Văn mẫu lớp 10: Cảm nhận đoạn 1 bài thơ Bình ngô Đại Cáo (2 Dàn ý + 7 Mẫu) | Cánh diều
Cảm nhận đoạn 1 Bình Ngô Đại Cáo gồm 7 bài văn mẫu khác nhau cực hay kèm theo 2 gợi ý cách viết chi tiết. Qua đó giúp các em có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay sát với chương trình học.
Chủ đề: Bài 5: Thơ văn Nguyễn Trãi (CD)
Môn: Ngữ Văn 10
Sách: Cánh diều
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Dàn ý cảm nhận đoạn 1 Bình ngô Đại Cáo Dàn ý số 1 1. Mở bài
● Giới thiệu những nét khái quát về tác giả Nguyễn Trãi (đặc điểm về cuộc đời,
con người, quan niệm sáng tác, các sáng tác tiêu biểu,...)
● Giới thiệu những nét khái quát về tác phẩm "Bình Ngô đại cáo" (thể loại, cảm
hứng chủ đạo, hoàn cảnh ra đời, đặc sắc về nội dung và nghệ thuật,...)
● Giới thiệu khái quát về đoạn 1 của tác phẩm "Bình Ngô đại cáo" 2. Thân bài
- Nêu lên tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc, độc đáo
● "Nhân nghĩa" là một quan niệm tư tưởng cốt lõi trong quan niệm của Nho giáo,
nhằm thể hiện rõ mối quan hệ tốt đẹp, gắn bó giữa con người với con người
trên cơ sở của tình thương và đạo lí.
● Với Nguyễn Trãi, nền tảng cốt yếu của "nhân nghĩa" chính là yên dân, là đem
đến cho nhân dân cuộc sống bình yên, ấm êm và hạnh phúc.
● Để dân được yên thì việc quan trọng cần phải làm đó chính là "trừ bạo", là
đánh đuổi những kẻ tàn bạo đang xâm lược nước ta và cả những kẻ tham tàn
trong nước đã đẩy nhân dân vào cuộc sống cơ cực, khốn khó, lầm than
- Nêu lên chân lí độc lập khách quan của dân tộc Đại Việt ta từ ngàn đời nay:
● Có nền văn hiến từ lâu đời, có lãnh thổ riêng đã được phân định rõ ràng và mỗi
vùng miền đều có những nét phong tục, tập quán riêng, mang bản sắc riêng của dân tộc Đại Việt.
● Đặt các triều đại của nước Đại Việt sánh ngang với các triều đại phong kiến
phương Bắc, điều đó không chỉ khẳng định nền độc lập của dân tộc mà qua đó
còn thể hiện niềm tự hào về những truyền thống, về lịch sử ngàn năm của dân tộc.
● Điểm lại những chiến thắng lịch sử huy hoàng, vang dội của quân và dân ta trong lịch sử. 3. Kết bài
Khái quát những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật trong đoạn 1 của tác phẩm "Bình
Ngô đại cáo" và nêu cảm nhận của bản thân. Dàn ý số 2 a) Mở bài
- Giới thiệu sơ lược về tác giả Nguyễn Trãi và tác phẩm Bình Ngô đại cáo
• Nguyễn Trãi là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba, nhà văn nhà thơ với sự
nghiệp sáng tác đồ sộ.
• Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn, là bản tuyên ngôn hùng hồn của dân tộc ta.
- Dẫn dắt và nêu vấn đề: nội dung đoạn 1 bài Bình Ngô đại cáo.
b) Thân bài: Phân tích nội dung đoạn 1 Bình Ngô đại cáo
* Luận điểm 1: Tư tưởng nhân nghĩa.
- “Nhân nghĩa” là phạm trù tư tưởng của Nho giáo chỉ mối quan hệ giữa người với
người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lí.
• Nhân: người, tình người (theo Khổng Tử)
• Nghĩa: việc làm chính đáng vì lẽ phải (theo Mạnh Tử)
- “Nhân nghĩa” trong quan niệm của Nguyễn Trãi:
• Kế thừa tư tưởng Nho giáo: “yên dân” - làm cho cuộc sống nhân dân yên ổn, hạnh phúc
• Cụ thể hóa với nội dung mới đó là "trừ bạo" - vì nhân dân diệt trừ bạo tàn, giặc xâm lược.
-> Tác giả đã bóc trần luận điệu xảo trá của giặc Minh đồng thời phân biệt rõ ràng ta
chính nghĩa, địch phi nghĩa.
=> Tư tưởng của Nguyễn Trãi là sự kết hợp tinh túy giữa nhân nghĩa và thực tiễn dân
tộc, tạo cơ sở vững chắc cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn - là cuộc khởi nghĩa nhân
nghĩa, vì cuộc sống của nhân dân mà diệt trừ bạo tàn.
* Luận điểm 2: Lời tuyên ngôn độc lập.
- Nguyễn Trãi đã xác định tư cách độc lập của nước Đại Việt bằng một loạt các dẫn chứng thuyết phục:
• Nền văn hiến lâu đời
• Cương vực lãnh thổ riêng biệt
• Phong tục Bắc Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc
• Lịch sử lâu đời trải qua các triều đại Triệu, Đinh, Lí, Trần, hào kiệt đời nào cũng có.
- Các từ ngữ “từ trước, đã lâu, vốn xưng, đã chia” đã khẳng định sự tồn tại hiển nhiên của Đại Việt.
-> Bằng cách liệt kê tác giả đưa ra các chứng cứ hùng hồn, thuyết phục khẳng định
dân tộc Đại Việt là quốc gia độc lập, đó là chân lí không thể chối cãi.
=> Ở đây, Nguyễn Trãi đã đưa ra thêm ba luận điểm nữa là văn hiến, phong tục, lịch
sử để chứng minh quyền độc lập, tự do của đất nước so với bản tuyên ngôn độc lập
đầu tiên là “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt.
* Luận điểm 3: Lời răn đe quân xâm lược.
“Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã. Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.”
- Nguyễn Trãi đã sử dụng phép liệt kê, dẫn ra những kết cục của kẻ chống lại chân lí
• Lưu Cung - vua Nam Hán thất bại với chủ ý thu phục Đại Việt.
• Triệu Tiết - tướng nhà Tống thua nặng khi cầm quân đô hộ nước ta.
• Toa Đô, Ô Mã,... là các tướng nhà Nguyên cũng phải bỏ mạng khi cầm quân xâm lược.
=> Lời cảnh cáo, răn đe đanh thép những kẻ bất nhân bất nghĩa dám xâm phạm lãnh
thổ, chủ quyền dân tộc ta đều phải trá giá đắt, đồng thời cũng thể hiện niềm tự hào bởi
những chiến công của nhân dân Đại Việt.
* Đặc sắc nghệ thuật - Ngôn ngữ đanh thép
- Giọng điệu hào hùng, mạnh mẽ
- Sử dụng các biện pháp so sánh, liệt kê,...
- Sử dụng những câu văn song hành,… c) Kết bài
- Khái quát lại nội dung đoạn 1 bài Bình Ngô đại cáo.
- Cảm nhận của em về đoạn thơ.
Xem thêm: Phân tích đoạn 1 Bình ngô Đại Cáo
Cảm nhận đoạn 1 Bình ngô Đại cáo ngắn gọn - Mẫu 1
Nguyễn Trãi (1380-1942), hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị, quân sự tài ba và lỗi
lạc, ông tham gia tích cực và đóng góp nhiều nhiều công lao to lớn trong cuộc kháng
chiến chống quân Minh của Lê Lợi với vai trò là một quân sư. Với những công trạng
vĩ đại của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nguyễn Trãi đã trở
thành bậc khai quốc công thần đời đầu của nhà Hậu Lê.
Có thể thấy, tư tưởng của Nguyễn Trãi gồm có ba điểm chính thứ nhất là tư tưởng
nhân nghĩa, thứ hai là tư tưởng phụng mệnh trời và cuối cùng là tư tưởng nhân dân,
tiến bộ hẳn so với các danh nhân, nghĩa sĩ cùng thời. Và hệ thống tư tưởng này ta có
thể nhận thấy rõ trong tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Bình ngô đại cáo, tác phẩm
được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc sau Nam quốc sơn hà.
Mở đầu bài cáo Nguyễn Trãi đã nêu ra các luận đề chính nghĩa với mục đích làm cơ
sở, căn cứ xác đáng để triển khai toàn bộ nội dung bài cáo.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo; …..
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại; …..
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi”
Đầu tiên Nguyễn Trãi nêu ra tư tưởng nhân nghĩa thể hiện ở việc yêu thương con
người, được bộc lộ thông qua các hành động cụ thể bao gồm “Việc nhân nghĩa cốt ở
yên dân”, nghĩa là người đứng đầu một đất nước phải có trách nhiệm bảo vệ cuộc
sống bình yên, ấm no cho nhân dân. Kéo theo việc bảo vệ cuộc sống bình yên đó thì
“Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, vốn là một tích xuất phát từ điển cố trong Kinh thư,
ngụ ý muốn “yên dân” thì phải tiêu trừ tham tàn bạo ngược, những thế lực đã phá vỡ
sự bình yên của nhân dân.
Từ đó thấy được quan điểm mới mẻ, tiến bộ vượt thời đại của Nguyễn Trãi: Nhân
nghĩa tức là gắn với việc yêu dân, chuộng hòa bình, và gắn với lòng yêu nước sâu sắc.
Luận đề thứ hai mà Nguyễn Trãi đề cập đó là sự tồn tại độc lập có chủ quyền của
nước Đại Việt ta từ bao đời nay, được tác giả khẳng định như một chân lý khách quan
thông qua năm yếu tố cơ bản để chứng minh cho luận đề trên của mình. Bao gồm nền
văn hiến độc lập đã tồn tại từ lâu đời “vốn xưng nền văn hiến đã lâu”, bao gồm cương
vực lãnh thổ riêng “núi sông bờ cõi đã chia”, rồi về văn hóa chúng ta cũng có phong
tục tập quán riêng khi “phong tục Bắc Nam cũng khác”.
Xét về khía cạnh lịch sử, nếu như phương Bắc có Hán, Đường, Tống, Nguyên thì
nước Đại Việt ta cũng chẳng kém cạnh khi có Triệu, Đinh, Lý, Trần những triều đại
đã bao lần gây nền độc lập. Truyền thống lịch sử riêng này còn được cụ thể hóa trong
những câu thơ “Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau/Song hào kiệt thời nào cũng có”,
khẳng định đời nào, triều đại nào chúng ta cũng có những anh hùng vang danh sử
sách, lập nên những chiến công vĩ đại để bảo vệ nền độc lập dân tộc của chúng ta,
khiến kẻ thù biết bao phen thất bại, khốn đốn.
Vậy nên mới có những chuyện như “Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết
thích lớn phải tiêu vong; Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô; Sông Bạch Đằng giết tươi Ô
Mã”, đó đã là những chứng cứ, những sự thực minh bạch không thể chối cãi, in hằn
trong từng trang sử sách của nước Đại Việt ta bao đời nay.
Và cuối cùng kết lại những yếu tố trên là lời khẳng định chủ quyền độc lập riêng của
dân tộc trong ý thơ “mỗi bên xưng đế một phương” thể hiện phong thái tự tin, mạnh
mẽ, ý thức tự cường dân tộc của Nguyễn Trãi trong việc khẳng định nền độc lập, bờ
cõi của đất nước. Rằng vua nước Nam chỉ xưng “đế”, chứ không xưng “vương” theo
cái kiểu mạt sát, khinh thường của nước phương Bắc, xem chúng ta là nước chư hầu,
phụ thuộc vào “thiên triều” của chúng.
Mà ta có thể thấy rõ ở bài cáo này Nguyễn Trãi đã hoàn toàn phủ nhận cái quan điểm
ngạo mạn ấy, khẳng định sự tách biệt giữa hai quốc gia dân tộc trên tất cả các lĩnh vực
bao gồm địa lý, lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán, chủ quyền lãnh thổ tạo nên một
hệ thống lý luận, căn cứ vững chắc để triển khai tiếp các luận đề phía sau.
Có thể nói rằng Nguyễn Trãi đã rất tinh tế khi xây dựng một khái niệm về quốc gia
dân tộc dựa trên 5 yếu tố trên, đây là một bước tiến rất lớn, hoàn thiện định nghĩa về
tổ quốc so với bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất chỉ bao gồm 2 yếu tố lãnh thổ và
chủ quyền riêng, thể hiện tài năng lý luận và tầm tư duy của một nhân tài kiệt xuất đi trước thời đại.
Thêm vào đó ngoài nội dung chính của luận đề, sự thuyết phục của quan điểm trên
còn nằm ở cái cách mà tác giả Nguyễn Trãi sử dụng các từ ngữ như: từ trước, đã lâu,
đã chia, cũng khác. Mà tất cả những từ ngữ này lại thuộc cùng một trường khẳng định
sự hiển nhiên, vốn có, lâu đời của chân lý mà tác giả đã nêu ra.
Bình Ngô đại cáo đã tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược, ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn, tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố về nên độc lập của dân
tộc là áng thiên cổ hùng văn còn mãi giá trị nghìn đời sau của đất nước ta. Về nghệ
thuật, đó là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận, thể hiện ở kết cấu lý luận chặt
chẽ, lập luận sắc bén, lời văn đanh thép, hùng hồn, và chất văn chương nghệ thuật thể
hiện ở lời văn rất giàu cảm xúc, câu văn giàu hình tượng.
Cảm nhận Đại cáo Bình ngô đoạn 1 - Mẫu 2
Nói đến Nguyễn Trãi là nói đến một nhà nho yêu nước hết lòng, không những yêu
nước, ông còn biết cách truyền đạt nó đến với mọi người thông qua ngòi bút tài hoa
của mình. Nguyễn Trãi có vốn hiểu biết sâu rộng trong nhiều lĩnh vực, hơn cả là chính
trị và văn chương. Sự nghiệp văn chương của ông bừng sáng với những tác phẩm như:
Bình Ngô đại cáo, Quốc Âm thi tập, Ức Trai thi tập,.... Trong số đó Bình Ngô đại cáo
được coi là tác phẩm tiêu biểu, làm tên tuổi Nguyễn Trãi sáng ngời trên văn đàn. Ở
Bình Ngô đại cáo, đoạn một cho ta nhiều cảm nhận sâu sắc về tư tưởng nhân nghĩa –
yên dân của một nhà nho-thi sĩ.
Trong câu thơ đầu tiên Nguyễn Trãi đã mượn lời để bài tỏ tư tưởng cá nhân đồng thời
cũng là quan niệm tư tưởng nho giáo của nước ta lúc bấy giờ :
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Hai câu thơ hàm chứa tư tưởng lỗi lạc trong nho giáo, bởi lẽ nhân nghĩa chính là mối
quan hệ tốt đẹp giữa người với người bao đời qua. Tư tưởng nhân nghĩa này được tác
giả vận dụng vào chính trị để đưa ra bài học cho con cháu đời sau, ý chỉ nhân nghĩa
phải lấy dân làm gốc, nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn với “yên dân” và “trừ bạo”,
đây cũng là tư tưởng cốt lõi xuyên suốt bài cáo.
Ở các câu tiếp theo tác giả tự hào đưa ra nhiều dẫn chứng cụ thể từ lịch sử nghìn năm
văn hiến với giọng điệu đanh thép:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.”
Đọc từng câu chữ, ta thấy nể phục trước một tượng đài bất tử của văn chương, chỉ
bằng những câu thơ ngắn gọn, tác giả đã điểm qua hàng loạt các triều đại cũng như
truyền thống lâu đời của dân tộc với giọng điệu tự hào. Nhưng không vì đó mà câu thơ
mang tính chủ quan, bởi ở đoạn thơ trên Nguyễn Trãi tự hào so bề nước ta với các
triều đại khác để đặt Đại Việt trong cái nhìn khách quan về lịch sử. Bằng cách này,
người đọc sẽ không thể phủ nhận sự đúng đắn trong vấn đề mà tác giả muốn đề cập.
Dẫn chứng được ông chọn lọc vô cùng thuyết phục, rằng Đại Việt là nước độc lập có
nền văn hiến lâu đời, có truyền thống tốt đẹp và có nền văn hóa riêng biệt, mỗi vùng
miền trên đất nước đều mang những phong tục tập quán khác nhau. Bên cạnh đó, nhà
thơ còn so sánh ta cùng các triều đại phong kiến phương Bắc với giọng điệu hùng hồn.
Tất cả như một lời nhấn mạnh, lời tuyên bố cho sự tồn tại độc lập chủ quyền của một quốc gia.
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, người đọc vẫn chưa thấy hết được giá trị truyền thống
tốt đẹp của một dân tộc xứng danh anh hùng. Vì vậy, ông điểm qua các sự kiện lịch sử
lừng lẫy khiến ngoại bang phải khiếp sợ:
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi.”
Mỗi chiến công được liệt kê vô cùng rõ ràng từ địa điểm, đến kết quả, sở dĩ tác giả
muốn nêu ra hàng loạt như vậy không chỉ để thể hiện lòng tự hào của một con dân đối
với một đất nước mà còn ẩn ý răng đe giặc ngoại xâm về thất bại của tổ tiên chúng. Ở
một góc nhìn rộng hơn ta thấy được, Nguyễn Trãi đang đưa ra một lời tuyên bố trịnh
trọng, Đại Việt là nước có nền văn hiến, có truyền thống văn hóa, có nhân tài nhiều
đời,... có đầy đủ yếu tố cần thiết để hưởng độc lập tự chủ. Nếu kẻ nào có ý định xâm
phạm, thì hiển nhiên cuộc đấu tranh nổi dậy sẽ là một cuộc đấu tranh chính nghĩa bảo
vệ tổ quốc, bảo vệ lợi ích nhân dân.
Đoạn 1 của Bình Ngô đại cáo mang đậm dấu ấn chính luận song vẫn có sự xen lẫn của
cảm hứng trữ tình nhằm khơi gợi cảm xúc cho người đọc. Trải dài đoạn trích là tư
tưởng nhân nghĩa xuyên suốt được nhấn mạnh, đó không đơn thuần là tư tưởng mang
giá trị lịch sử mà đó chính là bài học là lời răn dạy thế hệ mai sau cần học hỏi.
Qua đoạn 1, Nguyễn Trãi đã thành công thể hiện quan niệm cũng như tư tưởng cần
truyền đạt một cách tài ba thông qua câu chữ. Để rồi ta cảm được từng luồng nóng rạo
rực nơi tim như cảm xúc của tác giả sống dậy ngày trước, đó là niềm tự hào là con của
nước Việt, là sự xúc động trước bao lớp anh hùng nằm xuống để có được đất nước
hôm nay. Vì lẽ đó, chúng ta là những thế hệ trẻ cần rèn giũa, học tập để góp phần gìn
giữ, phát triển đất nước ngày một vững mạnh hơn.
Cảm nhận Bình ngô Đại Cáo đoạn 1 - Mẫu 3
Nguyễn Trãi không chỉ là một bậc quân thần yêu nước mà ông còn có tài năng văn thư
độc nhất vô song. Đặc biệt, trong gia tài văn học đồ sộ của thi hào, thì “Bình ngô Đại
Cáo” vẫn được coi là “áng thiên cổ hùng văn” giữa dòng chảy lịch sử của thời đại.
Dẫu qua bao nhiêu thế hệ vẫn lưu danh sử sách muôn đời. Đoạn thơ một trích trong
“Bình ngô Đại Cáo” một lần nữa đã cho thấy sự mới mẻ, tiến bộ trong cách nhìn, cũng
như quan niệm về độc lập, chủ quyền và những giá trị nhân văn cốt lõi cao đẹp của Nguyễn Trãi.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
“Nhân nghĩa” là tư tưởng cốt lõi, xuyên suốt cả tác phẩm Bình ngô đại cáo, đó là tư
tưởng yêu thương dân, mà rộng hơn là lòng thương người , đồng thời cũng là sự đề
cao những hành động chính nghĩa, xả thân vì lý tưởng lớn, không vì quỷ kế hèn mọn
mà chịu khuất phục. Tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi được ảnh hưởng khá
nhiều bởi tư tưởng của đạo Phật, do đó mà thấm nhuần tính nhân văn và những chân
giá trị truyền thống của dân tộc. Nhân nghĩa với Nguyễn Trãi là “yên dân”, nghĩa là
làm sao để nhân dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc, an lạc, thái bình, thịnh trị, không
có chiến tranh loạn lạc xảy ra khắp nơi. Muốn được như thế, điều mà quân điếu phạt
phải làm, cần phải nêu cao đó là “trừ bạo”. Chỉ khi diệt trừ các thế lực bạo tàn, đang
lăm le xâm lược bờ cõi nước ta thì dân chúng may ra mới không phải chịu cảnh loạn
lạc, tan tác thương vong và được sống trong yên ổn. Chỉ những gì xuất phát từ trái tim
mới có thể “chạm đến hồn muôn người”, tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi
không gì hơn đã khiến độc giả cảm động bởi tấm lòng yêu thương dân đen con đỏ,
một lòng vì nước, vì dân. Do đó, nó là chân giá trị được ngợi ca và truyền tụng bao thế hệ.
Từ những trở trăn khôn nguôn về việc nước tình dân, nhà thơ phóng chiếu cái nhìn
của mình về vấn đề chủ quyền dân tộc, về độc lập, tự do của giang sơn:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có".
Trong đoạn thơ trên, một lần nữa thi hào Nguyễn Trãi khẳng định nền văn hiến lâu
đời, khẳng định chiều dài lịch sử nghìn năm văn hiến của dân tộc, lập luận một cách
hào sảng những chiến tích lừng lẫy của cha ông ta để góp phần giữ giang sơn vững
chắc. Nếu như trước đó, trong “Nam quốc sơn hà”, tác giả Lý Thường Kiệt cũng
khẳng định độc lập về chủ quyền, lãnh thổ của dân tộc, nhưng dựa vào những chứng
cứ sách lực siêu nhiên là “thiên thư”, phần nào có sự trừu tượng, xa xôi. Nhưng đến
Nguyễn Trãi, ông đã lấy quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc để làm
bảo chứng, do đó vô cùng thuyết phục, gần gũi, mà rất đỗi thiêng liêng cao cả. Đồng
thời, việc đặt ngang hàng nước ta với các nước phương Bắc phần nào giúp ta thấy
được niềm tự hào, vẻ vang của chiều dài lịch sử dân tộc. Đặc biệt, trong đoạn thơ này,
Nguyễn Trãi không chỉ khẳng định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, mà còn thể hiện niềm
tin sắt đá vào các thế hệ anh hùng hào kiệt, hiền tài quốc gia, đặt vào trong bối cảnh
lúc bấy giờ, đó phần nào cũng thể hiện sự mới mẻ, tiến bộ của thi hào Nguyễn Trãi.
Để tiếp tục khẳng định những chiến tích hào sảng của dân tộc, nhà thơ tiếp tục đưa ra
một loạt dẫn chứng thép khẳng định đanh thép, người đã nhắc lại nhiều chiến thắng
lừng lẫy của nước Đại Việt như một lời khẳng định sự thất bại thảm hại của kẻ thù:
"Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã. Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi".
Thất bại đấy của quân địch không chỉ thể hiện tham vọng cuồng vọng của quân địch,
phải chuốc lấy tiêu vong, mà còn phần nào thể hiện khí thế hào hùng, tầm vóc lớn lao
của anh hùng dân tộc. Đồng thời, nó giống như một bản bảo chứng hùng hồn, đanh
thép cho những kẻ muốn lăm le xâm lược đất nước ta, rằng chúng chắc chắn sẽ chuốc
lấy bại vong. Cách dùng những dẫn chứng mang tính liệt kê dồn dập phần nào giúp ta
thấy được mạch khí thế oai phong, lẫm liệt, niềm tự hào vang dội của người viết bài cáo.
Đại cáo Bình Ngô, giống như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai đầy hào sảng của dân tộc
Đại Việt. Đoạn thơ một vừa mở đầu như một khúc hùng ca hân hoan, vang vọng chiến
công, chiến tích lẫy lừng để đanh thép buộc tội quân giặc man rợ ở phía sau.
Cảm nhận đoạn 1 Bình ngô Đại cáo - Mẫu 4
Sinh ra trong một gia đình vốn có truyền thống yêu nước và văn học, Nguyễn Trãi đã
sớm được tiếp xúc và thấu hiểu những tư tưởng nền tảng của Nho giáo. Nguyễn Trãi
không chỉ là nhà Nho, bậc kì tài về chính trị và quân sự mà ông còn là nhà văn, nhà
thơ nổi tiếng của thời đại. Những sáng tác của Nguyễn Trãi luôn lấp lánh chủ nghĩa
yêu nước sâu sắc và tác phẩm "Bình Ngô đại cáo" là một trong số những tác phẩm
như thế. Đặc biệt, đoạn mở đầu tác phẩm "Bình Ngô đại cáo" đã nêu lên một cách rõ
nét luận đề chính nghĩa làm tiền đề tư tưởng cho toàn bộ bài cáo.
Trước hết, đoạn mở đầu tác phẩm đã nêu lên tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc, độc đáo.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Như chúng ta đã biết, từ ngàn đời nay, trong hệ thống quan niệm tư tưởng của Nho
giáo, "nhân nghĩa" là một quan niệm tư tưởng cốt lõi, nó thể hiện mối quan hệ tốt đẹp,
gắn bó giữa con người với con người trên cơ sở của tình thương và đạo lí. Xuất thân là
một nhà nho, vì thế, có lẽ hơn ai hết, Nguyễn Trãi thấu hiểu sâu sắc quan điểm này
của Nho giáo và lựa chọn nó làm nền tảng tư tưởng cốt lõi, xuyên suốt toàn bộ bài
cáo. Nhưng hết thế, với Nguyễn Trãi, nền tảng cốt yếu của "nhân nghĩa" chính là yên
dân, là đem đến cho nhân dân cuộc sống bình yên, ấm êm và hạnh phúc. Đồng thời,
ông cũng chỉ ra rằng, để dân được yên thì việc quan trọng cần phải làm đó chính là
"trừ bạo", là đánh đuổi những kẻ tàn bạo đang xâm lược nước ta và cả những kẻ tham
tàn trong nước đã đẩy nhân dân vào cuộc sống cơ cực, khốn khó, lầm than. Như vậy,
có thể thấy, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi luôn gắn liền với nhân dân, lấy dân
làm gốc, làm nền tảng và vì nhân dân mà đánh tan quân tàn ác.
Không chỉ nêu lên tư tưởng nhân nghĩa làm nền tảng chân lí vững chắc, trong phần
mở đầu của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi còn nêu lên chân lí độc lập của dân tộc ta từ ngàn đời nay.
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Chỉ bằng những câu thơ ngắn gọn nhưng có lẽ cũng đủ để Nguyễn Trãi điểm lại một
cách đầy đủ và rõ nét những truyền thống từ lâu đời của dân tộc, đó cũng chính là
chân lí độc lập khách quan mà ông muốn đề cập tới. Nước Đại Việt cũng như bao dân
tộc khác có nền văn hiến từ lâu đời, có lãnh thổ riêng đã được phân định rõ ràng và
cùng với đó mỗi vùng miền đều có những nét phong tục, tập quán riêng, mang bản sắc
riêng của dân tộc Đại Việt. Thêm vào đó, với thủ pháp đối lập, tác giả Nguyễn Trãi
còn đặt các triều đại của nước Đại Việt sánh ngang với các triều đại phong kiến
phương Bắc, điều đó không chỉ khẳng định nền độc lập của dân tộc mà qua đó còn thể
hiện niềm tự hào về những truyền thống, về lịch sử ngàn năm của dân tộc.
Thêm vào đó, trong những câu thơ kết thúc đoạn mở đầu của tác phẩm, tác giả
Nguyễn Trãi đã khéo léo điểm lại những chiến thắng lịch sử huy hoàng, vang dội của
quân và dân ta trong lịch sử.
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét Chứng cứ còn ghi.
Tác giả đã đưa ra những chứng cứ, những sự việc đã xảy ra trong lịch sử với sự thất
bại thảm hại của quân giặc - Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã như một lời khẳng
định về sức mạnh, về sự chiến thắng tất yếu dành cho những con người, những dân tộc
luôn đứng trên nền tảng của chính nghĩa để đấu tranh.
Tóm lại, có thể thấy, đoạn mở đầu của tác phẩm "Bình Ngô đại cáo" với giọng văn
hào hùng, tràn đầy niềm tự hào dân tộc, tác giả Nguyễn Trãi đã làm bật nổi tư tưởng
chính nghĩa và chân lí độc lập khách quan của dân tộc. Chính điều đó là nền tảng tư
tưởng vững chắc xuyên suốt toàn bộ tác phẩm.
Xem thêm: Chứng minh Đại cáo bình Ngô là một bản tuyên ngôn độc lập
Cảm nhận Bình Ngô đại cáo đoạn 1 - Mẫu 5
Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, bên cạnh bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ
tịch Hồ Chí Minh vẫn còn có hai áng thiên cổ hùng văn cũng được xem là hai bản
tuyên ngôn cho nền độc lập, cho chủ quyền lãnh thổ của dân tộc ta - đó là Nam quốc
sơn hà của Lý Thường Kiệt và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Ở mỗi thời điểm
cùng với hoàn cảnh khác nhau tác động đến, những góc nhìn khác nhau của mỗi tác
giả thế nhưng tựu chung lại, những "bản tuyên ngôn" này đều thể hiện một tư tưởng
đầy tiến bộ và đúng đắn. Nếu như ở Nam quốc sơn hà là một lời khẳng định chắc nịch
về chủ quyền lãnh thổ, bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh lại thể hiện về quyền
con người, quyền được hưởng độc lập, tự do mà không một thế lực nào có thể xâm
phạm tới. Với Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã đặt vào đó tư tưởng phải chăm lo
cho dân, yêu dân và gắng hết sức dẹp trừ bạo loạn để nhân dân có được một cuộc sống
ấm no, hạnh phúc. Tư tưởng này của ông được thể hiện rõ ràng nhất ở đoạn đầu tiên của tác phẩm.
Ngay mở đầu tác phẩm, lý tưởng chủ đạo của toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Trãi thể hiện một cách rõ ràng:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
Hai mục tiêu chiến đấu cao cả và có ý nghĩa thiêng liêng nhất của cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn đó chính là vì việc nhân nghĩa. Việc nhân nghĩa ấy lúc này chính là "yên
dân" và "trừ bạo". Bởi được kế thừa tư tưởng từ Nho giáo, nhân nghĩa với Nguyễn
Trãi chính là làm cho người dân có một cuộc sống yên ổn, hạnh phúc. Lấy nhân dân
làm gốc chính là một quy luật, là tài sản vô giá cũng như là sức mạnh, sinh khí của
một quốc gia - đây cũng chính là điều mà ông đã theo đuổi cả đời. Việc nhân nghĩa đó
còn là trừ bạo, trừng trị những kẻ đã hành hạ, cướp bóc khiến nhân dân mất đi cuộc
sống no ấm, rơi vào cảnh khốn khó lầm than. Hiểu rộng hơn, việc trừ bạo chính là
hành động đứng lên chống lại những kẻ xâm lược bờ cõi quốc gia. Tác giả đã khẳng
định một lần nữa ta là bên chính nghĩa, còn địch là những kẻ phi nghĩa và vạch trần sự
xảo trá của chúng. Yên dân và trừ bạo tưởng chừng như là hai vấn đề chẳng liên quan
tới nhau thế nhưng thực chất chúng đều là những vấn đề cần được giải quyết đồng thời
cùng lúc, thống nhất với nhau bởi phải diệt trừ những kẻ tàn bạo, xâm lăng thì cuộc
sống của nhân dân mới yên ấm được. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trong tác
phẩm này thực sự là một tinh thần lớn, một tinh thần chính nghĩa được xuất phát bởi
một tình yêu thương và tấm lòng thiết tha mong cho những người dân nước Việt được
sống trong sung túc, đủ đầy và hạnh phúc.
Tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi đã trở thành một lý tưởng xã hội, trở thành một
chân lý đúng đắn suốt ngàn đời nay: phải chăm lo cho nhân dân thì cuộc sống, đất
nước mới được bình yên. Tác giả không chỉ nói đến nhân nghĩa một cách chung chung
mà đã đưa ra được điều cốt lõi và giá trị nhất của nó. Bên cạnh đó, nhân nghĩa trong tư
tưởng của Nguyễn Trãi còn gắn với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền đất nước và khẳng
định tinh thần độc lập của dân tộc:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Nếu như ở Nam quốc sơn hà ra đời 400 năm trước, Lý Thường Kiệt chỉ nói tới lãnh
thổ và chủ quyền độc lập để xác định các yếu tố của một quốc gia độc lập thì tới Bình
Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm các yếu tố về văn hiến, lịch sử, phong tục
tập quán và nhân tài - những yếu tố cần thiết nữa để tạo nên một quốc gia độc lập. Đây
chính là một điểm sáng của sự sáng tạo cũng như tài năng của tác giả. Với mỗi quốc
gia, nền văn hiến chính và một thứ không thể thay đổi, không thể xoá bỏ hay nhầm lẫn
với bất kì một nơi nào. Nước Đại Việt cũng có một nền văn hiến từ rất lâu đời, núi
sông bờ cõi cũng đã được phân chia rõ ràng và cũng có phong tục tập quán khác biệt.
Nguyễn Trãi chỉ ra điều này bởi ông muốn nhấn mạnh rằng nước Đại Việt có những
sự riêng không thể nhầm lẫn, thay đổi hay trộn lẫn với bất kì một quốc gia hay nền
văn hoá nào khác được. Ngoài ra, để lập luận của mình càng trở nên chặt chẽ, Nguyễn
Trãi đã đặt các triều Đại "Triệu, Đinh, Lý, Trần" ngang hàng với "Hán, Đường, Tống,
Nguyên" ở Trung Quốc để cho người đọc thấy được sự tồn tại song song của các triều
đại, một lần nữa khẳng định mạnh mẽ chủ quyền. Đây là một sự đối sánh vô cùng tinh
tế, thể hiện tài năng cũng như một niềm tự hào dân tộc, niềm yêu nước mãnh liệt của
đại thi hào của dân tộc. Một yếu tố quan trọng cuốc cùng mà ông nhắc tới chính là
nhân tài để khẳng định rằng dù thời thế có đổi thay, khi yếu khi mạnh thế nhưng đấng
hào kiệt thì lúc nào cũng có. Câu thơ ngắn gọn nhưng lại đanh thép, thể hiện sức mạnh
con người của nước Đại Việt cũng như một lời nhắc nhở, răn đe với những kẻ có ý đồ
muốn xâm chiếm nước ta. Với các yếu tố trên, tác giả đã khái quát một cách rõ nét
nhất về một nền độc lập toàn diện của đất nước ta.
Ngay sau khi đưa ra và phân tích năm yếu tố của một quốc gia có độc lập chủ quyền,
Nguyễn Trãi lại đưa ra thêm những bằng chứng đầy sức thuyết phục để khẳng định
nền độc lập quốc gia, đó chính là sự thất bại của phương Bắc trong các cuộc chiến với
mưu đồ xâm chiếm, đô hộ nước ta: Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét Chứng cứ còn ghi.
Tác giả đã tổng hợp lại những chiến tích đầy hiển hách, oanh liệt của dân tộc ta trong
cuộc kháng chiến để chống quân xâm lược, giữ gìn nền độc lập của đất nước. Bằng
việc liệt kê ra những chứng cứ đầy rõ ràng, thuyết phục cùng với những lời lẽ hào
hùng, thể hiện sự tự tôn dân tộc chúng ta đã thấy được ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi
cũng như sự căm thù với những kẻ lăm le xâm lược bờ cõi của ta. Chỉ với một đoạn
thơ ngắn nhưng tác giả đã khẳng định một cách mạnh mẽ rằng Đại Việt là một quốc
gia có đầy đủ những yếu tố của một quốc gia độc lập, tự chủ, chẳng hề có sự thua kém
với bất kỳ quốc gia nào. Con người nước Đại Việt sẽ luôn đồng sức, đồng lòng đứng
lên để chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc vì chính nghĩa, vì lẽ phải, vì một cuộc sống
ấm no của nhân dân nên bất kể kẻ nào muốn xâm lược cũng sẽ phải chịu một kết quả thảm hại.
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là một tác phẩm vừa mang tính hào hùng vừa có
những cảm hứng trữ tình hiếm thấy ở một tác phẩm chính luận. Đoạn trích nói riêng
và tác phẩm Bình Ngô đại cáo nói chung có những giá trị vô cùng sâu sắc, có ý nghĩa
đối với đất nước ta. Tác phẩm đã khẳng định nền độc lập, chủ quyền của đất nước
cũng như cho người đọc hiểu thêm về chủ quyền lãnh thổ, tinh thần dân tộc của cha
ông ta ngày trước để ngày càng bồi đắp lên lòng yêu nước, sự tự hào dân tộc trong mỗi người.
Cảm nhận đoạn 1 Bình ngô Đại Cáo - Mẫu 6
Sau thời gian cầm cự và tạm hoà hoãn, từ năm 1424, Lê Lợi đã chuyển sang thời kì
tổng phản công. Đến cuối năm 1427, khi 15 vạn quân tiếp viện của giặc tan tành, buộc
Vương Thông phải giảng hoà. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã kết thúc thắng lợi. Đất
nước ta bước vào thời kì mới. Trong không khí tưng bừng của toàn dân tộc đón mừng
xuân chiến thắng, đầu năm 1428 Nguyễn Trãi đã thay Lê Lợi thảo bài Cáo này để
tuyên bố với nhân dân cả nước biết: Cuộc kháng Minh đã thành công rực rỡ, đất nước trở lại thanh bình.
Mở đầu bài Cáo, tác giả khẳng định lập trường chính nghĩa của ta trên cơ sở đạo lý:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Nhân nghĩa là quan niệm tư tưởng nhân sinh của Nho giáo. Nhân nghĩa là mối quan hệ
tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí
Và cũng theo quan niệm của nho giáo, nhân nghĩa là cái gốc của sự việc. Trong thư số
8 trả lời Phương Chính, Nguyễn Trãi đã từng nói: “Phàm mưu đồ việc lớn phải lấy
nhân nghĩa làm gốc, làm nên công lớn phải lấy nhân nghĩa làm đầu”
Nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi nói đến trong bài Cáo là “cốt ở yên dân”. Và vì thế muốn
thực hiện được nó ta phải “trước lo trừ bạo”
Bằng hai câu mở đầu, không chỉ nêu nên tư tưởng nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi còn
nhấn mạnh mục đích và phương tiện để thực hiện tư tưởng nhân nghĩa đó. Nhân nghĩa
phải biết tiêu trừ tham tàn bạo ngược, bảo vệ cuộc sống yên ổn cho nhân dân.
Nhân nghĩa mà tác giả nói tới là nhân nghĩa chân chính, chứ không phải giả nhân giả
nghĩa như bọn giặc vẫn huênh hoang
Và cũng bằng cách vào đề lý luận khái quát, tác giả đã gây được không khí trang trọng
thích hợp cho bài cáo và đồng thời xác định rõ lập trường chính nghĩa của cuộc kháng chiến
Dân tộc ta chiến đấu chống xâm lược là nhân nghĩa là phù hợp với đạo lí của thời đại
thì sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của dân tộc Việt Nam là một chân lí khách quan
Sau khi khẳng định lập trường chính nghĩa của cuộc kháng chiến về mặt đạo lý,
Nguyễn Trãi tiếp tục khẳng định tính thực tế của đạo lí đó qua
Mà trước hết ông khẳng định sự tồn tại của nước Đại Việt như một chân lý khách quan:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Sông núi bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Nền văn hóa Đại Việt, nền văn hóa Thăng Long được hình thành, xây dựng và phát
triển qua một quá trình lịch sử “đã lâu”, đã có “từ trước” đằng đẵng mấy nghìn năm.
Đại Việt không chỉ có lãnh thổ chủ quyền “sông núi bờ cõi”, mà còn có thuần phong
mỹ tục mang bản sắc riêng, có lịch sử riêng, chế độ riêng “bao đời gây nền độc lập”,
đã từng “xưng đế một phương, có nhiều nhân tài hào kiệt…”
Khác với ý trong bài Hịch, Tổ Quốc ở đây không phải được hình dung bằng thái ấp,
bổng lộc, gia quyến, vợ con, tông miếu phần mộ…mà với Nguyễn Trãi, Tổ Quốc
được định nghĩa bằng những khái niệm trừu tượng được rằng nước ta là một nước có
cương vực lãnh thổ, có quá trình độc lập, có quốc hiệu, có văn hoá phong tục chứ
không phải là một quận, một huyện của Trung Quốc, cũng không phải là một bộ lạc man di mọi rợ
Đến đây, giọng điệu câu văn ngắn gọn, khoẻ, chắc, cách lập luận chặt chẽ như một lời
tuyên bố đanh thép, tác giả đã nêu bật được sự tồn tại của một quốc gia nhỏ bé bên
cạnh một quốc gia lớn trong không gian, thời gian, với truyền thống đấu tranh anh dung của nó.
Từ xa xưa chính sách đồng hóa của phong kiến Trung Quốc nhất là bọn giặc Minh rất
hiểm độc. Chúng bắt nhân dân ta theo phong tục Trung Quốc, ăn mặc kiểu Trung
Quốc, để tóc kiểu Trung Quốc, bó chân kiểu Trung Quốc, hòng làm cho ý thức dân
tộc ta bị tiêu vong. Nhưng dân tộc ta vẫn tồn tại vì
Truyền thống đấu tranh anh dũng bất khuất của dân tộc:
Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Dân tộc ta có một lịch sử chiến đấu oanh liệt, có thể sánh ngang với Trung Quốc.
Những chiến công của anh hùng dân tộc ta như Ngô Quyền, Hưng Đạo còn ghi trong
sử sách, những trận Bạch Đằng, Hàm Tử được muôn đời ca ngợi. Hãy xem: Lưu Cung
thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đô bị giết tươi, Ô Mã bị bắt sống. Đâu có phải là
lời nói suông. Đó là một thực tế khách quan.
Và với lối diễn đạt sóng đôi tương phản, tác giả đã khẳng định được truyền thống đấu
tranh cũng như tư thế độc lập tự cường của dân tộc ta. Ta nói đến truyền thống dân tộc
để ta tự tin, giặc nghe để chúng kinh hoàng. Quả vậy, dân tộc ta chẳng những đã phát
huy thắng lợi trong việc đấu tranh chống phong kiến Trung Quốc, mà còn tiếp tục đấu
tranh đánh đổ ách thực dân Pháp, Nhật, Mỹ xâm lược. Và trước sau, thời nào cũng
vậy, toàn thắng ắt về ta.
Phần một của bài cáo là một lời khẳng định hết sức tự hào và đầy khoa học về đất
nước: Đây là một đất nước có nhân nghĩa, có một nền văn hiến hết sức lâu đời và nhờ
lấy “nhân nghĩa” làm triết lí sống nên mới có được nền văn hiến lâu đời đến như vậy,
mới đánh thắng được bọn xâm lược phương Bắc, những kẻ không có chút “nhân
nghĩa” đó. Hơn nữa, qua phần một của bài cáo, ta còn cảm nhận được tấm lòng của
Nguyễn Trãi đối với đất nước: Ông hết sức tự hào về non sông này và ông đã thể hiện
niềm yêu nước thật mãnh liệt. Tấm lòng ấy chắc chắn sẽ không bao giờ phai nhạt theo năm tháng và thời gian.
Cảm nhận đoạn 1 Bình ngô Đại Cáo - Mẫu 7
Trong lịch sử Việt Nam, Nguyễn Trãi là một nhân vật lịch sử có tên tuổi, được biết
đến với trí võ song toàn. Trí tuệ, tài năng và phẩm chất của ông là ánh sao khuê không
bao giờ lụi tắt, soi sáng tới tận muôn đời sau. Không chỉ đóng góp cho cuộc kháng
chiến chống quân Minh xâm lược, góp phần lập ra nhà Hậu Lê, ông còn để lại sự
nghiệp văn chương đồ sộ với những áng văn chương mẫu mực, văn chính luận sắc
bén. "Bình ngô đại cáo" là áng "thiên cổ hùng văn " trong lịch sử , tổng kết cuộc
kháng chiến mười năm chống quân Minh và mở ra một kỉ nguyên mới cho nước nhà,
được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của nhân dân. Đoạn đầu của tác phẩm đã
khẳng định được tư tưởng nhân nghĩa cùng chân lý độc lập của dân tộc Đại Việt.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi”
Bài cáo được mở đầu bằng một tư tưởng nhân nghĩa có ảnh hưởng sâu sắc từ Nho
giáo. Khái niệm nhân nghĩa theo tác giả chính là tư tưởng, hành động vì con người,
đấu tranh cho lẽ phải để bảo vệ cho đời sống của con người. Đời sống nhân dân no
ấm, hạnh phúc thì đất nước mới có thể phát triển bền vững được. Vì vậy, những người
đứng đầu đất nước phải lo việc yên dân, trừ bạo, dẹp yên được bọn xâm lược và cả bè
lũ tay sai của chúng ở trong nước để bảo vệ cuộc sống của nhân dân. Tóm lại, tư
tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là muốn yên ổn dân chúng thì phải dẹp được
bạo loạn và những thế lực làm cho dân khổ.
Tiếp theo, tác giả Nguyễn Trãi đã khẳng định được nền độc lập vĩnh cửu trường tồn
của Đại Việt: có nền văn hiến từ lâu đời, có anh hùng hào kiệt, có các triều đại phong
kiến sánh ngang với các triều đại Trung Quốc, có phong tục tập quán, có núi sông
phân định rõ ràng. Bằng giọng văn đanh thép hào hùng, Nguyễn Trãi đã truyền được
lòng tự hào dân tộc sánh ngang với các triều đại xâm lược. Nhờ những bằng chứng sắc
sảo mà bài cáo đã được ví như Bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, khẳng định việc
xâm lược của triều đại trung quốc là sai trái.
Cuối cùng, Nguyễn Trãi đã tái hiện lại những thất bại thảm hại của quân giặc sang
xâm chiếm Đại Việt. Bằng những từ ngữ miêu tả sự thảm bại của quân giặc và tự hào
về những chiến công oanh liệt của dân tộc, người đọc thấy được 1 tinh thần hào sảng của nhà thơ.
Tóm lại, giá trị của Bình ngô đại cáo là trường tồn mãi mãi với dân tộc. Bình Ngô đại
cáo được so sánh là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai và có sức tồn tại vĩnh cửu trong nền văn học Việt Nam.