưng
đến đây, ta nhận ra nước thu không những trong mà còn rất xanh, xanh trong đến độ
“biếc” như thể ánh lên màu lấp lánh như ngọc vậy!. Gió thu trong thơ Nguyễn Khuyến
cũng rất độc đáo, không phải nhè nhẹ thổi theo khí se lạnh mà lại đủ mạnh để cuốn lá
“đưa vèo”. Tưởng chừng như nghịch lý nhưng lại rất hợp lý với cảnh sắc đang được miêu tả ở phần trên.
Hai câu luận tiếp tục mở rộng không gian mùa thu qua miêu tả của nhà thơ. Bức tranh
thu có thêm chiều cao của bầu trời nhuộm màu “xanh ngắt” với những tầng mây “lơ
lửng” trôi theo chiều gió nhẹ:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Dường như trời thu trong thơ của Nguyễn Khuyến luôn có màu xanh, mà còn là một màu “xanh ngắt”:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” trong “Thu Vịnh”
hay “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” trong “Thu ẩm”.
Màu “xanh ngắt” là không chỉ có sắc xanh mà còn có cả chiều sâu, đối với trời thu,
xanh ngắt là không chỉ xanh mà còn trong, tạo cảm giác bầu trời trở nên cao và rộng.
Trời thu xanh ngắt, bao la một màu thăm thẳm gợi ra cái sâu, cái lặng của không
gian,cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá trên chiếc thuyền “ bé tẻo
teo”. Thế rồi ông lão ấy lơ đãng nhìn ra bốn phía làng quê, đột nhiên nhận ra không
chỉ bầu trời trên cao hay mặt nước bên dưới, thậm chí ngay cả không gian xung quanh
cũng trở nên vắng lặng, vắng lặng đến yên bình, thậm chí đến cô đơn. Cô đơn khi thấy
xung quanh không một bóng người, xóm thôn vắng lặng, con đường nhỏ phía trước
chỉ có mấy khóm trúc khẽ đưa trong gió nhẹ, ngõ vắng quanh co lại càng thêm im lìm.
Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm
trong giấc mộng tĩnh lặng của mùa thu, tất cả cảnh vật đều tạo nên cảm giác bâng
khuâng, man mác nhưng không vì vậy mà trở nên xa lạ, ngược lại rất thanh bình, gần
gũi đúng chất làng quê Việt Nam.
Khung cảnh ấy càng trở nên thôn dã, giản dị khi xuất hiện rõ nét hình ảnh cả một
người ngồi trên thuyền câu cá ở hai câu kết:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
Tư thế “tựa gối ôm cần” xuất hiện trong thơ Nguyễn Khuyến là một hình ảnh đẹp, đẹp
đến bình dị. Phải chăng đó là tâm thế nhàn của một thi sĩ đã thoát khỏi vòng danh lợi.?
Hình ảnh con người xuất hiện trực tiếp với tư thế bó gối càng tô điểm cho bức tranh
thu thêm sinh động.Tuy nhiên, nhà thơ ngồi câu cá đấy mà lại chẳng chú tâm đến việc
câu , chẳng vậy mà lại bị giật mình trước tiếng “cá đớp động dưới chân bèo”. Phải
chăng nhà thơ còn mải thả hồn thi sĩ nhìn ngắm trời xanh, còn ngắm làn nước hơi gợn
tí, đưa mắt nhìn lá vàng trước gió khẽ đưa vèo, rồi lại bất chợt vu vơ buồn trước ngõ
trúc vắng lạnh quanh co nên mới bị giật mình trước thanh âm nhỏ bé ấy? Không gian
hẳn phải yên tĩnh lắm, tâm hồn hẳn phải trong trẻo, lắng đọng lắm mới có thể nghe, có
thể cảm thụ âm thanh như vậy! Tuy nhiên, dù có xuất hiện âm thanh nhưng không
gian mùa thu vẫn hoàn toàn yên tĩnh, vì quá tĩnh nên mới nghe thấy thứ âm thanh
mỏng và nhẹ như vậy, nghe được cả tiếng lá rơi, tiếng cá động mà vẫn thấy tĩnh, đó
mới chính là cái tài trong nghệ thuật lấy động tả tĩnh của hồn thơ quê Nguyễn Khuyến.
Đến cả sự bất ngờ trước âm thanh cá đớp động chân bèo của Nguyễn Khuyến cũng rất
lạ, rất hay. Hay ở chỗ nhà thơ sử dụng từ “cá đâu”. “Cá đâu” là cách hỏi vừa tạo nên
sự mơ hồ trong không gian vừa gợi ra sự ngỡ ngàng của lòng người. Nhà thơ dường
như nhất thời mất đi cảm nhận về không gian thực tại mà chìm đắm trong không gian
suy tưởng nên không thể lập tức xác định được hướng gây ra tiếng động mặc dù đang
ở trong một chiếc ao rất nhỏ. Vì sao ư? Vì nhà thơ câu cá mà không phải để bắt cá!
Câu cá chỉ là cái cớ để tìm sự tư thái trong tâm hồn, để tĩnh tâm, để thu hút hết hương
sắc mùa thu vào trái tim nhạy cảm của người thi sĩ. Vậy mới nói bài thơ không phải kể
chuyện câu cá vào mùa thu mà chính là mượn việc câu cá để tả trời thu, để khen ngợi trời thu.
Trước Nguyễn Khuyến có rất nhiều thi sĩ viết về mùa thu,sau Nguyễn Khuyến thơ hay
viết về mùa thu cũng không phải là không có, tuy nhiên, “Thu Điếu” vẫn luôn mang
trong mình một sắc thu riêng, không lẫn lộn. Cảnh thu trong bài thơ là cảnh đẹp nhưng
tĩnh lặng và buồn, không gian vắng lặng nhưng không tạo cảm giác cô độc, sầu não.
Ngược lại, còn nhờ đó mà mở ra một bức tranh sống động tuyệt đẹp về làng quê cổ
Việt Nam, rất gần gũi, rất thanh bình.
Phân tích Câu cá mùa thu - Mẫu 16
Thu điếu nằm trong chùm thơ thu gồm ba bài nức danh nhất về thơ Nôm của Nguyễn
Khuyến. Bài thơ nói lên một nét thu đẹp tĩnh lặng nơi làng quê xưa, biểu lộ mối tình
thu đẹp mà cô đơn, buồn của một nhà Nho nặng tình với quê hương đất nước. Thu
điếu cũng như Thu ẩm, Thu vịnh chỉ có thể được Nguyễn Khuyến viết vào thời gian
sau khi ông đã từ quan về sống ở quê nhà (1884)
Hai câu thơ: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo - Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo mở ra
một không gian nghệ thuật, một cảnh sắc mùa thu đồng quê. Chiếc ao thu nước trong
veo có thể nhìn được rong rêu tận đáy, tỏa ra khí thu lạnh lẽo như bao trùm không
gian. Không còn cái se lạnh đầu thu nữa mà là đã thu phân, thu mạt rồi nên mới lạnh
lẽo như vậy. Trên mặt ao thu đã có một chiếc thuyền câu bé tẻo teo từ bao giờ. Một
chiếc gợi tả sự cô đơn của thuyền câu. Bé tẻo teo nghĩa là rất bé nhỏ; âm điệu của vần
thơ cũng gợi ra sự hun hút của cảnh vật (trong veo - bé tẻo teo). Đó là một nét thu đẹp và êm đềm.
Hai câu thực (Sóng nước theo làn hơi gợn tí - Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo) tả
không gian hai chiều. Màu sắc hòa hợp, có sóng biếc với lá vàng. Gió thổi nhẹ cũng
đủ làm cho chiếc lá thu màu vàng khẽ đưa vèo, làm cho sóng biếc lăn tăn từng làn
từng làn hơi gợn tí. Phép đối tài tình làm nổi bật một nét thu, tô đậm cái nhìn thấy và
cái nghe thấy. Ngòi bút của Nguyễn Khuyến rất tinh tế trong dùng từ và cảm nhận, lấy
cái lăn tăn của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ bay xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc
lá thu. Chữ vèo là một nhân tự mà sau này thi sĩ Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc.
Ông thổ lộ một đời thơ mới có được một câu vừa ý: vèo trông lá rụng đầy sân (cảm thu, tiễn thu).
Bức tranh thu được mở rộng dần ra qua hai câu thơ:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Bầu trời thu xanh ngắt thăm thẳm, bao la. Áng mây, tầng mây (trắng hay hồng?) lơ
lửng nhè nhẹ trôi. Thoáng đãng, êm đềm, tĩnh lặng và nhẹ nhàng. Không một bóng
người lại qua trên con đường làng đi về các ngõ xóm: Ngõ trúc quanh co khách vắng
teo. Vắng teo nghĩa là vô cùng vắng lặng không một tiếng động nhỏ nào, cũng gợi tả
sự cô đơn, trống vắng. Ngõ trúc trong thơ Tam nguyên Yên Đổ lúc nào cũng gợi tả
một tình quê nhiều bâng khuâng, man mác:
Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây? (Nhớ núi Đọi)
Ngõ trúc và tầng mây cũng là một nét thu đẹp và thân thuộc của làng quê. Thi sĩ như
đang lặng ngắm và mơ màng đắm chìm vào cảnh vật.
Đến hai câu kết thì bức tranh thu mới xuất hiện một đối tượng khác:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Thu điếu nghĩa là mùa thu câu cá. Sáu câu đầu mới chỉ có cảnh vật: ao thu, chiếc
thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc. Mãi đến phần kết mới xuất hiện
người câu cá. Một tư thế nhàn: tựa gối ôm cần. Một sự đợi chờ: lâu chẳng được. Một
cái chợt tỉnh khi mơ hồ nghe cá đâu đớp động dưới chân bèo. Người câu cá như đang
ru hồn mình trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về một Lã Vọng câu cá chờ
thời bên bờ sông Vị hơn mấy nghìn năm về trước. Chỉ có một tiếng cá đớp động sau
tiếng lá thu đưa vèo, đó là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh ấy hòa quyện với một
tiếng trên không ngỗng nước nào, như đưa hồn ta về với mùa thu quê hương. Người
câu cá đang sống trong một tâm trạng cô đơn và lặng lẽ buồn. Một cuộc đời thanh
bạch, một tâm hồn thanh cao đáng trọng.
Xuân Diệu đã hết lời ca ngợi cái diệu xanh trong Thu điếu. Có xanh ao, xanh sóng,
xanh trời, xanh tre, xanh bèo… và chỉ có một màu vàng của chiếc lá thu đưa vèo.
Cảnh đẹp êm đềm, tĩnh lặng mà man mác buồn. Một tâm thế an nhàn và thanh cao gắn
bó với mùa thu quê hương, với tình yêu tha thiết. Mỗi nét thu là một sắc thu, tiếng thu
gợi tả cái hồn thu đồng quê thân thiết, vần thơ: veo - teo - tèo - teo - bèo, phép đối tạo
nên sự hài hòa cân xứng, điệu thơ nhẹ nhàng bâng khuâng cho thấy một bút pháp nghệ
thuật vô cùng điêu luyện, hồn nhiên - đúng là xuất khẩu thành chương. Thu điếu là
một bài thơ thu, tả cảnh ngụ tình tuyệt bút.
Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu - Mẫu 17
Trong nền thơ ca dân tộc có nhiều bài thơ tuyệt hay nói về mùa thu. Riêng Nguyễn
Khuyến đã có chùm thơ ba bài: Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Bài thơ nào cũng hay,
cũng đẹp cho thấy một tình quê dào dạt. Riêng bài "Thu điếu", nhà thơ Xuân Diệu đã
khẳng định là "điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam". "Thu điếu" là
bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc: Cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên,
yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết.
"Thu điếu" được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình
tượng và biểu cảm. Cảnh thu, trời thu xinh đẹp của làng quê Việt Nam như hiện lên
trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngọn bút thần tình của Nguyễn Khuyến.
Hai câu đầu nói về ao thu và chiếc thuyền câu. Nước ao "trong veo" toả hơi thu "lạnh
lẽo". Sương khói mùa thu như bao trùm cảnh vật. Nước ao thu đã trong lại trong thêm,
khí thu lành lạnh lại trở nên"lạnh lẽo". Trên mặt nước hiện lên thấp thoáng một chiếc
thuyền câu rất bé nhỏ -"bé tẻo teo". Cái ao và chiếc thuyền câu là hình ảnh trung tâm
của bài thơ, cũng là hình ảnh bình dị, thân thuộc, đáng yêu của quê nhà. Theo Xuân
Diệu cho biết vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam có rất nhiều ao cho nên ao
to, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà "bé tẻo teo":
"Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo".
Các từ ngữ: "lạnh lẽo", "trong veo","bé tẻo teo" gợi tả đường nét, dáng hình, màu sắc
của cảnh vật, sắc nước mùa thu; âm vang lời thơ như tiếng thu, hồn thu vọng về.
Hai câu thơ tiếp theo trong phần thực là những nét vẽ tài hoạ làm rõ thêm cái hồn của cảnh thu:
"Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo".
Màu "biếc" của sóng hòa hợp với sắc "vàng" của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà
lộng lẫy. Nghệ thuật đối trong phần thực rất điêu luyện, "lá vàng" với "sóng biếc", tốc
độ "vèo" của lá bay tương ứng với mức độ "tí" của sóng gợn. Nhà thơ Tản Đà đã hết
lời ca ngợi chữ "vèo" trong thơ của Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình
may ra mới có được một câu thơ vừa ý trong bài "Cảm thu, tiễn thu", "Vèo trông lá rụng đầy sân".
Hai câu luận mở rộng không gian miêu tả. Bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu
trời "xanh ngắt" với những tầng mây "lơ lửng" trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm
thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc trời thu là "xanh ngắt":
"Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao (Thu vịnh)
"Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt". (Thu ẩm)
"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt". (Thu điếu)
"Xanh ngắt" là xanh mà có chiều sâu. Trời thu không mây (mây xám), mà xanh ngắt
một màu thăm thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của không gian, cái nhìn vời
vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi, ông lơ đãng đưa mắt nhìn về bốn
phía làng quê. Hình như người dân quê đã ra đồng hết. Xóm thôn vắng lặng, vắng teo.
Mọi con đường quanh co, hun hút, không một bóng người qua lại:
"Ngõ trúc quanh co khách vắng teo".
Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm
trong giấc mộng mùa thu. Tất cả cảnh vật từ mặt nước "ao thu lạnh lẽo" đến "chiếc
thuyền câu bé tẻo teo", từ "sóng biếc" đến "lá vàng", từ"tầng mây lơ lửng đến "ngõ
trúc quanh co" hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh, có khi thoáng chút bâng
khuâng, man mác, nhưng rất gần gũi, thân thiết với mỗi con người Việt Nam. Phong
cảnh thiên nhiên của mùa thu quê hương sao đáng yêu thế!
Cái ý vị của bài thơ "Thu điếu" là ở hai câu kết:
"Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo".
"Tựa gối ôm cần" là tư thế của người câu cá cũng là một tâm thế nhàn của nhà thơ đã
thoát vòng danh lợi. Cái âm thanh"cá đâu đớp động", nhất là từ "đâu" gợi lên sự mơ
hồ, xa vắng và chợt tỉnh. Người câu cá ở đây chính là nhà thơ, một ông quan to triều
Nguyễn, yêu nước thương dân nhưng bất lực trước thời cuộc, không cam tâm làm tay
sai cho thực dân Pháp đã cáo bệnh, từ quan. Đằng sau câu chữ hiện lên một nhà nho
thanh bạch trốn đời đi ở ẩn. Đang ôm cần đi câu cá nhưng tâm hồn nhà thơ đang đắm
chìm trong giấc mộng mùa thu, bỗng chợt tỉnh trở về thực tại khi"Cá đâu đớp động
dưới chân bèo". Cho nên cảnh vật ao thu, trời thu êm đềm, vắng lặng như chính nỗi
lòng của nhà thơ vậy - buồn cô đơn và trống vắng.
Âm thanh tiếng cá"đớp động dưới chân bèo" đã làm nổi bật khung cảnh tịch mịch của
chiếc ao thu. Cảnh vật như luôn luôn quấn quýt với tình người. Thiên nhiên đối với
Nguyễn Khuyến như một bầu bạn tri kỷ. Ông đã trang trải tình cảm, gửi gắm tâm hồn,
tìm lời an ủi ở thiên nhiên, ở sắc "vàng" của lá thu, ở màu"xanh ngắt" của bầu trời thu,
ở làn "sóng biếc" trên mặt ao thu "lạnh lẽo"...
Thật vậy, "Thu điếu" là một bài thơ tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc của Nguyễn Khuyến.
Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt, những nét
vẽ xa gần, tinh tế gợi cảm. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa"vèo" trong làn gió thu, tiếng
cá"đớp động" chân bèo - đó là tiếng thu dân dã, thân thuộc của đồng quê đã khơi gợi
trong lòng chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê hương đất nước.
Nghệ thuật gieo vần của Nguyễn Khuyến rất độc đáo. Vần "eo" đi vào bài thơ rất tự
nhiên thoải mái, để lại ấn tượng khó quên cho người đọc; âm hưởng của những vần
thơ như cuốn hút chúng ta: trong veo - bé tẻo teo - đưa vèo - vắng teo - chân bèo. Thi
sĩ Xuân Diệu đã từng viết: "Cái thú vị của bài "Thu điếu" ở các điệu xanh, xanh ao,
xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi"...
Thơ là sự cách điệu tâm hồn. Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc
đồng quê với tất cả tình quê nồng hậu. Ông là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam.
Đọc"Thu điếu","Thu vịnh","Thu ẩm", chúng ta yêu thêm mùa thu quê hương, yêu
thêm xóm thôn đồng nội, đất nước. Với Nguyễn Khuyến, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp
cũng là yêu quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một
địa vị vẻ vang trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam.