Văn mẫu lớp 10: Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi (20 Mẫu) | Cánh diều

Phân tích Bảo kính cảnh giới của Nguyễn Trãi bao gồm 3 gợi ý cách viết chi tiết kèm theo 20 bài văn mẫu khác nhau cực hay. Qua đó giúp các bạn có thêm nhiều tài liệu học tập củng cố kỹ năng làm văn phân tích bài thơ ngày một tốt hơn.

Dàn ý phân tích bài thơ Cảnh ngày hè
1. Mở bài
Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi: Nguyễn Trãi là một trong những cây đại cổ
thụ của nền văn học trung đại Việt Nam, đã góp vào kho tàng văn học trung đại
Việt Nam nhiều tác phẩm bằng cả chữ Hán và chữ Nôm
Giới thiệu về tập Quốc âm thi tập: tác phẩm chữ Nôm xuất sắc của Nguyễn
Trãi. Với thể thơ Đường luật được sử dụng thuần thục như thể thơ dân tộc, tập
thơ đã vẽ nên chân dung, con người Nguyễn Trãi.
Giới thiệu khái quát về bài thơ “Cảnh ngày hè”: bài số 43 trong số 61 bài của
mục Bảo kính cảnh giới trong Quốc âm thi tập là một trong số những bài thơ
tiêu biểu của Nguyễn Trãi.
2. Thân bài
a. 6 câu thơ đầu: Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống
Câu 1: hoàn cảnh đặc biệt của tác giả
Bức tranh thiên nhiên, cảnh vật
Hình ảnh đặc trưng của thiên nhiên, cảnh vật lúc vào hè: hòe lục, thạch lựu
hiên, hồng liên trì
Sử dụng động từ mạnh gợi nên sức sống căng tràn của cảnh vật: đùn đùn, phun,
tiễn
Bức tranh cuộc sống: tác giả đã sử dụng thính giác để cảm nhận cuộc sống, dùng âm
thanh để tái hiện lại sinh động và chân thực bức tranh cuộc sống
Lao xao chợ cá: âm thanh gần gũi, gợi nên sự sống của con người
Dắng dỏi cầm ve: âm thanh đặc trưng của mùa hè, gợi nên sự rộn rã, tươi vui
=> Bằng sự cảm nhận tinh tế của tất cả các giác quan, sự tinh tế trong cách cảm nhận
tình yêu thiên nhiên sâu sắc, tác giả đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên cuộc sống
ngày hè với tất cả màu sắc, đường nét, âm thanh, tất cả luôn căng tràn sự sống.
b. 2 câu thơ còn lại: Vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ
Ông ước mình có cây đàn của vua Ngu Thuấn để cầu mong cho “dân giàu đủ”.
Với việc mượn điển tích cây đàn của vua Ngu Thuấn để tự răn mình đã cho
chúng ta thấy chí hướng cao cả: luôn khao khát đem tài trí để thực hành tư
tưởng nhân nghĩa yêu nước thương dân.
3. Kết bài
Khái quát giá trị nội dung nghệ thuật của bài thơ: sử dụng thể thơ Đường luật, hình
ảnh thơ độc đáo đã cho chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp của bức tranh cảnh ngày hè.
Đặc biệt, qua đó giúp chúng ta cảm nhận u sắc vẻ đẹp m hồn của Nguyễn Trãi
một tình yêu thiên nhiên sâu sắc, một tấm lòng trọn đời lo cho dân cho nước.
Xem thêm: Dàn ý phân tích Cảnh ngày hè
Phân tích Bo kính cnh gii - Mu 1
Nhắc đến những nhà thơ có lòng yêu nước, thương dân nồng nàn thì phi nhc đến tác
gi Nguyn Trãi. Nguyn Trãi (1380 1442), v anh hùng dân tc, "tm lòng sáng ta
sao Khuê" (li vua Thánh Tông) trong bt hoàn cảnh nào cũng không nguôi
tâm nguyện hướng v dân v nước. Ngay c khi b nghi k, phi lui v quê ngoi Côn
Sơn, ông vẫn bc bch ni lòng tha thiết cháy bng trong cuc sống tưởng như chỉ
biết vui vy cùng mây núi c cây. Ni lòng y bc l nét trong chùm thơ 61 bài Bảo
kính cnh giới. Đặc biệt, bài thơ s 43 chan cha bao khát vọng hướng đến cuộc đời,
nhân dân.
Tác gi đã thể hin tình cm với c, với dân trong i thơ "Cảnh ngày hè". Bài thơ
"Cảnh ngày hè" được trích trong tập thơ "Bảo kính cnh giới" (Gương báu răn mình)
ly nhng bài hc t thiên nhiên đại để nhà thơ soi chiếu lòng mình. Ta không ch
gp tm lòng yêu thiên nhiên ca mt ngh lớn còn thu hiu tâm s của người
anh hùng luôn canh nh bên lòng ni nim "ưu quốc ái dân". Suy ngm cm xúc
của nhà thơ giúp chúng ta hình dung một nhân cách ln. Cuc sng ca v quan n
tht thanh bình, yên , không bồ. Ông đã mở đầu bài thơ một cách nh nhàng
êm đm nht:
"Ri hóng mát thu ngày trường"
Câu thơ trên đã gợi lên được phong thái cuc sng bình d ca Nguyễn Trãi nơi
vùng quê thanh bình. Ri xa chốn quan trưng nhiều đấu tranh, bt công, ông la
chn cho mình một con đường riêng, xa lánh vic quân, gn gũi và chan hòa vi thiên
nhiên. Thời gian không được nhắc đến nhưng người đọc s nhận ra đó mùa hè. Tuy
câu thơ không vướng bận lo âu nhưng chắc hẳn người đọc vn nhận ra được m s
ca tác gi. không bn việc nước, vic quân nhưng trong lòng ông còn nhiu tâm
s chưa giãi bày.
"Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thch lu hiên còn phun thc đ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"
Ba câu thơ đem lại mt bc tranh thiên nhiên nhiu màu sc, cùng nhng hình ảnh đặc
trưng của không gian mùa hè. Trưc hết, đó hoè buông sắc lục như một chiếc lng
khng l bao trùm lên cnh vt, to cm giác v mt không gian xanh. Cái nhìn thiên
nhiên ca Nguyn Tri luôn sc bao quát, va gi sc sng ca không gian trong
động t "đùn đùn" vừa gi cm giác phóng khoáng trong mt ch "rp". Tm nhìn
tri t gn ra xa, theo quy luật đăng đối hai câu t thực, khéo léo đan cài sắc đỏ ca
thch lựu trước hiên nhà cùng sc hng ca ao sen. Câu trên t sắc, câu dưới gi
hương. Thiên nhiên y cũng chứa chan bao cm xúc, lúc du nh lan ta lúc bng
bừng phun trào. Để ri cuối cùng đọng li cm giác man mác tiếc nh làn hương
thanh thoát ca sen hng lúc cui hè. Phi một người tâm hn tinh tế mi cùng
mt lúc din t đưc nhiu cm giác trong ch vài ba câu thơ đọng. Gia khung
cnh thiên nhiên ấy, nthơ dường như cũng nguôi ngoai bao ni nim bc dọc, để
lòng mình hòa cùng thiên nhiên đy sc sng.
Bc tranh cảnh ngày hè đã tr nên sinh động hơn, đặc sắc hơn với âm thanh và mùi v.
Mc khung cnh mà tác gi miêu t cui ngày, khi mt tri lặn nhưng mi vt
vẫn tràn đầy sc sng vi nhng t ng "đùn đùn", "giương", "phun", "tin", "lao
xao", "dng di". Nhng t ng đó cũng góp phần th hin nhng điều trong lòng tác
gi - ước mong được cng hiến cho nhân dân, cho đất nước. Nhit huyết đó như muốn
phun ra, trào ra lan tỏa đi khắp nơi. Trong sáu câu thơ này, tác gi đã thay đổi,
không đi theo tính quy phạm của văn học phong kiến na. Ông miêu t cnh ngày
vi nhng s vt vô cùng gần gũi với cuc sng hng ngày.
"Lao xao ch cá làng ngư phủ
Dng di cm ve lu tịch dương"
Với pháp đảo trt t pháp, t y “lao xao” được đảo lên đầu câu đã khiến cho
chúng ta cm nhn rt s tp tp, nhn nhp ca khung cnh ch làng quê nơi ông
đang sống. Bi rằng “Chợ” luôn gợi lên s an bình, thịnh ng, khi ch còn đông
nghĩa đất nước m no hnh phúc, khi ch tàn đồng nghĩa với thi k suy thoái ca
đất nước. Như vy, quê nhà thì Nguyn Trãi vẫn luôn mong cho đất nước luôn
bình an, m no hnh phúc. Hai câu cui của bài thơ chính nguyn vọng, ý tưởng
mà c cuc đi Nguyn Trãi p và mong ngóng:
"D có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đ khắp đòi phương"
Tác gi đã lấy điển tích điển c thi vua Nghêu, vua Thun cai tr đất nước luôn thái
bình thnh tr. Thời đó, vua Thun một khúc đàn “Nam Phong” vi giọng điệu sôi
ni, gi cm giác nh d, m êm. Bi vy Nguyn Trãi muốn mượn tiếng đàn đó để
th nguyn cu cho cuc sng ca nhân dân luôn chan hòa, an lành hnh phúc
nht. Nguyn vọng “Dân giàu đủ” của Nguyn Trãi thc s đáng quý, đáng trân trọng.
Bài thơ "Cảnh ngày" tái hin mt bức tranh thiên nhiên tươi đẹp cùng tm lòng yêu
thiên nhiên, đất nước của nhà thơ. Như vậy qua bài thơ Cảnh ngày hè” Nguyễn Trãi
đã v lên mt bức tranh ngày sôi động, nhiu màu sắc, đồng thời qua đó thấp
thoáng bóng dáng một người luôn nghĩ cho nước cho dân. Bài thơ để lại cho người
đọc nhng ấn tượng sâu lng nht v cuc sống và tâm tư đáng trân trọng ca ông.
Phân tích bài thơ Bo kính cnh gii - Mu 2
Nguyn Trãi không ch biết đến vi tác phm ni tiếng, mt áng thiên c hùng văn
bình ngô đại cáo còn đưc biết đến vi những bài thơ thiên nhiên con ngưi
như Côn Sơn Ca, Cây Chuối… một trong nhng tác phẩm thiên nhiên và con người y
còn phi k đến bài thơ bảo kính cnh gii 43 của ông. Đó là bài thơ cnh ngày hè vi
những thiên nhiên con người và tâm trng ca Nguyn Trãi.
Trong những bài thơ về tình yêu thiên nhiên Côn Sơn chính nơi dng chân ca
Nguyn Trãi trong nhng ngày tháng bun bã mt mỏi nơi quan trường.
S ung dung nhàn h ấy được th hin trong câu thơ đu tiên:
Ri hóng mát thu ngày trường
Câu thơ như mở ra nhng ngày tháng thảnh thơi, hóng mát nhng ngày dài, nhng
hình nh i ca nhng ngày tháng y dần được m ra nhng câu sau. Nhng ngày
tháng y nhng ngày tháng an nhàn khi gác li chuyn chính s sang mt bên,
khiến cho không ch tâm hn th c cũng rất nhàn h. cuc sng vi ông ch cn
thế mùa đến ông không cm nhn thy cái nóng của đất tri ông ch cm nhn
được gió mát. Thiên nhiên nơi chốn qhương chính nguồn cm hng tân cho
tác gi. Làm cho ông cm thy vui v phn nào trong cuc sng quê.
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.
Thch lu hiên còn phun thc đ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Đây những câu thơ đc t nhng cảnh đẹp mùa nơi chốn quê hương ông,
hương sắc mùa rt sinh động hp dn. hình nh ca mùa hin ra vi nhng
gam màu nóng:màu đ ca hoa hòe, màu lựu đỏ, màu hng ca cánh sen chúng
được kết hp vi nhng động t mạnh nđùn đùn”, phun”, tiễn” cho thy mt
bức tranh quê hương vi màu sắc hương v đặc trưng s sinh sôi ny n mnh
m trong mùa hè.
Bc họa đồng quê hin ra vi biết bao nhiêu màu sắc bao nhiêu thay đổi đẹp đẽ, và đó
còn s sinh trưng mnh m ca hoa c cây ci. mang ti cho chúng ta nhng
cm giác tht yên bình, không nhng thế ta còn cm nhận được cái hương vị ca mùa
hè qua động t “tiễn”.
Không nhng thế mùa còn mang đến cho tác gi nhng nhng phiên ch nhng
làng ngư phủ. Cuc sng thôn hin ra vi v tp np hiếm của con người nơi
đây. Chính chợ phn ánh cuc sng của con ngưi có no đ, giàu có hay không
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dng di cm ve lu tịch dương”
Cuc sng tht s náo nhit, nhng phiên ch ca những ngư dân ng bin, hình nh
nh những con người lao động hin n thật đẹp vi phiên ch vui v ca những lưới
cá bi thu.
Dân giàu đ khắp đòi phương”.
Ct lên mt khúc đàn ca cây đàn vua Ngu Thun mang li cho nhân dân cuc sng
m no hạnh phúc. MƯợn được hình nh vua Ngu Thun cây cm ấy để làm cho nhân
dân ta giàu mnh khắp phương. Dù đã tr v vi cuc sng nơi thôn dã nhưng ông
luôn luôn gi tình yêu thương và lòng mong mi mt cuc sng m no hnh phúc cho
nhân dân trăm họ.
Bài thơ là những dòng chy cm xúc v thiên nhiên cũng như nỗi khát khao mong mi
và tấm lòng yêu nước nng nhit ca Nguyễn Trãi. Bìa thơ tuy ngắn nhưng để li cho
người đc nhiu ấn tượng mnh. Kết thúc bài thơ là tinh thần nhân nghĩa cao cả
tình yêu nhân dân vô b bến ca ông.
Phân tích Bo kính cnh gii - Mu 3
Nguyễn Trãi đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa của Đại Việt, đồng thi ông
còn tác gi áng thiên c ng văn "Bình ngô đi cáo". Ngoài ngòi bút sc bén, lp
luận đanh thép với dn chng thuyết phc trong những áng văn chính lun, ta còn bt
gp mt Nguyn Trãi vi phong thái nhàn tn, giao cm hòa hp cùng thiên nhiên
trong "Bo kính cnh gii 43". Không ch mang cht tr tình sâu sắc, bài thơ chứa
đựng c ni dung mang tính giáo hun người đời, ngi ng tâm hồn ng ca bc
thi sĩ ln c Trai.
Trưc hết, bài thơ thể hiện tình yêu cũng như tâm hồn tinh tế và s giao cm mnh m
đối vi thiên nhiên ca tác gi Nguyn Trãi. Nhân vt tr tình xut hin trong phong
thái ung dung t ti: "Ri hóng mát thu ngày trường". Như chúng ta đã biết, Nguyn
Trãi nhà thơ nng lòng vi thiên nhiên luôn m lòng vi thiên nhiên trong mi
hoàn cảnh, nhưng khoảnh khc rnh ri vào mt ngày ktri mát m, trong lành thì
qu hiếm hoi. Nếu người xưa thưng thiên v vnh cnh thì Nguyn Trãi li vn
dng bút pháp t. Và ri bng s quan sát tinh tế ca nhân vt tr tình, bc tranh thiên
nhiên đầy sc sống đã hiện lên:
"Ri hóng mát thu ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thch lu hiên còn phun thc đ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"
Nhng sc màu ca cnh vt hin lên trong s giao hòa: Màu lc ca lá hòe cùng màu
đỏ ca hoa thch lựu đan cài vào nhau trong ánh mặt tri bui chiều. Đặc biệt hơn,
cnh vật được miêu t trong s chuyn đng to nên mt bức tranhng tràn sức sng.
Tác gi đã sử dng nhng động t mạnh: "đùn đùn", "trương", "phun" gợi nên s tràn
đầy và sc sng t ni tại đang ứa căng và không kìm lại được và phi bc phát ra bên
ngoài. Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã tng miêu t cnh sc mùa hè bng sc hoa lu:
ầu tường la lu lập lòe đơm bông" (trích "Truyện Kiu"). Vi t "lp lòe", tác gi
Nguyễn Du đã tạo nên s độc đáo trong vic to hình sc, còn Nguyn Trãi li nhn
mnh sc sng ca cnh vt, th hin cái nhìn tinh tế đối vi cnh vt của hai thi
tài ba. Thi nhân đã vận dng nhiu giác quan: th giác, thính giác và khu giác kết hp
cùng trí tưởng tượng phong phú để đón nhn v đẹp ca thiên nhiên, cho thy s giao
cm mnh m nhưng vô cùng tinh tế ca Ức Trai đối vi cnh vt.
Không ch dng li đó, bên cạnh màu sc tác gi còn điểm cho bc tranh thiên
nhiên âm thanh, đưng nét hệt như một ngưi họa sĩ tài ba to nên mt kit tác có hn
ca to vt. "Thch lu hiên còn phun thức đ" vi s kết hp của đng t "phun"
"thc"- màu v, dáng vẻ, câu thơ đã diễn t thành công cái hn thn thái ca cnh
vt. Cnh vật mùa còn được miêu t qua hình nh rất đặc trưng: Đóa sen trong ao
đã tỏa hương thơm ngát, tạo nên mt bc tranh hài hòa v màu sắc và hương vị.
Bài thơ còn khc ha bc chân dung ca một con người luôn hết lòng dân, nước.
Mặc dù đang hòa mình đắm say trong v đẹp sinh động, đáng yêu tràn tr sc sng
của thiên nhiên nhưng tác gi vẫn hướng đôi mắt quan sát của mình đến cuc sng ca
con ngưi:
"Lao xao ch cá làng ngư phủ
Dng di cm ve lu tịch dương"
Bức tranh mùa đưc b sung thêm nhng nét v v cuc sng của con người vi
thanh âm ca "lao xao" ca ch ti mt làng chài ven sông cùng tiếng dng di ca
cm ve. Cuc sống n vui, no đủ của người dân đã gợi lên trong lòng tác gi mt
mong ưc hết sức cao đẹp:
"D có Ngu Cm đàn một tiếng
Dân giàu đ, khắp đòi phương"
Tác gi mong ước đưc chiếc đàn của vua Thuấn để gy nên khúc Nam Phong ca
ngợi đời sng m no hnh phúc của nhân n. Câu thơ kết thúc bài đưc kiến to theo
cách ngt nhp 3/3, th hin s dn nén cm xúc của bài thơ. M đầu bng bc
tranh thiên nhiên giàu hình nh, màu sc, hình khối, đường nét nhưng kết thúc bng
câu thơ nói v con ngưi cho thấy điểm kết mà tác gi muốn hướng đến không phi
thiên nhiên to vt mà chính con người. Điều này đã thể hin rõm hn hết sc cao
c đại ca Nguyn Trãi- v anh hùng n tc luôn mong muốn cho dân đưc m
no, hnh phúc.
Như vậy, thông qua bài thơ, chúng ta thể thấy được tình yêu cùng s giao hòa đối
vi thiên nhiên ca tác gi, giống như ông đã tng bc bạch: "Non nước cùng ta đã
duyên" ("T thán"- bài 4). một thi sĩ, ông đến vi thiên nhiên trong mi hoàn cnh
nhưng cuối cùng, tâm hn ca ông vẫn hướng đến nhân dân, đến đất nước. Qua li
tâm s mong ước v cuc sng của nhân dân, độc gi th thấy đưc tâm hn
tưởng cao đẹp ca tác gi Nguyn Trãi. Tình yêu thiên nhiên, to vật đã quyện hòa
và làm ngời sáng hơn na tình yêu đi vi đt nước, nhân dân.
Phân tích Cảnh ngày hè học sinh giỏi - Mẫu 4
Nguyễn Trãi một nhà thơ nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam. Ông luôn sống
giao hòa với thơ, với thiên nhiên con người. Trong những ngày tquan về ẩn tại
Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã sáng tác nhiều bài thơ đặc sắc, trong đó bài số 43 trong
chùm thơ "Bảo kính cảnh giới". Tác phẩm "cảnh ngày hè" bức tranh phong cảnh
mùa độc đáo về thiên nhiên, phong cảnh sống sinh hoạt nhưng thấp thoáng niềm
tâm sự của tác giả về vận mệnh đất nước.
Những câu thơ đầu tiên, tác giả đã vẽ ra một bức tranh thiên nhiên rực rỡ, tràn đầy sức
sống của mùa hè với một không khí náo nhiệt, rộn ràng của cuộc sống thường nhật.
"Rồi, hóng mát thuở ngày trường"
Câu thơ mở đầu với lời thơ thể hiện sự nhàn hhưởng thụ ngày hè của một con người
thanh thản, không vướng bận, chữ "rồi" n nhấn mạnh sự nhàn rỗi của nhà thơ.
Nhưng vẻ ẩn sâu trong đó tiếng thở dài của nhà thơ. Trong một câu thơ đời
Đường viết:
"Lục thu âm nồng hạ nhật trường"
Thật đặc biệt, trong thơ của Nguyễn Trãi sự đồng nghĩa " thuở ngày thường". Bài
thơ được ra đời trong hoàn cảnh Nguyễn Trãi lui về ẩn, tránh xa chốn quan trường
đầy cám dỗ, chính vì vậy nhà thơ đã có cơ hội tận hưởng hết cái đẹp của ngày hè. Liệu
ý thơ đó chỉ đơn thuần những cảm nhận về thời gian hay những tâm , nỗi niềm
của nhân vật trữ tình gửi gắm vào khung cảnh ngày hè căng tràn sức sống.
"Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương".
Chỉ với ba câu thơ ngắn gọn nhà thơ đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh
ngày rực rỡ với những màu sắc tươi sáng mang nét đặc trưng của mùa hè. Nổi bật
trong bức tranh ấy màu xanh của tán hoè như làm dịu đi cái nắng gay gắt, Nguyễn
Trãi đã khéo léo lồng ghép màu đỏ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc thắm hồng
của áo sen toả ngát hương thơm.
Nếu như trong các tác phẩm thơ cổ, những thi thường dùng những màu sắc trầm,
nhưng trong thơ của c Trai đã một sự phá cách, đó không còn bức tranh tiêu
điều, ảm đạm những khung cảnh ơi vui, tràn đầy sức sống. Đó không chỉ
sức sống của thiên nhiên còn những mạch sống đang tràn trề ẩn sâu bên trong
mỗi sự vật, tất cả được thể hiện qua những động từ mạnh "đùn đùn", "phun". Hình ảnh
ao sen không chỉ khơi gợi cho người đọc một mùi hương thơm ngát, lan tỏa khắp
không gian.
Hình ảnh lựu đỏ xuất hiện không ít trong các tác phẩm thkể đến như của Nguyễn
Du với hình ảnh "Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông" hay trong "Hồng đức quốc âm
thi tập":
"Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi"
Tất cả một điểm chung đó đều miêu tả một mùa nóng bức, ngột ngạt. Nhưng
trong thơ của Nguyễn Trãi lại khác, một mùa xanh ngát xanh, phải chăng nhà thơ
đã mở rộng tâm hồn mình để cảm nhận cuộc sống, để nhìn ra những sức sống tràn trề
đang tràn ngập bên trong mỗi sự vật.
"Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương".
Không chỉ giúp người đọc cảm nhận được màu sắc, Nguyễn Trãi còn giúp chúng ta
hình dung những âm thanh của cuộc sống thật sôi động. Bức tranh với âm thanh sôi
động khiến cho thiên nhiên c chiều không hề ảm đạm. Những hình ảnh quen
thuộc dần xuất hiện trong bài thơ theo một cách đặc biệt bằng cách đảo các tính từ
"lao xao", "dắng dỏi" lên đầu làm nổi bật cuộc sống náo nhiệt, xoá tan không khí hiu
quạnh.
Phiên chợ chính minh chứng ràng nhất cho sự sống của con người hiện lên với
những âm thanh của người mua, kẻ bán, tiếng nói cười trong không gian yên bình.
Nhà thơ đang hướng lòng mình về những âm thanh bình dị. Tiếng ve hình ảnh
cùng quen thuộc, như một bản nhạc mùa thiên nhiên ban tặng. Cùng viết về
mùa nhưng trong c phẩm của Nguyễn Trãi diễn tả một cuộc sống đang sinh sôi,
ngay cả khi chiều tà, một khung cảnh thật thành bình, khác với a trong thơ của
Nguyễn Khuyến oi nồng:
"Tháng tư đầu mùa hạ
Tiết trời oi ả
Tiếng dế kêu thiết tha
Đàn muỗi bay tơi tả".
do sự khác biệt đó chính Nguyễn Trãi cảm nhận thiên nhiên bằng sức sôngs
đang trào dâng trong tâm hồn mình, còn Nguyễn Khuyến lại mượn cảnh ngày để
dãi bày tâm sự. Sống trong bình yên, vô lo vô nghĩ nhưng trong sâu thẳm tấm lòng của
Ức Trai vẫn đau đáu một nỗi niềm lo cho dân, cho nước.
"Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương".
Tác giả hoài bão về một thời thịnh vượng Đường Ngu, nhà thơ muốn mượn cây đàn
Ngu cầm để gảy n khúc Nam Phong ngợi ca cảnh thái bình thịnh trị hay đó chỉ
những ước mong của nhà thơ về tương lai, về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
theo hướng suy nghĩ nào đi nữa tchúng ta đều cảm nhận được tấm lòng yêu nước
của nhà thơ. Những lời thơ dản dị mộc mạc được cất lên từ một tấm lòng chân thành,
một con tim cháy bỏng với tính yêu nước thương dân, ông luôn đặt lợi ích quốc gia
lên trên lợi ích bản thân.
Với thể thơ thất ngôn xen lục ngôn, nhịp thơ đa dạng, linh hoạt. Bài thơ là một sự phá
cách bằng cách sử dụng nhiều hình ảnh sinh động qua cách miêu tả thiên nhiên bằng
các động từ mạnh làm cho bức tranh ngày hè tràn đầy sức sống. Đọc bài thơ, ta không
chỉ thấy được cảnh thiên nhiên tươi đẹp mà còn ẩn sâu trong đó là tấm lòng cao cả của
nhà thơ.
Bằng chiếc thuyền tâm hồn mái chèo ngòi bút, Nguyễn Trãi đã đặt cả tâm hồn
yêu thiên nhiên cái đẹp vào từng câu thơ, khiến sự vật như hồi sinh. Bên cạnh đó
người đọc còn nghe được tiếng lòng, tiếng yêu cuộc sống, yêu quên hương của thi sĩ.
Phân tích bài Cảnh ngày hè - Mẫu 5
Thiên nhiên nguồn cảm hứng thơ bất tận, để người nghệ mài mực viết nên những
trang hoa tờ hoa của mình. Đến với Cảnh ngày người đọc bắt gặp một bức tranh
thiên nhiên mới mẻ, sinh động, giàu sức sống nội lực toát ra từ chính cảnh vật. Điều
khiến bài thơ trở nên đặc biệt chỗ, bức tranh cảnh ngày được pha trộn giữa
những đường nét mới mẻ hiện đại, đậm chất sống nguyên của cuộc sống đời
thường - điều cùng hạn chế trong n học trung đại, kết hợp với chất liệu cổ điển
của một mùa đã đi vào điển tích, từ đó khiến bài thơ mang đậm dấu ấn riêng của
hồn thơ Nguyễn Trãi.
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”.
Với cương vị một bậc công thần của dân tộc, ngày ngày mang vác trên vai gánh
nặng chính sự, quốc sự thì hình ảnh Nguyễn Trãi trong câu thơ đầu này quả thực
chút lạ lẫm. Nhưng “Hóng mát thuở ngày trường”, phần nào cho người đọc thấy một
tâm thế khác của Nguyễn Trãi, ông phải chăng đã tạm gác việc triều chính, thế sự
nhiễu nhương sang một bên, tạm lánh đục về trong, sống đời sống của một hiền nhân
thanh cao không vướng bụi trần. Phần o lẽ cũng thế, tâm hồn thi sĩ, tình
yêu thiên nhiên trong thi nhân đã khiến những cảnh sắc thiên nhiên vốn thân thuộc,
bình dị trở nên mơn mởn sức sống sức xanh:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Nếu trong thơ Mới ta bắt một thế giới hữu sắc đa ơng, mang đậm dấu ấn nhân
của người nghệ thì ngược dòng thời gian trở về trước, văn học trung đại còn kiềm
tỏa sự sáng tạo cái tôi nghệ thuật. Thiên nhiên cũng không được tự do thể hiện bản
sắc đa dạng sức sống nội lực của nó, thiên nhiên trong văn học trung đại vẫn
những ước lệ điển hình người sau kẻ trước noi theo. Thế nhưng, đến với Cảnh
ngày hè của Nguyễn Trãi, ta dường như cảm nhận được một nội lực khác tỏa ra từ bài
thơ. Vẫn những hình ảnh quen thuộc của thiên nhiên ngày hè, nào hòe, nào lựu,
cả hồng liên trì. Cái mới lạ đây cách Nguyễn Trãi gọi dậy sức sống trong từng
loại thảo mộc, ngòi bút rất hồn của thi nhân như đã điểm bút lực vào cho cả
những thứ tưởng rất đỗi tri. Các động từ mạnh “đùn đùn, phun, tiễn” cho thấy sức
sống căng tràn, dồi dào, thấy được nhựa sống đang lên trong lòng vạn vật. Thơ trung
đại ưa vẻ đẹp của cái tĩnh, thanh trong vị, đạm trong màu sắc, ít khi nào ta thấy thiên
nhiên trong thơ trung đại những chuyển động mạnh, ấy vậy trong thơ Nguyễn
Trãi sự sống như đang phun trào từ chính bản thân của cảnh vật. Đó không chỉ sức
sống, còn nội lực sống căng tràn, tưởng như đang chảy tràn trên trang sách.
Nghe thấy được những chuyển động tế vi, mạch sống quý giá ấy bên trong cảnh vật
thiên nhiên, Nguyễn Trãi qủa nhiên phải là một hồn thơ vô cùng tinh tế với những sợi
tơ đàn bén nhạy đến độ. Có được cảm quan đó, hẳn đấy phải một tâm hồn yêu thiên
nhiên, rạo rực với niềm tin vào cuộc sống, vào dòng u chuyển đất trời. Thiên
nhiên trong thơ Nguyễn Trãi nhờ những chuyển động mạnh mẽ đầy nội lực ấy bớt
đi vẻ đài các cao sang ước lệ của n chương cổ điển, mang đậm hơi thở của cuộc
sống:
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”.
Ở trên là bức tranh thiên nhiên rạo rực sức sống, thì ở dưới là hình ảnh cuộc sống bình
dị, câu trên dân thường ngày câu dưới lại vẫn pha chút ước lệ cổ điển của văn
học trung đại. ràng, trong tâm niệm của người Việt, nh ảnh chợ biểu hiện phần
nào chất lượng cuộc sống, câu thơ này, ch“lao xao”, phần o thấy được cuộc
sống no đủ, tấp nập, buôn bán huyên náo của người dân chứ không còn “lác đác bên
sông chợ mấy nhà nữa”. Chính những gợi ý nho nhỏ từ câu thơ này, dưới mong
ước của bậc trung quân, yêu nước thương dân càng thêm sâu sắc, rõ nét:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương".
Điển tích đàn Ngu cầm của vua Nghiêu Thuấn là hình ảnh về đời sống nhân dân an
lạc nghiệp, thái bình thịnh trị. Từ đây, thhiểu tấm lòng tác giả đó ông khao
khát, mong muốn, mong mỏi nhân dân cuộc sống an lạc, thái bình, không trải qua
cảnh binh đao giày xéo. Chính ước ấy đã phần nào giúp ta hiểu hơn vtấm lòng
Nguyễn Trãi, một nhà thơ đại một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến
cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ.
Bằng việc sử dụng sinh động, linh hoạt các động từ mạnh mang đến nội lực từ bên
trong sự vật, Nguyễn Trãi dường như không chỉ đang khắc họa bức tranh mùa
còn đang khiến sự vật tự họa mình trên trang viết, tự thể hiện sức sống nội lực, căng
tràn của chính nó, lẽ thế dẫu sử dụng kết hợp một vài chất liệu cổ điển đã cũ
đã quen, bài thơ của Nguyễn Trãi vẫn để lại dấu ấn riêng của hồn thơ ông. Đặc biệt,
đằng sau bức tranh thiên nhiên, điều đọng lại làm xúc động trái tim người đọc tấm
lòng lo cho nước, thương dân của nhà thơ.
Bằng chiếc thuyền tâm hồn có mái chèo ngòi bút, Nguyễn Trãi đã mang cả tâm hồn
yêu thiên nhiên cái đẹp vào trang viết, để khiến sự vật như hồi sinh thể hiện sức
sống nội lực bên trong cảnh vật. Bên cạnh đó, một cách giản dị sâu sắc bài thơ còn
khiến người đọc thêm ngậm ngùi thấm thía bởi tấm lòng cao cả của Nguyễn Trãi
khi luôn một lòng yêu nước, thương dân.
Phân tích bài Cảnh ngày hè - Mẫu 6
Nguyễn Trãi - một nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Ông luôn sống giao
cảm với thơ với cuộc sống thiên nhiên con người. Chốn quan trường với những
toan tính chèn ép đã khiến ông đã quyết định tìm về với thiên nhiên để cho tâm hồn
mình thanh tịnh. Trong thời gian ấy ông làm thơ về thiên nhiên nhưng trong những
vần thơ thiên nhiên ấy lại những tâm sự về sự lo lắng cho nhân dân đất ớc. Bài
thơ “Cảnh ngày hè” một bài thơ như thế. Trong thiên nhiên mùa cảnh sống
sinh hoạt của nhân dân Nguyễn Trãi vẫn thể hiện tình yêu nhân dân đất nước của
mình.
Trước hết câu thơ đầu thể hiện tâm trạng của nhà thơ trong những ngày hè, nhưng
ngày về cáo quan ở ẩn:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Chúng ta thấy rõ được chữ “rồi” ở đầu câu thể hiện một tâm trạng rảnh rỗi của nhà thơ
quê. không sự bon chen đố kỵ, chèn ép của những tinh thần. Tại sao nhà thơ
không nói rỗi lại “rồi”? thể nói chữ “rỗi” chữ “rồi” đều nói lên cùng
một tâm trạng nhưng nhà thơ sử dụng từ “rồi” gợi cảm giác xưa hơn. Bởi từ
“rỗi” sau này mới có, mang tính chất hiện đại. Nhà thơ cáo quan về với thiên
nhiên làng cảnh Việt Nam.
Những câu thơ tiếp theo nhà thơ vẽ lên một bức tranh cảnh ngày cùng rực rỡ.
Bức tranh ấy không chỉ có thiên nhiên mà còn có cả con người.
Trước tiên bức tranh thiên cảnh ngày nơi thôn quê. thể nói Nguyễn Trãi
giống như một nhà họa sĩ dùng ngôn từ để vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp ấy:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Cây hoa hòe tán rộng tỏa bóng mát khắp đầu tường. Tiếp đó nhà thơ vẽ thêm những
bông hoa thạch lựu trước hiên nhà có màu đỏ rực rỡ như ánh nắng chói chang của mùa
hạ kia vậy. Nhắc đến quê hương người ta không thể nào quên được hình ảnh những
bông hoa sen hồng với hương sắc tuyệt vời. Nhà thơ không nói hẳn hoa sen
dùng hai chữ “hồng liên” gợi sự trang trọng ckính. Trong bức tranh ấy ta không chỉ
thấy màu sắc mùi hương ta còn thấy được cả sự sinh trưởng của chúng. Cây hoa
hòe “đùn đùn”, cây thạch lựu phun”, hoa sen “tiễn” mùi hương. Mùa hạ quả đúng
mùa của sinh trưởng cho những loại cây cối. Sức sống ấy mạnh mẽ như các động từ
mạnh kia vậy. Hương thơm của hoa sen cũng như bay xa hơn thoảng vào không gian
nhiều hơn qua từ “tiễn” ấy. Chữ tiễn ấy không phải là tiễn biệt chia ly mà chứ tiễn như
thể hiện cái sự bay xa của hương sen trong cơn gió kia làm cho không gian làng quê
ngát hương.
Bức tranh ấy còn cnhững cuộc sống sinh hoạt của con người làng quê. Thật vậy
tranh thiên nhiên đã đẹp nhưng còn đẹp hơn khi xuất hiện hoạt động sự sống của
con người:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Từ láy “lao xao” như thể hiện được hết cái vui tươi của con người lao động trong
những buổi chợ. Chợ có đông thì mới có niềm vui như thế, tiếng động như thế. Cái
âm thanh ấy như tác động đến tâm hồn người nghệ sĩ. Chợ kia dường như rất
nhiều đồ khiến cho người dân nơi đây náo nức, mua bán. thể nói rằng đó chỉ
cuộc sống đời thường thôi nhưng tại sao khi cảm nhận đây ta lại thấy đẹp đến
thế. Có khi nào cái đẹp xuất phát từ những cái quá đỗi bình thường không? Thế rồi âm
thanh của những con ve gọi hè. Tiếng ve như dắng dỏi tạo nên thành một dàn đồng ca
mùa hạ ngân nga ngày đêm không biết mệt.
Trước những thiên nhiên con người nhà tnhư thể hiện những ước nguyện của
mình. Nhà thơ thật thà thể hiện tấm lòng của mình:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Câu thơ thể hiện ước nguyện của nhà thơ mong muốn mượn được chiếc đàn của vua
Ngu Thuấn đàn một tiếng cho nhân dân giàu khắp bốn phương. Từ truyền thuyết tiếng
đàn của vua Ngu Thuấn nhà thơ thể hiện ước nguyện sự lo lắng cho nhân dân. Mong
có thể giúp đỡ cho nhân dân có một cuộc sống đầy đủ yên ổn thái bình.
Như vậy qua đây ta thấy được một bức tranh thiên nhiên cùng đẹp, tất cả nhưng
màu sắc đều thể hiện đặc trưng của mùa hè. thể nói chắc hẳn nthơ phải một
người yêu thiên nhiên nhiều lắm thì mới thể cảm nhận được cả những bước sinh
trưởng của cây cối mùa như thế. Đồng thời ta cũng thấy được một tâm hồn trung
nghĩa với nhân dân. Mặc xa rời quan trường nhưng ông không lúc nào không lo
cho nhân dân, mong muốn nhân dân có một cuộc sống an lành bình yên.
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè - Mẫu 7
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng dành những lời trân trọng nhất "Nguyễn Trãi
người đầu đội trời Việt Nam, chân đạp đất Việt Nam, tâm hồn lộng gió thời đại..." Vẻ
đẹp ấy của hồn thơ Nguyễn Trãi đã được phác họa qua những vần thơ của "Cảnh ngày
hè", một trong số bài tcủa chùm thơ 61 bài "Bảo kính cảnh giới". đó, ta không
chỉ bắt gặp một tâm hồn tinh tế nhạy cảm trước thiên nhiên của một người nghệ
còn thấy được một tấm lòng luôn cháy sáng vì nước vì dân của vị anh hùng dân tộc.
Thiên nhiên vốn mảnh đất cùng màu mỡ của biết bao thi nhân trung đại cày xới
cũng, nguồn thi hứng không bao giờ vơi cạn Nguyễn Trãi .Nhà thơ sống giữa
thiên nhiên, bầu bạn cùng thiên nhiên, và lấy từ thiên nhiên những bài học quý giá làm
"gương báu răn mình" để rồi ghi lại trong tập thơ "Bảo kính cảnh giới". Một nhân
cách thanh cao "tỏa sáng tựa sao khuê", một tấm lòng cao cả, vẫn luôn tha thiết với
nhân dân, với đất ớc dẫu trong nh cảnh ngặt nghèo bị nghi kỵ, dèm pha hay ngay
cả khi cuộc sống yên bình, nên thơ giữa thiên nhiên của Nguyễn Trãi đã đến với
người đọc chính qua những vần thơ ấy. m câu thơ của "Cảnh ngày hè" đã p thêm
nét vẽ để bức chân dung tâm hồn của Ức Trai hiện lên rõ nét nhất.
Ngay từ những câu thơ đầu tiên, tác giả đã dẫn chúng ta đến với một bức tranh thiên
nhiên rực rỡ, tràn trề sự sống của mùa hè, đến với một không khí náo nhiệt, rộn ràng
của cuộc sống thường nhật vẫn đang tiếp diễn.
Rồi, hóng mát thuở ngày trường
Câu thơ mở đầu cho bài thơ tác giả đã giới thiệu về hoàn cảnh ởng "nhàn" bất đắc
của mình.Lời thơ biểu đạt sự nhàn hạ trong một ngày của một con người không
bị vướng bận bởi điều với nhịp của chữ "rồi" tách riêng khỏi nhịp của câu thơ như
nhấn mạnh sự rảnh rỗi của nhà thơ. Nhưng khi đọc sâu, ngẫm kỹ vào từng câu chữ ta
lại cảm nhận được tiếng thở dài trong câu thơ. Cụm từ "thuở ngày trường" trong câu
đầu có cùng nghĩa với "hạ nhật trường" trong một câu thơ của Cao Biền thời Đường:
Lục thụ âm nồng hạ nhật trường
(Cây xanh bóng rợp ngày hè dài)
Bài thơ được viết trong thời gian Nguyễn Trãi an nhàn lui về ẩn xa rời chốn bon
chen đầy cám dỗ của quan trường, như thế nhà thơ đã hội để cảm nhận trọn
vẹn cái "ngày dài" ấy. Thế nhưng liệu đó phải chỉ những cảm quan về thời
gian, ngày tháng? Hay đằng sau hai chữ "ngày trường" cùng với nhịp thơ như trải dài
ấy còn tâm trạng nhân vật trữ tình, những nỗi niềm của Ức Trai chăng? phải
chăng tất cả những m ấy đang dồn nén vào trong bức tranh thiên nhiên ngày
mãnh liệt và căng tràn sức sống trước mắt và được nhà thơ nâng niu ghi lại:
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Chỉ trong ba câu thơ hàm súc tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh mùa
rực rỡ với những gam màu đậm, tươi tắn cùng những hình ảnh đặc trưng của mùa
hè. Bao trùm lên bức tranh ấy chính là những "chiếc lọng" xanh biếc của tán hòe đang
bung sắc như làm dịu đi cái chói chang, gay gắt của nắng hè. Đặt điểm nhìn xuống
thấp hơn, nhà thơ đã khéo léo đan cài màu đỏ rực rỡ của thạch lựu trước hiên nhà
cùng sắc hồng của ao sen đang tỏa hương thơm ngát lan tỏa khắp không gian. Nếu thơ
ca cổ điển ưa những gam màu trầm hơn những sắc gắt, ưa tả tĩnh hơn tả động thì
Nguyễn Trãi đã dám bước qua cái khuôn khổ ấy để thoát khỏi những bức tranh thanh
đạm, tiêu và để đến gần hơn với bức tranh cảnh ngày tươi vui, đầy sức sống.
Nhà thơ không chỉ cảm nhận được hình sắc của thiên nhiên tạo vật còn nhận thấy
một mạch sống đang ứa căng, tràn trề, đang đùn đùn phun ra những sắc xanh, sắc đỏ
của hoa lá, cỏ cây. Thiên nhiên của Nguyễn Trãi hiện lên qua những động từ mạnh
"đùn đùn", "phun", "tiễn" "giường" như đang trào dâng một sức sống nội sinh mãnh
liệt, mạnh mẽ ẩn sâu bên trong mọi tạo vật. Hòe không được miêu tả như một vật thể
thông thường được đặt trong sự vận động, phát triển của tự nhiên. Ao sen cũng
không chỉ gợi một thứ hương dịu nhẹ còn thể hiện sự lan tỏa, sự chuyển động của
mùi hương ấy khắp không gian. Đều lấy tâm điểm những bông hoa thạch lựu đỏ
như những đốm lửa nhưng nếu Nguyễn Du gợi tả được màu sắc qua phép điệp âm"lửa
lựu lập lòe" trong câu thơ ầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông" (Truyện Kiều) thì
hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi còn cả nhựa sống dồi dào bên trong đang "phun"
tỏa, phát lộ ra ngoài. Cái sinh khí rực rỡ, viên mãn nhưng cũng rất thanh thoát ý vị ấy
khác hẳn với cái nóng nực của mùa các nhà thơ trong "Hồng Đức quốc âm thi
tập" đã biểu hiện:
Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi
Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè
Phải chăng chính nhà thơ đã mở rộng tâm hồn mình để cảm nhận cuộc sống, để phát
hiện ra cái thế giới bên trong đang tuôn tràn của thiên nhiên, i vận động không
ngừng trong tự nhiên.
Nhưng trong thi của Nguyễn Trãi không chhoa, hương còn cả những
thanh âm muôn vẻ của cuộc sống thường nhật.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Thiên nhiên không hề u ám, trầm lặng khi nắng chiều buông trái lại, rất rộn
sôi động. Nhà thơ đã đưa vào bức tranh của mình những hình ảnh vô cùng quen thuộc,
gần gũi nhưng lại không đi theo khuôn sáo, lối mòn nào. Hai từ láy "lao xao", dắng
dỏi được đảo lên đầu mỗi câu thơ làm bật n cái âm thanh sôi động, náo nhiệt, xóa
tan không khí quạnh hiu, tịch lúc 'tịch ơng". Cảnh phiên chợ - một dấu hiện của
sự sống con người hiện ra trong câu thơ với tiếng người mua, kẻ bán, tiếng cười nói,
tiếng chuyện trò gian thật bình yên và ấm áp! Nhà thơ không hề thoát tục, không hề xa
rời cuộc sống đang hướng lòng mình về với cuộc sống bình dị từ những âm
thanh bình dị nhất. Nhà thơ như căng mở hết tất cả những giác quan cả thị giác, khứu
giác, thính giác cả những liên tưởng bất ngờ "dắng dỏi cầm ve". Tiếng ve inh ỏi -
một thứ âm thanh không xa lạ với mùa được như một cung đàn mùa hạ tấu lên
một cách rộn ng hòa chung với bản đàn rạo rực, hối hả của nhịp sống căng tràn
trong thiên nhiên. Lời thơ như diễn tả một cuộc sống đang sinh sôi, tiếp diễn ngay cả
khi ngày sắp tàn, một khung cảnh thật êm đềm thanh bình nơi làng quê. Cùng viết
về mùa nhưng những cảm xúc trong mỗi bài thơ lại đem đến một mùa khác
nhau.
Tháng tư đầu mùa hạ
Tiết trời thực oi ả
Tiếng dế kêu thiết tha
Đàn muỗi bay tơi tả
Nếu như ta cảm nhận được mùa rộn ràng, náo nhiệt trong những vần thơ Ức Trai
thì mùa của Nguyễn Khuyến oi nồng phần u uất. Bởi, với "Cảnh ngày hè"
Nguyễn Trãi đã cảm nhận thiên nhiên sự sống bằng chính sức sống dồi dào trong tâm
hồn mình, bằng sự tha thiết với cuộc sống còn Nguyễn Khuyến đã mượn mùa để
giãi bày những bức bối, u uất của mình đúng như tên bài thơ "Than mùa hè". Thi nhân
như đang náo nức muốn hòa cùng niềm vui sự sống với một tâm hồn thiết tha yêu
thiên nhiên để rồi từ đó thổi bùng lên khát vọng bấy u nay của một con người luôn
hết lòng vì đất nước.
Sống giữa vòng tay bình yên của mẹ thiên nhiên, giữa cuộc sống "vô ưu tư" nhưng
chưa giây phút nào Nguyễn Trãi quên đi bổn phận của mình:
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
Sâu trong tâm khảm, Ức Trai luôn mang một nỗi niềm dân nước, một hoài bão về sự
an thịnh như thời Đường Ngu nên đã mượn điển tích Ngu cầm để nói lên tấm lòng của
mình. Liệu có phải nhà thơ muốn có cây đàn Ngu cầm để gẩy nên khúc Nam Phong để
ngợi ca cảnh thái bình, thịnh trị đang hiện hữu tiếng lao xao của cuộc sống bình
yên đã dẫn dắt đến tâm sự ấy? Hay đó chỉ những ước mong, khao khát phía trước
của nhà thơ về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc của dân nước? Dù hiểu theo cách nào
thì người đọc đều cảm nhận được tấm lòng "ưu dân ái quốc" của nhà Nguyễn Trãi
trong một bài thơ khác, Ức Trai cũng đã nhắc tới sở nguyện này:
Dân Nghiêu Thuấn, vua Nghiêu Thuấn
Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền
Những lời thơ cùng giản dị mộc mạc được cất lên từ một tấm lòng rất đỗi chân
thành, một con tim luôn cháy bỏng tình yêu với đất nước, với nhân dân. Nguyễn Trãi
rảnh rỗi nhưng không hề thanh thản, ông nhàn thân nhưng không nhàn tâm, trong lòng
nhà Nho chân chính ấy luôn canh cánh nỗi niềm dân nước:
Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu
Hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc
Nguyễn Trãi luôn đặt lợi ích của quốc gia, n tộc lên hàng đầu với một niềm mong
mỏi rất cao cả "khắp nơi không một tiếng oán hờn". Nếu như với Nguyễn Bỉnh Khiêm
"nhàn" tránh xa phú quý quay về hòa hợp với thiên nhiên để giữ trọn cốt cách thì
qua "Cảnh ngày hè", vị anh hùng dân tộc đã khẳng định triết "nhàn" của mình: Sự
nhàn rỗi, thảnh thơi luôn phải song hành với cuộc sống no đủ, bình yên. Chính kết cấu
đầu cuối tương ứng của hai câu lục ngôn đầu cuối tác phẩm đã khép mở hai m
trạng tạo nên mạch hàm ẩn của toàn bài thơ.
"Cảnh ngày hè" được viết theo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn với nhịp thơ đa dạng và
linh hoạt. Bài thơ đã thoát khỏi tính quy phạm khuôn thước của văn học trung đại
bằng việc sử dụng nhiều hình ảnh sinh động, qua cách miêu tả thiên nhiên đặc biệt
việc sử dụng ngôn ngữ. Bằng các động từ mạnh, các từ tượng thanh được sử dụng
liên tiếp làm cho bức tranh mùa không phải hình ảnh tĩnh trên trang giấy
căng tràn nhựa sống. Nguyễn Trãi đã đưa ngôn ngữ thơ ca về gần với ngôn ngữ đời
sống, mở đường cho khuynh hướng dân tộc hóa, bình dị hóa của thơ ca Việt Nam sau
này. Cuộc sống muôn màu muôn vẻ đã được Nguyễn Trãi tái hiện một cách đầy chân
thực sinh động. Nhưng đọc bài thơ, ta không chỉ đơn thuần thấy được vẻ đẹp của
thiên nhiên mùa hè rực rỡ, sống động mà còn cảm nhận được vẻ đẹp phong phú, thanh
cao của hồn thơ Nguyễn Trãi. Một hồn thơ đã bắt rễ sâu vào đời sống thiên nhiên, một
cảm xúc thơ đã hòa nhịp với mạch sống nhân dân, dân tộc.
Nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng khẳng định rằng "Thơ khởi phát từ trong lòng người
ta". Quả thực không những cảm xúc, những tâm sự sâu kín n chặt, chất chứa
trong lòng sẽ chẳng bao giờ thơ. Qua "Cảnh ngày hè" ta không chỉ ngưỡng mộ tài
năng của nhà văn hóa lớn ta còn nghe được tiếng lòng, tiếng yêu cuộc sống, tiếng
yêu quê hương, dân tộc của Ức Trai tiên sinh tha thiết hơn bao hết.
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè - Mẫu 8
Trong những ngày từ quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã viết nhiều bài thơ đặc
sắc, trong số đó bài số 43 trong chùm thơ “Bảo kính cảnh giới”. Bài thơ bức
tranh phong cảnh mùa hè độc đáo nhưng thấp thoáng là niềm tâm sự của tác giả.
Câu thơ đầu tiên, ta đọc lên thoáng qua sao vẻ an nhàn, êm đềm, thanh thoát đến
thế.
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Câu thơ hiện lên hình ảnh của nhà thơ Nguyễn Trãi, ông đang ngồi dưới bóng cây
nhàn nhã như hóng mát thật sự. Việc quân, việc nước chắc đã xong xuôi ông mới trở
về với cuộc sống đơn sơ, giản dị, mộc mạc chan hòa, gần gũi với thiên nhiên. Một
số sách dịch là “Rỗi hóng mát thuở ngày trường”. Nhưng “rỗi” hay “rồi” cũng đều gây
sự chú ý cho người đọc. Rảnh rỗi, sự việc còn đều xong xuôi, đã qua rồi “Ngày
trường” lại làm tăng sự chú ý. Cả câu thơ không còn đơn giản là hình ảnh của Nguyễn
Trãi ngồi hóng mát lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả: “Nhàn rỗi ta hóng
mát cả một ngày dài”. Một hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giđã bị
vùi lấp, không còn nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ẩn, phải dành “hóng
mát” cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả
câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa.
Về với thiên nhiên, ông lại cóhội gần gũi với thiên nhiên hơn. Ông vui thú, say
với vẻ đẹp của thiên nhiên.
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Cảnh mùa qua tâm hồn, tình cảm của ông bừng bừng sức sống. Cây hòe lớn lên
nhanh, tán cây tỏa rộng che rợp mặt đất như một tấm trướng rộng căng ra giữa trời với
cành xanh tươi. Những cây thạch lựu còn phun thức đỏ, ao sen tỏa hương, màu
hồng của những cánh hoa điểm sắc thắm. Qua lăng kính của Nguyễn Trãi, sức sống
vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời một ờn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn
màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích lẽ bởi được nhìn bằng con mắt của một thi
sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời...
Qua cảnh mùa hè, tình cảm của Nguyễn Trãi cũng thể hiện một cách sâu sắc:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
“Chợ” hình ảnh của sự thái bình trong tâm thức của người Việt. Chợ đông vui thì
nước thái bình, thịnh trị, dân giàu đủ ấm no: chợ tan rã thì dễ gợi hình ảnh đất nước có
biến, có loạn, giặc giã, chiến tranh, đao binh... lại thêm tiếng ve kêu lúc chiều
gợi lên cuộc sống nơi thôn dã. Chính những màu sắc nơi thôn dã này làm cho tình cảm
ông thêm đậm đà sâu sắc và gợi lại ý tưởng mà ông đang đeo đuổi.
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
“Dân giàu đủ”, cuộc sống của người n ngày càng m no, hạnh phúc điều
Nguyễn Trãi từng canh cánh mong ước. đây, ông đề cập đến Ngu cầm thời
vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng thái bình thịnh trị. Vua Thuấn một khúc đàn
“Nam Phong” khảy lên để ca ngợi nhân gian giàu đủ, sản xuất ra nhiều thóc lúa ngô
khoai. Cho nên, tác giả muốn một tiếng đàn của vua Thuấn lồng vào đời sống nhân
dân để ca ngợi cuộc sống của nhân dân m no, vui tươi, tràn đầy âm thanh hạnh phúc.
Những ước ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi nhà thơ đại một tấm lòng nhân đạo
cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ.
Đó là ước mơ vĩ đại. Có thể nói, dù triều đình thể xua đuổi Nguyễn Trãi nhưng ông
vẫn sống lạc quan yêu đời, mong sao cho ước vọng tưởng của mình được thực hiện
để nhân dân có một cuộc sống ấm no.
Bài thơ này đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn với
tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”. Ông yêu
thiên nhiên cây cỏ say đắm. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi
những phút giây bi quan của cuộc đời mình. Dù sống với cuộc sống thiên nhiên nhưng
Ức Trai vẫn canh cánh “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên tưởng
nhàn dân, lí tưởng nhân nghĩa, lý tưởng: mong cho thôn cùng xóm vắng không có một
tiếng oán than, đau sầu.
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè - Mẫu 9
Nguyễn Trãi vị anh hùng tên tuổi lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân
tộc ta. Tài năng kiệt xuất của ông không chỉ được khẳng định trong lĩnh vực chính trị,
quân sự, ngoại giao mà còn được khẳng định qua sự nghiệp văn chương đồ sộ với
những đóng góp lớn lao cho nền văn học nước nhà.
tưởng Nguyễn Trãi ôm ấp giúp vua làm cho đất ớc thái bình, nhân dân
thịnh vượng. tưởng cao đẹp ấy nguồn động viên mạnh mẽ khiến ông vượt qua
mọi thử thách, gian nan trên đường đời. Lúc được nhà vua tin dùng cũng như khi thất
sủng, nỗi niềm lo nước, thương dân luôn canh cánh bên lòng ông. Giông bão cuộc đời
không thể dập tắt nổi ngọn lửa nhiệt tình trong tâm hồn người chí tài đức vẹn toàn
ấy.
Bài thơ Cảnh ngày hè” được sáng tác vào thời gian Nguyễn Trãi về nghỉ Côn Sơn.
Ông tạm thời xa lánh chốn kinh đô tấp nập ngựa xe và chốn cửa quyền hiểm hóc để về
với thiên nhiên trong trẻo, an lành nơi thôn dã, bầu bạn cùng dân cày cuốc, cùng mây
nước, chim muông, hoa cỏ hữu tình. Trong những tháng ngày dài nhàn nhã bất đắc
ấy, nhà thơ lúc thấy vui trước cảnh vật mùa tưng bừng sức sống kín đáo gửi
vào những vần thơ tả cảnh một thoáng khát vọng mong cho dân giàu, ớc mạnh. Bài
thơ phản ánh tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân
dân, đất nước.
Bài thơ mở đầu bằng câu lục ngôn nêu hoàn cảnh của nhà thơ lúc đó: “Rỗi hóng
mát thungày trường”. Lẽ ra câu thơ phải bảy chữ mới đúng thể thất ngôn bát
quen thuộc, song Nguyễn Trãi đã lược đi một chữ. Đây cũng một cách tân táo bạo,
mới mẻ trong thơ Nôm ớc ta thuở ấy. Nhịp thơ 1/2/3, chậm rãi phản ánh thế ung
dung, tự tại vốn có của tác giả.
Chữ “rồi” tách riêng thành một nhịp thể hiện cảm nhận của tác giả về tình cảnh của
mình. “Rồi” từ cổ, cổ nghĩa nhàn nhã, không vướng bận điều gì. Cuộc đời
Nguyễn Trãi thường không mấy lúc được thảnh thơi. Đây lúc ông được sống ung
dung, được thỏa ước nguyện hòa mình với thiên nhiên mà ông hằng yêu mến.
Không có việc gì quan trọng, cần kíp để làm cả, chỉ có mỗi “việc”hóng mát. “Ngày
trường” ngày dài. Đây cảm giác tâm về thời gian của người đang sống trong
cảnh nhàn rỗi, thấy ngày dường như dài ra. Với con người ưa suy nghĩ, hành động như
Nguyễn Trãi thì cảm giác ấy càng hơn bao giờ hết. Giữa lúc xây dựng lội non sông
sau chiến tranh, việc dân việc nước bời bời ông bị bắt buộc phải hóng mát hết
ngày này qua ngày khác thì quả trớ trêu. Bởi vậy, ông rơi vào cảnh thân nhàn
tâm bất nhàn. Đằng sau câu thơ trên dường như thấp thoáng một nụ cười chua chát
của Nguyễn Trãi trước tình cảnh trớ trêu ấy.
Chỉ vẻ đẹp hồn nhiên, của cảnh vật mới thể tạm xua đi những áng mây
buồn vương vít trong tâm hồn ông. Ông mở lòng đón nhận thiên nhiên thấy vui
trước cảnh:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Chi vài nét bút phác họa bức tranh quê đã hiện lên tươi khỏe, hài hoà. Cây trước
sân, cây trong ao đều trạng thái tràn đầy sức sống, đua nhau vươn lên khoe sắc, tỏa
hương. Cây hòe với tán xanh um xoè rộng, trong khi cây lựu nở đầy những bông
hoa đỏ thắm sen hồng đã nức mùi hương. Sức sống trong cây đang đùn đùn dâng
lên cành, lên lá, lên hoa. Cây tỏa bóng rợp xuống mặt sân, tỏa luôn bóng mát vào hồn
thi sĩ.
Ba câu thơ nổi đến ba loại cây: “hòe, lựu, sen” nhưng chẳng lẽ tác giả chỉ nói đến cây?
Dường như cả con người lồng trong đó, hết sức kín đáo. Các từ đùn đùn (dồn dập
tuôn ra), giương (tỏa rộng ra), phun, tiễn (ngát, nức) gợi tả sức sống căng đầy chất
chứa bên trong sự vật, tạo nên những hình ảnh mới lạ, ấn tượng. Câu thơ thứ hai ngắt
nhịp 4/3, hai câu thơ tiếp theo đổi nhịp thành 3/4, tạo thêm cho cảnh vật vẻ sinh động,
rộn ràng. Giữa cảnh với người nét ơng đồng nào chăng? Đời người anh hùng
cũng đã vơi nhưng giống như hàng tùng bách dày dạn tuyết sương nên sức sống vẫn
chảy mạnh trong huyết quản. Thức đỏ (màu đỏ) của hoa lựu phải chăng là thức đỏ của
tấm lòng sắt son với dân với nước? Mùi hương thơm ngát của sen phải tưởng
chẳng bao giờ phai nhạt của Nguyễn Trãi suốt đời phấn đấu đất nước thanh bình,
nhân n hạnh phúc. ràng đây, cảnh người những nét tương đồng đều
đẹp đẽ, hài hòa.
Ở bốn u thơ trên, nhà thơ mới nhắc đến màu sắc, hương thơm, cây cỏ; hai câu thơ
tiếp theo còn có thêm mùi vị, âm thanh, hình ảnh con người và cảnh vật:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Từ tượng thanh “lao xao” đặt trước hình ảnh chợ làm nổi bật không khí nhộn nhịp
của làng ngư phủ. Lao xao tiếng trao qua đổi lại, ồn ã tiếng nói tiếng cười. Tất cả đều
hơi hướng của cuộc sống lao động cần cù, chân chất. Những âm thanh lao xao ấy
hòa vào tiếng ve kêu dắng dỏi bất thần nổi lên trong chiều tà, o hiệu chấm dứt một
ngày nơi thôn dã. Tiếng ve lúc chiều thường gợi buồn, nhưng với nhà thợ lúc
này, nó trở thành tiếng đàn rộn rã khiến tâm trạng nhà thơ cũng náo nức hẳn lên.
Cỏ cây, hoa lá, con người đầy sức sống khơi dậy trong lòng nhà thơ cảm xúc nhẹ
nhàng, sâu lắng những suy nghĩ chân thành, tâm huyết nhất. Đó tình yêu cuộc
sống, yêu con người và trách nhiệm đối với dân với nước. Nguyễn Trãi luôn tâm niệm
lấy dân làm gốc (dân vi bản, dân vi quý) cho nên trước thiên nhiên ơi xanh, trước
những con người cần cù, lam lũ, lòng ông lại dấy lên khát vọng mãnh liệt:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Ông ước gì lúc này có được trong tay cây đàn của vua Thuấn, đàn một tiếng để nổi lên
niềm mong mỏi lớn nhất của mình là dân chúng khắp nơi đều được giàu có, no đủ. Ẩn
giấu đằng sau lời ước mong ấy sự trách móc nhẹ nhàng nghiêm khắc bọn quyền
thần tham bạo triều đình đương thời không còn nghĩ đến dân, đến nước. Theo ông,
với cảnh nước non tươi đẹp cùng nhân dân chất phác, siêng năng, cuộc sống lẽ ra phải
được trở lại ấm no, hạnh phúc từ lâu.
Vậy dẫu hòa hợp đến hết mình với thiên nhiên, Nguyễn Trãi vẫn không nguôi nỗi
niềm dân nước, ông m thấy thiên nhiên cỏ hoa xinh tươi kia một nguồn thi hứng,
nguồn động viên, an ủi khích lệ đáng quý đối với bản thân. Điều đó góp phần tạo
nên cốt cách của Nguyễn Trãi, bậc trượng phu - chính nhân quân tử - hiên ngang như
cây tùng, cây bách trước giông bão cuộc đời.
Cảnh ngày một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Trãi về hình thức thơ. Câu thất
ngôn xen lục ngôn, c vế đối rất chỉnh, cách sử dụng từ láy rất tài tình. Để ng sức
biểu hiện của các tính từ động từ, tác giả đem chúng đặt đầu câu. Đây bài thơ
tả cảnh ngày tràn đầy sức sống. Bài thơ không chỉ miêu tả cảnh sắc đặc trưng của
mùa hè, còn “tức cảnh sinh tình”. Cảnh đây thể hiện niềm vui sống, háo hức,
tươi tắn, trẻ trung của tâm hồn nhà thơ Và niềm ao ước của Nguyễn Trãi về hạnh phúc
cho dân chúng muôn phương.
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè - Mẫu 10
Đặt cho bài “Bảo kính cảnh giới số 43”, trong “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi, cái
tựa “Cảnh ngày hè” kể cũng phải. Phần lớn thơ thuộc chùm “Bảo kính cảnh giới” vẫn
nghiêng về những gương báu tự răn mình, đúng như chủ đề chung của cả chùm. Trong
khi đó, bài 43 này, không phải không cái ý răn mình, nhưng lại nghiêng nhiều
về tức cảnh. Toàn thi phẩm tâm tình nồng hậu của Ức Trai trước cảnh ợng hưng
thịnh của ngày hè.
được viết cách nay đã hơn sáu thế kỉ, nhiều ngôn từ đã trở nên xưa xa đối với
người hiện đại, thậm ckèm theo luôn phải cả một bản chú thích thê đến gần
hai mươi mục, nhưng “Cảnh ngày hè” vẫn sức ợt qua khoảng cách thời gian
dằng dặc, vượt qua rào cản ngôn ngữ rậm rịt để đến được với người đọc bây giờ. Điều
đã khiến cho bài thơ được sức sống này? Sự tài hoa của ngòi bút chăng? vẻ tinh
tế của tâm hồn chăng? Tầm vóc lớn lao của một tấm lòng chàng? lẽ không riêng
một yếu tố nào, sự kết tinh của tất cả thành một chỉnh thể thi ca sống động, một
kiến trúc ngôn từ cô đúc dư vang.
“Cảnh ngày hè” trước hết một cảnh tượng rực rỡ và rộn rã. Nếu tuân theo nguyên
“thi trung hữu họa”, người đọc hoàn toàn thể cảm thụ thi phẩm như một bức tranh.
Một bức tranh được vẽ bằng ngôn từ. Một bức tranh nghiêng về gam màu nóng, theo
lối phân loại của hội họa. Thật là gam màu đặc trưng của ngày hè.
Hai câu đề, với những nét bút đầu tiên, đã đưa ngay cái không kđến với người
đọc:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”
Ngày hè hiện ra với một tâm thế, một thời gian, một không gian khá ăn nhập với nhau.
Ba chữ “Rồi hóng mátđã gợi ra hình ảnh một Ức Trai trong dịp nhàn rỗi hiếm hoi
nào đó đang hóng mát ngày hè. Nhưng ba chữ thuỷ ngày trường mới giàu sức gợi hơn.
Ngày mà dài thì đúng là đã tóm được cái chênh lệch đêm ngắn, ngày dài khá đặc trưng
của mùa hè. Nhưng phải chỉ chuyện thời lượng đơn thuần không? Hình như còn
chuyện tâm nữa. Khoảng thời gian nào lại thể khiến một con người vốn
ham gánh vác việc tắc giang sơn này cảm nhận “thuở ngày trường?” Thời ông
đang làm ờng cột bận bịu với chính sự giữa cung đình của một vị quan đầu triều ư?
Không thể. Khi ấy, người say sưa hành sự khó mà cảm nhận về “ngày trường”. Vì thế,
chữ “ngày trường” gợi ra những ngày nhàn chẳng thật thanh nhàn bên ngoài
chính cuộc của Ức Trai chăng? đâu chỉ hiện trong nghĩa của chữ, tâm thế ấy như
còn ẩn trong âm vang của lời. Câu khai mở đã gây một cảm giác lạ đối với người quen
đọc thơ thất ngôn bát cú. một cái đó ngiao thoa của những cảm giác trái
chiều: ngắn mà lại dài, mau mà lại khoan. Cả chuỗi lời thì ngắn, mỗi tiết tấu lại dài. Số
nhịp thì dồn lại, mỗi nhịp lại trải ra. Hãy lắng nghe âm vang của nó:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Chẳng phải tạo ra một ngữ điệu khá khác biệt, chứa đựng những tình điệu dường
như cũng trái chiều: vừa hối thúc lại vừa thong dong. Thong dong hối thúc, nhàn
bận tâm, cái tâm thế thường trực của nhà thơ. lẽ sẽ không ngoa khi nói
rằng chính tâm thê này đã ngầm tìm kiếm cho kiểu cấu trúc ngôn từ như thế trong
câu khai mở.
Kết hợp câu đề thứ hai với câu thực ta sẽ thấy một thiên nhiên dồi o sức sống được
hiện lên qua sắc độ rực rỡ của thảo mộc hoa lá:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Trật tự không gian trải từ cao xuống thấp, điểm nhìn của thi sĩ cũng di chuyển từ tầng
không qua hiên nhà rồi xuống ao sen. tầng nào của thiên nhiên, sức sống bên trong
cũng như đang trào ra. Các tạo vật thiên nhiên không chịu tĩnh. u xanh lục hòe
thì “đùn đùn” như cuộn lên từng khôi biếc, tán hòe thì “rợp giương” như cử lọng
giương ô. Màu đỏ hoa lựu không lặng lẽ son điểm sắc, cũng không lập lòe dậy lên
vài đốm lửa, nhất loạt phun trào thức đỏ, tựa pháo hoa hừng sáng cả hiên nhà. Từ
dưới ao, hoa sen cũng hưởng ứng bằng sắc hồng chín ửng cùng mùi hương dậy lên
bay tỏa không gian. Mật độ dậy của các động thái “đùn đùn”, “rợp giương”, “phun”,
“tiễn”... đã tạo nên một sự sôi động đằng sau mỗi loài thảo mộc tưởng chừng tĩnh lại.
Như thế, động thái mạnh lại được cộng hưởng bởi độ gắt của gam màu, tất cả làm dậy
lên sức sống của thiên nhiên đang kỳ toàn thịnh.
Thi đã bắt được một nhịp vận hành hình hối thúc, đẩy tạo vật nữa. Chỉ cần
chú ý một chút thôi sẽ thấy điều này: thảo mộc thì tiếp nối liên tục từ cao xuống thấp,
động thái thì liên tiếp ttrong ra ngoài, - hoa - hương thì tiếp ng nhau, nhất cái
nhịp độ khẩn trương: Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên trì đã tiễn mùi
hương. Loài này đang thì loài kia đã, hô ứng nhau, chen bước nhau gợi ra được không
khí các tạo vật đang đua tranh phô sắc, khoe hương.
Ăn nhập với thiên nhiên rực rỡ một đời sông rộn rã. Theo đó, bức tranh ngày
toàn thịnh vốn đã đầy màu sắc giờ lại tràn ngập cả âm thanh:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Chợ một hình ảnh cùng điển hình của cuộc sống. Lúc đương đông buổi chợ
hình ảnh vui của một cuộc sống sầm uất đi lên. Còn khi chợ tan hình ảnh đám
của một cuộc sống đương đi xuống. Chỉ cần nhìn vào diện mạo chợ, cũng thể thấy
được âm vang của đời sống. Âm thanh “lao xao” từ chợ cá làng ngư phủ đã nói lên vẻ
sầm uất của cuộc đời xung quanh. Cả hình nh bóng tịch dương nữa. Nắng tắt, bóng
tối dâng lên vây phủ bốn bề, âm thanh sinh hoạt cũng dần dần thưa thớt. Lúc tịch
dương thì đó miền sơn ớc hay chốn chương đài, cũng đều khó tránh khỏi
không khí quạnh hiu cô tịch.
Nhưng không khí ấy đây đã bị xua tan bởi nhạc ve. Tiếng ve gióng giả inh ỏi như
một bản đàn làm cho hoàng hôn cũng trở nên náo nhiệt. Phải một tâm hồn mở, một
điệu hồn o nức thì mới thể nghe tiếng ve inh ỏi thành tiếng đàn cầm ve như thế.
Từ làng ngư phủ xa xa của dân nghèo lớp dưới, đến lầu son gác tía của người lớp trên,
chỗ nào cũng rộn vui tươi. Cái nhìn khái quát đã thâu tóm được toàn, cảnh cuộc
sống trong đôi nét bút tài hoa.Trước, vẽ thiên nhiên thì từ cao xuống thấp, giờ, vẽ đời
sống lại chảy từ thấp đến cao, từ xa lại gần. Lối viết đảo ngược cú pháp, đặt những âm
thanh lao xao và dắng dỏi lên đầu mỗi câu khác nào như tạo nên những điểm nhấn. Ta
ngỡ như người viết đang muốn phvào không gian cả một n âm thanh rộn rã. Cảnh
hưng thịnh của ngày hè, nhờ thế, mà càng trở nên phồn thịnh hơn.
Nếu chỉ dừng lại cảnh không thôi, cũng đã phần nào thấy được ng người vẽ cảnh.
Cảnh tượng ấy đâu chnói với ta về sự tinh tế của một tâm hồn, đó còn sự phấn
chấn của một tấm lòng thiết tha với đời sống. Nhưng ta có hồn, đó còn là sự phấn chấn
của một tấm lòng thiết tha với đời sống. Nhưng ta dịp dược hiểu về tấm lòng ấy
trực tiếp hơn qua chính lời ước ao bộc trực của thi sĩ:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Giá chỉ cây đàn của vua Thuấn, ta sẽ gảy khúc Nam Phong cầu cho dân giàu đủ
khắp muôn phương. Cặp câu kết này mở cho chúng ta về chí của Ức Trai. Trong
đời, về phận vị, Nguyễn Trãi một công hầu. Nhưng trong thơ, trong cái thế giới của
những khát vọng riêng nhất, ông đã bộc lộ khát khao lớn ngang tầm với những bậc
quân vương vốn thần tượng của lịch sử. Ông muốn cầm cây đàn vua Thuấn gảy
khúc Nam phong để cầu mong cho dân tình phong túc hơn nữa. Ông mong muốn
một cuộc sống thực sự thái bình. Đó khát khao sâu kín cháy bỏng suốt một đời
Nguyễn Trãi.nó ông đã phải trả giá bằng cả sinh mạngtôn tộc của mình. Chẳng
thế ông cần phải đúc vào trong một câu lục ngôn, một câu đột nhiên ngắn lại,
như để ghim sâu điều đau đáu của cõi lòng.
“Cảnh ngày hè” sự hòa điệu tuyệt vời giữa tâm hồn nét bút của một đấng tài hoa
với tấm lòng của một bậc minh vương lương tướng ư?
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè - Mẫu 11
“Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi một bầu không gian trữ tình đặc sắc. phong
phú về cảnh tình bài số bốn mươi ba trong chùm “Bảo nh cảnh giới chứa
đựng những nét độc đáo, lấp niềm tâm sự của tác giả. Bài thơ này người đặt tên
là “Cảnh tình mùa hè”.
Câu thơ đầu cho thấy Nguyễn Trãi đang sống rất thong thả, rảnh rỗi một cách bất
thường. Bởi, nếu còn được tham gia o việc triều chính thì không cái an nhàn ấy.
Bài thơ khả năng được sáng tác vào khoảng 1438 - 1439 lúc Nguyễn Trãi về Côn
Sơn để lánh nịnh thần đang lũng đoạn triều đình. Câu thơ như một tiếng nói tự bên
trong: “Ừ, rảnh rỗi đến thế này rồi thì ta hóng mát mãi”.
thể coi bốn câu đầu tiên miêu tả cảnh. Tác giả mở tâm hồn ra với thiên nhiên
cuối mùa trong lúc rảnh rỗi cảnh “hóng mát”. Bức tranh rất sinh động đầy
sức sống. Cây hòe đang phát triển màu xanh lục của cứ “đùn đùn” lên, tỏa
tán, trương rợp ra như một cái dù xanh đan bằng cành lá. Màu xanh cứ vậy
sum suê, mà tỏa rộng.
hiên nhà, những bông hoa thạch lựu nở hoa đỏ chói, màu lửa làm chói rực rỡ. Cái
gam màu đỏ màu nóng đối với cái gam màu xanh màu lạnh càng làm cho cảnh
vật tưng bừng hoạt náo như đua nhau khoe sự sống. Những ngày cuối xuân đầu hè,
Nguyễn Trãi cũng cảm nhận tinh tế:
“Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn”
Để tả mùa hè Nguyễn Du viết:
“Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”
Cảnh vật đây được đón nhận bằng nhiều giác quan (mắt, mũi, tai cả ấn tượng
nữa). Mùa hè đã đi những bước cùng buổi chiều tịch dương nắng tắt nhưng sự sống thì
có sức nội năng cái thôi thúc bên trong dường như không kiềm lại được cứ “đùn
đùn” “phun trương” ra tất cả. Cảnh vật được nhân hóa cho nên thiên về miêu tả
trạng thái tinh thần của sự vật qua đây ta thấy được lòng yêu đời của tác giả thật mãnh
liệt.
Cách đặt câu khiến ta suy nghĩ rằng cái hiên nhà phun những bông hoa màu đỏ chứ
không phải cây thạch lựu; cái hồ sen đã im ngừng mùi hương chứ không phải
bông sen. Cái nhìn như vật tinh tế mới lvui vẻ mặc dầu người đọc thể hiểu
màu đỏ ơng thơm ấy từ đâu. lẽ nhà thơ đã quạnh hiu chán nản với thực
trạng là nhờ thiên nhiên xoa dịu niềm đau. Nhưng trong cách âm thanh của thiên nhiên
Nguyễn Trãi vẫn lọc được tiếng nói của cuộc đời. Về với thiên nhiên, ông lại
hội gần gũi với thiên nhiên hơn. Ông vui thú, say mê với vẻ đẹp của thiên nhiên.
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Cảnh mùa qua tâm hồn, tình cảm của ông, thiên nhiên bừng bừng sức sống. Cây
hòe lớn lên nhanh, tán càng lớn dần lên thể nmột tấm trướng rộng căng ra
giữa trời với cành xanh ơi. Những cây thạch lựu còn phun thức đỏ, ao sen tỏa
hương, màu hồng của những cành, hoa điểm sắc thắm. Qua lăng kính của Nguyễn
Trãi: sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời một vườn hoa, một khu ờn
thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con
mắt của một thi đa cảm, giàu lòng ham sống với đời. Lao xao chợ dội lên từ một
làng chài hay chính tác giả đang rộn niềm vui trước cảnh “dân giàu đủ” cả tiếng
ve dắng dỏi có phải chăng là tấm lòng Nguyễn Trãi đang tấu nhạc?
Nghe thấy để chứng thực rằng dân đang sống giàu đủ yên vui Nguyễn Trãi ước
cây đàn vua Thuấn gảy khúc Nam phong ca ngợi cảnh:
“Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Câu lục được cắt nhịp vững chãi kết tụ cảm xúc trong bài thì ra “rồi hóng mát”,
tác giả vẫn đau đáu một lý tưởng vì dân. Con người suốt đời mang tới no ấm cho dân.
“Sách một hai phiên làm bầu bạn
Rượu năm ba chén đổi công danh
Ngoài chưng phần ấy cầu đâu nữa
Cầu một ngồi coi đời thái bình”
(Tự thán, bài 10)
Bài thơ này đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian Côn Sơn
nhưng tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn ớc triều Đông”.
Với thiên nhiên cây cỏ, ông yêu đắm say. lẽ chính thiên nhiên đã cứu
Nguyễn Trãi thoát khỏi những Ức Trai chăm chắm “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn
Trãi vẫn không quên tưởng nhân dân, tưởng nhân nghĩa, tưởng mong cho thôn
xóm vắng không có tiếng oán than, đau sầu.
Phân tích Cảnh ngày - Mẫu 12
Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị, nhà thơ dưới thời nhà Hồ và nhà
Việt Nam. Ông làm quan triều đình được một thời gian sống đã cáo quan về ẩn.
Nguyễn Trãi viết rất nhiều thơ, để lại cho đời một khối tác phẩm đồ sộ nhưng phần
lớn đã bị thất lạc sau án oan Lệ Chi Viên. Trong thời gian ẩn, ông không ngừng sác
tác thơ ca, một trong số những bài thơ đặc sắc là “Cảnh ngày hè”.
Bài thơ là bức tranh mùa hè độc đáo nhưng cũng là niềm tâm sự của tác giả
“Rồi hóng mát thuở ngày trường"
Bài thơ được viết theo thể Thất ngôn bát Đường luật rất rõ ràng với kết cấu bốn
phần đề - thực - luận - kết. Mđầu bài thơ hình ảnh của nhà thơ Nguyễn Trãi, ông
đang ngồi dưới bóng cây nhàn nhã như hóng mát thật sự. Việc quân, việc ớc chắc
đã xong xuôi ông mới trở về với cuộc sống đơn sơ, giản dị, mộc mạc chan hòa,
gần gũi với thiên nhiên. “Rồi” rảnh rỗi, sự việc còn đều xong xuôi, đã qua rồi. Còn
“ngày trường” ngày dài. Cả câu thơ không còn đơn giản hình ảnh của Nguyễn
Trãi ngồi hóng mát lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả nhàn rỗi ta hóng
mát cả một ngày dài. Một hội đã bsuy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị
vùi lấp, không còn nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ẩn, phải dành "hóng
mát" cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả
câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa.
Sống hòa mình trong thiên nhiên nên Nguyễn Trãi đã tinh tế phát hiện ra những vẻ
đẹp thuần khiết nơi chốn triều đình, cung cấm đầy rẫy thị phi không thể xuất hiện
được. Đó là:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Chỉ vài nét bút phác họa bức tranh quê đã hiện lên tươi khỏe, hài hoà. Cây trước
sân, cây trong ao đều trạng thái tràn đầy sức sống, đua nhau vươn lên khoe sắc, tỏa
hương. Cây hòe với tán xanh um xoè rộng, trong khi cây lựu nở đầy những bông
hoa đỏ thắm sen hồng đã nức mùi hương. Sức sống trong cây đang đùn đùn dâng
lên cành, lên lá, lên hoa. Cây tỏa bóng rợp xuống mặt sân, tỏa luôn bóng mát vào hồn
thi sĩ. Các từ đùn đùn (dồn dập tuôn ra), giương (tỏa rộng ra), phun, tiễn (ngát, nức)
gợi tả sức sống căng đầy chất chứa bên trong sự vật, tạo nên những hình ảnh mới lạ,
ấn tượng. Ở đây ta bắt gặp cảnh sắc thiên nhiên căng tràn sức sống cho thấy rằng lòng
yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời của nhà thơ rất mãnh liệt, đồng thời còn ham muốn
được cống hiến công sức của mình cho đời này thêm đẹp. Đời người anh hùng cũng
đã vơi nhưng giống như hàng tùng bách dày dạn tuyết ơng nên sức sống vẫn chảy
mạnh trong huyết quản. Thức đỏ (màu đỏ) của hoa lựu phải chăng thức đỏ của tấm
lòng sắt son với dân với nước? Mùi hương thơm ngát của sen phải tưởng
chẳng bao giờ phai nhạt của Nguyễn Trãi suốt đời phấn đấu đất nước thanh bình,
nhân dân hạnh phúc?
Nếu bốn câu thơ trên Nguyễn Trãi miêu tả cảnh vật đang căng tràn nhựa sống thì hai
câu thơ tiếp theo là chuỗi âm thanh thanh bình chốn thôn quê cùng hình ảnh con người
xuất hiện:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Từ tượng thanh Lao xao đặt trước hình nh chợ m nổi bật không khí nhộn nhịp
của làng ngư phủ. Lao xao - tiếng trao qua đổi lại, ồn ã tiếng nói tiếng cười. Tất cả đều
hơi hướng của cuộc sống lao động cần cù, chân chất. Những âm thanh lao xao ấy
hòa vào tiếng ve kêu dắng dỏi bất thần nổi lên trong chiều tà, o hiệu chấm dứt một
ngày nơi thôn dã. Tiếng ve lúc chiều thường gợi buồn, nhưng với nhà thợ lúc
này, nó trở thành tiếng đàn rộn rã khiến tâm trạng nhà thơ cũng náo nức hẳn lên.
“Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Mạch thơ từ hướng ngoại sang hướng nội. Tmiêu tả sáng biểu cảm, khách thể sang
chủ thể. Nguyễn Trãi đã trực tiếp bộc lộ nỗi lòng mình trong hai câu thơ kết. Ấy
một giấc mơ, và cả một học thuyết nhân sinh ấp ủ bật ra thành lời. Giấc mơ, đó là giấc
Nghiêu Thuấn. Giấc ngàn đời của những con người Phương Đông sống trong
thời trung đại. Mong sao có một bậc vua hiền để được yên ổn ấm no hạnh phúc.
“Cảnh ngày hè” đã bộc lộ tấm lòng nhà tđầy tình nghĩa cao cả khiến người đời
kính trọng, dân chúng biết ơn bởi những đóng góp của ông dành cho đất ớc.
trong bất cứ hoàn cảnh nào thì trong lòng Nguyễn Trãi vẫn mãi ớng về nhân dân,
một lòng trung quân ái quốc.
Phân tích Cảnh ngày - Mẫu 13
Nguyễn Trãi được biết đến với cách một nhà thơ, nvăn lớn của dân tộc. Một
trong những tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến bài thơ “Cảnh ngày hè” đã cho
thấy một tâm hồn chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân yêu đất
nước của tác giả:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường,
Hoè lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Bài thơ “Cảnh ngày ” của Nguyễn Trãi bài số 43 thuộc chùm thơ “Bảo kính cảnh
giới” trong “Quốc âm thi tập”, một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp tấm lòng yêu
nước thương dân của tác giả.
Trước hết, tác giả đã khắc họa hoàn cảnh sống của mình trong những ngày về ẩn.
Câu thơ mđầu đọc lên nghe thật êm đềm gợi một cuộc sống yên bình, thư thái: “Rồi
hóng mát thuở ngày trường”. Từ “rồi” đây nghĩa rảnh rỗi, nhàn hạ. Rảnh rỗi
trong suốt “ngày trường” có nghĩangày dài, để ngồi “hóng mát” - một hoạt động an
nhàn, tĩnh tại, thư thái. Từ đó ta thấy được tâm thế an nhàn, thảnh thơi của tác giả.
Nguyễn Trãi đã một đời bận rộn, tận tâm đất nước, chính lúc này những giây
phút rảnh rỗi hiếm hoi của cuộc đời.
Nhờ có vậy, ông được gần gũi với thiên nhiên hơn. Bức tranh cảnh ngày hè nổi lên với
bức tranh thiên nhiên ngày hè rực rỡ:
“Hoè lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Nguyễn Trãi cảm thấy say mê, thích thú trước vẻ đẹp của thiên nhiên ngày hè. Cây
hoa hòe sức sống mãnh liệt giờ tán xanh che phủ cả khoảng không gian. Cùng
với sắc đỏ của cây thạch lựu đậm thêm cho khung cảnh. Ao sen tỏa hương ngan
ngát bay theo làn gió. Cảnh thiên nhiên của mùa hè hiện lên đầy ơi tắn, tràn đầy sức
sống, tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên của của Nguyễn Trãi.
Không chỉ bức tranh thiên nhiên, nhà thơ còn khắc họa vẻ đẹp của bức tranh cuộc
sống con người:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Việc sử dụng nhiều từ Hán Việt như “ngư phủ, cầm ve, tịch dương” kết hợp nhuần
nhuyễn với những từ thuần Việt như “lao xao”, dắng dỏi” tạo nên vẻ đẹp vừa mộc
mạc, bình dị, vừa trang trọng tao nhã. Cuộc sống của con người không chỉ được cảm
nhận bằng thị giác còn được cảm nhận bằng thính thanh. Đó âm thanh từ làng
chợ cá, của tiếng ve râm ran mỗi độ hè về. Những âm thanh đặc trưng của ngày hè nơi
làng quê khiến ngày trở nên vui vẻ, nhộn nhịp. Tác giả đã rất tinh tế khi sử dụng
các động từ: “rợp, đùn, tiễn đưa” khiến cho người đọc thấy được cảm giác sức sống
trỗi dậy của cảnh vật mùa hè. Như vậy, cả thiên nhiên và con người đều hiện lên tràn
đầy sức sống, tâm hồn lạc quan, yêu đời, tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên, tha thiết
với cuộc sống quê nhà của nhà thơ Nguyễn Trãi.
Hai câu thơ cuối cùng bộc lộ lòng yêu nước thương dân của nhà thơ. Tuy cáo quan về
ở ẩn đấy, nhưng tấm lòng của Nguyễn Trãi chưa lúc nào thôi lo lắng cho nhân dân, đất
nước:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Nhà thơ đã mượn hình ảnh “Ngu cầm” cây đàn của vua Nghiêu vua Thuấn. Đó
một điển cố quen thuộc của Trung Hoa kể về thời đại Nghiêu Thuấn - những ông vua
nhân từ đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Hằng ngày vua Nghiêu
Thuấn thường đem đàn ra gảy khúc nam phong ngợi ca cảnh thái bình trên xứ sở này.
Qua đó, nhà thơ bộc lộ mong muốn được cây đàn đó đến với cuộc sống của nhân
dân, để ca ngợi khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp và cuộc sống vui tươi trên quê hương
ông, niềm vui sướng, hạnh phúc của tác giả khi được sống hòa hợp cùng thôn quê. Bài
thơ kết lại với ước được thấy cảnh thanh bình, ấm no trên đất nước của Nguyễn
Trãi.
Như vậy, qua bài thơ trên, người đọc có thấy được tấm lòng yêu nước, thương dân của
Nguyễn Trãi. trong hoàn cảnh nào, ông vẫn luôn nặng lòng với nhân dân, đất
nước.
Phân tích Cảnh ngày - Mẫu 14
Nguyễn Trãi được biết đến anh hùng dân tộc đồng thời nhà thơ với những tác
phẩm để lại dấu ấn trong lòng người đọc. Những năm tháng cáo quan về ở ẩn, Nguyễn
Trãi đã sáng tác rất nhiều, mỗi bài thơ đều mang tâm trạng nỗi niềm sâu thẳm của
ông. Bài thơ “Cảnh ngày hè” bức tranh mùa nơi miền quê, đồng thời nỗi lòng
chưa giãi bày của ông.
Cuộc sống của vị quan ẩn thật thanh bình, yên ả, không bồ. Ông đã mở đầu bài
thơ một cách nhẹ nhàng êm đềm nhất: Rồi hóng mát thuở ngày trường. Câu thơ
trên đã gợi lên được phong thái cuộc sống bình dị của Nguyễn Trãi nơi vùng quê
thanh bình. Rời xa chốn quan trường nhiều đấu tranh, bất công, ông lựa chọn cho
mình một con đường riêng, xa lánh việc quân, gần gũi và chan hòa với thiên nhiên.
Thời gian không được nhắc đến nhưng người đọc sẽ nhận ra đó mùa hè. Tuy câu
thơ không vướng bận lo âu nhưng chắc hẳn người đọc vẫn nhận ra được tâm sự của
tác giả. không bận việc nước, việc quân nhưng trong lòng ông còn nhiều tâm sự
chưa giãi bày. những câu thơ tiếp theo, người đọc nhận ra một bức tranh mùa
đầy màu sắc:
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Một bức tranh mùa nhiều màu sắc, cảnh vật thiên nhiên dường như đan cài vào
nhau tạo nên đường nét sức sống của mùa hè. Hình ảnh cây hòe, cây thạch lựu, cây
hồng những đặc trưng của mùa hè. Màu sắc của những loài cây ấy đã gợi lên một
không gian tràn ngập màu sắc và sự sôi động.
Qua ngòi t của Nguyễn Trãi người đọc nhận ra một khu vườn tràn trề sức sống. t
hẳn ai ai cũng thích một cuộc sống thanh thản, trầm tĩnh như thế này. lẽ đây đặc
trưng của mùa đất Bắc. Tuy nhiên đằng sau bức tranh mùa đầy màu sắc đó,
người đọc nhận ra một tấm chân tình của ông dành cho quê hương đất nước:
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Với pháp đảo trật tự pháp, từ láy “lao xao” được đảo lên đầu câu đã khiến cho
chúng ta cảm nhận rất sự tấp nập, nhộn nhịp của khung cảnh chợ làng quê nơi ông
đang sống. Bởi rằng “Chợ” luôn gợi lên sự an bình, thịnh vượng, khi chợ còn đông
nghĩa đất nước ấm no hạnh phúc, khi chợ tàn đồng nghĩa với thời kỳ suy thoái của
đất nước. Như vậy, quê nhà thì Nguyễn Trãi vẫn luôn mong cho đất nước luôn
bình an, ấm no hạnh phúc. Hai câu cuối của bài thơ chính nguyện vọng, ý tưởng
mà cả cuộc đời Nguyễn Trãi ấp ủ và mong ngóng:
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
Tác giả đã lấy điển tích điển cố thời vua Nghiêu, vua Thuấn cai trị đất ớc luôn thái
bình thịnh trị. Thời đó, vua Thuấn một khúc đàn “Nam Phong” với giọng điệu sôi
nổi, gợi cảm giác bình dị, ấm êm. Bởi vậy Nguyễn Trãi muốn mượn tiếng đàn đó để
thể nguyện cầu cho cuộc sống của nhân dân luôn chan hòa, an lành hạnh phúc
nhất. Nguyện vọng “Dân giàu đủ” của Nguyễn Trãi thực sự đáng quý, đáng trân trọng.
Như vậy qua bài thơ “Cảnh ngày hè” Nguyễn Trãi đã vẽ lên một bức tranh ngày hè sôi
động, nhiều màu sắc, đồng thời qua đó thấp thoáng bóng dáng một người luôn nghĩ
cho nước cho dân. Bài thơ để lại cho người đọc những ấn tượng sâu lắng nhất về cuộc
sống và tâm tư đáng trân trọng của ông.
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè - Mẫu 15
Vào thế kỷ XV tức là thời kỳ Phục Hưng của Châu Âu, thời điểm xuất hiện những con
người khổng lồ có trí tuệ và tri thức trên rất nhiều lĩnh vực ví như Leonardo da Vinci -
một nhà họa sĩ, nhà điêu khắc triết học tự nhiên. Thì cũng thế kỷ XV ấy, Việt
Nam cũng đã xuất hiện thiên tài Nguyễn Trãi - một nhà ngoại giao, một nhà quân sự
tài ba, công thần đời đầu của nhà Hậu Lê, mà ông còn một nvăn hóa xuất sắc
trên nhiều lĩnh vực bao gồm địa lý, lịch sử, văn học,...
lĩnh vực văn, thơ Nguyễn Trãi đã để lại nhiều tác phẩm tên tuổi được người
đời ca tụng tán thưởng, tiêu biểu nhất Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập,
Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập,... Ông người chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Nho
giáo với các tưởng nhân nghĩa tưởng phụng mệnh trời, bên cạnh đó ông còn
nổi bật với tư tưởng nhân dân mới mẻ.
“Cảnh ngày bài thơ trích từ tập thơ m Quốc âm thi tập, thuộc Mục bảo kính
cảnh giới bài số 43, mà tác giả thông qua cảnh ngày trong lúc nhàn hạ, Nguyễn
Trãi vẫn một lòng hướng về nhân dân, mang đậm tưởng nhân nghĩa, yêu nước
thương dân, dù bản thân bị thất sủng, không còn được vua tin dùng.
Cảnh ngày được viết theo thể thơ thất ngôn bát Đường luật, tuy nhiên khi
Nguyễn Trãi viết tác phẩm này thì thể thơ đã được thay đổi ít nhiều để phù hợp
uyển chuyển hơn. Chính vậy bố cục của bài thơ cũng không cứng ngắc với 4 phần
đề thực luận kết, đây sự tách biệt khá ràng, trong đó 6 câu thơ đầu tiên
bức tranh thiên nhiên cảnh ngày dưới tầm mắt một của một trí thức đã lui về ẩn,
rời ra thế sự.
“Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng Ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương"
Bên cạnh mốc thời gian rộng là một ngày hè thì, dấu hiệu thời gian để tác giả dựng lên
bức tranh thiên nhiên cuộc sống còn được thể hiện qua ba chữ “lầu tịch dương”, ý chỉ
thời điểm cuối ngày, khi mặt trời đã dần tắt, vạn vật đang thu nh lại đchờ đón
đêm tối, chuyển từ trạng thái vận động sang trạng thái nghỉ ngơi.
Thế nhưng trái lại, trong thơ của Nguyễn Trãi cái cảnh cuối ngày ấy lại khác, vạn vật
không hề trở nên mỏi mệt, tĩnh lặng, héo úa, buồn giống như c vần thơ của các
tác giả trung đại như Huyện Thanh Quan với “Ngàn mai gió cuốn chim bay
mỏi/Dặm liễu sương sa khách bước dồn” hoặc như Nguyễn Du với “Chim hôm thoi
thót về rừng /Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành”.
thơ của Nguyễn Trãi vạn vật vẫn căng tràn sức sống, trào dâng thành ơng sắc
âm thanh, náo nhiệt rộn tươi thắm trong buổi chiều tàn. Thể hiện qua một loạt các
hệ thống động từ như “đùn đùn” trong “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”, thể hiện sức
sinh sôi mạnh mẽ đang căng tràn trong từng thớ vỏ của cây, cứ phun trào hết lớp này
đến lớp khác. Không chỉ vậy “tán rợp giương” còn gợi ra hình nh xum xuê, xanh tốt
của tán cây hòe, chúng mạnh mẽ vươn ra phủ kín cả một khoảng không rộng lớn.
Rồi động từ “phun” trong câu “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ” cũng mang lại cảm
giác tràn trề nhựa sống, chực chờ nảy nở, sinh sôi để tạo ra một màu đỏ rực rỡ của
những hoa thạch lựu. Điều ấy càng làm cho bức tranh ngày thêm phần sôi động,
chứng minh sự vận động không ngừng nghỉ của thiên nhiên cuộc sống. Bức tranh
thiên nhiên tiếp tục được thể hiện bằng câu “Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”, “tiễn” ở
đây là một từ Hán Việt nghĩa là ra, như vậy thể hiểu đầy đủ câu thơ ao sen
đã nồng nàn mùi hương, hay hoa sen trong ao đã bung nở rực rỡ, hương thơm ngát
trời.
Bên cạnh các động từ thể hiện sức sống tràn trề căng tràn của từng cảnh vật thì các từ
láy thể hiện âm thanh trong hai câu thơ “Lao xao chợ làng ngư phủ/Dắng dỏi cầm
ve lầu tịch ơng” cũng lại tiếp tục bổ sung cho bức tranh cảnh ngày sự sôi động
náo nhiệt của cuộc sống trước buổi chiều tà. “Lao xao” đây chính âm thanh ngã
giá, trao đổi của người mua kẻ bán, tái hiện lại một cách sinh động cuộc sống của con
người thông qua hình ảnh “chợ làng Ngư phủ”, gợi ra sự nhộn nhịp, cuộc sống
sung túc ấm no của con người, thế nên cảnh chợphiên cuối ngày mới cảnh lao xao
tấp nập.
Hòa chung với những tiếng trao đổi rộn phía xa của con người ấy sự góp vui của
dàn hợp xướng ve sầu cho ra những âm thanh “dắng dỏi” giòn tan, rộn rã, khuấy động
cả không gian buổi chiều tà, làm cho khung cảnh thêm phần náo nhiệt, đượm sức
sống, gạt đi cái u buồn, tẻ nhạt của hoàng hôn.
Một điều đặc sắc của bài thơ tác giả đã căng mở tất cả các giác quan để cảm nhận
một cách tinh tế tái hiện một cách xuất thần vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên cuộc
sống. Với xúc giác Nguyễn Trãi đã mang đến cho người đọc ấn tượng đầu tiên về bức
tranh thiên nhiên ấy sự mát mẻ, dễ chịu, tạo cho người đọc ấn tượng về phong thái
nhàn hạ, thoải mái của thi nhân khi tận hưởng từng cơn gió thuở ngày hè.
Bên cạnh đó thị giác lại mang đến những ấn tượng sâu sắc về dáng hình của thiên
nhiên với những màu sắc rực rỡ, đó màu xanh lục của cây hòe rợp bóng, rồi nổi bật
trên cái nền xanh thẫm ấy màu đỏ rực rỡ của những đóa thạch lựu, và màu hồng dịu
dàng của loài sen đã nrộ trong đầm. cuối cùng cả ba gam màu ấy lại được tắm
mình trong cái màu vàng nhàn nhạt của ánh hoàng hôn sắp tắt để đem đến một bức
tranh mùa ơi tắn, sức sống căng đầy mạnh mẽ, thể hiện sự yêu đời, yêu sống,
nhìn cảnh vật bằng tình yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả Nguyễn Trãi.
Thêm vào đó, sự cảm nhận tinh tế của khứu giác về mùi của loài hoa sen, một loài hoa
vốn nhàn nhạt hương sắc, chỉ những con người thực sự tấm lòng tha thiết với
sen mới thể cảm nhận được cái mùi ơng thanh mát, đang lan tỏa một cách nồng
nàn, trong không gian khoáng đạt. Mùi hương ấy cũng gián tiếp thể hiện cái vẻ đẹp
của hoa sen vào mùa nở rộ, khiến người đọc dễ dàng liên tưởng đến hình ảnh một đầm
sen hồng, không quá rực rỡ, nhưng cũng đủ khiến bức tranh thiên nhiên bừng lên
những vẻ đẹp rộn rã, yêu đời từ hương sắc của loài hoa thanh cao này.
cuối cùng bức tranh thiên nhiên cảnh ngày càng trở nên sôi động, náo nhiệt
thông qua sự cảm nhận một cách tinh tế của nhà văn về âm thanh của con người của
sự vật. Đó tiếng “lao xao” thể hiện sự nhộn nhịp trong đời sống sinh hoạt của con
ngày buổi chchiều, tiếng ve “dắng dỏi” vang vọng khắp không gian, như nhắc
nhở người ta về một ngày hè rạo rực.
Việc sử dụng biện pháp đảo cấu trúc đưa các từ láy tả âm thanh lên vị trí đầu câu
lại càng nhấn mạnh sự náo nhiệt của cuộc sống rộn ràng trong buổi chiều tà, gợi cảm
giác vui tươi, hứng khởi của cuộc sống, làm lu mờ cái cảm giác vắng vẻ, hiu quạnh
mà những buổi chiều trong thi ca thường mang lại.
Như vậy việc huy động tất cả những giác quan của tác giả đã tái hiện một cách xuất
sắc bức tranh thiên nhiên cuộc sống, cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi không chỉ đẹp
còn chiều sâu, thể hiện được tam quan của tác giả về cuộc đời, luôn nhìn sự sống
bằng đôi mắt hứng khởi, tha thiết, thể hiện tấm lòng yêu thiên nhiên, cuộc đời tha thiết
của tác giả. Từ những cảm nhận tinh tế về bức tranh thiên nhiên cuộc sống, Nguyễn
Trãi đã bộc lộ tấm lòng yêu dân ái quốc của mình qua hai câu thơ kết bài.
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương"
Từ những quan sát về cuộc sống náo nhiệt của nhân dân nơi chợ làng Ngư phủ, tác
giả đã mường tượng ra hình ảnh cuộc sống cùng tươi đẹp, sung túc đầy đủ của
nhân dân. Điều đó gợi ra trong tâm hồn của tác giả những niềm vui, niềm hạnh phúc
khi chứng kiến cảnh quốc thái dân an, thế nên muốn Ngu cầm của vua Nghiêu vua
Thuấn để đàn ra khúc Nam Phong, ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị của đất nước. Thể
hiện niềm mong ước của Nguyễn Trãi về sự giàu có, phồn vinh của nhân dân giống
như hai triều đại trong lịch sử.
Đồng thời hai câu thơ còn thể hiện sự mãn nguyện, hài lòng của tác giả khi mong ước
cả cuộc đời, với ởng nhân nghĩa, hướng về vnhân dân nay đã trở thành hiện
thực. Tất cả đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn cao quý của Nguyễn Trãi, dù là khi còn
làm quan, còn được trọng dụng hay khi đã thất thế sa thì tấm lòng của ông vẫn
không một lần thay đổi.
Tác giả luôn hướng trái tim mình về với nhân dân, với cuộc sống lao động bình
thường dân dã, thể hiện niềm yêu tha thiết với vẻ đẹp của thiên nhiên, của cuộc đời.
Nguyễn Trãi ấy, đã nh cả kiếp nhân sinh để lo nghĩ cho nhân dân, cho đất nước
bằng những tưởng cao đẹp, bằng tấm lòng nhân hậu, nhân nghĩa, một lòng phụng
sự cho Tổ quốc, cho dân tộc, thật đáng quý vô cùng.
Cảnh ngày một bài thơ hay, thể hiện nét vẻ đẹp tâm hồn của tác giả Nguyễn
Trãi, đó người ta không chỉ thấy hiện lên vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên rực rỡ,
náo nhiệt căng tràn sức sống. còn nhìn nhận được tấm lòng thiết tha của tác giả
dành cho vận mệnh đất nước, vận mệnh dân tộc, cả một đời người chỉ mong ước sự
phồn hoa, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, thể hiện nổi bật tư tưởng chính nghĩa
tưởng vì nhân dân mà tác giả vẫn luôn hằng tâm niệm.
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè - Mẫu 16
Nguyễn Trãi một vanh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, ông để lại sự
nghiệp sáng tác đồ sộ, bao gồm cả sáng tác chữ Hán chữ Nôm. phần nào ông
cũng có những tác phẩm xuất sắc. Và Cảnh ngày hè là một trong những bài thơ nổi bật
nhất của ông trong tập Quốc âm thi tập.
Tác phẩm thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết, lòng yêu dân, yêu nước sâu nặng của
Nguyễn Trãi. Bài thơ mở đầu bằng câu thơ mang tính chất thông báo: Rồi hóng mát
thuở ngày trường. Rồi nghĩa nhàn rỗi, thảnh thơi, từ rồi được đảo lên đầu câu,
cách ngắt nhịp lạ, độc đáo 1/2/3 đã giúp nhấn mạnh hoàn cảnh, tâm trạng của nhân vật
trữ tình.
Đối với Nguyễn Trãi suốt một đời bận bịu, lo cho dân cho nước thì đây là khoảng thời
gian hiếm hoi trong cuộc đời ông được thảnh thơi, ung dung. Từ rồi kết hợp với ngày
trường (ngày dài) gợi nhắc về khoảng thời gian ông lui về ẩn, sống cuộc đời nhàn
tản, ung dung, tự tại, hòa mình với thiên nhiên.
Câu thơ mở đầu đã hé lộ cho người đọc thấy tâm thế mở lòng để đón nhận mọi vẻ đẹp
của thiên nhiên, của cuộc sống. Sau câu thơ mở đầu, năm câu thơ tiếp theo khung
cảnh mùa hè mở ra vô cùng sinh động, đẹp đẽ, ngập tràn sức sống:
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Mùa hè được tác giả khắc họa qua hàng loạt các sự vật: hòe, thạch lựu, sen, đây đều
những loài cây đặc trưng của mùa hè. Nhưng ấn tượng hơn chính là cách Nguyễn Trãi
kết hợp các sự vật tự nhiên với các động từ: hòe đùn đùn, thạch lựu phun, sen tiễn, cho
thấy sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt, sự trỗi dậy của cảnh vật, tất cả đều vận động theo
chiều hướng đi lên, ngày một căng tràn nhựa sống hơn.
Bức tranh mùa còn trở nên sinh động hơn với sự kết hợp của c màu sắc: xanh,
đỏ, hồng những gam màu ng, khiến cho bức tranh thêm phần sinh động, ngập đầy
sức sống. Hòa trong không gian là hương thơm đặc trưng của mùa hè, đó là hương hoa
sen, hương hoa lựu, ơng của vạn vật cỏ y, cái dịu nhẹ, thanh mát của chúng hòa
tan trong không khí lan tỏa vào cả lòng thi nhân.
Trong bức tranh ấy n âm thanh của cuộc sống con người. Tiếng lao xao chợ cá
gợi lên cuộc sống đông vui, tấp nập của làng chài, đây cũng bức tranh thu nhỏ của
cuộc sống con người. Đồng thời âm thanh tiếng lao xao cũng gợi cho ta liên tưởng v
thứ âm thanh từ xa vọng lại, cho thấy sự tĩnh lặng của không gian và sự mở rộng tâm
hồn của lòng người đ cảm nhận đầy đủ vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống xung
quanh.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi, bức tranh mùa hiện lên với những nét đặc trưng
của làng cảnh Việt Nam, đó mọi sự vật đều căng tràn sức sống, rộn âm thanh,
cuộc sống con người tươi vui ấm no. Đồng thời qua những câu thơ cũng cho thấy một
con người có tâm hồn thư thái, thảnh thơi, tâm hồn rộng mở để lắng nghe, quan sát
cảm nhận những vẻ đẹp tinh tế nhất của cuộc sống.
Trong những giây phút đắm say, hòa mình cùng nhịp sống thiên nhiên nhưng Nguyễn
Trãi vẫn mang trong mình một mơ ước, một mong mỏi lớn:
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
Ước của ông thật đẹp đẽ, cao cả, ông ước cây đàn của vua Nghiêu vua Thuấn,
đàn lên khúc ca Nam Phong để dân chúng được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc
đủ đầy hơn. ước đã thể hiện tâm hồn tưởng cao đẹp của Nguyễn Trãi. Suốt
cuộc đời ông luôn lo cho dân, cho nước, đây tâm sự đã được ông thể hiện trong
nhiều bài thơ:
Bui một tấm lòng ưu ái
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng
Tác phẩm một sự sáng tạo trong thể thơ: thất ngôn xen lục ngôn. Ngôn ngữ tài hoa,
phong phú, sử dụng những động từ mạnh, các từ láy, tượng thanh thành công để miêu
tả thiên nhiên cuộc sống con người. Tiết tấu bài thơ đa dạng, ngắt nhịp độc đáo,
khiến bài thơ trở nên hấp dẫn, thú vị hơn.
Bài thơ đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên cảnh ngày phong phú, đa
dạng, sinh động tràn đầy sức sống. Qua bài thơ ta còn thấy được vẻ đẹp tâm hồn của
Nguyễn Trãi: yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, có một tâm hồn thi sĩ và đặc biệt có một
tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc.
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè - Mẫu 17
Nguyễn Trãi (1380 1442), người anh hùng dân tộc, “tấm lòng sáng tựa sao Khuê”
(lời vua Thánh Tông) trong bất kì hoàn cảnh nào cũng không nguôi tâm nguyện
hướng về nhân dân về đất nước. Ngay cả khi bị nghi kỵ, Nguyễn Trãi phải lánh về quê
ngoại Côn Sơn, ông vẫn bộc bạch nỗi lòng tha thiết cháy bỏng trong cuộc sống tưởng
như chỉ biết vui vầy cùng mây núi cỏ cây. Nỗi lòng của ông bộc lộ nét trong chùm
thơ 61 bài “Bảo kính cảnh giới”. Đặc biệt, bài số 43 chan chứa bao khát vọng hướng
đến cuộc đời, nhân dân.
“Bảo kính cảnh giới” (Gương báu răn mình) lấy những bài học từ thiên nhiên vĩ đại để
nhà thơ soi chiếu lòng mình. Ta không chỉ cảm nhận tấm lòng yêu thiên nhiên của một
nghệ lớn còn thấu hiểu tâm sự của người anh hùng luôn canh cánh bên lòng nỗi
niềm “ưu quốc ái dân”. Suy ngẫm cảm xúc của nhà thơ giúp chúng ta hình dung
một nhân cách lớn.
Bài thơ bắt đầu bằng hoàn cảnh hưởng nhàn bất đắc dĩ:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường” Nhịp thơ hơi lạ lùng như kéo dài cảm giác của một
ngày “ăn không ngồi rồi”: tạo điểm nhấn một nhịp đầu tiên, sau đó năm chữ nối
thành một hơi thở như tiếng thở dài. ràng nhà thơ nói về việc hóng mát không
hề đem lại cảm nhận nhàn tản thật sự.
Hai chữ ngày trường lại hiện ra bao nỗi chán chường của một ngày dài vị. Hưởng
nhàn mà không hề thư thái! Có thể đó sẽ là khởi nguồn cho bao nỗi bực dọc trút ra của
con người bất đắc chí. Thế nhưng, tất cả tâm tư đã dồn nén lại khi nhà thơ đối diện với
một thiên nhiên mãnh liệt đầy sức sống:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Chỉ ba câu thơ nhưng mang lại một bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc, cùng những
hình ảnh đặc trưng của không gian mùa hè. Trước hết, đó hòe buông sắc lục như
một chiếc lọng khổng lồ bao trùm lên cảnh vật, tạo cảm giác về một không gian xanh.
Cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Trãi luôn sức bao quát, vừa gợi sức sống của
không gian trong động từ đùn đùn, vừa gợi cảm giác phóng khoáng trong một chữ
rợp.
Tầm nhìn trải từ gần ra xa, theo quy luật đăng đối hai câu tả thực, khéo léo đan cài
sắc đỏ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc hồng của ao sen. Câu trên tả sắc, câu
dưới gợi hương. Thiên nhiên ấy cũng chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan tỏa lúc
bừng bừng phun trào.
Để rồi cuối cùng đọng lại cảm giác man mác tiếc nhớ làn hương thanh thoát của sen
hồng lúc cuối hè. Phải một người tâm hồn tinh tế mới cùng một lúc diễn tả được
nhiều cảm giác trong chỉ vài ba câu thơ đọng. Giữa khung cảnh thiên nhiên ấy, nhà
thơ dường như cũng nguôi ngoai bao nỗi niềm bực dọc, để lòng mình hòa cùng thiên
nhiên đầy sức sống. Không chỉ nhìn bằng mắt mà Nguyễn Trãi còn trải lòng lắng nghe
những thanh âm muôn vẻ của thiên nhiên:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
một sự chuyển đổi cảm xúc trong cách lắng nghe những âm thanh của cuộc sống.
Giờ đây, những thanh âm lại được cảm nhận từ xa đến gần, từ lao xao đến dắng dỏi.
Thiên nhiên không hề tĩnh lặng u trầm trong thời điểm chiều buông trái lại rất sôi
động gần gũi với tấm lòng thiết tha yêu sự sống của nhà thơ. Lao xao âm thanh
gợi cuộc sống thanh bình của những người dân chài, cảnh mua bán tấp nập mà
không quá ồn ào để khuấy động không gian hưởng nhàn của nhà thơ.
Dường như Nguyễn Trãi đã chủ động hướng lòng mình về với chợ cá, làng ngư phủ
để thấy bản thân không xa với đời thường. Âm vang cuộc sống thực ấy tạo thành mối
dây liên hệ giữa nhà tvới nhân dân, mang lại niềm vui n xao trong một buổi
chiều dễ tạo cho nhà thơ nỗi buồn, cấu trúc đăng đối đã tạo nên sự hòa điệu giữa con
người với thiên nhiên trong sự cân xứng làng ngư phủ bóng tịch dương mang đậm
sắc thái trang trọng cổ điển.
Nghệ thuật ơng phản tạo nên một cảm hứng hết sức mới mẻ trong thơ Nguyễn Trãi
khi ấn tượng ám ảnh nhà thơ không phải ánh tịch dương ảm đạm lại âm thanh
dắng dỏi cầm ve. Sự liên tưởng bất ngờ và độc đáo này đã chứng tỏ rõ phẩm chất nghệ
sĩ của Nguyễn Trãi. Tiếng ve đặc trưng của mùa hè đến cùng Nguyễn Trãi lại như một
bản đàn mạnh mẽ, rạo rực hối hả nhịp sống căng tràn của thiên nhiên.
Bức tranh thiên nhiên sống động ấy đã hàm chứa một nội dung thông điệp thẩm
đánh động tâm của nhà thơ. Bản thân ông muốn lánh đời thoát tục, ngắm ánh
tịch dương, giam mình trong lầu kín cũng không thể không nghe, không thấy bao
nhiêu vẻ đẹp thiên nhiên tươi tắn rộn chung quanh. Thiên nhiên ấy xôn xao hay
chính tấm lòng của nhà thơ cũng đang náo nức muốn hòa cùng niềm vui sự sống?
Cuộc sống của ông không phải của ẩn lánh đời chính phản chiếu của tâm hồn
yêu đời thiết tha, vẫn đón nhận thưởng thức được niềm vui cuộc sống thanh bình để
quên đi nỗi riêng sầu muộn. Thiên nhiên đã đem lại một bài học lớn. Lay thức khát
vọng mãnh liệt muốn trở lại với đời của nhà thơ. Thiên nhiên ấy đã thổi bùng khát
vọng của người anh hùng đầu bạc mà vẫn vẹn tấm lòng son:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Còn thanh cao, giản dị, súc tích hơn những lời thơ mộc mạc chân thành ấy! Giữa
thiên nhiên tuyệt đẹp, Nguyễn Trãi không hề mong muốn hưởng thụ thú nhàn tản cho
riêng mình. Ông không phải con người chỉ chăm chăm giữ lấy sự trong sạch cho riêng
minh theo triết nhà Nho “độc thiện thân”, sâu thẳm tâm hồn ông vẫn nỗi
niềm “ưu quốc ái dân”, khát khao hành động của một con người trọn đời lợi ích
của nhân dân.
Tinh thần Nguyễn Trãi vẫn không hề nhụt giảm hoài bão cống hiến cho đất ớc thái
bình thịnh trị như thời Đường Ngu hội thịnh trị tưởng theo quan niệm nho gia.
Giản dị thay cũng cao cả thay sáu chữ đúc kết tấm lòng Nguyễn Trãi hướng về
nhân dân. Quả thật, riêng ông trong hoàn cảnh bấy giờ nhiều nỗi buồn, nhưng bản
chất tâm hồn Nguyễn Trãi luôn “trong sáng đầy sức sống” (lời cố thủ tướng Phạm
Văn Đồng).
Tâm hồn ấy chỉ cháy bỏng niềm mong ước đem lại cho nhân dân cuộc sống giàu đủ.
Niềm mong mỏi nhân dân “khắp nơi không một tiếng hờn giận oán sầu” chính là minh
chứng cho nhân cách trong sáng tuyệt vời của Nguyễn Trãi.
“Bảo kính cảnh giới” bài học lớn từ thiên nhiên giúp Nguyễn Trãi răn mình, chứa
đựng bao tình cảm yêu đời yêu sự sống. Ta nhận ra một tâm hồn nghệ chiến sĩ của
ức Trai tiên sinh. Tấm lòng “sáng tựa sao khuê” ấy vẫn tỏa sáng đến tận hôm nay!
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè - Mẫu 18
Đặt cho bài Bảo kính cảnh giới số 43, trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, cái tựa
Cảnh ngày hè kể cũng phải. Phần lớn thơ thuộc chùm Bảo kính cảnh giới vẫn nghiêng
về những gương báu tự răn mình, đúng như chủ đề chung của cả chùm. Trong khi đó,
bài 43 này, không phải không cái ý răn mình, nhưng lại nghiêng nhiều về tức
cảnh. Toàn thi phẩm tâm tình nồng hậu của ức Trai trước cảnh tượng hưng thịnh
của ngày hè. Dù được viết cách nay đã hơn sáu thế kỉ, nhiều ngôn từ đã trở nên xưa xa
đối với người hiện đại, thậm chí kèm theo luôn phải có cả một bản chú thích lê thê đến
gần 20 mục, nhưng Cảnh ngày vẫn sức vượt qua khoảng cách thời gian dằng
dặc, vượt qua rào cản ngôn ngữ rậm rịt để đến được với người đọc bây giờ. Điều gì đã
khiến cho bài thơ có được sức sống này? Sự tài hoa của ngòi bút chăng? vẻ tinh tế của
tâm hồn chăng? Tầm vóc lớn lao của một tấm lòng chàng? Có lẽ không riêng một yếu
tố nào, mà là sự kết tinh của tất cả thành một chỉnh thể thi ca sống động, một kiến trúc
ngôn từ cô đúc dư vang.
Cảnh ngày trước hết một cảnh tượng rực rỡ rộn rã. Nếu tuân theo nguyên
“thi trung hữu họa”, người đọc hoàn toàn thể cảm thụ thi phẩm như một bức tranh.
Một bức tranh được vẽ bằng ngôn từ. Một bức tranh nghiêng về gam màu nóng, theo
lối phân loại của hội họa. Thật là gam màu đặc trưng của ngày hè.
Hai câu đề, với những nét bút đầu tiên, đã đưa ngay cái không kđến với người
đọc:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”
Ngày hè hiện ra với một tâm thế, một thời gian, một không gian khá ăn nhập với nhau.
Ba chữ Rồi hóng mát đã gợi ra hình ảnh một c Trai trong dịp nhàn rỗi hiếm hoi nào
đó đang hóng t ngày hè. Nhưng ba chữ thuỷ ngày trường mới giàu sức gợi hơn.
Ngày mà dài thì đúng là đã tóm được cái chênh lệch đêm ngắn, ngày dài khá đặc trưng
của mùa hè. Nhưng phải chỉ chuyện thời lượng đơn thuần không? Hình như còn
chuyện tâm lí nữa. Khoảng thời gian nào lại thể khiến một con người vốn
ham gánh vác việc tắc giang sơn này cảm nhận “thuở ngày trường?” Thời ông
đang làm ờng cột bận bịu với chính sự giữa cung đình của một vị quan đầu triều ư?
Không thể. Khi ấy, người say sưa hành sự khó mà cảm nhận về “ngày trường”. Vì thế,
chữ “ngày trường” gợi ra những ngày nhàn chẳng thật thanh nhàn bên ngoài
chính cuộc của ức Trai chăng? đâu chỉ hiện trong nghĩa của chữ, tâm thế ấy như
còn ẩn trong âm vang của lời. Chẳng phải thế sao? Câu khai mở đã gây một cảm giác
lạ đối với người quen đọc thơ thất ngôn bát cú. một cái đó như giao thoa của
những cảm giác trái chiều: ngắn mà lại dài, mau mà lại khoan. Sao thế nhỉ? Có phải
đó một câu phá cách: lời chỉ sáu tiếng (lục ngôn), tiết tấu chỉ hai (3/3). Cả
chuỗi lời thì ngắn, mỗi tiết tấu lại dài. Số nhịp thì dồn lại, mỗi nhịp lại trải ra. Sự co
giãn này có hiệu quả gì đây? Hãy lắng nghe âm vang của nó:
“Rồi hóng mát/ thuở ngày trường”
Chẳng phải tạo ra một ngữ điệu khá khác biệt, chứa đựng những tình điệu dường
như cũng trái chiều: vừa hối thúc lại vừa thong dong? Thong dong hối thúc, nhàn
bận tâm, chẳng phải cái m thế thường trực c Trai hay sao? lẽ sẽ
không ngoa khi nói rằng chính tâm thê này đã ngầm tìm kiếm cho kiểu câu trúc
ngôn từ như thế trong câu khai mở! Người nghiên cứu hiện đại thể gọi đó sự
tham gia sáng tạo của vô thức chăng?
Kết hợp câu đề thứ hai với câu thực ta sẽ thấy một thiên nhiên dồi o sức sống được
hiện lên qua sắc độ rực rỡ của thảo mộc hoa lá:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Trật tự không gian trải từ cao xuống thấp, điểm nhìn của thi sĩ cũng di chuyển từ tầng
không qua hiên nhà rồi xuống ao sen. tầng nào của thiên nhiên, sức sống bên trong
cũng như đang trào ra. Các tạo vật thiên nhiên không chịu tĩnh. Chúng động. Màu
xanh lục hòe thì “đùn đùn” như cuộn lên từng khôi biếc, tán hòe thì “rợp giương”
như cử lọng giường ô. Màu đỏ hoa lựu không lặng lẽ son điểm sắc, cũng không lập
lòe dậy lên vài đốm lửa, nhất loạt phun trào thức đỏ, tựa pháo hoa hừng sáng cả
hiên nhà. Từ dưới ao, hoa sen cũng hưởng ứng bằng sắc hồng chín ửng cùng mùi
hương dậy lên bay tỏa không gian. Mật độ dậy của các động thái “đùn đùn”, “rợp
giương”, “phun”, “tiễn”... đã tạo n một sự sôi động đằng sau mỗi loài thảo mộc
tưởng chừng tĩnh lại. Như thế, động thái mạnh lại được cộng hưởng bởi độ gắt của
gam màu, tất cả làm dậy lên sức sống của thiên nhiên đang kì toàn thịnh.
Chưa hết. Chúng ta còn thấy Nguyễn Trãi tinh tế hơn nhiều. Thi đã bắt được một
nhịp vận hành hình hối thúc, đẩy tạo vật nữa. Chỉ cần chú ý một chút thôi sẽ
thấy điều y: thảo mộc thì tiếp nối liên tục từ cao xuống thấp, động thái thì liên tiếp
từ trong ra ngoài, - hoa - hương thì tiếp ứng nhau, nhất cái nhịp độ khẩn trương:
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên trì đã tiễn mùi hương. Loài này đang thì
loài kia đã, ứng nhau, chen bước nhau gợi ra được không khí các tạo vật đang đua
tranh phô sắc, khoe hương.
Có lẽ nên dừng đôi chút về câu chữ ở đây. Trước hết, là chữ. Hiệnhai bản ghi khác
nhau về câu thơ Hồng liên trì đã ... mùi hương do đó hai cách hiểu khác. Một
bản ghép “tin”, nghĩa hết i hương, diễn tả vẻ suy. Một bản chép “tiễn”,
nghĩa là đưa tỏa mùi hương, diễn tả vẻ thịnh. Đi liền với chữ, là pháp. Cặp quan hệ
từ “còn”... “đã” trong cặp câu thực biểu hiện quan hệ cú pháp nào? Không ít người chỉ
thấy chúng biểu đạt quan hệ suy giảm: “đang còn”... “dã hét”. Từ đó đã dẫn tới việc
hiểu nghĩa của chúng là Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ/ Hồng tiên tri đã tin (hết)
mùi hương. Hiểu thế phù hợp không?. Để làm sáng tỏ, ngoài những căn cứ về văn
tự Nôm, lẽ cần phải thêm căn cứ về văn bản thơ các quy luật nghệ thuật nữa.
Trong nghệ thuật, có quy luật: tiểu tiết phục tùng tổng thể chi phối tiểu tiết. Cảm hứng
chung của thi phẩm về sự sung mãn toàn thịnh của ngày hè. Cho nên các hình ảnh
(cả thiên nhiên lẫn đời sống) tạo nên tổng thể đây cũng phải nhất quán, mỗi chi tiết
đều phải góp mình làm nổi bật cái thịnh. Xem thế, chữ “tin” ít lí. nói cái suy.
Tổng thnói thịnh, tiểu tiết sao lại nói suy? ràng, “tin” sẽ lạc điệu, phá vỡ hệ
thống. Trái lại, chữ “tiễn” nói cái thịnh, mới cộng hưởng được với vẻ toàn thịnh ấy. v
quan hệ pháp cũng thế. Cặp phó từ “còn”... “đã”... đâu chỉ nói về loại quan hệ suy
giảm: “đang còn”... “đã hết”, còn dùng để chỉ loại quan hệ tăng tiến: “đang
còn”... “đã thêm”. Trong tổng thể y, quan hệ phải là tăng tiến thì mới ăn nhập. Bởi
vậy, nghĩa của hai câu thơ chỉ thể là: Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ/Hồng liên
trì đã tiễn (đưa/tỏa) mùi hương. Hương sen, sắc lựu tiếp ứng nhau, chen đua nhau
cùng hợp nên vẻ toàn thịnh của ngày hè.
Ăn nhập với thiên nhiên rực rỡ một đời sông rộn rã. Theo đó, bức tranh ngày
toàn thịnh vốn đã đầy màu sắc giờ lại tràn ngập cả âm thanh:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Nghĩ cũng thú vị, chợ một hình ảnh cùng điển hình của cuộc sống này. Lúc
đương đông buổi chợ hình ảnh vui của một cuộc sống sầm uất đi lên. Còn khi ch
tan hình ảnh đám của một cuộc sống đi xuống. Chỉ cần nhìn vào diện mạo chợ,
cũng thể thấy được âm vang của đời sống. Âm thanh “lao xao” từ chợ làng ngư
phủ đã nói lên vẻ sầm uất của cuộc đời xung quanh. Cả hình ảnh bóng tịch dương nữa.
Nắng tắt, bóng tối dâng lên vây phủ bốn bề, âm thanh sinh hoạt cũng dần dần thưa
thớt. Lúc tịch dương thì đó miền sơn ớc hay chốn chương đài, cũng đều khó
tránh khỏi không khí quạnh hiu cô tịch.
Nhưng không khí ấy đây đã bị xua tan bởi nhạc ve. Tiếng ve gióng giả inh ỏi như
một bản đàn làm cho hoàng hôn cũng trở nên náo nhiệt. Phải một tâm hồn mở, một
điệu hồn o nức thì mới thể nghe tiếng ve inh ỏi thành tiếng đàn cầm ve như thế.
Từ làng ngư phủ xa xa của dân nghèo lớp dưới, đến lầu son gác tía của người lớp trên,
chỗ nào cũng rộn vui tươi. Cái nhìn khái quát đã thâu tóm được toàn, cảnh cuộc
sống trong đôi nét bút tài hoa.Trước, vẽ thiên nhiên thì từ cao xuống thấp, giờ, vẽ đời
sống lại chảy từ thấp đến cao, từ xa lại gần. Lối viết đảo ngược cú pháp, đặt những âm
thanh lao xao và dắng dỏi lên đầu mỗi câu khác nào như tạo nên những điểm nhấn. Ta
ngỡ như người viết đang muốn phvào không gian cả một n âm thanh rộn rã. Cảnh
hưng thịnh của ngày hè, nhờ thế, mà càng trở nên phồn thịnh hơn.
Nếu chỉ dừng lại cảnh không thôi, cũng đã phần nào thấy được ng người vẽ cảnh.
Phải, cảnh tượng ấy đâu chỉ nói với ta về sự tinh tế của một tâm hồn, đó còn sự
phấn chấn của một tấm lòng thiết tha với đời sống. Nhưng ta hồn, đó còn là sự
phấn chấn của một tấm lòng thiết tha với đời sống. Nhưng ta có dịp dược hiểu về tấm
lòng ấy trực tiếp hơn qua chính lời ước ao bộc trực của thi sĩ:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Giá chỉ cây đàn của vua Thuấn, ta sẽ gảy khúc Nam Phong cầu cho dân giàu đủ
khắp muôn phương. Cặp câu kết y mở cho chúng ta về chí của Ức Trai. Người
dám mang trong mình ước nguyện kia phải ai vậy? Một thi đơn thuần thôi sao?
Một công thần khanh tướng thôi sao? Những kẻ ấy dám đến việc cầm trong tay
cây đàn của một quân vương sao? Không. Trong đời, vphận vị, Nguyễn Trãi một
công hầu. Nhưng trong thơ, trong cái thế giới của những khát vọng riêng nhất, ông
đã bộc lộ khát khao lớn ngang tầm với những bậc quân vương vốn thần tượng của
lịch sử. Điều này không chính đáng đâu. Và, đó khát khao tầm cỡ Nghiêu
Thuấn.
Thêm nữa, Nguyễn Trãi muôn gảy đàn chđể ca ngợi cuộc sống phong tục hiện thời
thôi sao? Không. Dù cảnh tượng bày ra nhãn tiền kìa quả là hưng thịnh. Nhưng nó vẫn
chưa khiến ông thỏa nguyện. Ông muốn cầm cây đàn vua Thuấn gảy khúc Nam phong
để cầu mong cho dân tình phong túc hơn nữa. Ông mong muốn có một cuộc sống thực
sự thái bình. Đó khát khao sâu kín cháy bỏng suốt một đời Nguyễn Trãi.
ông đã phải trả giá bằng cả sinh mạng và tôn tộc của mình. Chẳng thế mà ông cần phải
đút vào trong một câu lục ngôn, một u đột nhiên ngắn lại, nđể ghim sâu điều
đau đáu của cõi lòng. Thì đó khát khao Nghiêu Thuấn của một con người suốt đời
“âu việc nước” chứ sao!
Và, Cảnh ngày hè như thế, chẳng phải là sự hòa điệu tuyệt vời giữa tâm hồn và nét bút
của một đấng tài hoa với tấm lòng của một bậc minh vương lương tướng ư?
Phân tích Cảnh ngày - Mẫu 19
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng khẳng định”Nguyễn Trãi người đầu đội trời
Việt Nam, chân đạp đất Việt Nam, tâm hồn lộng gió thời đại bấy giờ”. Quả đúng, thơ
ông mang lộng gthời đại với những áng n đã trở thành kiệt tác.Đặc biệt phải kể
đến tác phẩm Bảo kính cảnh giới số 43 tấm” gương báu răn mình” nhưng mang
đậm hơi thở cuộc sống, tâm sự tác giả.
Nguyễn Trãi nhà thơ “Non nước cùng ta đã duyên”.Ta cũng bắt gặp hồn thơ đầy
giao cảm với thiên nhiên,vạn vật từ những câu thơ đầu tiên:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Thật hiếm hoi khi khí trời mát mẻ trong lành trong thơ Nguyễn Trãi. Ta biết thơ
văn ông không mỹ miều, không “đao to a lớn” giữ trọn vẻ mộc mạc, đơn sơ, tả
thực lại rất tình. Không gian đầu tiên được mở ra khi đất trời khoác màu áo mùa
căng tràn sức sống:
"Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"
Một khoảng trời xanh đang thay màu áo mới làm nên một tổng thể hài hòa. Đất trời
đang vào độ cuối thu, ngày đang n nhưng ssống không dừng lại cứ vươn lên
đến tận cùng. ng loạt các động từ “đùn đùn”, “trương”, “phunnhư giọt sống đang
bắn lên, như sức trẻ cvươn ra, khao khát sống đang trỗi dậy, dấu hiệu của sự sống
căng tràn, tròn đầy, phải”trương” lên, phải”phun” ra, hết lớp này đến lớp khác. Ta
từng thấy Nguyễn Du “Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”. Cảnh ngày vừa thơ
vừa tình đã sống dậy trong con mắt của những thi sĩ. Mọi giác quan đều được giao hòa
nhưng giữ vẹn nguyên sự tinh tế trong hồn thơ Ức Trai. Nếu Hồng Đức đem đến bức
tranh mộc mạc và có phần thô tháp:
“Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi
Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè”
Nguyễn Trãi không như vậy. Ông biết hòa màu sắc, âm thanh, đường nét theo quy luật
để tạo hình vừa có hồn, vừa gợi tả, vừa sâu lắng. Cảm xúc của nhà thơ đã hòa làm một
với cảnh trí thiên nhiên để “trong cảnh tình” nồng nàn say đắm. Khi thiên nhiên
khoác lên màu áo mới cũng là khi nhịp sống lại nhộn nhịp, hối hả:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Rắn rỏi cầm ve lầu tịch dương”
Thì ra, cuộc sống không bao giờ dừng lại cứ xoay vần, con người còn tận ởng,
để yêu được yêu, để hạnh phúc. Hạnh phúc sẽ đến, cuộc đời sẽ sung túc, sum vầy
khi ta vẫn cố gắng. Ta thấy niềm vui dâng lên từ trái tim của chính tác giả khi thấy
“dân giàu đủ” bởi tấm lòng ông tha thiết với con người, với dân, với nước. Nhà thơ
dành cho mình quyền” hóng mát thuở ngày trời” khi niềm ước đã được thực hiện:
dân ấm no hạnh phúc.
Tình yêu, niềm tha thiết không thể kìm nén để bộc lộ thành hình, thành chữ. Niềm vui
được tràn ngập lan tỏa khi dân được no đủ. Ông mong mỏi một điều nhỏ cho
“dân giàu đủ” với tất cả mọi người, mọi nơi “khắp mọi phương”.
Dù cung bậc và sắc thái tình cảm như nào thì tấm lòng ông chỉ một:
“Sách một hai phiên làm bầu bạn
Rượu năm ba chén đổi công danh
Ngoài chưng phụ ấy cầu đâu nữa?
Cầu một: ngồi coi đời thái bình.”
Nguyễn Trãi quả thuộc về thiên nhiên với tâm hồn luôn mở đón nhận thiên nhiên. Ông
đến với thiên nhiên không phải chỉ để vẽ lên bức tranh vừa có hồn, vừa gợi tả, vừa sâu
lắng mà còn đến với người bạn tâm giao để được trút bầu tâm sự, được nói hết ng
mình. Quả đúng:
“Nhắc đến tên ông là thấy thơ
Như một nguồn thiêng chẳng bến bờ”
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè - Mẫu 20
“Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hoè lục đùn đùn tán rợp gương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Bài thơ “Cảnh ngày” của Nguyễn Trãi đã cho thấy một tâm hồn chan chứa tình yêu
thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân và yêu đất nước của nhà thơ.
Trong bức tranh đậm màu, nền trời chiều ráng đỏ, một ngôi lầu vắng lặng, cây hoè cổ
thụ ngoài sân tán xanh thẫm, che rợp, bên hiên nhà cây thạch lựu sắc đỏ. Vài ba chú
ve trên các cành cây. Ao sen hồng xa xa làng chài đang họp chợ. một người
ngồi trên lầu trâm ngâm. Xem tranh, trước hết ta thấy một thế của con người ngồi
đó. Câu mở đầu “hóng mát” - ngoạn cảnh nhàn nhã, thảnh thơi.
Nên nhớ, đây bức tranh thơ của vị tướng cầm quân từng xông pha trận mạc một
thời, từng “đau ng nhức óc” vận nước từng cùng Lợi “dựng cấu trúc ngọn cờ
phấp phới” sau này sắm vai ẩn tấm lòng dân ớc không lúc nào yên:
“Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng”. Đặt trong nỗi truân chuyên của cuộc đời
Nguyễn Trãi, mới thấy quý cái giây phút ngắn ngủi hiếm hoi này, mới thấy cái thế
ung dung thưởng ngoạn kia sự hưởng thụ chân chính. Sau thế ấy, thấy cả cái
không khí yên bình của cả một làng quê, đất nước vừa qua cơn binh lửa.
Con người này ánh mắt tinh tế, say mê. Người ngắm cảnh đôi mắt rất sành: ba
loại cây, ba dáng vẻ, không trùng lặp. Tả cây, lộ ra khuôn mặt của mùa hè. Cây
hòe: tán xanh xum xuê, toả rộng - sức sống ơn cao. Thạch lựu: sắc đỏ - rực rỡ của
tố chất khoẻ mạnh. Sen hồng: đậm hương - tâm hồn nồng hậu, thanh cao. Ba loại cây,
ba dáng vẻ, ba màu sắc nửa (xanh, đỏ, hồng) đều hồn. Ngôn ngữ của thơ thay cho
chất liệu màu của họa lời nói sống động của đời thường. Chữ “đùn đùn” khiến ta
cảm nhận được sự sống đang nảy nở mạnh mẽ, trông thấy được bằng mắt thường. Chữ
“phun” còn lạ hơn. Không tả hoa đỏ, cảm nhận cây lựu đang phun, đang tuôn ra
sắc đỏ. Sen hồng cố đậm hương. Con ve kia cũng gắng hết sức trong những tiếng kêu
cuối cùng. Chợ ở làng chài đang náo nhiệt nên vọng xa lao xao...
Ta bất ngờ nhận ra điều lạ. Con người hoạ trong thi nhân Nguyễn Trãi thế kỉ XV
ở Việt Nam có gì rất gần gũi đại danh hoạ Hà Lan thế kỉ XIX, V.Van-gốc. Không phải
những sắc màu được sử dụng, cách diễn tả nó. Van-gốc vẽ đồng lúa ta cứ ngỡ
cánh đồng bốc cháy. Hàng cây bên đường cũng quằn quại vệt lửa. Van-gốc đốt cháy
mình trong tranh. Nguyễn Trãi cũng đốt cháy mình trong thơ. Chữ “đùn đùn”, “phun”,
“tiễn”, “lao xao”, “dắng dỏi” lửa sống rừng rực trong lòng Ức Trai mặc cho do thời
thế ông đang phải lui về quy ẩn “Rồi, hóng mát thuở ngày trường”.
Trong bức tranh này, thính giác nhạy bén đã giúp Nguyễn Trãi “vẽ” cảnh bằng nhạc.
Xa xa, chợ không hình, song âm thanh “lao xao” chở hồn đến cho người đọc cái
rộn ràng nhộn nhịp, náo nhiệt của cuộc sống thanh bình. Nếu “lao xao” khúc hòa
tấu của đời sống n sinh, thì “dắng dỏi cầm ve” tấu lên âm thanh của cây đàn độc
huyền, ngân lên thiết tha cuối chiều, vấn ơng nét quý tộc, lầu cao đơn độc. Hai
phong điệu dân quý tộc hoà hợp, bởi chất keo dính của đời thường, đậm đà hơi
thở sống.
Cho nên vẽ bức tranh này đâu chỉ chuyện của giác quan chuyên nghiệp họa sĩ hay
thi sĩ năng lực, phẩm chất của tâm hồn - tâm hồn tinh tế, đằm thắm của một con
người hết mực yêu đời, say mê cuộc sống.
Bức tranh “Cảnh ngày hè” có một lời bình - một suy ngẫm đứng riêng, độc lập:
“Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Mạch thơ từ hướng ngoại sang hướng nội. Tmiêu tả sang biểu cảm, khách thể sang
chủ thể. Nguyễn Trãi đã trực tiếp bộc lộ nỗi lòng mình trong hai câu thơ kết. Ấy
một giấc mơ, và cả một học thuyết nhân sinh ấp ủ bật ra thành lời. Giấc mơ, đó là giấc
Nghiêu Thuấn. Giấc ngàn đời của những con người Phương Đông sống trong
thời trung đại. Mong sao có một bậc vua hiền để được yên ổn ấm no hạnh phúc. Trước
hơn bốn trăm năm, thời Tiền Lê, Pháp Thuận đã phát biểu: Vận nước như mây
cuốn/Trời Nam mở thái bình/Vô vi trên điện các/Xứ xứ tức đao binh”. Vận nước
rối ren thế nào cũng mong hai chữ thái bình, nhà vua đừng làm điều nhiễu nhương
thì khắp nơi đều hết nạn binh đao. Sau mấy mươi năm, vị vua hiền minh Thánh
Tông cố sức mình cũng chỉ để thỏa lòng mong muốn:
“Nhà nam nhà bắc đều có mặt
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình”
Bây giờ đây, ưu thế cuộc, nhìn đời - từ cỏ cây, vạn vật đến sinh linh vui sống như
thế, Nguyễn Trãi lại khắc khoải khát vọng muôn năm này. Mong trị quốc, bình thiên
hạ sao cho dân giàu nước mạnh là giấc mơ của một bậc đại nhân.
Nếu giấc mơ kia là của bậc đại nhân, thì cái lõi tư tưởng của giấc mơ là của bậc đại trí.
Đó là tư tưởng “thân dân” (dĩ dân vi bản) từng được vạch trong Bình Ngô đại cáo -
“Việc nhân nghĩa cốt yên dân”. Đó tưởng lớn. Với Nguyễn Trãi, ởng ấy
từng sôi sục trong hành động, khắc khoải trong tâm ởng, rát bỏng trong thi ca. Cả
bài thơ 8 chữ, đến tận dòng cuối cùng, chữ “dân” mới bật ra, song chính i nền
tưởng, tình cảm của tác giả, cái hồn của bài thơ. sợi chỉ đỏ xâu chuỗi cả tám câu
thơ lại.
“Cảnh ngày hè” không định giáo huấn chung. Trước đời sống đang dâng trào, yên
lành thế, Nguyễn Trãi tự răn mình, phải làm sao cho cuộc sống này trở thành mãi mãi
và chỉ khắc khoải một nỗi “tiên ưu” ấy mà thôi
| 1/61

Preview text:


Dàn ý phân tích bài thơ Cảnh ngày hè 1. Mở bài
● Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi: Nguyễn Trãi là một trong những cây đại cổ
thụ của nền văn học trung đại Việt Nam, đã góp vào kho tàng văn học trung đại
Việt Nam nhiều tác phẩm bằng cả chữ Hán và chữ Nôm
● Giới thiệu về tập Quốc âm thi tập: tác phẩm chữ Nôm xuất sắc của Nguyễn
Trãi. Với thể thơ Đường luật được sử dụng thuần thục như thể thơ dân tộc, tập
thơ đã vẽ nên chân dung, con người Nguyễn Trãi.
● Giới thiệu khái quát về bài thơ “Cảnh ngày hè”: bài số 43 trong số 61 bài của
mục Bảo kính cảnh giới trong Quốc âm thi tập là một trong số những bài thơ
tiêu biểu của Nguyễn Trãi. 2. Thân bài
a. 6 câu thơ đầu: Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống
– Câu 1: hoàn cảnh đặc biệt của tác giả
– Bức tranh thiên nhiên, cảnh vật
● Hình ảnh đặc trưng của thiên nhiên, cảnh vật lúc vào hè: hòe lục, thạch lựu hiên, hồng liên trì
● Sử dụng động từ mạnh gợi nên sức sống căng tràn của cảnh vật: đùn đùn, phun, tiễn
– Bức tranh cuộc sống: tác giả đã sử dụng thính giác để cảm nhận cuộc sống, dùng âm
thanh để tái hiện lại sinh động và chân thực bức tranh cuộc sống
● Lao xao chợ cá: âm thanh gần gũi, gợi nên sự sống của con người
● Dắng dỏi cầm ve: âm thanh đặc trưng của mùa hè, gợi nên sự rộn rã, tươi vui
=> Bằng sự cảm nhận tinh tế của tất cả các giác quan, sự tinh tế trong cách cảm nhận
và tình yêu thiên nhiên sâu sắc, tác giả đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên và cuộc sống
ngày hè với tất cả màu sắc, đường nét, âm thanh, tất cả luôn căng tràn sự sống.
b. 2 câu thơ còn lại: Vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ
● Ông ước mình có cây đàn của vua Ngu Thuấn để cầu mong cho “dân giàu đủ”.
● Với việc mượn điển tích cây đàn của vua Ngu Thuấn để tự răn mình đã cho
chúng ta thấy chí hướng cao cả: luôn khao khát đem tài trí để thực hành tư
tưởng nhân nghĩa yêu nước thương dân. 3. Kết bài
Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ: sử dụng thể thơ Đường luật, hình
ảnh thơ độc đáo đã cho chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp của bức tranh cảnh ngày hè.
Đặc biệt, qua đó giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi –
một tình yêu thiên nhiên sâu sắc, một tấm lòng trọn đời lo cho dân cho nước.
Xem thêm: Dàn ý phân tích Cảnh ngày hè
Phân tích Bảo kính cảnh giới - Mẫu 1
Nhắc đến những nhà thơ có lòng yêu nước, thương dân nồng nàn thì phải nhắc đến tác
giả Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi (1380 – 1442), vị anh hùng dân tộc, "tấm lòng sáng tựa
sao Khuê" (lời vua Lê Thánh Tông) dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng không nguôi
tâm nguyện hướng về dân về nước. Ngay cả khi bị nghi kị, phải lui về quê ngoại Côn
Sơn, ông vẫn bộc bạch nỗi lòng tha thiết cháy bỏng trong cuộc sống tưởng như chỉ
biết vui vầy cùng mây núi cỏ cây. Nỗi lòng ấy bộc lộ rõ nét trong chùm thơ 61 bài Bảo
kính cảnh giới. Đặc biệt, bài thơ số 43 chan chứa bao khát vọng hướng đến cuộc đời, nhân dân.
Tác giả đã thể hiện tình cảm với nước, với dân trong bài thơ "Cảnh ngày hè". Bài thơ
"Cảnh ngày hè" được trích trong tập thơ "Bảo kính cảnh giới" (Gương báu răn mình)
lấy những bài học từ thiên nhiên vĩ đại để nhà thơ soi chiếu lòng mình. Ta không chỉ
gặp tấm lòng yêu thiên nhiên của một nghệ sĩ lớn mà còn thấu hiểu tâm sự của người
anh hùng luôn canh cánh bên lòng nỗi niềm "ưu quốc ái dân". Suy ngẫm và cảm xúc
của nhà thơ giúp chúng ta hình dung một nhân cách lớn. Cuộc sống của vị quan ở ẩn
thật thanh bình, yên ả, không xô bồ. Ông đã mở đầu bài thơ một cách nhẹ nhàng và êm đềm nhất:
"Rồi hóng mát thuở ngày trường"
Câu thơ trên đã gợi lên được phong thái và cuộc sống bình dị của Nguyễn Trãi nơi
vùng quê thanh bình. Rời xa chốn quan trường nhiều đấu tranh, bất công, ông lựa
chọn cho mình một con đường riêng, xa lánh việc quân, gần gũi và chan hòa với thiên
nhiên. Thời gian không được nhắc đến nhưng người đọc sẽ nhận ra đó là mùa hè. Tuy
câu thơ không vướng bận lo âu nhưng chắc hẳn người đọc vẫn nhận ra được tâm sự
của tác giả. Dù không bận việc nước, việc quân nhưng trong lòng ông còn nhiều tâm sự chưa giãi bày.
"Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"
Ba câu thơ đem lại một bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc, cùng những hình ảnh đặc
trưng của không gian mùa hè. Trước hết, đó là hoè buông sắc lục như một chiếc lọng
khổng lồ bao trùm lên cảnh vật, tạo cảm giác về một không gian xanh. Cái nhìn thiên
nhiên của Nguyễn Trải luôn có sức bao quát, vừa gợi sức sống của không gian trong
động từ "đùn đùn" vừa gợi cảm giác phóng khoáng trong một chữ "rợp". Tầm nhìn
trải từ gần ra xa, theo quy luật đăng đối ở hai câu tả thực, khéo léo đan cài sắc đỏ của
thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc hồng của ao sen. Câu trên tả sắc, câu dưới gợi
hương. Thiên nhiên ấy cũng chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan tỏa lúc bừng
bừng phun trào. Để rồi cuối cùng đọng lại cảm giác man mác tiếc nhớ làn hương
thanh thoát của sen hồng lúc cuối hè. Phải là một người có tâm hồn tinh tế mới cùng
một lúc diễn tả được nhiều cảm giác trong chỉ vài ba câu thơ cô đọng. Giữa khung
cảnh thiên nhiên ấy, nhà thơ dường như cũng nguôi ngoai bao nỗi niềm bực dọc, để
lòng mình hòa cùng thiên nhiên đầy sức sống.
Bức tranh cảnh ngày hè đã trở nên sinh động hơn, đặc sắc hơn với âm thanh và mùi vị.
Mặc dù khung cảnh mà tác giả miêu tả là cuối ngày, khi mặt trời lặn nhưng mọi vật
vẫn tràn đầy sức sống với những từ ngữ "đùn đùn", "giương", "phun", "tiễn", "lao
xao", "dắng dỏi". Những từ ngữ đó cũng góp phần thể hiện những điều trong lòng tác
giả - ước mong được cống hiến cho nhân dân, cho đất nước. Nhiệt huyết đó như muốn
phun ra, trào ra và lan tỏa đi khắp nơi. Trong sáu câu thơ này, tác giả đã thay đổi,
không đi theo tính quy phạm của văn học phong kiến nữa. Ông miêu tả cảnh ngày hè
với những sự vật vô cùng gần gũi với cuộc sống hằng ngày.
"Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương"
Với cú pháp đảo trật tự cú pháp, từ láy “lao xao” được đảo lên đầu câu đã khiến cho
chúng ta cảm nhận rất rõ sự tấp tập, nhộn nhịp của khung cảnh chợ làng quê nơi ông
đang sống. Bởi rằng “Chợ” luôn gợi lên sự an bình, thịnh vượng, khi chợ còn đông
nghĩa là đất nước ấm no hạnh phúc, khi chợ tàn đồng nghĩa với thời kỳ suy thoái của
đất nước. Như vậy, dù ở quê nhà thì Nguyễn Trãi vẫn luôn mong cho đất nước luôn
bình an, ấm no hạnh phúc. Hai câu cuối của bài thơ chính là nguyện vọng, là ý tưởng
mà cả cuộc đời Nguyễn Trãi ấp ủ và mong ngóng:
"Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương"
Tác giả đã lấy điển tích điển cố thời vua Nghêu, vua Thuấn cai trị đất nước luôn thái
bình thịnh trị. Thời đó, vua Thuấn có một khúc đàn “Nam Phong” với giọng điệu sôi
nổi, gợi cảm giác bình dị, ấm êm. Bởi vậy Nguyễn Trãi muốn mượn tiếng đàn đó để
có thể nguyện cầu cho cuộc sống của nhân dân luôn chan hòa, an lành và hạnh phúc
nhất. Nguyện vọng “Dân giàu đủ” của Nguyễn Trãi thực sự đáng quý, đáng trân trọng.
Bài thơ "Cảnh ngày hè" tái hiện một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp cùng tấm lòng yêu
thiên nhiên, đất nước của nhà thơ. Như vậy qua bài thơ “Cảnh ngày hè” Nguyễn Trãi
đã vẽ lên một bức tranh ngày hè sôi động, nhiều màu sắc, đồng thời qua đó thấp
thoáng bóng dáng một người luôn nghĩ cho nước cho dân. Bài thơ để lại cho người
đọc những ấn tượng sâu lắng nhất về cuộc sống và tâm tư đáng trân trọng của ông.
Phân tích bài thơ Bảo kính cảnh giới - Mẫu 2
Nguyễn Trãi không chỉ biết đến với tác phẩm nổi tiếng, một áng thiên cổ hùng văn
bình ngô đại cáo mà còn được biết đến với những bài thơ thiên nhiên và con người
như Côn Sơn Ca, Cây Chuối… một trong những tác phẩm thiên nhiên và con người ấy
còn phải kể đến bài thơ bảo kính cảnh giới 43 của ông. Đó là bài thơ cảnh ngày hè với
những thiên nhiên con người và tâm trạng của Nguyễn Trãi.
Trong những bài thơ về tình yêu thiên nhiên Côn Sơn chính là nơi dừng chân của
Nguyễn Trãi trong những ngày tháng buồn bã mệt mỏi nơi quan trường.
Sự ung dung nhàn hạ ấy được thể hiện trong câu thơ đầu tiên:
Rồi hóng mát thuở ngày trường
Câu thơ như mở ra những ngày tháng thảnh thơi, hóng mát những ngày dài, những
hình ảnh dài của những ngày tháng ấy dần được mở ra ở những câu sau. Những ngày
tháng ấy là những ngày tháng an nhàn khi gác lại chuyện chính sự sang một bên,
khiến cho không chỉ tâm hồn mà thể xác cũng rất nhàn hạ. cuộc sống với ông chỉ cần
thế mùa hè đến ông không cảm nhận thấy cái nóng của đất trời mà ông chỉ cảm nhận
được gió mát. Thiên nhiên nơi chốn quê hương chính là nguồn cảm hứng vô tân cho
tác giả. Làm cho ông cảm thấy vui vẻ phần nào trong cuộc sống ở quê.
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Đây là những câu thơ đặc tả những cảnh đẹp mùa hè nơi chốn quê hương ông, là
hương sắc mùa hè rất sinh động và hấp dẫn. hình ảnh của mùa hè hiện ra với những
gam màu nóng:màu đỏ của hoa hòe, màu lựu đỏ, màu hồng của cánh sen và chúng
được kết hợp với những động từ mạnh như “ đùn đùn”, “ phun”, “ tiễn” cho thấy một
bức tranh quê hương với màu sắc và hương vị đặc trưng và sự sinh sôi nảy nở mạnh mẽ trong mùa hè.
Bức họa đồng quê hiện ra với biết bao nhiêu màu sắc bao nhiêu thay đổi đẹp đẽ, và đó
còn là sự sinh trưởng mạnh mẽ của hoa cỏ cây cối. nó mang tới cho chúng ta những
cảm giác thật yên bình, không những thế ta còn cảm nhận được cái hương vị của mùa
hè qua động từ “tiễn”.
Không những thế mùa hè còn mang đến cho tác giả những những phiên chợ những
làng ngư phủ. Cuộc sống thôn dã hiện ra với vẻ tấp nập hiếm có của con người nơi
đây. Chính chợ phản ánh cuộc sống của con người có no đủ, giàu có hay không
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Cuộc sống thật sự náo nhiệt, những phiên chợ của những ngư dân vùng biển, hình ảnh
ảnh những con người lao động hiện lên thật đẹp với phiên chợ vui vẻ của những lưới cá bội thu.
Dân giàu đủ khắp đòi phương”.
Cất lên một khúc đàn của cây đàn vua Ngu Thuấn mang lại cho nhân dân cuộc sống
ấm no hạnh phúc. MƯợn được hình ảnh vua Ngu Thuấn cây cầm ấy để làm cho nhân
dân ta giàu mạnh khắp phương. Dù đã trở về với cuộc sống nơi thôn dã nhưng ông
luôn luôn giữ tình yêu thương và lòng mong mỏi một cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân trăm họ.
Bài thơ là những dòng chảy cảm xúc về thiên nhiên cũng như nỗi khát khao mong mỏi
và tấm lòng yêu nước nồng nhiệt của Nguyễn Trãi. Bìa thơ tuy ngắn nhưng để lại cho
người đọc nhiều ấn tượng mạnh. Kết thúc bài thơ là tinh thần nhân nghĩa cao cả và
tình yêu nhân dân vô bờ bến của ông.
Phân tích Bảo kính cảnh giới - Mẫu 3
Nguyễn Trãi là đại thi hào dân tộc, là danh nhân văn hóa của Đại Việt, đồng thời ông
còn là tác giả áng thiên cổ hùng văn "Bình ngô đại cáo". Ngoài ngòi bút sắc bén, lập
luận đanh thép với dẫn chứng thuyết phục trong những áng văn chính luận, ta còn bắt
gặp một Nguyễn Trãi với phong thái nhàn tản, giao cảm hòa hợp cùng thiên nhiên
trong "Bảo kính cảnh giới 43". Không chỉ mang chất trữ tình sâu sắc, bài thơ chứa
đựng cả nội dung mang tính giáo huấn người đời, ngời sáng tâm hồn lí tưởng của bậc thi sĩ lớn Ức Trai.
Trước hết, bài thơ thể hiện tình yêu cũng như tâm hồn tinh tế và sự giao cảm mạnh mẽ
đối với thiên nhiên của tác giả Nguyễn Trãi. Nhân vật trữ tình xuất hiện trong phong
thái ung dung tự tại: "Rồi hóng mát thuở ngày trường". Như chúng ta đã biết, Nguyễn
Trãi là nhà thơ nặng lòng với thiên nhiên và luôn mở lòng với thiên nhiên trong mọi
hoàn cảnh, nhưng khoảnh khắc rảnh rỗi vào một ngày khí trời mát mẻ, trong lành thì
quả là hiếm hoi. Nếu người xưa thường thiên về vịnh cảnh thì Nguyễn Trãi lại vận
dụng bút pháp tả. Và rồi bằng sự quan sát tinh tế của nhân vật trữ tình, bức tranh thiên
nhiên đầy sức sống đã hiện lên:
"Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"
Những sắc màu của cảnh vật hiện lên trong sự giao hòa: Màu lục của lá hòe cùng màu
đỏ của hoa thạch lựu đan cài vào nhau trong ánh mặt trời buổi chiều. Đặc biệt hơn,
cảnh vật được miêu tả trong sự chuyển động tạo nên một bức tranh căng tràn sức sống.
Tác giả đã sử dụng những động từ mạnh: "đùn đùn", "trương", "phun" gợi nên sự tràn
đầy và sức sống từ nội tại đang ứa căng và không kìm lại được và phải bộc phát ra bên
ngoài. Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã từng miêu tả cảnh sắc mùa hè bằng sắc hoa lựu:
"Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông" (trích "Truyện Kiều"). Với từ "lập lòe", tác giả
Nguyễn Du đã tạo nên sự độc đáo trong việc tạo hình sắc, còn Nguyễn Trãi lại nhấn
mạnh sức sống của cảnh vật, thể hiện rõ cái nhìn tinh tế đối với cảnh vật của hai thi sĩ
tài ba. Thi nhân đã vận dụng nhiều giác quan: thị giác, thính giác và khứu giác kết hợp
cùng trí tưởng tượng phong phú để đón nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, cho thấy sự giao
cảm mạnh mẽ nhưng vô cùng tinh tế của Ức Trai đối với cảnh vật.
Không chỉ dừng lại ở đó, bên cạnh màu sắc tác giả còn tô điểm cho bức tranh thiên
nhiên âm thanh, đường nét hệt như một người họa sĩ tài ba tạo nên một kiệt tác có hồn
của tạo vật. "Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ" với sự kết hợp của động từ "phun" và
"thức"- màu vẽ, dáng vẻ, câu thơ đã diễn tả thành công cái hồn và thần thái của cảnh
vật. Cảnh vật mùa hè còn được miêu tả qua hình ảnh rất đặc trưng: Đóa sen trong ao
đã tỏa hương thơm ngát, tạo nên một bức tranh hài hòa về màu sắc và hương vị.
Bài thơ còn khắc họa bức chân dung của một con người luôn hết lòng vì dân, vì nước.
Mặc dù đang hòa mình đắm say trong vẻ đẹp sinh động, đáng yêu và tràn trề sức sống
của thiên nhiên nhưng tác giả vẫn hướng đôi mắt quan sát của mình đến cuộc sống của con người:
"Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương"
Bức tranh mùa hè được bổ sung thêm những nét vẽ về cuộc sống của con người với
thanh âm của "lao xao" của chợ cá tại một làng chài ven sông cùng tiếng dắng dỏi của
cầm ve. Cuộc sống yên vui, no đủ của người dân đã gợi lên trong lòng tác giả một
mong ước hết sức cao đẹp:
"Dẽ có Ngu Cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ, khắp đòi phương"
Tác giả mong ước có được chiếc đàn của vua Thuấn để gảy nên khúc Nam Phong ca
ngợi đời sống ấm no hạnh phúc của nhân dân. Câu thơ kết thúc bài được kiến tạo theo
cách ngắt nhịp 3/3, thể hiện rõ sự dồn nén cảm xúc của bài thơ. Mở đầu bằng bức
tranh thiên nhiên giàu hình ảnh, màu sắc, hình khối, đường nét nhưng kết thúc bằng
câu thơ nói về con người cho thấy điểm kết mà tác giả muốn hướng đến không phải ở
thiên nhiên tạo vật mà chính ở con người. Điều này đã thể hiện rõ tâm hồn hết sức cao
cả và vĩ đại của Nguyễn Trãi- vị anh hùng dân tộc luôn mong muốn cho dân được ấm no, hạnh phúc.
Như vậy, thông qua bài thơ, chúng ta có thể thấy được tình yêu cùng sự giao hòa đối
với thiên nhiên của tác giả, giống như ông đã từng bộc bạch: "Non nước cùng ta đã có
duyên" ("Tự thán"- bài 4). Là một thi sĩ, ông đến với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh
nhưng cuối cùng, tâm hồn của ông vẫn hướng đến nhân dân, đến đất nước. Qua lời
tâm sự và mong ước về cuộc sống của nhân dân, độc giả có thể thấy được tâm hồn và
lí tưởng cao đẹp của tác giả Nguyễn Trãi. Tình yêu thiên nhiên, tạo vật đã quyện hòa
và làm ngời sáng hơn nữa tình yêu đối với đất nước, nhân dân.
Phân tích Cảnh ngày hè học sinh giỏi - Mẫu 4
Nguyễn Trãi là một nhà thơ nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam. Ông luôn sống
giao hòa với thơ, với thiên nhiên và con người. Trong những ngày từ quan về ở ẩn tại
Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã sáng tác nhiều bài thơ đặc sắc, trong đó có bài số 43 trong
chùm thơ "Bảo kính cảnh giới". Tác phẩm "cảnh ngày hè" là bức tranh phong cảnh
mùa hè độc đáo về thiên nhiên, phong cảnh sống sinh hoạt nhưng thấp thoáng là niềm
tâm sự của tác giả về vận mệnh đất nước.
Những câu thơ đầu tiên, tác giả đã vẽ ra một bức tranh thiên nhiên rực rỡ, tràn đầy sức
sống của mùa hè với một không khí náo nhiệt, rộn ràng của cuộc sống thường nhật.
"Rồi, hóng mát thuở ngày trường"
Câu thơ mở đầu với lời thơ thể hiện sự nhàn hạ hưởng thụ ngày hè của một con người
thanh thản, không vướng bận, chữ "rồi" như nhấn mạnh sự nhàn rỗi của nhà thơ.
Nhưng có vẻ ẩn sâu trong đó là tiếng thở dài của nhà thơ. Trong một câu thơ đời Đường viết:
"Lục thu âm nồng hạ nhật trường"
Thật đặc biệt, trong thơ của Nguyễn Trãi có sự đồng nghĩa " thuở ngày thường". Bài
thơ được ra đời trong hoàn cảnh Nguyễn Trãi lui về ở ẩn, tránh xa chốn quan trường
đầy cám dỗ, chính vì vậy nhà thơ đã có cơ hội tận hưởng hết cái đẹp của ngày hè. Liệu
ý thơ đó chỉ đơn thuần là những cảm nhận về thời gian hay là những tâm tư, nỗi niềm
của nhân vật trữ tình gửi gắm vào khung cảnh ngày hè căng tràn sức sống.
"Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương".
Chỉ với ba câu thơ ngắn gọn mà nhà thơ đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh
ngày hè rực rỡ với những màu sắc tươi sáng mang nét đặc trưng của mùa hè. Nổi bật
trong bức tranh ấy là màu xanh của tán hoè như làm dịu đi cái nắng gay gắt, Nguyễn
Trãi đã khéo léo lồng ghép màu đỏ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc thắm hồng
của áo sen toả ngát hương thơm.
Nếu như trong các tác phẩm thơ cổ, những thi sĩ thường dùng những màu sắc trầm,
nhưng trong thơ của Ức Trai đã có một sự phá cách, đó không còn là bức tranh tiêu
điều, ảm đạm mà là những khung cảnh tươi vui, tràn đầy sức sống. Đó không chỉ là
sức sống của thiên nhiên mà còn là những mạch sống đang tràn trề ẩn sâu bên trong
mỗi sự vật, tất cả được thể hiện qua những động từ mạnh "đùn đùn", "phun". Hình ảnh
ao sen không chỉ khơi gợi cho người đọc một mùi hương thơm ngát, lan tỏa khắp không gian.
Hình ảnh lựu đỏ xuất hiện không ít trong các tác phẩm có thể kể đến như của Nguyễn
Du với hình ảnh "Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông" hay trong "Hồng đức quốc âm thi tập":
"Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi"
Tất cả có một điểm chung đó là đều miêu tả một mùa hè nóng bức, ngột ngạt. Nhưng
trong thơ của Nguyễn Trãi lại khác, một mùa hè xanh ngát xanh, phải chăng nhà thơ
đã mở rộng tâm hồn mình để cảm nhận cuộc sống, để nhìn ra những sức sống tràn trề
đang tràn ngập bên trong mỗi sự vật.
"Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương".
Không chỉ giúp người đọc cảm nhận được màu sắc, Nguyễn Trãi còn giúp chúng ta
hình dung những âm thanh của cuộc sống thật sôi động. Bức tranh với âm thanh sôi
động khiến cho thiên nhiên lúc chiều tà không hề ảm đạm. Những hình ảnh quen
thuộc dần xuất hiện trong bài thơ theo một cách đặc biệt bằng cách đảo các tính từ
"lao xao", "dắng dỏi" lên đầu làm nổi bật cuộc sống náo nhiệt, xoá tan không khí hiu quạnh.
Phiên chợ chính là minh chứng rõ ràng nhất cho sự sống của con người hiện lên với
những âm thanh của người mua, kẻ bán, tiếng nói cười trong không gian yên bình.
Nhà thơ đang hướng lòng mình về những âm thanh bình dị. Tiếng ve là hình ảnh vô
cùng quen thuộc, nó như một bản nhạc mùa hè mà thiên nhiên ban tặng. Cùng viết về
mùa hè nhưng trong tác phẩm của Nguyễn Trãi diễn tả một cuộc sống đang sinh sôi,
ngay cả khi chiều tà, một khung cảnh thật thành bình, khác với mùa hè trong thơ của Nguyễn Khuyến oi nồng:
"Tháng tư đầu mùa hạ Tiết trời oi ả
Tiếng dế kêu thiết tha
Đàn muỗi bay tơi tả".
Lí do có sự khác biệt đó chính là Nguyễn Trãi cảm nhận thiên nhiên bằng sức sôngs
đang trào dâng trong tâm hồn mình, còn Nguyễn Khuyến lại mượn cảnh ngày hè để
dãi bày tâm sự. Sống trong bình yên, vô lo vô nghĩ nhưng trong sâu thẳm tấm lòng của
Ức Trai vẫn đau đáu một nỗi niềm lo cho dân, cho nước.
"Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương".
Tác giả hoài bão về một thời thịnh vượng Đường Ngu, nhà thơ muốn mượn cây đàn
Ngu cầm để gảy nên khúc Nam Phong ngợi ca cảnh thái bình thịnh trị hay đó chỉ là
những ước mong của nhà thơ về tương lai, về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Dù
theo hướng suy nghĩ nào đi nữa thì chúng ta đều cảm nhận được tấm lòng yêu nước
của nhà thơ. Những lời thơ dản dị mộc mạc được cất lên từ một tấm lòng chân thành,
một con tim cháy bỏng với tính yêu nước thương dân, ông luôn đặt lợi ích quốc gia
lên trên lợi ích bản thân.
Với thể thơ thất ngôn xen lục ngôn, nhịp thơ đa dạng, linh hoạt. Bài thơ là một sự phá
cách bằng cách sử dụng nhiều hình ảnh sinh động qua cách miêu tả thiên nhiên bằng
các động từ mạnh làm cho bức tranh ngày hè tràn đầy sức sống. Đọc bài thơ, ta không
chỉ thấy được cảnh thiên nhiên tươi đẹp mà còn ẩn sâu trong đó là tấm lòng cao cả của nhà thơ.
Bằng chiếc thuyền tâm hồn có mái chèo là ngòi bút, Nguyễn Trãi đã đặt cả tâm hồn
yêu thiên nhiên và cái đẹp vào từng câu thơ, khiến sự vật như hồi sinh. Bên cạnh đó
người đọc còn nghe được tiếng lòng, tiếng yêu cuộc sống, yêu quên hương của thi sĩ.
Phân tích bài Cảnh ngày hè - Mẫu 5
Thiên nhiên là nguồn cảm hứng thơ bất tận, để người nghệ sĩ mài mực viết nên những
trang hoa tờ hoa của mình. Đến với Cảnh ngày hè người đọc bắt gặp một bức tranh
thiên nhiên mới mẻ, sinh động, giàu sức sống nội lực toát ra từ chính cảnh vật. Điều
khiến bài thơ trở nên đặc biệt là ở chỗ, bức tranh cảnh ngày hè được pha trộn giữa
những đường nét mới mẻ hiện đại, đậm chất sống nguyên sơ của cuộc sống đời
thường - điều vô cùng hạn chế trong văn học trung đại, kết hợp với chất liệu cổ điển
của một mùa hè đã đi vào điển tích, từ đó khiến bài thơ mang đậm dấu ấn riêng của hồn thơ Nguyễn Trãi.
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”.
Với cương vị là một bậc công thần của dân tộc, ngày ngày mang vác trên vai gánh
nặng chính sự, quốc sự thì hình ảnh Nguyễn Trãi trong câu thơ đầu này quả thực có
chút lạ lẫm. Nhưng “Hóng mát thuở ngày trường”, phần nào cho người đọc thấy một
tâm thế khác của Nguyễn Trãi, ông phải chăng đã tạm gác việc triều chính, thế sự
nhiễu nhương sang một bên, tạm lánh đục về trong, sống đời sống của một hiền nhân
thanh cao không vướng bụi trần. Phần nào có lẽ cũng vì thế, mà tâm hồn thi sĩ, tình
yêu thiên nhiên trong thi nhân đã khiến những cảnh sắc thiên nhiên vốn thân thuộc,
bình dị trở nên mơn mởn sức sống sức xanh:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Nếu trong thơ Mới ta bắt một thế giới hữu sắc đa hương, mang đậm dấu ấn cá nhân
của người nghệ sĩ thì ngược dòng thời gian trở về trước, văn học trung đại còn kiềm
tỏa sự sáng tạo và cái tôi nghệ thuật. Thiên nhiên cũng không được tự do thể hiện bản
sắc đa dạng và sức sống nội lực của nó, thiên nhiên trong văn học trung đại vẫn là
những ước lệ điển hình mà người sau kẻ trước noi theo. Thế nhưng, đến với Cảnh
ngày hè của Nguyễn Trãi, ta dường như cảm nhận được một nội lực khác tỏa ra từ bài
thơ. Vẫn là những hình ảnh quen thuộc của thiên nhiên ngày hè, nào hòe, nào lựu, và
cả hồng liên trì. Cái mới lạ ở đây là cách Nguyễn Trãi gọi dậy sức sống ở trong từng
loại thảo mộc, là ở ngòi bút rất có hồn của thi nhân như đã điểm bút lực vào cho cả
những thứ tưởng rất đỗi vô tri. Các động từ mạnh “đùn đùn, phun, tiễn” cho thấy sức
sống căng tràn, dồi dào, thấy được nhựa sống đang lên trong lòng vạn vật. Thơ trung
đại ưa vẻ đẹp của cái tĩnh, thanh trong vị, đạm trong màu sắc, ít khi nào ta thấy thiên
nhiên trong thơ trung đại có những chuyển động mạnh, ấy vậy mà trong thơ Nguyễn
Trãi sự sống như đang phun trào từ chính bản thân của cảnh vật. Đó không chỉ là sức
sống, mà còn là nội lực sống căng tràn, tưởng như đang chảy tràn trên trang sách.
Nghe thấy được những chuyển động tế vi, mạch sống quý giá ấy bên trong cảnh vật
thiên nhiên, Nguyễn Trãi qủa nhiên phải là một hồn thơ vô cùng tinh tế với những sợi
tơ đàn bén nhạy đến độ. Có được cảm quan đó, hẳn đấy phải là một tâm hồn yêu thiên
nhiên, và rạo rực với niềm tin vào cuộc sống, vào dòng lưu chuyển đất trời. Thiên
nhiên trong thơ Nguyễn Trãi nhờ những chuyển động mạnh mẽ đầy nội lực ấy mà bớt
đi vẻ đài các cao sang ước lệ của văn chương cổ điển, mà mang đậm hơi thở của cuộc sống:
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”.
Ở trên là bức tranh thiên nhiên rạo rực sức sống, thì ở dưới là hình ảnh cuộc sống bình
dị, câu trên là dân dã thường ngày câu dưới lại vẫn pha chút ước lệ cổ điển của văn
học trung đại. Rõ ràng, trong tâm niệm của người Việt, hình ảnh chợ biểu hiện phần
nào chất lượng cuộc sống, ở câu thơ này, chợ cá “lao xao”, phần nào thấy được cuộc
sống no đủ, tấp nập, buôn bán huyên náo của người dân chứ không còn “lác đác bên
sông chợ mấy nhà nữa”. Chính những gợi ý nho nhỏ từ câu thơ này, mà ở dưới mong
ước của bậc trung quân, yêu nước thương dân càng thêm sâu sắc, rõ nét:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương".
Điển tích đàn Ngu cầm của vua Nghiêu Thuấn là hình ảnh về đời sống nhân dân an cư
lạc nghiệp, thái bình thịnh trị. Từ đây, có thể hiểu tấm lòng tác giả đó là ông khao
khát, mong muốn, mong mỏi nhân dân có cuộc sống an lạc, thái bình, không trải qua
cảnh binh đao giày xéo. Chính ước mơ ấy đã phần nào giúp ta hiểu hơn về tấm lòng
Nguyễn Trãi, một nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến
cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ.
Bằng việc sử dụng sinh động, linh hoạt các động từ mạnh mang đến nội lực từ bên
trong sự vật, Nguyễn Trãi dường như không chỉ đang khắc họa bức tranh mùa hè mà
còn đang khiến sự vật tự họa mình trên trang viết, tự thể hiện sức sống nội lực, căng
tràn của chính nó, có lẽ vì thế mà dẫu sử dụng kết hợp một vài chất liệu cổ điển đã cũ
đã quen, bài thơ của Nguyễn Trãi vẫn để lại dấu ấn riêng của hồn thơ ông. Đặc biệt,
đằng sau bức tranh thiên nhiên, điều đọng lại làm xúc động trái tim người đọc là tấm
lòng lo cho nước, thương dân của nhà thơ.
Bằng chiếc thuyền tâm hồn có mái chèo là ngòi bút, Nguyễn Trãi đã mang cả tâm hồn
yêu thiên nhiên và cái đẹp vào trang viết, để khiến sự vật như hồi sinh và thể hiện sức
sống nội lực bên trong cảnh vật. Bên cạnh đó, một cách giản dị và sâu sắc bài thơ còn
khiến người đọc thêm ngậm ngùi và thấm thía bởi tấm lòng cao cả của Nguyễn Trãi
khi luôn một lòng yêu nước, thương dân.
Phân tích bài Cảnh ngày hè - Mẫu 6
Nguyễn Trãi - một nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Ông luôn sống giao
cảm với thơ với cuộc sống thiên nhiên và con người. Chốn quan trường với những
toan tính chèn ép đã khiến ông đã quyết định tìm về với thiên nhiên để cho tâm hồn
mình thanh tịnh. Trong thời gian ấy ông làm thơ về thiên nhiên nhưng trong những
vần thơ thiên nhiên ấy lại có những tâm sự về sự lo lắng cho nhân dân đất nước. Bài
thơ “Cảnh ngày hè” là một bài thơ như thế. Trong thiên nhiên mùa hè và cảnh sống
sinh hoạt của nhân dân Nguyễn Trãi vẫn thể hiện tình yêu nhân dân đất nước của mình.
Trước hết là câu thơ đầu thể hiện tâm trạng của nhà thơ trong những ngày hè, nhưng
ngày về cáo quan ở ẩn:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Chúng ta thấy rõ được chữ “rồi” ở đầu câu thể hiện một tâm trạng rảnh rỗi của nhà thơ
ở quê. Nó không có sự bon chen đố kỵ, chèn ép của những tinh thần. Tại sao nhà thơ
không nói là rỗi mà lại là “rồi”? Có thể nói chữ “rỗi” và chữ “rồi” đều nói lên cùng
một tâm trạng nhưng nhà thơ sử dụng từ “rồi” gợi cảm giác xưa cũ hơn. Bởi vì từ
“rỗi” là sau này mới có, nó mang tính chất hiện đại. Nhà thơ cáo quan về với thiên
nhiên làng cảnh Việt Nam.
Những câu thơ tiếp theo nhà thơ vẽ lên một bức tranh cảnh ngày hè vô cùng rực rỡ.
Bức tranh ấy không chỉ có thiên nhiên mà còn có cả con người.
Trước tiên là bức tranh thiên cảnh ngày hè nơi thôn quê. Có thể nói Nguyễn Trãi
giống như một nhà họa sĩ dùng ngôn từ để vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp ấy:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Cây hoa hòe tán rộng tỏa bóng mát khắp đầu tường. Tiếp đó nhà thơ vẽ thêm những
bông hoa thạch lựu trước hiên nhà có màu đỏ rực rỡ như ánh nắng chói chang của mùa
hạ kia vậy. Nhắc đến quê hương người ta không thể nào quên được hình ảnh những
bông hoa sen hồng với hương sắc tuyệt vời. Nhà thơ không nói hẳn là hoa sen mà
dùng hai chữ “hồng liên” gợi sự trang trọng cổ kính. Trong bức tranh ấy ta không chỉ
thấy màu sắc mùi hương mà ta còn thấy được cả sự sinh trưởng của chúng. Cây hoa
hòe “đùn đùn”, cây thạch lựu “phun”, hoa sen “tiễn” mùi hương. Mùa hạ quả đúng là
mùa của sinh trưởng cho những loại cây cối. Sức sống ấy mạnh mẽ như các động từ
mạnh kia vậy. Hương thơm của hoa sen cũng như bay xa hơn thoảng vào không gian
nhiều hơn qua từ “tiễn” ấy. Chữ tiễn ấy không phải là tiễn biệt chia ly mà chứ tiễn như
thể hiện cái sự bay xa của hương sen trong cơn gió kia làm cho không gian làng quê ngát hương.
Bức tranh ấy còn có cả những cuộc sống sinh hoạt của con người làng quê. Thật vậy
tranh thiên nhiên đã đẹp nhưng nó còn đẹp hơn khi xuất hiện hoạt động sự sống của con người:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Từ láy “lao xao” như thể hiện được hết cái vui tươi của con người lao động trong
những buổi chợ. Chợ có đông thì mới có niềm vui như thế, có tiếng động như thế. Cái
âm thanh ấy như tác động đến tâm hồn người nghệ sĩ. Chợ cá kia dường như có rất
nhiều đồ khiến cho người dân nơi đây náo nức, mua bán. Có thể nói rằng đó chỉ là
cuộc sống đời thường thôi nhưng tại sao khi cảm nhận ở đây ta lại thấy nó đẹp đến
thế. Có khi nào cái đẹp xuất phát từ những cái quá đỗi bình thường không? Thế rồi âm
thanh của những con ve gọi hè. Tiếng ve như dắng dỏi tạo nên thành một dàn đồng ca
mùa hạ ngân nga ngày đêm không biết mệt.
Trước những thiên nhiên và con người nhà thơ như thể hiện những ước nguyện của
mình. Nhà thơ thật thà thể hiện tấm lòng của mình:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Câu thơ thể hiện ước nguyện của nhà thơ mong muốn mượn được chiếc đàn của vua
Ngu Thuấn đàn một tiếng cho nhân dân giàu khắp bốn phương. Từ truyền thuyết tiếng
đàn của vua Ngu Thuấn nhà thơ thể hiện ước nguyện sự lo lắng cho nhân dân. Mong
có thể giúp đỡ cho nhân dân có một cuộc sống đầy đủ yên ổn thái bình.
Như vậy qua đây ta thấy được một bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp, tất cả nhưng
màu sắc đều thể hiện đặc trưng của mùa hè. Có thể nói chắc hẳn nhà thơ phải là một
người yêu thiên nhiên nhiều lắm thì mới có thể cảm nhận được cả những bước sinh
trưởng của cây cối mùa hè như thế. Đồng thời ta cũng thấy được một tâm hồn trung
nghĩa với nhân dân. Mặc dù xa rời quan trường nhưng ông không lúc nào không lo
cho nhân dân, mong muốn nhân dân có một cuộc sống an lành bình yên.
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè - Mẫu 7
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng dành những lời trân trọng nhất "Nguyễn Trãi là
người đầu đội trời Việt Nam, chân đạp đất Việt Nam, tâm hồn lộng gió thời đại..." Vẻ
đẹp ấy của hồn thơ Nguyễn Trãi đã được phác họa qua những vần thơ của "Cảnh ngày
hè", một trong số bài thơ của chùm thơ 61 bài "Bảo kính cảnh giới". Ở đó, ta không
chỉ bắt gặp một tâm hồn tinh tế nhạy cảm trước thiên nhiên của một người nghệ sĩ mà
còn thấy được một tấm lòng luôn cháy sáng vì nước vì dân của vị anh hùng dân tộc.
Thiên nhiên vốn là mảnh đất vô cùng màu mỡ của biết bao thi nhân trung đại cày xới
và cũng, là nguồn thi hứng không bao giờ vơi cạn Nguyễn Trãi .Nhà thơ sống giữa
thiên nhiên, bầu bạn cùng thiên nhiên, và lấy từ thiên nhiên những bài học quý giá làm
"gương báu răn mình" để rồi ghi lại trong tập thơ "Bảo kính cảnh giới". Một nhân
cách thanh cao "tỏa sáng tựa sao khuê", một tấm lòng cao cả, vẫn luôn tha thiết với
nhân dân, với đất nước dẫu trong tình cảnh ngặt nghèo bị nghi kỵ, dèm pha hay ngay
cả khi có cuộc sống yên bình, nên thơ giữa thiên nhiên của Nguyễn Trãi đã đến với
người đọc chính qua những vần thơ ấy. Tám câu thơ của "Cảnh ngày hè" đã góp thêm
nét vẽ để bức chân dung tâm hồn của Ức Trai hiện lên rõ nét nhất.
Ngay từ những câu thơ đầu tiên, tác giả đã dẫn chúng ta đến với một bức tranh thiên
nhiên rực rỡ, tràn trề sự sống của mùa hè, đến với một không khí náo nhiệt, rộn ràng
của cuộc sống thường nhật vẫn đang tiếp diễn.
Rồi, hóng mát thuở ngày trường
Câu thơ mở đầu cho bài thơ tác giả đã giới thiệu về hoàn cảnh hưởng "nhàn" bất đắc
dĩ của mình.Lời thơ biểu đạt sự nhàn hạ trong một ngày hè của một con người không
bị vướng bận bởi điều gì với nhịp của chữ "rồi" tách riêng khỏi nhịp của câu thơ như
nhấn mạnh sự rảnh rỗi của nhà thơ. Nhưng khi đọc sâu, ngẫm kỹ vào từng câu chữ ta
lại cảm nhận được tiếng thở dài trong câu thơ. Cụm từ "thuở ngày trường" trong câu
đầu có cùng nghĩa với "hạ nhật trường" trong một câu thơ của Cao Biền thời Đường:
Lục thụ âm nồng hạ nhật trường
(Cây xanh bóng rợp ngày hè dài)
Bài thơ được viết trong thời gian Nguyễn Trãi an nhàn lui về ở ẩn xa rời chốn bon
chen đầy cám dỗ của quan trường, và như thế nhà thơ đã có cơ hội để cảm nhận trọn
vẹn cái "ngày hè dài" ấy. Thế nhưng liệu đó có phải chỉ là những cảm quan về thời
gian, ngày tháng? Hay đằng sau hai chữ "ngày trường" cùng với nhịp thơ như trải dài
ấy còn là tâm trạng nhân vật trữ tình, những nỗi niềm của Ức Trai chăng? Và phải
chăng tất cả những tâm tư ấy đang dồn nén vào trong bức tranh thiên nhiên ngày hè
mãnh liệt và căng tràn sức sống trước mắt và được nhà thơ nâng niu ghi lại:
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Chỉ trong ba câu thơ hàm súc tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh mùa
hè rực rỡ với những gam màu đậm, tươi tắn cùng những hình ảnh đặc trưng của mùa
hè. Bao trùm lên bức tranh ấy chính là những "chiếc lọng" xanh biếc của tán hòe đang
bung sắc như làm dịu đi cái chói chang, gay gắt của nắng hè. Đặt điểm nhìn xuống
thấp hơn, nhà thơ đã khéo léo đan cài màu đỏ rực rỡ của thạch lựu trước hiên nhà
cùng sắc hồng của ao sen đang tỏa hương thơm ngát lan tỏa khắp không gian. Nếu thơ
ca cổ điển ưa những gam màu trầm hơn là những sắc gắt, ưa tả tĩnh hơn tả động thì
Nguyễn Trãi đã dám bước qua cái khuôn khổ ấy để thoát khỏi những bức tranh thanh
đạm, tiêu sơ và để đến gần hơn với bức tranh cảnh ngày hè tươi vui, đầy sức sống.
Nhà thơ không chỉ cảm nhận được hình sắc của thiên nhiên tạo vật mà còn nhận thấy
một mạch sống đang ứa căng, tràn trề, đang đùn đùn phun ra những sắc xanh, sắc đỏ
của hoa lá, cỏ cây. Thiên nhiên của Nguyễn Trãi hiện lên qua những động từ mạnh
"đùn đùn", "phun", "tiễn" "giường" như đang trào dâng một sức sống nội sinh mãnh
liệt, mạnh mẽ ẩn sâu bên trong mọi tạo vật. Hòe không được miêu tả như một vật thể
thông thường mà nó được đặt trong sự vận động, phát triển của tự nhiên. Ao sen cũng
không chỉ gợi một thứ hương dịu nhẹ mà còn thể hiện sự lan tỏa, sự chuyển động của
mùi hương ấy khắp không gian. Đều lấy tâm điểm là những bông hoa thạch lựu đỏ
như những đốm lửa nhưng nếu Nguyễn Du gợi tả được màu sắc qua phép điệp âm"lửa
lựu lập lòe" trong câu thơ "Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông" (Truyện Kiều) thì
hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi còn có cả nhựa sống dồi dào bên trong đang "phun"
tỏa, phát lộ ra ngoài. Cái sinh khí rực rỡ, viên mãn nhưng cũng rất thanh thoát ý vị ấy
khác hẳn với cái nóng nực của mùa hè mà các nhà thơ trong "Hồng Đức quốc âm thi tập" đã biểu hiện:
Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi
Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè
Phải chăng chính nhà thơ đã mở rộng tâm hồn mình để cảm nhận cuộc sống, để phát
hiện ra cái thế giới bên trong đang tuôn tràn của thiên nhiên, và cái vận động không ngừng trong tự nhiên.
Nhưng trong thi của Nguyễn Trãi không chỉ có hoa, có hương mà còn có cả những
thanh âm muôn vẻ của cuộc sống thường nhật.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Thiên nhiên không hề u ám, trầm lặng khi nắng chiều buông mà trái lại, rất rộn rã và
sôi động. Nhà thơ đã đưa vào bức tranh của mình những hình ảnh vô cùng quen thuộc,
gần gũi nhưng lại không đi theo khuôn sáo, lối mòn nào. Hai từ láy "lao xao", dắng
dỏi được đảo lên đầu mỗi câu thơ làm bật lên cái âm thanh sôi động, náo nhiệt, xóa
tan không khí quạnh hiu, cô tịch lúc 'tịch dương". Cảnh phiên chợ - một dấu hiện của
sự sống con người hiện ra trong câu thơ với tiếng người mua, kẻ bán, tiếng cười nói,
tiếng chuyện trò gian thật bình yên và ấm áp! Nhà thơ không hề thoát tục, không hề xa
rời cuộc sống mà là đang hướng lòng mình về với cuộc sống bình dị từ những âm
thanh bình dị nhất. Nhà thơ như căng mở hết tất cả những giác quan cả thị giác, khứu
giác, thính giác và cả những liên tưởng bất ngờ "dắng dỏi cầm ve". Tiếng ve inh ỏi -
một thứ âm thanh không xa lạ với mùa hè được ví như một cung đàn mùa hạ tấu lên
một cách rộn ràng hòa chung với bản đàn rạo rực, hối hả của nhịp sống căng tràn
trong thiên nhiên. Lời thơ như diễn tả một cuộc sống đang sinh sôi, tiếp diễn ngay cả
khi ngày sắp tàn, một khung cảnh thật êm đềm và thanh bình nơi làng quê. Cùng viết
về mùa hè nhưng những cảm xúc trong mỗi bài thơ lại đem đến một mùa hè khác nhau.
Tháng tư đầu mùa hạ
Tiết trời thực oi ả
Tiếng dế kêu thiết tha
Đàn muỗi bay tơi tả
Nếu như ta cảm nhận được mùa hè rộn ràng, náo nhiệt trong những vần thơ Ức Trai
thì mùa hè của Nguyễn Khuyến oi nồng và có phần u uất. Bởi, với "Cảnh ngày hè"
Nguyễn Trãi đã cảm nhận thiên nhiên sự sống bằng chính sức sống dồi dào trong tâm
hồn mình, bằng sự tha thiết với cuộc sống còn Nguyễn Khuyến đã mượn mùa hè để
giãi bày những bức bối, u uất của mình đúng như tên bài thơ "Than mùa hè". Thi nhân
như đang náo nức muốn hòa cùng niềm vui sự sống với một tâm hồn thiết tha yêu
thiên nhiên để rồi từ đó thổi bùng lên khát vọng bấy lâu nay của một con người luôn
hết lòng vì đất nước.
Sống giữa vòng tay bình yên của mẹ thiên nhiên, giữa cuộc sống "vô ưu vô tư" nhưng
chưa giây phút nào Nguyễn Trãi quên đi bổn phận của mình:
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
Sâu trong tâm khảm, Ức Trai luôn mang một nỗi niềm dân nước, một hoài bão về sự
an thịnh như thời Đường Ngu nên đã mượn điển tích Ngu cầm để nói lên tấm lòng của
mình. Liệu có phải nhà thơ muốn có cây đàn Ngu cầm để gẩy nên khúc Nam Phong để
ngợi ca cảnh thái bình, thịnh trị đang hiện hữu mà tiếng lao xao của cuộc sống bình
yên đã dẫn dắt đến tâm sự ấy? Hay đó chỉ là những ước mong, khao khát ở phía trước
của nhà thơ về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc của dân nước? Dù hiểu theo cách nào
thì người đọc đều cảm nhận được tấm lòng "ưu dân ái quốc" của nhà Nguyễn Trãi mà
trong một bài thơ khác, Ức Trai cũng đã nhắc tới sở nguyện này:
Dân Nghiêu Thuấn, vua Nghiêu Thuấn
Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền
Những lời thơ vô cùng giản dị và mộc mạc được cất lên từ một tấm lòng rất đỗi chân
thành, một con tim luôn cháy bỏng tình yêu với đất nước, với nhân dân. Nguyễn Trãi
rảnh rỗi nhưng không hề thanh thản, ông nhàn thân nhưng không nhàn tâm, trong lòng
nhà Nho chân chính ấy luôn canh cánh nỗi niềm dân nước:
Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu
Hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc
Nguyễn Trãi luôn đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên hàng đầu với một niềm mong
mỏi rất cao cả "khắp nơi không một tiếng oán hờn". Nếu như với Nguyễn Bỉnh Khiêm
"nhàn" là tránh xa phú quý quay về hòa hợp với thiên nhiên để giữ trọn cốt cách thì
qua "Cảnh ngày hè", vị anh hùng dân tộc đã khẳng định triết lí "nhàn" của mình: Sự
nhàn rỗi, thảnh thơi luôn phải song hành với cuộc sống no đủ, bình yên. Chính kết cấu
đầu cuối tương ứng của hai câu lục ngôn ở đầu và cuối tác phẩm đã khép mở hai tâm
trạng tạo nên mạch hàm ẩn của toàn bài thơ.
"Cảnh ngày hè" được viết theo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn với nhịp thơ đa dạng và
linh hoạt. Bài thơ đã thoát khỏi tính quy phạm khuôn thước của văn học trung đại
bằng việc sử dụng nhiều hình ảnh sinh động, qua cách miêu tả thiên nhiên và đặc biệt
là việc sử dụng ngôn ngữ. Bằng các động từ mạnh, các từ tượng thanh được sử dụng
liên tiếp làm cho bức tranh mùa hè không phải là hình ảnh tĩnh trên trang giấy mà
căng tràn nhựa sống. Nguyễn Trãi đã đưa ngôn ngữ thơ ca về gần với ngôn ngữ đời
sống, mở đường cho khuynh hướng dân tộc hóa, bình dị hóa của thơ ca Việt Nam sau
này. Cuộc sống muôn màu muôn vẻ đã được Nguyễn Trãi tái hiện một cách đầy chân
thực và sinh động. Nhưng đọc bài thơ, ta không chỉ đơn thuần thấy được vẻ đẹp của
thiên nhiên mùa hè rực rỡ, sống động mà còn cảm nhận được vẻ đẹp phong phú, thanh
cao của hồn thơ Nguyễn Trãi. Một hồn thơ đã bắt rễ sâu vào đời sống thiên nhiên, một
cảm xúc thơ đã hòa nhịp với mạch sống nhân dân, dân tộc.
Nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng khẳng định rằng "Thơ khởi phát từ trong lòng người
ta". Quả thực không có những cảm xúc, những tâm sự sâu kín nén chặt, chất chứa
trong lòng sẽ chẳng bao giờ có thơ. Qua "Cảnh ngày hè" ta không chỉ ngưỡng mộ tài
năng của nhà văn hóa lớn mà ta còn nghe được tiếng lòng, tiếng yêu cuộc sống, tiếng
yêu quê hương, dân tộc của Ức Trai tiên sinh tha thiết hơn bao hết.
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè - Mẫu 8
Trong những ngày từ quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã viết nhiều bài thơ đặc
sắc, trong số đó có bài số 43 trong chùm thơ “Bảo kính cảnh giới”. Bài thơ là bức
tranh phong cảnh mùa hè độc đáo nhưng thấp thoáng là niềm tâm sự của tác giả.
Câu thơ đầu tiên, ta đọc lên thoáng qua sao có vẻ an nhàn, êm đềm, thanh thoát đến thế.
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Câu thơ hiện lên hình ảnh của nhà thơ Nguyễn Trãi, ông đang ngồi dưới bóng cây
nhàn nhã như hóng mát thật sự. Việc quân, việc nước chắc đã xong xuôi ông mới trở
về với cuộc sống đơn sơ, giản dị, mộc mạc mà chan hòa, gần gũi với thiên nhiên. Một
số sách dịch là “Rỗi hóng mát thuở ngày trường”. Nhưng “rỗi” hay “rồi” cũng đều gây
sự chú ý cho người đọc. Rảnh rỗi, sự việc còn đều xong xuôi, đã qua rồi “Ngày
trường” lại làm tăng sự chú ý. Cả câu thơ không còn đơn giản là hình ảnh của Nguyễn
Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả: “Nhàn rỗi ta hóng
mát cả một ngày dài”. Một xã hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị
vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải dành “hóng
mát” cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả
câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa.
Về với thiên nhiên, ông lại có cơ hội gần gũi với thiên nhiên hơn. Ông vui thú, say mê
với vẻ đẹp của thiên nhiên.
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông bừng bừng sức sống. Cây hòe lớn lên
nhanh, tán cây tỏa rộng che rợp mặt đất như một tấm trướng rộng căng ra giữa trời với
cành lá xanh tươi. Những cây thạch lựu còn phun thức đỏ, ao sen tỏa hương, màu
hồng của những cánh hoa điểm tô sắc thắm. Qua lăng kính của Nguyễn Trãi, sức sống
vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn
màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi
sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời...
Qua cảnh mùa hè, tình cảm của Nguyễn Trãi cũng thể hiện một cách sâu sắc:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
“Chợ” là hình ảnh của sự thái bình trong tâm thức của người Việt. Chợ đông vui thì
nước thái bình, thịnh trị, dân giàu đủ ấm no: chợ tan rã thì dễ gợi hình ảnh đất nước có
biến, có loạn, có giặc giã, có chiến tranh, đao binh... lại thêm tiếng ve kêu lúc chiều tà
gợi lên cuộc sống nơi thôn dã. Chính những màu sắc nơi thôn dã này làm cho tình cảm
ông thêm đậm đà sâu sắc và gợi lại ý tưởng mà ông đang đeo đuổi.
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
“Dân giàu đủ”, cuộc sống của người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc là điều mà
Nguyễn Trãi từng canh cánh và mong ước. Ở đây, ông đề cập đến Ngu cầm vì thời
vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng là thái bình thịnh trị. Vua Thuấn có một khúc đàn
“Nam Phong” khảy lên để ca ngợi nhân gian giàu đủ, sản xuất ra nhiều thóc lúa ngô
khoai. Cho nên, tác giả muốn có một tiếng đàn của vua Thuấn lồng vào đời sống nhân
dân để ca ngợi cuộc sống của nhân dân ấm no, vui tươi, tràn đầy âm thanh hạnh phúc.
Những mơ ước ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi là nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo
cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ.
Đó là ước mơ vĩ đại. Có thể nói, dù triều đình có thể xua đuổi Nguyễn Trãi nhưng ông
vẫn sống lạc quan yêu đời, mong sao cho ước vọng lý tưởng của mình được thực hiện
để nhân dân có một cuộc sống ấm no.
Bài thơ này đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn với
tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”. Ông yêu
thiên nhiên cây cỏ say đắm. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi
những phút giây bi quan của cuộc đời mình. Dù sống với cuộc sống thiên nhiên nhưng
Ức Trai vẫn canh cánh “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng
nhàn dân, lí tưởng nhân nghĩa, lý tưởng: mong cho thôn cùng xóm vắng không có một
tiếng oán than, đau sầu.
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè - Mẫu 9
Nguyễn Trãi là vị anh hùng tên tuổi lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân
tộc ta. Tài năng kiệt xuất của ông không chỉ được khẳng định trong lĩnh vực chính trị,
quân sự, ngoại giao mà còn được khẳng định qua sự nghiệp văn chương đồ sộ với
những đóng góp lớn lao cho nền văn học nước nhà.
Lí tưởng mà Nguyễn Trãi ôm ấp lá giúp vua làm cho đất nước thái bình, nhân dân
thịnh vượng. Lí tưởng cao đẹp ấy là nguồn động viên mạnh mẽ khiến ông vượt qua
mọi thử thách, gian nan trên đường đời. Lúc được nhà vua tin dùng cũng như khi thất
sủng, nỗi niềm lo nước, thương dân luôn canh cánh bên lòng ông. Giông bão cuộc đời
không thể dập tắt nổi ngọn lửa nhiệt tình trong tâm hồn người chí sĩ tài đức vẹn toàn ấy.
Bài thơ “Cảnh ngày hè” được sáng tác vào thời gian Nguyễn Trãi về nghỉ ở Côn Sơn.
Ông tạm thời xa lánh chốn kinh đô tấp nập ngựa xe và chốn cửa quyền hiểm hóc để về
với thiên nhiên trong trẻo, an lành nơi thôn dã, bầu bạn cùng dân cày cuốc, cùng mây
nước, chim muông, hoa cỏ hữu tình. Trong những tháng ngày dài nhàn nhã bất đắc dĩ
ấy, nhà thơ có lúc thấy vui trước cảnh vật mùa hè tưng bừng sức sống và kín đáo gửi
vào những vần thơ tả cảnh một thoáng khát vọng mong cho dân giàu, nước mạnh. Bài
thơ phản ánh tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước.
Bài thơ mở đầu bằng câu lục ngôn nêu rõ hoàn cảnh của nhà thơ lúc đó: “Rỗi hóng
mát thuở ngày trường”. Lẽ ra câu thơ phải bảy chữ mới đúng là thể thất ngôn bát cú
quen thuộc, song Nguyễn Trãi đã lược đi một chữ. Đây cũng là một cách tân táo bạo,
mới mẻ trong thơ Nôm nước ta thuở ấy. Nhịp thơ 1/2/3, chậm rãi phản ánh tư thế ung
dung, tự tại vốn có của tác giả.
Chữ “rồi” tách riêng thành một nhịp thể hiện cảm nhận của tác giả về tình cảnh của
mình. “Rồi” là từ cổ, cổ nghĩa là nhàn nhã, không vướng bận điều gì. Cuộc đời
Nguyễn Trãi thường không mấy lúc được thảnh thơi. Đây là lúc ông được sống ung
dung, được thỏa ước nguyện hòa mình với thiên nhiên mà ông hằng yêu mến.
Không có việc gì quan trọng, cần kíp để làm cả, chỉ có mỗi “việc” là hóng mát. “Ngày
trường” là ngày dài. Đây là cảm giác tâm lý về thời gian của người đang sống trong
cảnh nhàn rỗi, thấy ngày dường như dài ra. Với con người ưa suy nghĩ, hành động như
Nguyễn Trãi thì cảm giác ấy càng rõ hơn bao giờ hết. Giữa lúc xây dựng lội non sông
sau chiến tranh, việc dân việc nước bời bời mà ông bị bắt buộc phải hóng mát hết
ngày này qua ngày khác thì quả là trớ trêu. Bởi vậy, ông rơi vào cảnh thân nhàn mà
tâm bất nhàn. Đằng sau câu thơ trên dường như thấp thoáng một nụ cười chua chát
của Nguyễn Trãi trước tình cảnh trớ trêu ấy.
Chỉ có vẻ đẹp hồn nhiên, vô tư của cảnh vật mới có thể tạm xua đi những áng mây
buồn vương vít trong tâm hồn ông. Ông mở lòng đón nhận thiên nhiên và thấy vui trước cảnh:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Chi vài nét bút phác họa mà bức tranh quê đã hiện lên tươi khỏe, hài hoà. Cây trước
sân, cây trong ao đều ở trạng thái tràn đầy sức sống, đua nhau vươn lên khoe sắc, tỏa
hương. Cây hòe với tán lá xanh um xoè rộng, trong khi cây lựu nở đầy những bông
hoa đỏ thắm và sen hồng đã nức mùi hương. Sức sống trong cây đang đùn đùn dâng
lên cành, lên lá, lên hoa. Cây tỏa bóng rợp xuống mặt sân, tỏa luôn bóng mát vào hồn thi sĩ.
Ba câu thơ nổi đến ba loại cây: “hòe, lựu, sen” nhưng chẳng lẽ tác giả chỉ nói đến cây?
Dường như có cả con người lồng trong đó, hết sức kín đáo. Các từ đùn đùn (dồn dập
tuôn ra), giương (tỏa rộng ra), phun, tiễn (ngát, nức) gợi tả sức sống căng đầy chất
chứa bên trong sự vật, tạo nên những hình ảnh mới lạ, ấn tượng. Câu thơ thứ hai ngắt
nhịp 4/3, hai câu thơ tiếp theo đổi nhịp thành 3/4, tạo thêm cho cảnh vật vẻ sinh động,
rộn ràng. Giữa cảnh với người có nét tương đồng nào chăng? Đời người anh hùng
cũng đã vơi nhưng giống như hàng tùng bách dày dạn tuyết sương nên sức sống vẫn
chảy mạnh trong huyết quản. Thức đỏ (màu đỏ) của hoa lựu phải chăng là thức đỏ của
tấm lòng sắt son với dân với nước? Mùi hương thơm ngát của sen có phải là lý tưởng
chẳng bao giờ phai nhạt của Nguyễn Trãi suốt đời phấn đấu vì đất nước thanh bình, vì
nhân dân hạnh phúc. Rõ ràng ở đây, cảnh và người có những nét tương đồng và đều đẹp đẽ, hài hòa.
Ở bốn câu thơ trên, nhà thơ mới nhắc đến màu sắc, hương thơm, cây cỏ; ở hai câu thơ
tiếp theo còn có thêm mùi vị, âm thanh, hình ảnh con người và cảnh vật:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Từ tượng thanh “lao xao” đặt trước hình ảnh chợ cá làm nổi bật không khí nhộn nhịp
của làng ngư phủ. Lao xao tiếng trao qua đổi lại, ồn ã tiếng nói tiếng cười. Tất cả đều
là hơi hướng của cuộc sống lao động cần cù, chân chất. Những âm thanh lao xao ấy
hòa vào tiếng ve kêu dắng dỏi bất thần nổi lên trong chiều tà, báo hiệu chấm dứt một
ngày hè nơi thôn dã. Tiếng ve lúc chiều tà thường gợi buồn, nhưng với nhà thợ lúc
này, nó trở thành tiếng đàn rộn rã khiến tâm trạng nhà thơ cũng náo nức hẳn lên.
Cỏ cây, hoa lá, con người đầy sức sống khơi dậy trong lòng nhà thơ cảm xúc nhẹ
nhàng, sâu lắng và những suy nghĩ chân thành, tâm huyết nhất. Đó là tình yêu cuộc
sống, yêu con người và trách nhiệm đối với dân với nước. Nguyễn Trãi luôn tâm niệm
lấy dân làm gốc (dân vi bản, dân vi quý) cho nên trước thiên nhiên tươi xanh, trước
những con người cần cù, lam lũ, lòng ông lại dấy lên khát vọng mãnh liệt:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Ông ước gì lúc này có được trong tay cây đàn của vua Thuấn, đàn một tiếng để nổi lên
niềm mong mỏi lớn nhất của mình là dân chúng khắp nơi đều được giàu có, no đủ. Ẩn
giấu đằng sau lời ước mong ấy là sự trách móc nhẹ nhàng mà nghiêm khắc bọn quyền
thần tham bạo ở triều đình đương thời không còn nghĩ đến dân, đến nước. Theo ông,
với cảnh nước non tươi đẹp cùng nhân dân chất phác, siêng năng, cuộc sống lẽ ra phải
được trở lại ấm no, hạnh phúc từ lâu.
Vậy là dẫu hòa hợp đến hết mình với thiên nhiên, Nguyễn Trãi vẫn không nguôi nỗi
niềm dân nước, ông tìm thấy ở thiên nhiên cỏ hoa xinh tươi kia một nguồn thi hứng,
nguồn động viên, an ủi và khích lệ đáng quý đối với bản thân. Điều đó góp phần tạo
nên cốt cách của Nguyễn Trãi, bậc trượng phu - chính nhân quân tử - hiên ngang như
cây tùng, cây bách trước giông bão cuộc đời.
Cảnh ngày hè là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Trãi về hình thức thơ. Câu thất
ngôn xen lục ngôn, các vế đối rất chỉnh, cách sử dụng từ láy rất tài tình. Để tăng sức
biểu hiện của các tính từ và động từ, tác giả đem chúng đặt ở đầu câu. Đây là bài thơ
tả cảnh ngày hè tràn đầy sức sống. Bài thơ không chỉ miêu tả cảnh sắc đặc trưng của
mùa hè, mà còn là “tức cảnh sinh tình”. Cảnh ở đây thể hiện niềm vui sống, háo hức,
tươi tắn, trẻ trung của tâm hồn nhà thơ Và niềm ao ước của Nguyễn Trãi về hạnh phúc
cho dân chúng muôn phương.
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè - Mẫu 10
Đặt cho bài “Bảo kính cảnh giới số 43”, trong “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi, cái
tựa “Cảnh ngày hè” kể cũng phải. Phần lớn thơ thuộc chùm “Bảo kính cảnh giới” vẫn
nghiêng về những gương báu tự răn mình, đúng như chủ đề chung của cả chùm. Trong
khi đó, bài 43 này, dù không phải không có cái ý răn mình, nhưng lại nghiêng nhiều
về tức cảnh. Toàn thi phẩm là tâm tình nồng hậu của Ức Trai trước cảnh tượng hưng thịnh của ngày hè.
Dù được viết cách nay đã hơn sáu thế kỉ, nhiều ngôn từ đã trở nên xưa xa đối với
người hiện đại, thậm chí kèm theo luôn phải có cả một bản chú thích lê thê đến gần
hai mươi mục, nhưng “Cảnh ngày hè” vẫn dư sức vượt qua khoảng cách thời gian
dằng dặc, vượt qua rào cản ngôn ngữ rậm rịt để đến được với người đọc bây giờ. Điều
gì đã khiến cho bài thơ có được sức sống này? Sự tài hoa của ngòi bút chăng? vẻ tinh
tế của tâm hồn chăng? Tầm vóc lớn lao của một tấm lòng chàng? Có lẽ không riêng
một yếu tố nào, mà là sự kết tinh của tất cả thành một chỉnh thể thi ca sống động, một
kiến trúc ngôn từ cô đúc dư vang.
“Cảnh ngày hè” trước hết là một cảnh tượng rực rỡ và rộn rã. Nếu tuân theo nguyên lí
“thi trung hữu họa”, người đọc hoàn toàn có thể cảm thụ thi phẩm như một bức tranh.
Một bức tranh được vẽ bằng ngôn từ. Một bức tranh nghiêng về gam màu nóng, theo
lối phân loại của hội họa. Thật là gam màu đặc trưng của ngày hè.
Hai câu đề, với những nét bút đầu tiên, đã đưa ngay cái không khí hè đến với người đọc:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”
Ngày hè hiện ra với một tâm thế, một thời gian, một không gian khá ăn nhập với nhau.
Ba chữ “Rồi hóng mát” đã gợi ra hình ảnh một Ức Trai trong dịp nhàn rỗi hiếm hoi
nào đó đang hóng mát ngày hè. Nhưng ba chữ thuỷ ngày trường mới giàu sức gợi hơn.
Ngày mà dài thì đúng là đã tóm được cái chênh lệch đêm ngắn, ngày dài khá đặc trưng
của mùa hè. Nhưng có phải chỉ là chuyện thời lượng đơn thuần không? Hình như còn
là chuyện tâm lý nữa. Khoảng thời gian nào mà lại có thể khiến một con người vốn
ham gánh vác việc xã tắc giang sơn này cảm nhận là “thuở ngày trường?” Thời ông
đang làm rường cột bận bịu với chính sự giữa cung đình của một vị quan đầu triều ư?
Không thể. Khi ấy, người say sưa hành sự khó mà cảm nhận về “ngày trường”. Vì thế,
chữ “ngày trường” gợi ra những ngày nhàn cư mà chẳng thật thanh nhàn bên ngoài
chính cuộc của Ức Trai chăng? Mà đâu chỉ hiện trong nghĩa của chữ, tâm thế ấy như
còn ẩn trong âm vang của lời. Câu khai mở đã gây một cảm giác lạ đối với người quen
đọc thơ thất ngôn bát cú. Có một cái gì đó như là giao thoa của những cảm giác trái
chiều: ngắn mà lại dài, mau mà lại khoan. Cả chuỗi lời thì ngắn, mỗi tiết tấu lại dài. Số
nhịp thì dồn lại, mỗi nhịp lại trải ra. Hãy lắng nghe âm vang của nó:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Chẳng phải nó tạo ra một ngữ điệu khá khác biệt, chứa đựng những tình điệu dường
như cũng trái chiều: vừa hối thúc lại vừa thong dong. Thong dong mà hối thúc, nhàn
cư mà bận tâm, là cái tâm thế thường trực của nhà thơ. Có lẽ sẽ không ngoa khi nói
rằng chính tâm thê này đã ngầm tìm kiếm cho nó kiểu cấu trúc ngôn từ như thế trong câu khai mở.
Kết hợp câu đề thứ hai với câu thực ta sẽ thấy một thiên nhiên dồi dào sức sống được
hiện lên qua sắc độ rực rỡ của thảo mộc hoa lá:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Trật tự không gian trải từ cao xuống thấp, điểm nhìn của thi sĩ cũng di chuyển từ tầng
không qua hiên nhà rồi xuống ao sen. Ở tầng nào của thiên nhiên, sức sống bên trong
cũng như đang trào ra. Các tạo vật thiên nhiên không chịu tĩnh. Màu xanh lục lá hòe
thì “đùn đùn” như cuộn lên từng khôi biếc, tán hòe thì “rợp giương” như cử lọng
giương ô. Màu đỏ hoa lựu không lặng lẽ tô son điểm sắc, cũng không lập lòe dậy lên
vài đốm lửa, mà nhất loạt phun trào thức đỏ, tựa pháo hoa hừng sáng cả hiên nhà. Từ
dưới ao, hoa sen cũng hưởng ứng bằng sắc hồng chín ửng cùng mùi hương dậy lên
bay tỏa không gian. Mật độ dậy của các động thái “đùn đùn”, “rợp giương”, “phun”,
“tiễn”... đã tạo nên một sự sôi động đằng sau mỗi loài thảo mộc tưởng chừng tĩnh lại.
Như thế, động thái mạnh lại được cộng hưởng bởi độ gắt của gam màu, tất cả làm dậy
lên sức sống của thiên nhiên đang kỳ toàn thịnh.
Thi sĩ đã bắt được một nhịp vận hành vô hình hối thúc, xô đẩy tạo vật nữa. Chỉ cần
chú ý một chút thôi sẽ thấy điều này: thảo mộc thì tiếp nối liên tục từ cao xuống thấp,
động thái thì liên tiếp từ trong ra ngoài, lá - hoa - hương thì tiếp ứng nhau, nhất là cái
nhịp độ khẩn trương: Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên trì đã tiễn mùi
hương. Loài này đang thì loài kia đã, hô ứng nhau, chen bước nhau gợi ra được không
khí các tạo vật đang đua tranh phô sắc, khoe hương.
Ăn nhập với thiên nhiên rực rỡ là một đời sông rộn rã. Theo đó, bức tranh ngày hè
toàn thịnh vốn đã đầy màu sắc giờ lại tràn ngập cả âm thanh:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Chợ là một hình ảnh vô cùng điển hình của cuộc sống. Lúc đương đông buổi chợ là
hình ảnh vui của một cuộc sống sầm uất đi lên. Còn khi chợ tan là hình ảnh rã đám
của một cuộc sống đương đi xuống. Chỉ cần nhìn vào diện mạo chợ, cũng có thể thấy
được âm vang của đời sống. Âm thanh “lao xao” từ chợ cá làng ngư phủ đã nói lên vẻ
sầm uất của cuộc đời xung quanh. Cả hình ảnh bóng tịch dương nữa. Nắng tắt, bóng
tối dâng lên vây phủ bốn bề, âm thanh sinh hoạt cũng dần dần thưa thớt. Lúc tịch
dương thì dù đó là miền sơn cước hay chốn chương đài, cũng đều khó tránh khỏi
không khí quạnh hiu cô tịch.
Nhưng không khí ấy ở đây đã bị xua tan bởi nhạc ve. Tiếng ve gióng giả inh ỏi như
một bản đàn làm cho hoàng hôn cũng trở nên náo nhiệt. Phải là một tâm hồn mở, một
điệu hồn náo nức thì mới có thể nghe tiếng ve inh ỏi thành tiếng đàn cầm ve như thế.
Từ làng ngư phủ xa xa của dân nghèo lớp dưới, đến lầu son gác tía của người lớp trên,
chỗ nào cũng rộn rã vui tươi. Cái nhìn khái quát đã thâu tóm được toàn, cảnh cuộc
sống trong đôi nét bút tài hoa.Trước, vẽ thiên nhiên thì từ cao xuống thấp, giờ, vẽ đời
sống lại chảy từ thấp đến cao, từ xa lại gần. Lối viết đảo ngược cú pháp, đặt những âm
thanh lao xao và dắng dỏi lên đầu mỗi câu khác nào như tạo nên những điểm nhấn. Ta
ngỡ như người viết đang muốn phổ vào không gian cả một dàn âm thanh rộn rã. Cảnh
hưng thịnh của ngày hè, nhờ thế, mà càng trở nên phồn thịnh hơn.
Nếu chỉ dừng lại ở cảnh không thôi, cũng đã phần nào thấy được lòng người vẽ cảnh.
Cảnh tượng ấy đâu chỉ nói với ta về sự tinh tế của một tâm hồn, đó còn là sự phấn
chấn của một tấm lòng thiết tha với đời sống. Nhưng ta có hồn, đó còn là sự phấn chấn
của một tấm lòng thiết tha với đời sống. Nhưng ta có dịp dược hiểu về tấm lòng ấy
trực tiếp hơn qua chính lời ước ao bộc trực của thi sĩ:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Giá chỉ có cây đàn của vua Thuấn, ta sẽ gảy khúc Nam Phong cầu cho dân giàu đủ
khắp muôn phương. Cặp câu kết này hé mở cho chúng ta về chí của Ức Trai. Trong
đời, về phận vị, Nguyễn Trãi là một công hầu. Nhưng trong thơ, trong cái thế giới của
những khát vọng riêng tư nhất, ông đã bộc lộ khát khao lớn ngang tầm với những bậc
quân vương vốn là thần tượng của lịch sử. Ông muốn cầm cây đàn vua Thuấn gảy
khúc Nam phong để cầu mong cho dân tình phong túc hơn nữa. Ông mong muốn có
một cuộc sống thực sự thái bình. Đó là khát khao sâu kín và cháy bỏng suốt một đời
Nguyễn Trãi. Vì nó ông đã phải trả giá bằng cả sinh mạng và tôn tộc của mình. Chẳng
thế mà ông cần phải đúc nó vào trong một câu lục ngôn, một câu đột nhiên ngắn lại,
như để ghim sâu điều đau đáu của cõi lòng.
“Cảnh ngày hè” là sự hòa điệu tuyệt vời giữa tâm hồn và nét bút của một đấng tài hoa
với tấm lòng của một bậc minh vương lương tướng ư?
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè - Mẫu 11
“Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi là một bầu không gian trữ tình đặc sắc. Nó phong
phú về cảnh và tình mà bài số bốn mươi ba trong chùm “Bảo kính cảnh giới chứa
đựng những nét độc đáo, lấp ló niềm tâm sự của tác giả. Bài thơ này có người đặt tên
là “Cảnh tình mùa hè”.
Câu thơ đầu cho thấy Nguyễn Trãi đang sống rất thong thả, rảnh rỗi một cách bất
thường. Bởi, nếu còn được tham gia vào việc triều chính thì không có cái an nhàn ấy.
Bài thơ có khả năng được sáng tác vào khoảng 1438 - 1439 lúc Nguyễn Trãi về Côn
Sơn để lánh lũ nịnh thần đang lũng đoạn triều đình. Câu thơ như một tiếng nói tự bên
trong: “Ừ, rảnh rỗi đến thế này rồi thì ta hóng mát mãi”.
Có thể coi bốn câu đầu tiên miêu tả cảnh. Tác giả mở tâm hồn ra với thiên nhiên và
cuối mùa hè trong lúc rảnh rỗi cảnh và “hóng mát”. Bức tranh rất sinh động và đầy
sức sống. Cây hòe đang phát triển màu xanh lục của nó cứ “đùn đùn” mà lên, mà tỏa
tán, mà trương rợp ra như một cái dù xanh đan bằng cành lá. Màu xanh cứ vậy mà sum suê, mà tỏa rộng.
Ở hiên nhà, những bông hoa thạch lựu nở hoa đỏ chói, màu lửa làm chói rực rỡ. Cái
gam màu đỏ là màu nóng đối với cái gam màu xanh là màu lạnh càng làm cho cảnh
vật tưng bừng hoạt náo như đua nhau khoe sự sống. Những ngày cuối xuân đầu hè,
Nguyễn Trãi cũng cảm nhận tinh tế:
“Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn”
Để tả mùa hè Nguyễn Du viết:
“Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”
Cảnh vật ở đây được đón nhận bằng nhiều giác quan (mắt, mũi, tai và cả ấn tượng
nữa). Mùa hè đã đi những bước cùng buổi chiều tịch dương nắng tắt nhưng sự sống thì
có sức nội năng có cái gì thôi thúc bên trong dường như không kiềm lại được cứ “đùn
đùn” và “phun trương” ra tất cả. Cảnh vật được nhân hóa cho nên nó thiên về miêu tả
trạng thái tinh thần của sự vật qua đây ta thấy được lòng yêu đời của tác giả thật mãnh liệt.
Cách đặt câu khiến ta suy nghĩ rằng cái hiên nhà phun những bông hoa màu đỏ chứ
không phải là cây thạch lựu; cái hồ sen đã im ngừng mùi hương chứ không phải là
bông sen. Cái nhìn như vật nó tinh tế và mới lạ vui vẻ mặc dầu người đọc có thể hiểu
màu đỏ và hương thơm ấy từ đâu. Có lẽ nhà thơ đã quạnh hiu và chán nản với thực
trạng là nhờ thiên nhiên xoa dịu niềm đau. Nhưng trong cách âm thanh của thiên nhiên
Nguyễn Trãi vẫn lọc được tiếng nói của cuộc đời. Về với thiên nhiên, ông lại có cơ
hội gần gũi với thiên nhiên hơn. Ông vui thú, say mê với vẻ đẹp của thiên nhiên.
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông, thiên nhiên bừng bừng sức sống. Cây
hòe lớn lên nhanh, tán nó càng lớn dần lên có thể như một tấm trướng rộng căng ra
giữa trời với cành lá xanh tươi. Những cây thạch lựu còn phun thức đỏ, ao sen tỏa
hương, màu hồng của những cành, hoa điểm tô sắc thắm. Qua lăng kính của Nguyễn
Trãi: sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn
thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con
mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời. Lao xao chợ cá dội lên từ một
làng chài hay chính tác giả đang rộn rã niềm vui trước cảnh “dân giàu đủ” và cả tiếng
ve dắng dỏi có phải chăng là tấm lòng Nguyễn Trãi đang tấu nhạc?
Nghe thấy để chứng thực rằng dân đang sống giàu đủ yên vui Nguyễn Trãi ước mơ có
cây đàn vua Thuấn gảy khúc Nam phong ca ngợi cảnh:
“Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Câu lục được cắt nhịp vững chãi kết tụ cảm xúc trong bài thì ra dù có “rồi hóng mát”,
tác giả vẫn đau đáu một lý tưởng vì dân. Con người suốt đời mang tới no ấm cho dân.
“Sách một hai phiên làm bầu bạn
Rượu năm ba chén đổi công danh
Ngoài chưng phần ấy cầu đâu nữa
Cầu một ngồi coi đời thái bình” (Tự thán, bài 10)
Bài thơ này đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn
nhưng tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”.
Với thiên nhiên cây cỏ, ông yêu nó đắm say. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu
Nguyễn Trãi thoát khỏi những Ức Trai chăm chắm “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn
Trãi vẫn không quên lí tưởng nhân dân, lí tưởng nhân nghĩa, lý tưởng mong cho thôn
xóm vắng không có tiếng oán than, đau sầu.
Phân tích Cảnh ngày hè - Mẫu 12
Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị, nhà thơ dưới thời nhà Hồ và nhà Lê
sơ Việt Nam. Ông làm quan triều đình được một thời gian sống đã cáo quan về ở ẩn.
Nguyễn Trãi viết rất nhiều thơ, để lại cho đời một khối tác phẩm đồ sộ nhưng phần
lớn đã bị thất lạc sau án oan Lệ Chi Viên. Trong thời gian ở ẩn, ông không ngừng sác
tác thơ ca, một trong số những bài thơ đặc sắc là “Cảnh ngày hè”.
Bài thơ là bức tranh mùa hè độc đáo nhưng cũng là niềm tâm sự của tác giả
“Rồi hóng mát thuở ngày trường"
Bài thơ được viết theo thể Thất ngôn bát cú Đường luật rất rõ ràng với kết cấu bốn
phần đề - thực - luận - kết. Mở đầu bài thơ là hình ảnh của nhà thơ Nguyễn Trãi, ông
đang ngồi dưới bóng cây nhàn nhã như hóng mát thật sự. Việc quân, việc nước chắc
đã xong xuôi ông mới trở về với cuộc sống đơn sơ, giản dị, mộc mạc mà chan hòa,
gần gũi với thiên nhiên. “Rồi” là rảnh rỗi, sự việc còn đều xong xuôi, đã qua rồi. Còn
“ngày trường” là ngày dài. Cả câu thơ không còn đơn giản là hình ảnh của Nguyễn
Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả nhàn rỗi ta hóng
mát cả một ngày dài. Một xã hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị
vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải dành "hóng
mát" cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả
câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa.
Sống hòa mình trong thiên nhiên nên Nguyễn Trãi đã tinh tế phát hiện ra những vẻ
đẹp thuần khiết mà nơi chốn triều đình, cung cấm đầy rẫy thị phi không thể xuất hiện được. Đó là:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Chỉ vài nét bút phác họa mà bức tranh quê đã hiện lên tươi khỏe, hài hoà. Cây trước
sân, cây trong ao đều ở trạng thái tràn đầy sức sống, đua nhau vươn lên khoe sắc, tỏa
hương. Cây hòe với tán lá xanh um xoè rộng, trong khi cây lựu nở đầy những bông
hoa đỏ thắm và sen hồng đã nức mùi hương. Sức sống trong cây đang đùn đùn dâng
lên cành, lên lá, lên hoa. Cây tỏa bóng rợp xuống mặt sân, tỏa luôn bóng mát vào hồn
thi sĩ. Các từ đùn đùn (dồn dập tuôn ra), giương (tỏa rộng ra), phun, tiễn (ngát, nức)
gợi tả sức sống căng đầy chất chứa bên trong sự vật, tạo nên những hình ảnh mới lạ,
ấn tượng. Ở đây ta bắt gặp cảnh sắc thiên nhiên căng tràn sức sống cho thấy rằng lòng
yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời của nhà thơ rất mãnh liệt, đồng thời còn có ham muốn
được cống hiến công sức của mình cho đời này thêm đẹp. Đời người anh hùng cũng
đã vơi nhưng giống như hàng tùng bách dày dạn tuyết sương nên sức sống vẫn chảy
mạnh trong huyết quản. Thức đỏ (màu đỏ) của hoa lựu phải chăng là thức đỏ của tấm
lòng sắt son với dân với nước? Mùi hương thơm ngát của sen có phải là lý tưởng
chẳng bao giờ phai nhạt của Nguyễn Trãi suốt đời phấn đấu vì đất nước thanh bình, vì nhân dân hạnh phúc?
Nếu bốn câu thơ trên Nguyễn Trãi miêu tả cảnh vật đang căng tràn nhựa sống thì hai
câu thơ tiếp theo là chuỗi âm thanh thanh bình chốn thôn quê cùng hình ảnh con người xuất hiện:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Từ tượng thanh Lao xao đặt trước hình ảnh chợ cá làm nổi bật không khí nhộn nhịp
của làng ngư phủ. Lao xao - tiếng trao qua đổi lại, ồn ã tiếng nói tiếng cười. Tất cả đều
là hơi hướng của cuộc sống lao động cần cù, chân chất. Những âm thanh lao xao ấy
hòa vào tiếng ve kêu dắng dỏi bất thần nổi lên trong chiều tà, báo hiệu chấm dứt một
ngày hè nơi thôn dã. Tiếng ve lúc chiều tà thường gợi buồn, nhưng với nhà thợ lúc
này, nó trở thành tiếng đàn rộn rã khiến tâm trạng nhà thơ cũng náo nức hẳn lên.
“Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Mạch thơ từ hướng ngoại sang hướng nội. Từ miêu tả sáng biểu cảm, khách thể sang
chủ thể. Nguyễn Trãi đã trực tiếp bộc lộ nỗi lòng mình trong hai câu thơ kết. Ấy là
một giấc mơ, và cả một học thuyết nhân sinh ấp ủ bật ra thành lời. Giấc mơ, đó là giấc
mơ Nghiêu Thuấn. Giấc mơ ngàn đời của những con người Phương Đông sống trong
thời trung đại. Mong sao có một bậc vua hiền để được yên ổn ấm no hạnh phúc.
“Cảnh ngày hè” đã bộc lộ tấm lòng nhà thơ đầy tình nghĩa và cao cả khiến người đời
kính trọng, dân chúng biết ơn bởi những đóng góp của ông dành cho đất nước. Dù
trong bất cứ hoàn cảnh nào thì trong lòng Nguyễn Trãi vẫn mãi hướng về nhân dân,
một lòng trung quân ái quốc.
Phân tích Cảnh ngày hè - Mẫu 13
Nguyễn Trãi được biết đến với tư cách là một nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc. Một
trong những tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến bài thơ “Cảnh ngày hè” đã cho
thấy một tâm hồn chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân và yêu đất nước của tác giả:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường,
Hoè lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi là bài số 43 thuộc chùm thơ “Bảo kính cảnh
giới” trong “Quốc âm thi tập”, là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp và tấm lòng yêu
nước thương dân của tác giả.
Trước hết, tác giả đã khắc họa hoàn cảnh sống của mình trong những ngày về ở ẩn.
Câu thơ mở đầu đọc lên nghe thật êm đềm gợi một cuộc sống yên bình, thư thái: “Rồi
hóng mát thuở ngày trường”. Từ “rồi” ở đây có nghĩa là rảnh rỗi, nhàn hạ. Rảnh rỗi
trong suốt “ngày trường” có nghĩa là ngày dài, để ngồi “hóng mát” - một hoạt động an
nhàn, tĩnh tại, thư thái. Từ đó ta thấy được tâm thế an nhàn, thảnh thơi của tác giả.
Nguyễn Trãi đã một đời bận rộn, tận tâm vì đất nước, chính lúc này là những giây
phút rảnh rỗi hiếm hoi của cuộc đời.
Nhờ có vậy, ông được gần gũi với thiên nhiên hơn. Bức tranh cảnh ngày hè nổi lên với
bức tranh thiên nhiên ngày hè rực rỡ:
“Hoè lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Nguyễn Trãi cảm thấy say mê, thích thú trước vẻ đẹp của thiên nhiên ngày hè. Cây
hoa hòe có sức sống mãnh liệt giờ tán là xanh che phủ cả khoảng không gian. Cùng
với sắc đỏ của cây thạch lựu tô đậm thêm cho khung cảnh. Ao sen tỏa hương ngan
ngát bay theo làn gió. Cảnh thiên nhiên của mùa hè hiện lên đầy tươi tắn, tràn đầy sức
sống, tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên của của Nguyễn Trãi.
Không chỉ có bức tranh thiên nhiên, nhà thơ còn khắc họa vẻ đẹp của bức tranh cuộc sống con người:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Việc sử dụng nhiều từ Hán Việt như “ngư phủ, cầm ve, tịch dương” kết hợp nhuần
nhuyễn với những từ thuần Việt như “lao xao”, dắng dỏi” tạo nên vẻ đẹp vừa mộc
mạc, bình dị, vừa trang trọng tao nhã. Cuộc sống của con người không chỉ được cảm
nhận bằng thị giác mà còn được cảm nhận bằng thính thanh. Đó là âm thanh từ làng
chợ cá, của tiếng ve râm ran mỗi độ hè về. Những âm thanh đặc trưng của ngày hè nơi
làng quê khiến ngày hè trở nên vui vẻ, nhộn nhịp. Tác giả đã rất tinh tế khi sử dụng
các động từ: “rợp, đùn, tiễn đưa” khiến cho người đọc thấy được cảm giác sức sống
trỗi dậy của cảnh vật mùa hè. Như vậy, cả thiên nhiên và con người đều hiện lên tràn
đầy sức sống, tâm hồn lạc quan, yêu đời, tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên, tha thiết
với cuộc sống quê nhà của nhà thơ Nguyễn Trãi.
Hai câu thơ cuối cùng bộc lộ lòng yêu nước thương dân của nhà thơ. Tuy cáo quan về
ở ẩn đấy, nhưng tấm lòng của Nguyễn Trãi chưa lúc nào thôi lo lắng cho nhân dân, đất nước:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Nhà thơ đã mượn hình ảnh “Ngu cầm” là cây đàn của vua Nghiêu vua Thuấn. Đó là
một điển cố quen thuộc của Trung Hoa kể về thời đại Nghiêu Thuấn - những ông vua
nhân từ đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Hằng ngày vua Nghiêu
Thuấn thường đem đàn ra gảy khúc nam phong ngợi ca cảnh thái bình trên xứ sở này.
Qua đó, nhà thơ bộc lộ mong muốn có được cây đàn đó đến với cuộc sống của nhân
dân, để ca ngợi khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp và cuộc sống vui tươi trên quê hương
ông, niềm vui sướng, hạnh phúc của tác giả khi được sống hòa hợp cùng thôn quê. Bài
thơ kết lại với ước mơ được thấy cảnh thanh bình, ấm no trên đất nước của Nguyễn Trãi.
Như vậy, qua bài thơ trên, người đọc có thấy được tấm lòng yêu nước, thương dân của
Nguyễn Trãi. Dù trong hoàn cảnh nào, ông vẫn luôn nặng lòng với nhân dân, đất nước.
Phân tích Cảnh ngày hè - Mẫu 14
Nguyễn Trãi được biết đến là anh hùng dân tộc đồng thời là nhà thơ với những tác
phẩm để lại dấu ấn trong lòng người đọc. Những năm tháng cáo quan về ở ẩn, Nguyễn
Trãi đã sáng tác rất nhiều, mỗi bài thơ đều mang tâm trạng và nỗi niềm sâu thẳm của
ông. Bài thơ “Cảnh ngày hè” là bức tranh mùa hè nơi miền quê, đồng thời là nỗi lòng chưa giãi bày của ông.
Cuộc sống của vị quan ở ẩn thật thanh bình, yên ả, không xô bồ. Ông đã mở đầu bài
thơ một cách nhẹ nhàng và êm đềm nhất: Rồi hóng mát thuở ngày trường. Câu thơ
trên đã gợi lên được phong thái và cuộc sống bình dị của Nguyễn Trãi nơi vùng quê
thanh bình. Rời xa chốn quan trường nhiều đấu tranh, bất công, ông lựa chọn cho
mình một con đường riêng, xa lánh việc quân, gần gũi và chan hòa với thiên nhiên.
Thời gian không được nhắc đến nhưng người đọc sẽ nhận ra đó là mùa hè. Tuy câu
thơ không vướng bận lo âu nhưng chắc hẳn người đọc vẫn nhận ra được tâm sự của
tác giả. Dù không bận việc nước, việc quân nhưng trong lòng ông còn nhiều tâm sự
chưa giãi bày. Ở những câu thơ tiếp theo, người đọc nhận ra một bức tranh mùa hè đầy màu sắc:
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Một bức tranh mùa hè nhiều màu sắc, cảnh vật thiên nhiên dường như đan cài vào
nhau tạo nên đường nét và sức sống của mùa hè. Hình ảnh cây hòe, cây thạch lựu, cây
hồng là những đặc trưng của mùa hè. Màu sắc của những loài cây ấy đã gợi lên một
không gian tràn ngập màu sắc và sự sôi động.
Qua ngòi bút của Nguyễn Trãi người đọc nhận ra một khu vườn tràn trề sức sống. Ắt
hẳn ai ai cũng thích một cuộc sống thanh thản, trầm tĩnh như thế này. Có lẽ đây là đặc
trưng của mùa hè đất Bắc. Tuy nhiên đằng sau bức tranh mùa hè đầy màu sắc đó,
người đọc nhận ra một tấm chân tình của ông dành cho quê hương đất nước:
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Với cú pháp đảo trật tự cú pháp, từ láy “lao xao” được đảo lên đầu câu đã khiến cho
chúng ta cảm nhận rất rõ sự tấp nập, nhộn nhịp của khung cảnh chợ làng quê nơi ông
đang sống. Bởi rằng “Chợ” luôn gợi lên sự an bình, thịnh vượng, khi chợ còn đông
nghĩa là đất nước ấm no hạnh phúc, khi chợ tàn đồng nghĩa với thời kỳ suy thoái của
đất nước. Như vậy, dù ở quê nhà thì Nguyễn Trãi vẫn luôn mong cho đất nước luôn
bình an, ấm no hạnh phúc. Hai câu cuối của bài thơ chính là nguyện vọng, là ý tưởng
mà cả cuộc đời Nguyễn Trãi ấp ủ và mong ngóng:
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
Tác giả đã lấy điển tích điển cố thời vua Nghiêu, vua Thuấn cai trị đất nước luôn thái
bình thịnh trị. Thời đó, vua Thuấn có một khúc đàn “Nam Phong” với giọng điệu sôi
nổi, gợi cảm giác bình dị, ấm êm. Bởi vậy Nguyễn Trãi muốn mượn tiếng đàn đó để
có thể nguyện cầu cho cuộc sống của nhân dân luôn chan hòa, an lành và hạnh phúc
nhất. Nguyện vọng “Dân giàu đủ” của Nguyễn Trãi thực sự đáng quý, đáng trân trọng.
Như vậy qua bài thơ “Cảnh ngày hè” Nguyễn Trãi đã vẽ lên một bức tranh ngày hè sôi
động, nhiều màu sắc, đồng thời qua đó thấp thoáng bóng dáng một người luôn nghĩ
cho nước cho dân. Bài thơ để lại cho người đọc những ấn tượng sâu lắng nhất về cuộc
sống và tâm tư đáng trân trọng của ông.
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè - Mẫu 15
Vào thế kỷ XV tức là thời kỳ Phục Hưng của Châu Âu, thời điểm xuất hiện những con
người khổng lồ có trí tuệ và tri thức trên rất nhiều lĩnh vực ví như Leonardo da Vinci -
một nhà họa sĩ, nhà điêu khắc và triết học tự nhiên. Thì cũng thế kỷ XV ấy, ở Việt
Nam cũng đã xuất hiện thiên tài Nguyễn Trãi - một nhà ngoại giao, một nhà quân sự
tài ba, công thần đời đầu của nhà Hậu Lê, mà ông còn là một nhà văn hóa xuất sắc
trên nhiều lĩnh vực bao gồm địa lý, lịch sử, văn học,...
Ở lĩnh vực văn, thơ Nguyễn Trãi đã để lại nhiều tác phẩm có tên tuổi và được người
đời ca tụng tán thưởng, tiêu biểu nhất là Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập,
Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập,... Ông là người chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Nho
giáo với các tư tưởng nhân nghĩa và tư tưởng phụng mệnh trời, bên cạnh đó ông còn
nổi bật với tư tưởng nhân dân mới mẻ.
“Cảnh ngày hè” là bài thơ trích từ tập thơ Nôm Quốc âm thi tập, thuộc Mục bảo kính
cảnh giới bài số 43, mà tác giả thông qua cảnh ngày hè trong lúc nhàn hạ, Nguyễn
Trãi vẫn một lòng hướng về nhân dân, mang đậm tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước
thương dân, dù bản thân bị thất sủng, không còn được vua tin dùng.
Cảnh ngày hè được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, tuy nhiên khi
Nguyễn Trãi viết tác phẩm này thì thể thơ đã được thay đổi ít nhiều để phù hợp và
uyển chuyển hơn. Chính vì vậy bố cục của bài thơ cũng không cứng ngắc với 4 phần
đề thực luận kết, mà ở đây có sự tách biệt khá rõ ràng, trong đó 6 câu thơ đầu tiên là
bức tranh thiên nhiên cảnh ngày hè dưới tầm mắt một của một trí thức đã lui về ở ẩn, rời ra thế sự.
“Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng Ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương"
Bên cạnh mốc thời gian rộng là một ngày hè thì, dấu hiệu thời gian để tác giả dựng lên
bức tranh thiên nhiên cuộc sống còn được thể hiện qua ba chữ “lầu tịch dương”, ý chỉ
thời điểm cuối ngày, khi mà mặt trời đã dần tắt, vạn vật đang thu mình lại để chờ đón
đêm tối, chuyển từ trạng thái vận động sang trạng thái nghỉ ngơi.
Thế nhưng trái lại, trong thơ của Nguyễn Trãi cái cảnh cuối ngày ấy lại khác, vạn vật
không hề trở nên mỏi mệt, tĩnh lặng, héo úa, buồn bã giống như các vần thơ của các
tác giả trung đại ví như Bà Huyện Thanh Quan với “Ngàn mai gió cuốn chim bay
mỏi/Dặm liễu sương sa khách bước dồn” hoặc như Nguyễn Du với “Chim hôm thoi
thót về rừng /Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành”.
Mà ở thơ của Nguyễn Trãi vạn vật vẫn căng tràn sức sống, trào dâng thành hương sắc
âm thanh, náo nhiệt rộn rã tươi thắm trong buổi chiều tàn. Thể hiện qua một loạt các
hệ thống động từ như “đùn đùn” trong “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”, thể hiện sức
sinh sôi mạnh mẽ đang căng tràn trong từng thớ vỏ của cây, cứ phun trào hết lớp này
đến lớp khác. Không chỉ vậy “tán rợp giương” còn gợi ra hình ảnh xum xuê, xanh tốt
của tán cây hòe, chúng mạnh mẽ vươn ra phủ kín cả một khoảng không rộng lớn.
Rồi động từ “phun” trong câu “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ” cũng mang lại cảm
giác tràn trề nhựa sống, chực chờ nảy nở, sinh sôi để tạo ra một màu đỏ rực rỡ của
những hoa thạch lựu. Điều ấy càng làm cho bức tranh ngày hè thêm phần sôi động,
chứng minh sự vận động không ngừng nghỉ của thiên nhiên cuộc sống. Bức tranh
thiên nhiên tiếp tục được thể hiện bằng câu “Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”, “tiễn” ở
đây là một từ Hán Việt có nghĩa là dư ra, như vậy có thể hiểu đầy đủ câu thơ là ao sen
đã nồng nàn mùi hương, hay hoa sen trong ao đã bung nở rực rỡ, hương thơm ngát trời.
Bên cạnh các động từ thể hiện sức sống tràn trề căng tràn của từng cảnh vật thì các từ
láy thể hiện âm thanh trong hai câu thơ “Lao xao chợ cá làng ngư phủ/Dắng dỏi cầm
ve lầu tịch dương” cũng lại tiếp tục bổ sung cho bức tranh cảnh ngày hè sự sôi động
náo nhiệt của cuộc sống trước buổi chiều tà. “Lao xao” ở đây chính là âm thanh ngã
giá, trao đổi của người mua kẻ bán, tái hiện lại một cách sinh động cuộc sống của con
người thông qua hình ảnh “chợ cá làng Ngư phủ”, gợi ra sự nhộn nhịp, cuộc sống
sung túc ấm no của con người, thế nên cảnh chợphiên cuối ngày mới có cảnh lao xao tấp nập.
Hòa chung với những tiếng trao đổi rộn rã phía xa của con người ấy là sự góp vui của
dàn hợp xướng ve sầu cho ra những âm thanh “dắng dỏi” giòn tan, rộn rã, khuấy động
cả không gian buổi chiều tà, làm cho khung cảnh thêm phần náo nhiệt, đượm sức
sống, gạt đi cái u buồn, tẻ nhạt của hoàng hôn.
Một điều đặc sắc của bài thơ là tác giả đã căng mở tất cả các giác quan để cảm nhận
một cách tinh tế và tái hiện một cách xuất thần vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên cuộc
sống. Với xúc giác Nguyễn Trãi đã mang đến cho người đọc ấn tượng đầu tiên về bức
tranh thiên nhiên ấy là sự mát mẻ, dễ chịu, tạo cho người đọc ấn tượng về phong thái
nhàn hạ, thoải mái của thi nhân khi tận hưởng từng cơn gió thuở ngày hè.
Bên cạnh đó thị giác lại mang đến những ấn tượng sâu sắc về dáng hình của thiên
nhiên với những màu sắc rực rỡ, đó là màu xanh lục của cây hòe rợp bóng, rồi nổi bật
trên cái nền xanh thẫm ấy là màu đỏ rực rỡ của những đóa thạch lựu, và màu hồng dịu
dàng của loài sen đã nở rộ trong đầm. Và cuối cùng cả ba gam màu ấy lại được tắm
mình trong cái màu vàng nhàn nhạt của ánh hoàng hôn sắp tắt để đem đến một bức
tranh mùa hè tươi tắn, sức sống căng đầy mạnh mẽ, thể hiện sự yêu đời, yêu sống,
nhìn cảnh vật bằng tình yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả Nguyễn Trãi.
Thêm vào đó, sự cảm nhận tinh tế của khứu giác về mùi của loài hoa sen, một loài hoa
vốn nhàn nhạt hương sắc, mà chỉ những con người thực sự có tấm lòng tha thiết với
sen mới có thể cảm nhận được cái mùi hương thanh mát, đang lan tỏa một cách nồng
nàn, trong không gian khoáng đạt. Mùi hương ấy cũng gián tiếp thể hiện cái vẻ đẹp
của hoa sen vào mùa nở rộ, khiến người đọc dễ dàng liên tưởng đến hình ảnh một đầm
sen hồng, không quá rực rỡ, nhưng cũng đủ khiến bức tranh thiên nhiên bừng lên
những vẻ đẹp rộn rã, yêu đời từ hương sắc của loài hoa thanh cao này.
Và cuối cùng bức tranh thiên nhiên cảnh ngày hè càng trở nên sôi động, náo nhiệt
thông qua sự cảm nhận một cách tinh tế của nhà văn về âm thanh của con người của
sự vật. Đó là tiếng “lao xao” thể hiện sự nhộn nhịp trong đời sống sinh hoạt của con
ngày và buổi chợ chiều, là tiếng ve “dắng dỏi” vang vọng khắp không gian, như nhắc
nhở người ta về một ngày hè rạo rực.
Việc sử dụng biện pháp đảo cấu trúc đưa các từ láy mô tả âm thanh lên vị trí đầu câu
lại càng nhấn mạnh sự náo nhiệt của cuộc sống rộn ràng trong buổi chiều tà, gợi cảm
giác vui tươi, hứng khởi của cuộc sống, làm lu mờ cái cảm giác vắng vẻ, hiu quạnh
mà những buổi chiều trong thi ca thường mang lại.
Như vậy việc huy động tất cả những giác quan của tác giả đã tái hiện một cách xuất
sắc bức tranh thiên nhiên cuộc sống, cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi không chỉ đẹp mà
còn có chiều sâu, thể hiện được tam quan của tác giả về cuộc đời, luôn nhìn sự sống
bằng đôi mắt hứng khởi, tha thiết, thể hiện tấm lòng yêu thiên nhiên, cuộc đời tha thiết
của tác giả. Từ những cảm nhận tinh tế về bức tranh thiên nhiên cuộc sống, Nguyễn
Trãi đã bộc lộ tấm lòng yêu dân ái quốc của mình qua hai câu thơ kết bài.
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương"
Từ những quan sát về cuộc sống náo nhiệt của nhân dân nơi chợ cá làng Ngư phủ, tác
giả đã mường tượng ra hình ảnh cuộc sống vô cùng tươi đẹp, sung túc đầy đủ của
nhân dân. Điều đó gợi ra trong tâm hồn của tác giả những niềm vui, niềm hạnh phúc
khi chứng kiến cảnh quốc thái dân an, thế nên muốn có Ngu cầm của vua Nghiêu vua
Thuấn để đàn ra khúc Nam Phong, ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị của đất nước. Thể
hiện niềm mong ước của Nguyễn Trãi về sự giàu có, phồn vinh của nhân dân giống
như hai triều đại trong lịch sử.
Đồng thời hai câu thơ còn thể hiện sự mãn nguyện, hài lòng của tác giả khi mong ước
cả cuộc đời, với tư tưởng nhân nghĩa, hướng về về nhân dân nay đã trở thành hiện
thực. Tất cả đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn cao quý của Nguyễn Trãi, dù là khi còn
làm quan, còn được trọng dụng hay khi đã thất thế sa cơ thì tấm lòng của ông vẫn
không một lần thay đổi.
Tác giả luôn hướng trái tim mình về với nhân dân, với cuộc sống lao động bình
thường dân dã, thể hiện niềm yêu tha thiết với vẻ đẹp của thiên nhiên, của cuộc đời.
Nguyễn Trãi ấy, đã dành cả kiếp nhân sinh để lo nghĩ cho nhân dân, cho đất nước
bằng những tư tưởng cao đẹp, bằng tấm lòng nhân hậu, nhân nghĩa, một lòng phụng
sự cho Tổ quốc, cho dân tộc, thật đáng quý vô cùng.
Cảnh ngày hè là một bài thơ hay, thể hiện rõ nét vẻ đẹp tâm hồn của tác giả Nguyễn
Trãi, ở đó người ta không chỉ thấy hiện lên vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên rực rỡ,
náo nhiệt căng tràn sức sống. Mà còn nhìn nhận được tấm lòng thiết tha của tác giả
dành cho vận mệnh đất nước, vận mệnh dân tộc, cả một đời người chỉ mong ước sự
phồn hoa, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, thể hiện nổi bật tư tưởng chính nghĩa và tư
tưởng vì nhân dân mà tác giả vẫn luôn hằng tâm niệm.
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè - Mẫu 16
Nguyễn Trãi là một vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, ông để lại sự
nghiệp sáng tác đồ sộ, bao gồm cả sáng tác chữ Hán và chữ Nôm. Ở phần nào ông
cũng có những tác phẩm xuất sắc. Và Cảnh ngày hè là một trong những bài thơ nổi bật
nhất của ông trong tập Quốc âm thi tập.
Tác phẩm thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết, lòng yêu dân, yêu nước sâu nặng của
Nguyễn Trãi. Bài thơ mở đầu bằng câu thơ mang tính chất thông báo: Rồi hóng mát
thuở ngày trường. Rồi có nghĩa là nhàn rỗi, thảnh thơi, từ rồi được đảo lên đầu câu,
cách ngắt nhịp lạ, độc đáo 1/2/3 đã giúp nhấn mạnh hoàn cảnh, tâm trạng của nhân vật trữ tình.
Đối với Nguyễn Trãi suốt một đời bận bịu, lo cho dân cho nước thì đây là khoảng thời
gian hiếm hoi trong cuộc đời ông được thảnh thơi, ung dung. Từ rồi kết hợp với ngày
trường (ngày dài) gợi nhắc về khoảng thời gian ông lui về ở ẩn, sống cuộc đời nhàn
tản, ung dung, tự tại, hòa mình với thiên nhiên.
Câu thơ mở đầu đã hé lộ cho người đọc thấy tâm thế mở lòng để đón nhận mọi vẻ đẹp
của thiên nhiên, của cuộc sống. Sau câu thơ mở đầu, năm câu thơ tiếp theo khung
cảnh mùa hè mở ra vô cùng sinh động, đẹp đẽ, ngập tràn sức sống:
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Mùa hè được tác giả khắc họa qua hàng loạt các sự vật: hòe, thạch lựu, sen, đây đều là
những loài cây đặc trưng của mùa hè. Nhưng ấn tượng hơn chính là cách Nguyễn Trãi
kết hợp các sự vật tự nhiên với các động từ: hòe đùn đùn, thạch lựu phun, sen tiễn, cho
thấy sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt, sự trỗi dậy của cảnh vật, tất cả đều vận động theo
chiều hướng đi lên, ngày một căng tràn nhựa sống hơn.
Bức tranh mùa hè còn trở nên sinh động hơn với sự kết hợp của các màu sắc: xanh,
đỏ, hồng những gam màu nóng, khiến cho bức tranh thêm phần sinh động, ngập đầy
sức sống. Hòa trong không gian là hương thơm đặc trưng của mùa hè, đó là hương hoa
sen, hương hoa lựu, hương của vạn vật cỏ cây, cái dịu nhẹ, thanh mát của chúng hòa
tan trong không khí lan tỏa vào cả lòng thi nhân.
Trong bức tranh ấy còn có âm thanh của cuộc sống con người. Tiếng lao xao chợ cá
gợi lên cuộc sống đông vui, tấp nập của làng chài, đây cũng là bức tranh thu nhỏ của
cuộc sống con người. Đồng thời âm thanh tiếng lao xao cũng gợi cho ta liên tưởng về
thứ âm thanh từ xa vọng lại, cho thấy sự tĩnh lặng của không gian và sự mở rộng tâm
hồn của lòng người để cảm nhận đầy đủ vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống xung quanh.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi, bức tranh mùa hè hiện lên với những nét đặc trưng
của làng cảnh Việt Nam, ở đó mọi sự vật đều căng tràn sức sống, rộn rã âm thanh,
cuộc sống con người tươi vui ấm no. Đồng thời qua những câu thơ cũng cho thấy một
con người có tâm hồn thư thái, thảnh thơi, tâm hồn rộng mở để lắng nghe, quan sát và
cảm nhận những vẻ đẹp tinh tế nhất của cuộc sống.
Trong những giây phút đắm say, hòa mình cùng nhịp sống thiên nhiên nhưng Nguyễn
Trãi vẫn mang trong mình một mơ ước, một mong mỏi lớn:
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
Ước mơ của ông thật đẹp đẽ, cao cả, ông ước có cây đàn của vua Nghiêu vua Thuấn,
đàn lên khúc ca Nam Phong để dân chúng được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc
đủ đầy hơn. Mơ ước đã thể hiện tâm hồn và lí tưởng cao đẹp của Nguyễn Trãi. Suốt
cuộc đời ông luôn lo cho dân, cho nước, đây là tâm sự đã được ông thể hiện trong nhiều bài thơ:
Bui một tấm lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng
Tác phẩm là một sự sáng tạo trong thể thơ: thất ngôn xen lục ngôn. Ngôn ngữ tài hoa,
phong phú, sử dụng những động từ mạnh, các từ láy, tượng thanh thành công để miêu
tả thiên nhiên và cuộc sống con người. Tiết tấu bài thơ đa dạng, ngắt nhịp độc đáo,
khiến bài thơ trở nên hấp dẫn, thú vị hơn.
Bài thơ đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên cảnh ngày hè phong phú, đa
dạng, sinh động tràn đầy sức sống. Qua bài thơ ta còn thấy được vẻ đẹp tâm hồn của
Nguyễn Trãi: yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, có một tâm hồn thi sĩ và đặc biệt có một
tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc.
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè - Mẫu 17
Nguyễn Trãi (1380 – 1442), người anh hùng dân tộc, “tấm lòng sáng tựa sao Khuê”
(lời vua Lê Thánh Tông) dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng không nguôi tâm nguyện
hướng về nhân dân về đất nước. Ngay cả khi bị nghi kỵ, Nguyễn Trãi phải lánh về quê
ngoại Côn Sơn, ông vẫn bộc bạch nỗi lòng tha thiết cháy bỏng trong cuộc sống tưởng
như chỉ biết vui vầy cùng mây núi cỏ cây. Nỗi lòng của ông bộc lộ rõ nét trong chùm
thơ 61 bài “Bảo kính cảnh giới”. Đặc biệt, bài số 43 chan chứa bao khát vọng hướng
đến cuộc đời, nhân dân.
“Bảo kính cảnh giới” (Gương báu răn mình) lấy những bài học từ thiên nhiên vĩ đại để
nhà thơ soi chiếu lòng mình. Ta không chỉ cảm nhận tấm lòng yêu thiên nhiên của một
nghệ sĩ lớn mà còn thấu hiểu tâm sự của người anh hùng luôn canh cánh bên lòng nỗi
niềm “ưu quốc ái dân”. Suy ngẫm và cảm xúc của nhà thơ giúp chúng ta hình dung một nhân cách lớn.
Bài thơ bắt đầu bằng hoàn cảnh hưởng nhàn bất đắc dĩ:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường” Nhịp thơ hơi lạ lùng như kéo dài cảm giác của một
ngày “ăn không ngồi rồi”: tạo điểm nhấn ở một nhịp đầu tiên, sau đó là năm chữ nối
thành một hơi thở như tiếng thở dài. Rõ ràng nhà thơ nói về việc hóng mát mà không
hề đem lại cảm nhận nhàn tản thật sự.
Hai chữ ngày trường lại hiện ra bao nỗi chán chường của một ngày dài vô vị. Hưởng
nhàn mà không hề thư thái! Có thể đó sẽ là khởi nguồn cho bao nỗi bực dọc trút ra của
con người bất đắc chí. Thế nhưng, tất cả tâm tư đã dồn nén lại khi nhà thơ đối diện với
một thiên nhiên mãnh liệt đầy sức sống:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Chỉ ba câu thơ nhưng mang lại một bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc, cùng những
hình ảnh đặc trưng của không gian mùa hè. Trước hết, đó là hòe buông sắc lục như
một chiếc lọng khổng lồ bao trùm lên cảnh vật, tạo cảm giác về một không gian xanh.
Cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Trãi luôn có sức bao quát, vừa gợi sức sống của
không gian trong động từ đùn đùn, vừa gợi cảm giác phóng khoáng trong một chữ rợp.
Tầm nhìn trải từ gần ra xa, theo quy luật đăng đối ở hai câu tả thực, khéo léo đan cài
sắc đỏ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc hồng của ao sen. Câu trên tả sắc, câu
dưới gợi hương. Thiên nhiên ấy cũng chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan tỏa lúc bừng bừng phun trào.
Để rồi cuối cùng đọng lại cảm giác man mác tiếc nhớ làn hương thanh thoát của sen
hồng lúc cuối hè. Phải là một người có tâm hồn tinh tế mới cùng một lúc diễn tả được
nhiều cảm giác trong chỉ vài ba câu thơ cô đọng. Giữa khung cảnh thiên nhiên ấy, nhà
thơ dường như cũng nguôi ngoai bao nỗi niềm bực dọc, để lòng mình hòa cùng thiên
nhiên đầy sức sống. Không chỉ nhìn bằng mắt mà Nguyễn Trãi còn trải lòng lắng nghe
những thanh âm muôn vẻ của thiên nhiên:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Có một sự chuyển đổi cảm xúc trong cách lắng nghe những âm thanh của cuộc sống.
Giờ đây, những thanh âm lại được cảm nhận từ xa đến gần, từ lao xao đến dắng dỏi.
Thiên nhiên không hề tĩnh lặng u trầm trong thời điểm chiều buông mà trái lại rất sôi
động và gần gũi với tấm lòng thiết tha yêu sự sống của nhà thơ. Lao xao là âm thanh
gợi rõ cuộc sống thanh bình của những người dân chài, cảnh mua bán tấp nập mà
không quá ồn ào để khuấy động không gian hưởng nhàn của nhà thơ.
Dường như Nguyễn Trãi đã chủ động hướng lòng mình về với chợ cá, làng ngư phủ
để thấy bản thân không xa với đời thường. Âm vang cuộc sống thực ấy tạo thành mối
dây liên hệ giữa nhà thơ với nhân dân, mang lại niềm vui xôn xao trong một buổi
chiều dễ tạo cho nhà thơ nỗi buồn, cấu trúc đăng đối đã tạo nên sự hòa điệu giữa con
người với thiên nhiên trong sự cân xứng làng ngư phủ – bóng tịch dương mang đậm
sắc thái trang trọng cổ điển.
Nghệ thuật tương phản tạo nên một cảm hứng hết sức mới mẻ trong thơ Nguyễn Trãi
khi ấn tượng ám ảnh nhà thơ không phải ánh tịch dương ảm đạm mà lại là âm thanh
dắng dỏi cầm ve. Sự liên tưởng bất ngờ và độc đáo này đã chứng tỏ rõ phẩm chất nghệ
sĩ của Nguyễn Trãi. Tiếng ve đặc trưng của mùa hè đến cùng Nguyễn Trãi lại như một
bản đàn mạnh mẽ, rạo rực hối hả nhịp sống căng tràn của thiên nhiên.
Bức tranh thiên nhiên sống động ấy đã hàm chứa một nội dung thông điệp thẩm mĩ
đánh động tâm tư của nhà thơ. Bản thân ông có muốn lánh đời thoát tục, ngắm ánh
tịch dương, giam mình trong lầu kín cũng không thể không nghe, không thấy bao
nhiêu vẻ đẹp thiên nhiên tươi tắn rộn rã chung quanh. Thiên nhiên ấy xôn xao hay
chính tấm lòng của nhà thơ cũng đang náo nức muốn hòa cùng niềm vui sự sống?
Cuộc sống của ông không phải của ẩn sĩ lánh đời mà chính là phản chiếu của tâm hồn
yêu đời thiết tha, vẫn đón nhận thưởng thức được niềm vui cuộc sống thanh bình để
quên đi nỗi riêng tư sầu muộn. Thiên nhiên đã đem lại một bài học lớn. Lay thức khát
vọng mãnh liệt muốn trở lại với đời của nhà thơ. Thiên nhiên ấy đã thổi bùng khát
vọng của người anh hùng đầu bạc mà vẫn vẹn tấm lòng son:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Còn gì thanh cao, giản dị, súc tích hơn những lời thơ mộc mạc chân thành ấy! Giữa
thiên nhiên tuyệt đẹp, Nguyễn Trãi không hề mong muốn hưởng thụ thú nhàn tản cho
riêng mình. Ông không phải con người chỉ chăm chăm giữ lấy sự trong sạch cho riêng
minh theo triết lí nhà Nho “độc thiện kì thân”, ở sâu thẳm tâm hồn ông vẫn là nỗi
niềm “ưu quốc ái dân”, là khát khao hành động của một con người trọn đời vì lợi ích của nhân dân.
Tinh thần Nguyễn Trãi vẫn không hề nhụt giảm hoài bão cống hiến cho đất nước thái
bình thịnh trị như thời Đường Ngu – xã hội thịnh trị lí tưởng theo quan niệm nho gia.
Giản dị thay và cũng cao cả thay sáu chữ đúc kết tấm lòng Nguyễn Trãi hướng về
nhân dân. Quả thật, riêng ông trong hoàn cảnh bấy giờ có nhiều nỗi buồn, nhưng bản
chất tâm hồn Nguyễn Trãi luôn “trong sáng và đầy sức sống” (lời cố thủ tướng Phạm Văn Đồng).
Tâm hồn ấy chỉ cháy bỏng niềm mong ước đem lại cho nhân dân cuộc sống giàu đủ.
Niềm mong mỏi nhân dân “khắp nơi không một tiếng hờn giận oán sầu” chính là minh
chứng cho nhân cách trong sáng tuyệt vời của Nguyễn Trãi.
“Bảo kính cảnh giới” – bài học lớn từ thiên nhiên giúp Nguyễn Trãi răn mình, chứa
đựng bao tình cảm yêu đời yêu sự sống. Ta nhận ra một tâm hồn nghệ sĩ – chiến sĩ của
ức Trai tiên sinh. Tấm lòng “sáng tựa sao khuê” ấy vẫn tỏa sáng đến tận hôm nay!
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè - Mẫu 18
Đặt cho bài Bảo kính cảnh giới số 43, trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, cái tựa
Cảnh ngày hè kể cũng phải. Phần lớn thơ thuộc chùm Bảo kính cảnh giới vẫn nghiêng
về những gương báu tự răn mình, đúng như chủ đề chung của cả chùm. Trong khi đó,
bài 43 này, dù không phải không có cái ý răn mình, nhưng lại nghiêng nhiều về tức
cảnh. Toàn thi phẩm là tâm tình nồng hậu của ức Trai trước cảnh tượng hưng thịnh
của ngày hè. Dù được viết cách nay đã hơn sáu thế kỉ, nhiều ngôn từ đã trở nên xưa xa
đối với người hiện đại, thậm chí kèm theo luôn phải có cả một bản chú thích lê thê đến
gần 20 mục, nhưng Cảnh ngày hè vẫn dư sức vượt qua khoảng cách thời gian dằng
dặc, vượt qua rào cản ngôn ngữ rậm rịt để đến được với người đọc bây giờ. Điều gì đã
khiến cho bài thơ có được sức sống này? Sự tài hoa của ngòi bút chăng? vẻ tinh tế của
tâm hồn chăng? Tầm vóc lớn lao của một tấm lòng chàng? Có lẽ không riêng một yếu
tố nào, mà là sự kết tinh của tất cả thành một chỉnh thể thi ca sống động, một kiến trúc
ngôn từ cô đúc dư vang.
Cảnh ngày hè trước hết là một cảnh tượng rực rỡ và rộn rã. Nếu tuân theo nguyên lí
“thi trung hữu họa”, người đọc hoàn toàn có thể cảm thụ thi phẩm như một bức tranh.
Một bức tranh được vẽ bằng ngôn từ. Một bức tranh nghiêng về gam màu nóng, theo
lối phân loại của hội họa. Thật là gam màu đặc trưng của ngày hè.
Hai câu đề, với những nét bút đầu tiên, đã đưa ngay cái không khí hè đến với người đọc:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”
Ngày hè hiện ra với một tâm thế, một thời gian, một không gian khá ăn nhập với nhau.
Ba chữ Rồi hóng mát đã gợi ra hình ảnh một ức Trai trong dịp nhàn rỗi hiếm hoi nào
đó đang hóng mát ngày hè. Nhưng ba chữ thuỷ ngày trường mới giàu sức gợi hơn.
Ngày mà dài thì đúng là đã tóm được cái chênh lệch đêm ngắn, ngày dài khá đặc trưng
của mùa hè. Nhưng có phải chỉ là chuyện thời lượng đơn thuần không? Hình như còn
là chuyện tâm lí nữa. Khoảng thời gian nào mà lại có thể khiến một con người vốn
ham gánh vác việc xã tắc giang sơn này cảm nhận là “thuở ngày trường?” Thời ông
đang làm rường cột bận bịu với chính sự giữa cung đình của một vị quan đầu triều ư?
Không thể. Khi ấy, người say sưa hành sự khó mà cảm nhận về “ngày trường”. Vì thế,
chữ “ngày trường” gợi ra những ngày nhàn cư mà chẳng thật thanh nhàn bên ngoài
chính cuộc của ức Trai chăng? Mà đâu chỉ hiện trong nghĩa của chữ, tâm thế ấy như
còn ẩn trong âm vang của lời. Chẳng phải thế sao? Câu khai mở đã gây một cảm giác
lạ đối với người quen đọc thơ thất ngôn bát cú. Có một cái gì đó như là giao thoa của
những cảm giác trái chiều: ngắn mà lại dài, mau mà lại khoan. Sao thế nhỉ? Có phải vì
đó là một câu phá cách: lời chỉ có sáu tiếng (lục ngôn), tiết tấu chỉ có hai (3/3). Cả
chuỗi lời thì ngắn, mỗi tiết tấu lại dài. Số nhịp thì dồn lại, mỗi nhịp lại trải ra. Sự co
giãn này có hiệu quả gì đây? Hãy lắng nghe âm vang của nó:
“Rồi hóng mát/ thuở ngày trường”
Chẳng phải nó tạo ra một ngữ điệu khá khác biệt, chứa đựng những tình điệu dường
như cũng trái chiều: vừa hối thúc lại vừa thong dong? Thong dong mà hối thúc, nhàn
cư mà bận tâm, chẳng phải là cái tâm thế thường trực ỏ ức Trai hay sao? Có lẽ sẽ
không ngoa khi nói rằng chính tâm thê này đã ngầm tìm kiếm cho nó kiểu câu trúc
ngôn từ như thế trong câu khai mở! Người nghiên cứu hiện đại có thể gọi đó là sự
tham gia sáng tạo của vô thức chăng?
Kết hợp câu đề thứ hai với câu thực ta sẽ thấy một thiên nhiên dồi dào sức sống được
hiện lên qua sắc độ rực rỡ của thảo mộc hoa lá:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Trật tự không gian trải từ cao xuống thấp, điểm nhìn của thi sĩ cũng di chuyển từ tầng
không qua hiên nhà rồi xuống ao sen. Ở tầng nào của thiên nhiên, sức sống bên trong
cũng như đang trào ra. Các tạo vật thiên nhiên không chịu tĩnh. Chúng động. Màu
xanh lục lá hòe thì “đùn đùn” như cuộn lên từng khôi biếc, tán hòe thì “rợp giương”
như cử lọng giường ô. Màu đỏ hoa lựu không lặng lẽ tô son điểm sắc, cũng không lập
lòe dậy lên vài đốm lửa, mà nhất loạt phun trào thức đỏ, tựa pháo hoa hừng sáng cả
hiên nhà. Từ dưới ao, hoa sen cũng hưởng ứng bằng sắc hồng chín ửng cùng mùi
hương dậy lên bay tỏa không gian. Mật độ dậy của các động thái “đùn đùn”, “rợp
giương”, “phun”, “tiễn”... đã tạo nên một sự sôi động đằng sau mỗi loài thảo mộc
tưởng chừng tĩnh lại. Như thế, động thái mạnh lại được cộng hưởng bởi độ gắt của
gam màu, tất cả làm dậy lên sức sống của thiên nhiên đang kì toàn thịnh.
Chưa hết. Chúng ta còn thấy Nguyễn Trãi tinh tế hơn nhiều. Thi sĩ đã bắt được một
nhịp vận hành vô hình hối thúc, xô đẩy tạo vật nữa. Chỉ cần chú ý một chút thôi sẽ
thấy điều này: thảo mộc thì tiếp nối liên tục từ cao xuống thấp, động thái thì liên tiếp
từ trong ra ngoài, lá - hoa - hương thì tiếp ứng nhau, nhất là cái nhịp độ khẩn trương:
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên trì đã tiễn mùi hương. Loài này đang thì
loài kia đã, hô ứng nhau, chen bước nhau gợi ra được không khí các tạo vật đang đua
tranh phô sắc, khoe hương.
Có lẽ nên dừng đôi chút về câu chữ ở đây. Trước hết, là chữ. Hiện có hai bản ghi khác
nhau về câu thơ Hồng liên trì đã ... mùi hương và do đó có hai cách hiểu khác. Một
bản ghép là “tin”, nghĩa là hết mùi hương, diễn tả vẻ suy. Một bản chép là “tiễn”,
nghĩa là đưa tỏa mùi hương, diễn tả vẻ thịnh. Đi liền với chữ, là cú pháp. Cặp quan hệ
từ “còn”... “đã” trong cặp câu thực biểu hiện quan hệ cú pháp nào? Không ít người chỉ
thấy chúng biểu đạt quan hệ suy giảm: “đang còn”... “dã hét”. Từ đó đã dẫn tới việc
hiểu nghĩa của chúng là Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ/ Hồng tiên tri đã tin (hết)
mùi hương. Hiểu thế có phù hợp không?. Để làm sáng tỏ, ngoài những căn cứ về văn
tự Nôm, có lẽ cần phải có thêm căn cứ về văn bản thơ và các quy luật nghệ thuật nữa.
Trong nghệ thuật, có quy luật: tiểu tiết phục tùng tổng thể chi phối tiểu tiết. Cảm hứng
chung của thi phẩm là về sự sung mãn toàn thịnh của ngày hè. Cho nên các hình ảnh
(cả thiên nhiên lẫn đời sống) tạo nên tổng thể ở đây cũng phải nhất quán, mỗi chi tiết
đều phải góp mình làm nổi bật cái thịnh. Xem thế, chữ “tin” ít có lí. Nó nói cái suy.
Tổng thể nói thịnh, tiểu tiết sao lại nói suy? Rõ ràng, “tin” sẽ lạc điệu, phá vỡ hệ
thống. Trái lại, chữ “tiễn” nói cái thịnh, mới cộng hưởng được với vẻ toàn thịnh ấy. về
quan hệ cú pháp cũng thế. Cặp phó từ “còn”... “đã”... đâu chỉ nói về loại quan hệ suy
giảm: “đang còn”... “đã hết”, mà nó còn dùng để chỉ loại quan hệ tăng tiến: “đang
còn”... “đã thêm”. Trong tổng thể này, quan hệ phải là tăng tiến thì mới ăn nhập. Bởi
vậy, nghĩa của hai câu thơ chỉ có thể là: Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ/Hồng liên
trì đã tiễn (đưa/tỏa) mùi hương. Hương sen, sắc lựu tiếp ứng nhau, chen đua nhau
cùng hợp nên vẻ toàn thịnh của ngày hè.
Ăn nhập với thiên nhiên rực rỡ là một đời sông rộn rã. Theo đó, bức tranh ngày hè
toàn thịnh vốn đã đầy màu sắc giờ lại tràn ngập cả âm thanh:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Nghĩ cũng thú vị, chợ là một hình ảnh vô cùng điển hình của cuộc sống này. Lúc
đương đông buổi chợ là hình ảnh vui của một cuộc sống sầm uất đi lên. Còn khi chợ
tan là hình ảnh rã đám của một cuộc sống đi xuống. Chỉ cần nhìn vào diện mạo chợ,
cũng có thể thấy được âm vang của đời sống. Âm thanh “lao xao” từ chợ cá làng ngư
phủ đã nói lên vẻ sầm uất của cuộc đời xung quanh. Cả hình ảnh bóng tịch dương nữa.
Nắng tắt, bóng tối dâng lên vây phủ bốn bề, âm thanh sinh hoạt cũng dần dần thưa
thớt. Lúc tịch dương thì dù đó là miền sơn cước hay chốn chương đài, cũng đều khó
tránh khỏi không khí quạnh hiu cô tịch.
Nhưng không khí ấy ở đây đã bị xua tan bởi nhạc ve. Tiếng ve gióng giả inh ỏi như
một bản đàn làm cho hoàng hôn cũng trở nên náo nhiệt. Phải là một tâm hồn mở, một
điệu hồn náo nức thì mới có thể nghe tiếng ve inh ỏi thành tiếng đàn cầm ve như thế.
Từ làng ngư phủ xa xa của dân nghèo lớp dưới, đến lầu son gác tía của người lớp trên,
chỗ nào cũng rộn rã vui tươi. Cái nhìn khái quát đã thâu tóm được toàn, cảnh cuộc
sống trong đôi nét bút tài hoa.Trước, vẽ thiên nhiên thì từ cao xuống thấp, giờ, vẽ đời
sống lại chảy từ thấp đến cao, từ xa lại gần. Lối viết đảo ngược cú pháp, đặt những âm
thanh lao xao và dắng dỏi lên đầu mỗi câu khác nào như tạo nên những điểm nhấn. Ta
ngỡ như người viết đang muốn phổ vào không gian cả một dàn âm thanh rộn rã. Cảnh
hưng thịnh của ngày hè, nhờ thế, mà càng trở nên phồn thịnh hơn.
Nếu chỉ dừng lại ở cảnh không thôi, cũng đã phần nào thấy được lòng người vẽ cảnh.
Phải, cảnh tượng ấy đâu chỉ nói với ta về sự tinh tế của một tâm hồn, đó còn là sự
phấn chấn của một tấm lòng thiết tha với đời sống. Nhưng ta có hồn, đó còn là sự
phấn chấn của một tấm lòng thiết tha với đời sống. Nhưng ta có dịp dược hiểu về tấm
lòng ấy trực tiếp hơn qua chính lời ước ao bộc trực của thi sĩ:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Giá chỉ có cây đàn của vua Thuấn, ta sẽ gảy khúc Nam Phong cầu cho dân giàu đủ
khắp muôn phương. Cặp câu kết này hé mở cho chúng ta về chí của Ức Trai. Người
dám mang trong mình ước nguyện kia phải là ai vậy? Một thi sĩ đơn thuần thôi sao?
Một công thần khanh tướng thôi sao? Những kẻ ấy dám mơ đến việc cầm trong tay
cây đàn của một quân vương sao? Không. Trong đời, về phận vị, Nguyễn Trãi là một
công hầu. Nhưng trong thơ, trong cái thế giới của những khát vọng riêng tư nhất, ông
đã bộc lộ khát khao lớn ngang tầm với những bậc quân vương vốn là thần tượng của
lịch sử. Điều này có gì là không chính đáng đâu. Và, đó là khát khao tầm cỡ Nghiêu Thuấn.
Thêm nữa, Nguyễn Trãi muôn gảy đàn chỉ để ca ngợi cuộc sống phong tục hiện thời
thôi sao? Không. Dù cảnh tượng bày ra nhãn tiền kìa quả là hưng thịnh. Nhưng nó vẫn
chưa khiến ông thỏa nguyện. Ông muốn cầm cây đàn vua Thuấn gảy khúc Nam phong
để cầu mong cho dân tình phong túc hơn nữa. Ông mong muốn có một cuộc sống thực
sự thái bình. Đó là khát khao sâu kín và cháy bỏng suốt một đời Nguyễn Trãi. Vì nó
ông đã phải trả giá bằng cả sinh mạng và tôn tộc của mình. Chẳng thế mà ông cần phải
đút nó vào trong một câu lục ngôn, một câu đột nhiên ngắn lại, như để ghim sâu điều
đau đáu của cõi lòng. Thì đó là khát khao Nghiêu Thuấn của một con người suốt đời
“âu việc nước” chứ sao!
Và, Cảnh ngày hè như thế, chẳng phải là sự hòa điệu tuyệt vời giữa tâm hồn và nét bút
của một đấng tài hoa với tấm lòng của một bậc minh vương lương tướng ư?
Phân tích Cảnh ngày hè - Mẫu 19
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng khẳng định”Nguyễn Trãi là người đầu đội trời
Việt Nam, chân đạp đất Việt Nam, tâm hồn lộng gió thời đại bấy giờ”. Quả đúng, thơ
ông mang lộng gió thời đại với những áng văn đã trở thành kiệt tác.Đặc biệt phải kể
đến tác phẩm Bảo kính cảnh giới số 43 là tấm” gương báu răn mình” nhưng mang
đậm hơi thở cuộc sống, tâm sự tác giả.
Nguyễn Trãi là nhà thơ “Non nước cùng ta đã có duyên”.Ta cũng bắt gặp hồn thơ đầy
giao cảm với thiên nhiên,vạn vật từ những câu thơ đầu tiên:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Thật hiếm hoi khi khí trời mát mẻ và trong lành trong thơ Nguyễn Trãi. Ta biết thơ
văn ông không mỹ miều, không “đao to búa lớn” mà giữ trọn vẻ mộc mạc, đơn sơ, tả
thực lại rất tình. Không gian đầu tiên được mở ra khi đất trời khoác màu áo mùa hè căng tràn sức sống:
"Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"
Một khoảng trời xanh đang thay màu áo mới làm nên một tổng thể hài hòa. Đất trời
đang vào độ cuối thu, ngày đang tàn nhưng sự sống không dừng lại mà cứ vươn lên
đến tận cùng. Hàng loạt các động từ “đùn đùn”, “trương”, “phun” như giọt sống đang
bắn lên, như sức trẻ cứ vươn ra, khao khát sống đang trỗi dậy, dấu hiệu của sự sống
căng tràn, tròn đầy, phải”trương” lên, phải”phun” ra, hết lớp này đến lớp khác. Ta
từng thấy Nguyễn Du “Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”. Cảnh ngày hè vừa thơ
vừa tình đã sống dậy trong con mắt của những thi sĩ. Mọi giác quan đều được giao hòa
nhưng giữ vẹn nguyên sự tinh tế trong hồn thơ Ức Trai. Nếu Hồng Đức đem đến bức
tranh mộc mạc và có phần thô tháp:
“Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi
Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè”
Nguyễn Trãi không như vậy. Ông biết hòa màu sắc, âm thanh, đường nét theo quy luật
để tạo hình vừa có hồn, vừa gợi tả, vừa sâu lắng. Cảm xúc của nhà thơ đã hòa làm một
với cảnh trí thiên nhiên để “trong cảnh có tình” nồng nàn và say đắm. Khi thiên nhiên
khoác lên màu áo mới cũng là khi nhịp sống lại nhộn nhịp, hối hả:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Rắn rỏi cầm ve lầu tịch dương”
Thì ra, cuộc sống không bao giờ dừng lại mà cứ xoay vần, con người còn tận hưởng,
để yêu và được yêu, để hạnh phúc. Hạnh phúc sẽ đến, cuộc đời sẽ sung túc, sum vầy
khi ta vẫn cố gắng. Ta thấy niềm vui dâng lên từ trái tim của chính tác giả khi thấy
“dân giàu đủ” bởi tấm lòng ông tha thiết với con người, với dân, với nước. Nhà thơ
dành cho mình quyền” hóng mát thuở ngày trời” khi niềm mơ ước đã được thực hiện: dân ấm no hạnh phúc.
Tình yêu, niềm tha thiết không thể kìm nén để bộc lộ thành hình, thành chữ. Niềm vui
được tràn ngập và lan tỏa khi dân được no đủ. Ông mong mỏi một điều nhỏ bé cho
“dân giàu đủ” với tất cả mọi người, mọi nơi “khắp mọi phương”.
Dù cung bậc và sắc thái tình cảm như nào thì tấm lòng ông chỉ một:
“Sách một hai phiên làm bầu bạn
Rượu năm ba chén đổi công danh
Ngoài chưng phụ ấy cầu đâu nữa?
Cầu một: ngồi coi đời thái bình.”
Nguyễn Trãi quả thuộc về thiên nhiên với tâm hồn luôn mở đón nhận thiên nhiên. Ông
đến với thiên nhiên không phải chỉ để vẽ lên bức tranh vừa có hồn, vừa gợi tả, vừa sâu
lắng mà còn là đến với người bạn tâm giao để được trút bầu tâm sự, được nói hết lòng mình. Quả đúng:
“Nhắc đến tên ông là thấy thơ
Như một nguồn thiêng chẳng bến bờ”
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè - Mẫu 20
“Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hoè lục đùn đùn tán rợp gương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi đã cho thấy một tâm hồn chan chứa tình yêu
thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân và yêu đất nước của nhà thơ.
Trong bức tranh đậm màu, nền trời chiều ráng đỏ, một ngôi lầu vắng lặng, cây hoè cổ
thụ ngoài sân tán xanh thẫm, che rợp, bên hiên nhà cây thạch lựu sắc đỏ. Vài ba chú
ve trên các cành cây. Ao sen hồng và xa xa là làng chài đang họp chợ. Có một người
ngồi trên lầu trâm ngâm. Xem tranh, trước hết ta thấy một tư thế của con người ngồi
đó. Câu mở đầu “hóng mát” - ngoạn cảnh nhàn nhã, thảnh thơi.
Nên nhớ, đây là bức tranh thơ của vị tướng cầm quân từng xông pha trận mạc một
thời, từng “đau lòng nhức óc” vì vận nước từng cùng Lê Lợi “dựng cấu trúc ngọn cờ
phấp phới” và sau này sắm vai ẩn sĩ mà tấm lòng vì dân nước không lúc nào yên:
“Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng”. Đặt trong nỗi truân chuyên của cuộc đời
Nguyễn Trãi, mới thấy quý cái giây phút ngắn ngủi hiếm hoi này, mới thấy cái tư thế
ung dung thưởng ngoạn kia là sự hưởng thụ chân chính. Sau tư thế ấy, thấy cả cái
không khí yên bình của cả một làng quê, đất nước vừa qua cơn binh lửa.
Con người này có ánh mắt tinh tế, say mê. Người ngắm cảnh có đôi mắt rất sành: ba
loại cây, ba dáng vẻ, không trùng lặp. Tả cây, mà lộ ra khuôn mặt của mùa hè. Cây
hòe: tán xanh xum xuê, toả rộng - sức sống vươn cao. Thạch lựu: sắc đỏ - rực rỡ của
tố chất khoẻ mạnh. Sen hồng: đậm hương - tâm hồn nồng hậu, thanh cao. Ba loại cây,
ba dáng vẻ, ba màu sắc nửa (xanh, đỏ, hồng) đều có hồn. Ngôn ngữ của thơ thay cho
chất liệu màu của họa là lời nói sống động của đời thường. Chữ “đùn đùn” khiến ta
cảm nhận được sự sống đang nảy nở mạnh mẽ, trông thấy được bằng mắt thường. Chữ
“phun” còn lạ hơn. Không tả hoa đỏ, mà cảm nhận cây lựu đang phun, đang tuôn ra
sắc đỏ. Sen hồng cố đậm hương. Con ve kia cũng gắng hết sức trong những tiếng kêu
cuối cùng. Chợ ở làng chài đang náo nhiệt nên vọng xa lao xao...
Ta bất ngờ nhận ra điều kì lạ. Con người hoạ sĩ trong thi nhân Nguyễn Trãi thế kỉ XV
ở Việt Nam có gì rất gần gũi đại danh hoạ Hà Lan thế kỉ XIX, V.Van-gốc. Không phải
ở những sắc màu được sử dụng, mà ở cách diễn tả nó. Van-gốc vẽ đồng lúa ta cứ ngỡ
cánh đồng bốc cháy. Hàng cây bên đường cũng quằn quại vệt lửa. Van-gốc đốt cháy
mình trong tranh. Nguyễn Trãi cũng đốt cháy mình trong thơ. Chữ “đùn đùn”, “phun”,
“tiễn”, “lao xao”, “dắng dỏi” là lửa sống rừng rực trong lòng Ức Trai mặc cho do thời
thế ông đang phải lui về quy ẩn “Rồi, hóng mát thuở ngày trường”.
Trong bức tranh này, thính giác nhạy bén đã giúp Nguyễn Trãi “vẽ” cảnh bằng nhạc.
Xa xa, chợ cá không rõ hình, song âm thanh “lao xao” chở hồn đến cho người đọc cái
rộn ràng nhộn nhịp, náo nhiệt của cuộc sống thanh bình. Nếu “lao xao” là khúc hòa
tấu của đời sống dân sinh, thì “dắng dỏi cầm ve” tấu lên âm thanh của cây đàn độc
huyền, ngân lên thiết tha cuối chiều, vấn vương nét quý tộc, lầu cao đơn độc. Hai
phong điệu dân dã và quý tộc hoà hợp, bởi chất keo dính của đời thường, đậm đà hơi thở sống.
Cho nên vẽ bức tranh này đâu chỉ là chuyện của giác quan chuyên nghiệp họa sĩ hay
thi sĩ mà là năng lực, phẩm chất của tâm hồn - tâm hồn tinh tế, đằm thắm của một con
người hết mực yêu đời, say mê cuộc sống.
Bức tranh “Cảnh ngày hè” có một lời bình - một suy ngẫm đứng riêng, độc lập:
“Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Mạch thơ từ hướng ngoại sang hướng nội. Từ miêu tả sang biểu cảm, khách thể sang
chủ thể. Nguyễn Trãi đã trực tiếp bộc lộ nỗi lòng mình trong hai câu thơ kết. Ấy là
một giấc mơ, và cả một học thuyết nhân sinh ấp ủ bật ra thành lời. Giấc mơ, đó là giấc
mơ Nghiêu Thuấn. Giấc mơ ngàn đời của những con người Phương Đông sống trong
thời trung đại. Mong sao có một bậc vua hiền để được yên ổn ấm no hạnh phúc. Trước
hơn bốn trăm năm, thời Tiền Lê, Pháp Thuận đã phát biểu: “Vận nước như mây
cuốn/Trời Nam mở thái bình/Vô vi trên điện các/Xứ xứ tức đao binh”. Vận nước có
rối ren thế nào cũng mong hai chữ thái bình, nhà vua đừng làm điều gì nhiễu nhương
thì khắp nơi đều hết nạn binh đao. Sau mấy mươi năm, vị vua hiền minh Lê Thánh
Tông cố sức mình cũng chỉ để thỏa lòng mong muốn:
“Nhà nam nhà bắc đều có mặt
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình”
Bây giờ đây, ưu tư thế cuộc, nhìn đời - từ cỏ cây, vạn vật đến sinh linh vui sống như
thế, Nguyễn Trãi lại khắc khoải khát vọng muôn năm này. Mong trị quốc, bình thiên
hạ sao cho dân giàu nước mạnh là giấc mơ của một bậc đại nhân.
Nếu giấc mơ kia là của bậc đại nhân, thì cái lõi tư tưởng của giấc mơ là của bậc đại trí.
Đó là tư tưởng “thân dân” (dĩ dân vi bản) từng được vạch rõ trong Bình Ngô đại cáo -
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Đó là tư tưởng lớn. Với Nguyễn Trãi, tư tưởng ấy
từng sôi sục trong hành động, khắc khoải trong tâm tưởng, rát bỏng trong thi ca. Cả
bài thơ 8 chữ, đến tận dòng cuối cùng, chữ “dân” mới bật ra, song chính là cái nền tư
tưởng, tình cảm của tác giả, cái hồn của bài thơ. Là sợi chỉ đỏ xâu chuỗi cả tám câu thơ lại.
“Cảnh ngày hè” không định giáo huấn chung. Trước đời sống đang dâng trào, yên
lành thế, Nguyễn Trãi tự răn mình, phải làm sao cho cuộc sống này trở thành mãi mãi
và chỉ khắc khoải một nỗi “tiên ưu” ấy mà thôi