Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn 3 bài thơ Bình ngô Đại Cáo (Dàn ý + 8 Mẫu) | Cánh diều

Phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi gồm 8 bài văn mẫu khác nhau cực hay kèm theo 2 gợi ý cách viết chi tiết. Qua đó giúp các em có thể tham khảo để nâng cao trình độ học văn học của mình với những bài văn mẫu phân tích đoạn thơ hay.

Dàn ý phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo
Dàn ý số 1
1. Mở bài
Giới thiệu ngắn gọn tác phẩm Bình Ngô đại cáo
Giới thiệu khái quát nội dung cần nghị luận: Khổ 3 của tác phẩm
2. Thân bài
* Khẳng định nhân tố quan trọng hàng đầu trong cuộc khởi nghĩa đó chủ soái
Lê Lợi:
Là người anh hùng yêu nước thương dân, có lòng tự tôn dân tộc, sự căm ghét
giặc ngoại xâm sâu sắc "Ngẫm thù lớn... không cùng sống"
Lòng kiên trì, bền bỉ "Nếm mật nằm gai... mười mấy năm trời" để xây dựng lực
lượng
Khả năng thu phục quân hùng, biết coi trọng nhân tài "Cỗ xe cầu hiền... phía
tả"
Lòng quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm dẫu còn nhiều gian khó "Tấm lòng...
phía Đông"
* "Tường thuật" lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
- Giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa:
Sự chênh lệch về mọi mặt so với quân giặc
Thiếu người hiền tài ra giúp nước "Tuấn kiệt như sao buổi sớm/ Nhân tài như
lá mùa thu", thiếu binh sĩ tham gia khởi nghĩa giết giặc
Lương thực cạn kiệt, quân đội thưa thớt, giặc vẫn hoành hành ngang dọc ngày
đêm
=> Khó khăn chồng chất khó khăn nhưng khí quân ta áp đảo kthù, đồng lòng,
đoàn kết, lạc quan.
- Giai đoạn quân ta phản công:
Trận thắng đầu tiên mở ra trường kì thắng lợi thật vang dội: "Trận Bồ Đằng...
chẻ tro bay"
Các trận thắng tiếp theo ở Đông Đô, Tây Kinh: "Ninh Kiều máu chảy thành
sông... nhơ để ngàn năm"
=> Hình ảnh phần ghê rợn nhưng diễn tả chân thực nh ảnh những trận đánh lịch
sử
- Hình ảnh quân ta hùng dũng, càng đánh lại càng hăng, đánh cho giặc tan tác, tuy
thắng nhưng không đuổi cùng giết tận đã cho giặc một con đường lui, cấp thuyền,
cấp ngựa cho chúng về nước => Tinh thần nhân nghĩa kế sách hòa hoãn sáng suốt,
tránh mối hiểm họa sau này của cha ông.
- Hình ảnh của giặc:
Hèn nhát "nghe hơi mà mất vía", ham sống sợ chết "nín thở cầu thoát thân",
"bó tay để đợi bại vong... lực kiệt"... khác xa với hình ảnh ngang ngược hung
hăng trước đó
Kẻ chịu"bêu đầu", kẻ "đành bỏ mạng", tên Vương Thông muốn gỡ thế nguy
khốn nhưng "lửa cháy lại càng cháy"
"Liễu Thăng cụt đầu; Lương Minh bại trận tử vong; Lí Khánh cùng kế tự
vẫn"...
Quân giặc đầu hàng, giẫm đạp lên nhau xin bỏ trốn...
* Nghệ thuật được sử dụng trong khổ thơ này:
Nghệ thuật cường điệu, phóng đại
Bút pháp tương phản, đối lập.
3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật khổ 3 bài Bình Ngô đại cáo.
Nêu suy nghĩ, cảm xúc của bản thân sau khi học xong đoạn trích.
Dàn ý số 2
1. Mở bài:
Giới thiệu về tác giả tác phẩm Bình Ngô đại cáo
Dẫn dắt người đọc vào việc phân tích đoạn 3 của Bình Ngô đại cáo
2. Thân bài:
*Khẳng định quyết định thắng lợi trong cuộc khởi nghĩa đó người lãnh đạo:
Lê Lợi:
người anh hùng lòng tự tôn dân tộc, yêu nước thương dân, sự căm ghét giặc
ngoại xâm “Ngẫm thù lớn… không cùng sống
Lòng kiên trì “Nếm mật nằm gai… mười mấy năm trời” xây dựng lực lượng
Khả năng thu phục, biết coi trọng nhân tài
Sự quyết tâm đánh ngoại xâm dẫu gian khó “Tấm lòng… phía Đông”
“Tường thuật” diễn biến của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
*Giai đoạn đầu khởi nghĩa:
Sự chênh lệch tất cả các mặt so với quân giặc
Thiếu người tài ra giúp nước, thiếu binh sĩ tham gia giết giặc
Lương thực cạn kiệt, giặc vẫn hoành hành ngày đêm, quân đội thưa thớt
=> Khó khăn chồng chất nhưng sĩ khí áp đảo kẻ thù, với sự đoàn kết, lạc quan.
*Giai đoạn phản công:
Trận thắng đầu tiên thật vang dội: “Trận Bồ Đằng… chẻ tro bay”
Các trận thắng tiếp theo: “Ninh Kiều máu chảy thành sông… nhơ để ngàn năm”
=> Hình ảnh diễn tả chân thực những trận đánh lịch sử
Quân ta hùng dũng, đánh cho giặc tan tác, nhưng không đuổi cùng giết tận cho
giặc con đường lui, cho chúng về nước => Tinh thần nhân nghĩa hòa hoãn sáng
suốt, tránh mối họa sau này.
*Hình ảnh của giặc:
Hèn nhát, ham sống sợ chết khác xa với hình ảnh ngang ngược trước đó
Kẻ chịu”bêu đầu”, kẻ thì “đành bỏ mạng”, “lửa cháy lại càng cháy”
Quân giặc đầu hàng, xin bỏ trốn…
*Nghệ thuật trong khổ thơ này:
Nghệ thuật phóng đại
Bút pháp tương phản
3 Kết bài:
Khẳng định lại giá trị khổ 3 bài Bình Ngô đại cáo.
Xem thêm: Phân tích đoạn 2 bài thơ Bình Ngô đại cáo
Bình ngô Đại cáo đoạn 3 - Mẫu 1
Trong mối quan hệ giữa lịch sử văn học, ta bắt gặp những thời điểm lịch sử đồng
thời cũng thời điểm văn học. Điều đó được minh chứng cụ thể qua Nam quốc sơn
hà với chiến thắng sông Như Nguyệt, Hịch ớng sĩ với cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên mông lần hai và Bình ngô đại cáo cùng cuộc đại phá quân Minh toàn thắng.
Thế nhưng Bình ngô đại cáo trường hợp đặc biệt từ trước đến nay vẫn giữ vai
trò như áng “thiên cổ hùng văn” không tiền khoáng hậu. Cảm hứng về độc lập dân tộc
tương lai đất nước đã hòa quyện kết tinh thành sức mạnh của cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn trong khổ thơ thứ ba.
Đại cáo bình Ngô được đặt ới hai nguồn cảm hứng cảm hứng chính trcảm
hứng sáng tác. Cảm hứng chính trị đã đem đến cho dân tộc một bản tuyên ngôn độc
lập hùng hồn, đanh thép. Cảm hứng sáng tác đã khơi nguồn cảm xúc đem đến một kiệt
tác văn chương. Khi hai nguồn cảm hứng hòa quyện đã viết lên áng thiên cổ hùng văn
mang đậm giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ. Khổ thơ thứ ba nêu bật ý chí quyết chiến
quyết thắng của nhân dân Đại Việt.
Với cảm hứng dồi dào, phong phú tác giả đã dụng công khắc họa tháng ngày thắng lợi
vẻ vang nhất. Bám o sườn lịch sử để cuộc khởi nghĩa hiện lên với tất cả tính chất
phong phú, lớn rộng, sinh động của nó. Bằng tài năng của mình, nguyễn Trãi đã tái
hiện tất cả diễn biến trong giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa và tập trung chủ yếu làm
nổi bật đời sống tâm lí của người anh hùng Lê Lợi.
Khắc họa hình tượng Lợi tác giả đã sử dụng điển “nếm mật nằm gai” nói về Việt
Vương Câu Tiễn. Dường như chính cảm hứng anh hùng của dân tộc đã giúp tác giả
xây dựng thành công chân dung người anh hùng Lê Lợi:
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống.
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Với hoài bão bầu nhiệt huyết yêu nước, Lợi cùng những chiến hữu đã vững tay
chèo để vượt qua mọi gian nan thách thức, mọi gian khổ chông gai: thiếu nhân tài,
thiếu lương thực… Nhưng hơn tất cả nhờ “tấm lòng cứu ớc”, nhờ “gắng chí khắc
phục gian nan” nhờ “manh lệ chi đồ tứ lập”, “phụ tử chi binh nhất tâm” cuộc khởi
nghĩa dần bước qua khó khăn để buổi đầu đi đến cuộc tổng tiến công giành thắng lợi.
Xét về khoảng thời gian lịch sử từ năm 1418 đến 1424 sáu năm “đau khổ” được
nhắc đến bằng hai sự kiện:
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần
Khi Khôi Huyện quân không một đội
không chỉ tiêu biểu cho buổi gian lao của cuộc chiến còn nổi bật với tinh thần
lạc quan của người dân: lạc quan ngay trong hoàn cảnh đen tối, tin tưởng ngay khi tạm
thời thất bại. Chúng ta vững ý chí, chúng ta chắc niềm tin tin tưởng nhân dân,
biết phát huy sức mạnh của dân, đặc biệt là tầng lớp manh lệ:
Yết can vi kì, manh lệ chi đồ tứ lập
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm
Đó tưởng lớn mãi sau này đến khi Nguyễn Đình Chiểu ta mới một lần nữa
thấy nhân dân tấp nập. Trong bản tuyên ngôn như Bình ngô đại cáo những người
manh lệ được nhắc đến công khai và đầy trịnh trọng “cũng là chưa thấy xưa nay”.
Hai câu thơ có ý nghĩa như bản lề chuyển tiếp:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo
thể nói sau bao suy tư, chiêm nghiệm, bao đớn đau, căm giận, sau bao lo lắng
quyết tâm đến lúc này tâm trạng tác giả mới thả lỏng đến hhê, sảng khoái. Bao trùm
đoạn văn những hình tượng phong phú, đa dạng được đo bằng thiên nhiên tráng lệ,
tiếp theo vẽ ra khung cảnh chiến thắng “sấm vang chớp giật”, “trúc trẻ cho
bay”, “sạch không kình ngạc”, “tan tác chim muông”, “trút sạch khô” khiến “đá núi
cũng mòn”, “nước sông cũng phải cạn”.
Bên cạnh chiến công lẫy lừng của quân dân ta thất bại ê chề của ớng giặc khi
“máu chảy thành sông”, “máu trôi đỏ nước”, “thây chất đầy nội”, “thây chất đầy
đường”. Chiến trường khi ấy tan tác trăm bề, thời gian, không gian như đắm chìm
trong thuốc súng, khói bom “sắc phong vân phải đổi”, “ảnh phật nguyệt phải mờ” với
những chuyển rung dồn dập, dữ dội. c tính từ chỉ mức độ điểm tối đa tạo thành
hai mảng đối lập.
Bức tranh toàn cảnh về thất bại ê chề của kẻ thù thì mỗi tên một vẻ, mỗi đứa một
cảnh: Trần Hiệp phải chịu bêu đầu,… và gặp nhau một điểm sự ham sống sợ chết
đến hèn nhát. Qua hình tượng kẻ thù hèn nhátđược tha tội chết đã nêu bật tính chất
chính nghĩa, nhân đạo sáng ngời của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
Voi uống nước, nước sông phải cạn
Đánh một trận, sạch không kinh ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông.
Sự dồn dập như xương sống của đoạn văn để hòa quyện giữa hình ảnh, âm thanh, nhịp
điệu nhằm miêu tả một cách chân thật cuộc tổng phản công thắng lợi của khởi nghĩa
Lam Sơn.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay
phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân
run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Hình tượng kẻ thù thảm hại, bi thương, nhục nhã càng tăng thêm khí thế hào hùng của
khởi nghĩa. Qua hình tượng kẻ thù hèn nhát được tha tội chết, được ưu ái tạo mọi
điều kiện tiếp tục sống, Nguyễn Trãi càng m nổi bật tính chất chính nghĩa, tưởng
nhân nghĩa, nhân đạo sáng người của khởi nghĩa Lam Sơn.
Quả đúng, 4000 năm lịch sử đã vẽ lên trang sử hào hùng, đã phản ánh vào trong văn
học thông qua những nhà văn, nhà thơ lớn đồng thời cũng những anh hùng của
dân tộc. Trong lời tuyên bố kết thúc, cảm hứng về độc lập dân tộc ơng lai đất
nước đã hòa quyện cảm hứng về trụ khi “bỉ”, khi hối” nhưng không nằm ngoài
quy luật hướng tới sự sáng tươi, xây dựng “đài xuân dân tộc” khi vận hội duy tân đã
mở.
Phân tích Đại cáo Bình ngô đoạn 3 - Mẫu 2
Nguyễn Trãi, một vị anh hùng dân tộc lẫy lừng của đất nước Việt Nam với nhiều công
lao, sự cống hiến hết mình để bảo vệ Tổ quốc. Tình yêu nước giống như ngọn lửa luôn
rực cháy thổi bùng trong ông, lớn n trong thời nước mất nhà tan do đó đã
tôi luyện hình thành nên Nguyễn Trãi với một lòng nồng nàn yêu nước. Không chỉ
vậy, Nguyễn Trãi còn nổi tiếng bởi tài năng trong lĩnh vực văn học với những tác
phẩm nổi tiếng.
Hầu hết, các tác phẩm của ông đều nói về tình yêu nước sâu sắc, tưởng cao cả. Điều
đó được thể hiện đậm nét qua bài Bình Ngô đại cáo, điển hình đây là đoạn 3 của
tác phẩm. Bình Ngô đại cáo Đoạn 3 giúp chúng ta hiểu hơn cuộc chiến chống quân
xâm lược trường kỳ của lịch sử ông cha ta.
Nguyễn Trãi đã cho chúng ta thấy điều đó khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong buổi
đầu sơ khai. Và hình ảnh đầu tiên xuất hiện là chủ tướng Lê Lợi:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Cách tự xưng gần gũi ta, xuất thân nơi núi, chốn hoang cũng ớc ra từ nhân dân
nhưng mến nghĩa đứng lên. Vị lãnh tụ mang theo trong mình tấm lòng căm thù
giặc sâu sắc, đội trời chung, thề không cùng sống với bao nhiêu trăn trở, ưu đau
lòng nhức óc, quên ăn giận, những trằn trọc, nỗi băn khoăn cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Vượt qua những ngày tháng nếm mật nằm gai, thấu hiểu lẽ hưng phế ở
đời, người anh ng ấy đã trở thành linh hồn của cuộc khởi nghĩa. So với địch, tướng
sĩ Lam Sơn khi bắt đầu hoàn toàn yếu thế. Đúng lúc khởi nghĩa là lúc quân thù đương
mạnh, nhân tài, tuấn kiệt của ta lại hiếm hoi, thậm chí quân tiếp viện, lực lượng trực
tiếp chiến đấu lẫn lương thảo đều ít ỏi, khó khăn. Vậy điều lại giúp Lợi cộng
sự của mình thắng lợi? Đó chẳng phải là:
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông;
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành về phía tả.
Người chủ ớng nhận mệnh lớn trời trao, biết khắc phục gian nan thì cũng tìm ra
được con đường chiến đấu. thế, tinh thần đoàn kết nhân dân bốn cõi một nhà,
tướng sĩ một lòng phụ tử; có kế sách lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều trên hết
ta có đại nghĩa, có chí nhân để:
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Chính nhờ đó mỗi ngày, mỗi ngày lực ợng kháng chiến một lớn mạnh, lại biết
tận dụng thời cơ, quân ta đã mở những chiến dịch phản công giành thắng lợi vẻ
vang.
Trong phạm vi hạn hẹp của bài cáo, nhưng với sự khéo léo tài tình của mình, Nguyễn
Trãi đã tái hiện lại một cách chân thực, nhiều góc độ, giúp người đọc rất dễ hình dung
ra toàn cảnh của chiến trường. Trước hết phải kể đến những trận đánh liên tiếp, nối
dài, phủ rộng khắp mọi miền. Mở màn chiến dịch trận Bồ Đằng, miền Trà Lân
xứ Nghệ, tiếp tục kéo đến Tây Kinh xứ Thanh, rồi thẳng tiến về Đông Đô với hai trận
Ninh Kiều Tốt Động, bảo vệ thành công Thăng Long. “Thằng nhãi con Tuyên
Đức” vua nhà Minh lúc bấy giờ phải động bình cứu viện, nhưng nghĩa quân Lam
Sơn lại chặn đứng bọn viện binh bằng những trận đánh liên tiếp, mạnh mẽ:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu,
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.
Có thể nói, trong một đoạn văn dài người đọc không thể rời mắt, những trận đánh như
sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay, thừa thắng ruổi dài mà xông lên, cứ thuận đà mà:
Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông
Quân tướng thì khí thế hừng hực, quyết chiến, quyết thắng thật oai hùng:
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn
Ta trong thế chủ động tấn công, lấn chiếm cả chiến trường. Từ không khí đến
cảnh tượng đều để lại thật nhiều ấn tượng:
Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.
Nhìn lại từ buổi đầu khởi nghĩa thấy thật một tích, một sức mạnh thật phi
thường.
Nhưng quá trình lược thuật về cuộc khởi nghĩa, không dừng lại việc ca ngợi chiến
thắng của ta, n khắc họa một cách sống động, chân thực về sthất bại của kẻ
thù. Cứ nghĩ đến cảnh Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường/ Xương Giang,
Bình Than, máu trôi đớc ta không khỏi ghê rợn. Nếu ta chủ động thì giặc lại rơi
vào bị động, thất thế. Chứng cứ liên tục gỡ thế nguy, cứu trận đánh, tay để đợi bại
vọng, trí cùng lực kiệtgiặc cả tướng liên quân đều suy sụp về tinh thần, hao hụt
về ý chí nghe hơi mất vía, nín thcầu thoát thân, kẻ bêu đầu, kẻ bỏ mạng, bại trận
tử vong, cùng kế tự vẫn… Thất bại nhục nhã, ê chề ấy kết cục tất yếu của bọn
chúng.
Tuy nhiên, đường nhân nghĩa Nguyễn Trãi Lợi vạch ra từ ban đầu vẫn luôn
luôn soi tỏ. Ta chiến thắng nhưng biết điểm dừng, không dồn giặc vào thế khốn cùng
mà ngược lại còn mở đường hiếu sinh cho chúng một con đường sống, cũng là để toàn
dân nghỉ ngơi, lấy sức. Ta đã cấp cho chúng thuyền, ngựa để trở về. thế thắng lợi
của ta thắng lợi của tinh thần thượng võ, của lòng nhân ái, nhân văn. Cũng bởi vậy
kẻ thù đã thua lại còn phục, sẵn sàng cởi giáp ra hàng, trói tay tự xin hàng, gối
dâng tờ tạ tội, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc,
về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Giọng điệu sục sôi, khí thế, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, bút pháp tương phản, mang
tính sử thi, Đại cáo bình Ngô đã làm sống dậy những trang sử o hùng, oanh liệt của
dân tộc. Niềm tự hào, kiêu hãnh không chnhững chiến công mà sức mạnh của
toàn dân quyết chí một lòng để làm nên chiến thắng vẻ vang.
Sáng đến đoạn cuối giọng điệu phần thư thái, mang không khí mừng vui phấn khởi
khi nhắc đến vấn đề quan trọng nhất, đó là nền độc lập, cảnh thái bình.
Xã tắc từ đây vững bền
Ai nấy đều hay
Vậy từ nay đã chấm dứt cảnh bạo tàn, khốc liệt, sẽ không còn những tháng ngày
tăm tối, đau thương ới ách quân thù. Lời tuyên bố độc lập như vang lên đầy hào
sảng, mang tới niềm vui sướng, tự hào cho muôn triệu con dân. Bao khao khát bấy lâu
nay, giờ cả non sông rạng rỡ, đến nhật nguyệt, càn khôn cũng sáng ngời. Dân tộc từ
nay thể ngẩng đầu kiêu hãnh hướng tới một ngày mai tươi sáng, một kỷ nguyên
xây dựng đất nước độc lập, hòa bình.
Đã sáu trăm năm trôi qua, lịch sử cũng đã lùi vào vãng, nhưng Đại cáo bình Ngô
vẫn trọn vẹn sức sống như thuở ban đầu. Bản văn kiện lịch sử mang tầm tưởng
đại, một luận văn tổng kết lịch sử yêu ớc cùng xuất sắc, cũng một áng văn
chương tiêu biểu cho ngòi bút thần Nguyễn Trãi. Tác phẩm chính nguồn cảm hứng
bất tận cho bao thế hệ người Việt Nam về lòng yêu nước, về tinh thần đấu tranh bảo
vệ và dựng xây đất nước.
Phân tích Bình Ngô đại cáo - Mẫu 3
Sau khi đánh tan giặc Minh, Nguyễn Trãi thay mặt cho Lợi viết bài cáo để thông
báo cho toàn thể nhân dân về trận đánh thắng lợi. Bài cáo không chỉ khẳng định được
chủ quyền nước nhà, tcáo tội ác của giặc Minh còn trình bày quá trình từ đấu
tranh bất khuất đến thắng lợi của nhân dân Đại Việt. Đặc biệt vai trò lãnh đạo và ý chí
quyết đánh tan quân giặc của vua Lê Lợi được thể hiện rõ.
Mở đầu phần ba tác giả nêu lên những khó khăn bản thân vua Lê Lợi nói riêng
nhân dân Đại Việt nói chung phải đối mặt:
“Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.”
Đoạn thơ thể hiện những khó khăn ý cquyết tâm của vua Lợi. không chấp
nhận được cảnh nhân dân trở thành lệ cho bọn giặc Minh quỷ dữ kia người anh
hùng Lợi đã quyết chốn hoang dã, nếm mật nằm gai chờ ngày dấy cờ khởi
nghĩa. Vua căm thù giặc, đau lòng đến nhức óc, mộng mcũng trằn trọc chỉ một
mục tiêu đánh bại quân Minh. Giữa lúc quân Minh đang còn mạnh vậy muốn khởi
nghĩa người tài lại khó tìm:
“Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,”
Nghệ thuật so sánh càng cho thấy hoàn cảnh kkhăn của đất nước. Khó khăn chồng
chất khó khăn, nhà vua không ai để bàn bạc hay đỡ đần. Tuy nhiên, lòng người
muốn cứu nước vẫn cứ đăm đăm hướng về phía Đông mong dẹp giặc. Trông người t
người vắng bóng nên Lê Lợi phải tự mình gắng sức, phần muốn dẹp giặc phần vì lo
nỗi nước nhà. Cũng những lúc lương hết, binh tan nhưng trăm dân như một, ý chí
quật cường, vua Lê sử dụng kế sách lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh.
sự thật cho thấy bằng những cố gắng vượt qua khó khăn ý chí cũng chiến lược
thao binh tuyệt vời Lợi đã lãnh đạo nhân dân giành được chiến thắng đánh đuổi
quân Minh về nước:
“Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay
……..
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp”
Bằng biện pháp nghệ thuật liệt các sự việc từng trận đánh được nhà văn thuật lại
một cách chi tiết nhất. Những cái tên như Trần Trí, Sơn Thọ, An, Phương Chính,
Tuyên Đức, Liễu thăng…đều trở thành những cái tên làm trò cười cho thiên hạ.
tham công bạo ngược ngu dốt chuốc lấy. “Ngày ời tháng tám” rồi “ngày hai
mươi” tác giả sử dụng thời gian để thuật lại diễn tiến của quá trình vua Lợi
những binh của mình dành chiến thắng từng bước. Chúng ta lấy nhân nghĩa để trừ
bạo ngược, lấy chính nghĩa để thắng hung tàn. Các trận đánh đều sấm vang chớp giật,
tan tác tro bay. Đánh cho chúng không còn được rút lui phải ra xin hàng, xác
người chất thành đống, máu tanh trôi đầy sông.
Không chỉ thắng trận liên tiếp, Lợi những binh của mình thể hiện sự nhân
nghĩa nhân đạo kể cả khi chúng ta dành phần thắng:
“Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển vẫn hồn bay
phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân
run.
Họ đã tham sống sợ chết hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.”
Mặc dù thắng trận nhưng quân ta vẫn cấp cho chúng thuyền, ngựa để về. Theo Lê Lợi,
họ đã muốn hòa thực lòng thì ta nên giữ lấy toàn quân, để nhân dân nghỉ sức.
Đây quả một quá trình chiến đấu đầy gian khổ để có chiến thắng như ngày hôm
nay. Chiến tranh của quân dân Đại Việt chiến tranh chính nghĩa, lấy nhân nghĩa để
chiến đấu với bạo ngược hung tàn, kết quchính nghĩa dành chiến thắng. Đồng
thời ta cũng tự hào về vua Lợi một người tài trí hơn người đã lãnh đạo nhân dân
đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi. Đặc biệt không thể không kể đến tài năng
công lao của Nguyễn Trãi khi viết áng thiên cổ hùng văn này.
Phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo - Mẫu 4
Nguyễn Trãi, bậc thi hào lỗi lạc của trên văn đàn văn học Việt Nam, với kiệt tác Bình
Ngô đại cáo, nhà thơ đã để lại bản hùng ca thiên cổ cho thế hệ sau của dân tộc. Đặc
biệt đoạn thơ thứ 3 chính là bản hùng ca hào hùng về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
“Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”
Đại từ ta mở đầu đoạn thơ ba như một lời khẳng định chắc chắn, hào hùng, thể hiện
tâm thế của người thủ lĩnh Lợi. Hơn ai hết, một vị tướng dẫn quân đánh trận,
cũng một bậc tôi trung, ông hiểu hơn ai hết cảm giác căm thù giặc đến tận ơng
tủy, như trong đoạn thơ đã khẳng định hùng hồn: căm thù giặc thề không cùng
chung sống. Nhưng nếu chỉ giữ trong lòng ngọn lửa hận, thì sẽ sớm trở nên quáng
hồ đồ, do đó, vị chủ tướng ấy không chỉ mang trong mình nỗi hận niềm đau,
còn dồn nén, chất chứa biết bao nhiêu niềm suy tư, trăn trở, đến nỗi “đau lòng nhức
óc”, “nếm mật nằm gai”, “quên ăn giận”, những trăn trở về kế sách binh lược,
cũng cả những âu lo vkhó khăn thách thức trong chặng đường phía trước sắp phải
trải qua. Bước đầu kháng chiến những khó khăn vàn không thể kể xiết, nhân tài
như mùa thu, kẻ tài trí đỡ đần việc lớn thiếu thốn, chẳng người chủ lực cùng sát
cánh trường kì, cả sự gian nan muôn trùng về binh lực so với đối thủ, ấy thế nhưng nó
lại trở thành đòn bẩy để những người chiến kiên cường, quyết liệt kháng chiến.
Cuối cùng, ông trời không phụ ng người, không phụ sự hi sinh nếm mật nằm gai
đớn đau, vất vả của nghĩa quân Lam Sơn, đại sự đã thành công.
“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.”
Hình ảnh thiên nhiên được sử dụng trong 4 câu thơ như một cách nói hình ảnh, khắc
tạc chiến tích vĩ đại và sự hào hùng mà nghĩa quân Lam Sơn đã tạo ra. Hình ảnh gươm
mài đá, đá núi cũng mòn, voi uống nước, nước sông phải cạn, phải chăng muốn
nhấn mạnh cho ta thấy tinh thần bền bỉ chiến đấu, sự kiên trì, hy sinh nhẫn nại của
những người chiến nghĩa quân Lam Sơn, đồng thời chỉ ra cho ta một chân trong
kháng chiến. Đó kháng chiến trường kỳ, đồng thời cũng phần nào thấy được triết
mà nhà thơ luôn tin ởng, đó những cuộc chiến đấu vì chính nghĩa luôn luôn giành
chiến thắng xứng đáng. Các cụm từ miêu tả với động từ mạnh “sạch không kình ngạc,
tan tác chim muông” đã cho thấy sức tiến công, chiến đấu tinh thần quật cường,
hào hùng của những binh lính tham gia chiến trận, chúng ta không chỉ giành chiến
thắng còn giành chiến thắng vẻ vang, quét sạch nhuệ khí sự hống hách, kiêu
ngạo của kẻ thù:
“Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay
phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân
run”
Cuối cùng, tác giả đã kết thúc đoạn ba của bài cáo với một giọng văn đầy từ hào khi
tái hiện lại những thắng lợi vẻ vang, liên tiếp của nghĩa quân trong cuộc kháng chiến
chống quân Minh xâm lược. Những thắng lợi góp phần lưu danh sử sách nghìn năm
còn mãi, về một thời kì dân tộc, chiến của quân ta đã chiến đấu, chiến thắng, từ đó
hun đúc nên tâm hồn yêu nước bất khuất, quật cường cho các thế hệ - cũng nét
đẹp riêng của con người Việt Nam lịch sử. Mở đầu cho chuỗi chiến tích lịch sử hào
hùng của Nghĩa quân lam Sơn chiến thắng Bồ Đằng, Trà Lân, rồi đến cả vùng Trần
Trí, Sơn Thọ, An,... cứ thế, mạch thơ trở nên sôi nổi, đậm chất tráng ca khi liệt
kê hàng loạt những chiến công lẫy lừng của vị chủ tướng Lê Lợi:
"Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khanh cùng kế tự vẫn".
Tổng kết lại thể thấy trong phần ba của i cáo, Nguyễn Trãi chia làm ba phần lập
luận chính, thứ nhất tái hiện hình ảnh nghĩa quân Lam Sơn trong những ngày đầu
kháng chiến khó khăn, gian khổ để thể làm nên nghiệp lớn. Tiếp đó, là niềm tự hào
kiêu hãnh của tác giả khi không chỉ đánh thắng quân địch, n làm chúng thua
một cách tâm phục không phục bằng cách liệt những thất bại ê chề, nhục nhã của
quân địch. Những câu thơ dài, với khí văn hào sảng đã toát lên rất điều ấy. Những
dòng thơ cuối, dòng thơ khép lại, dòng cảm xúc đã được lắng đọng, dồn nén,
bút lực sâu xa nhất nhà thơ gửi gắm, đó niềm tin tưởng khát mong một đất
nước, giang sơn thiên thu còn mãi:
"Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay”
Với giọng văn hào sảng, cùng cách lập luận sắc bén, sâu sắc, thuyết phục, Nguyễn
Trãi đã biến Bình Ngô đại cáo ntrở thành bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của
dân tộc, bản tổng kết lịch sử hào hùng, khúc tráng ca đại bất tận về quá trình
chiến đấu, về chiến công, và về hình tượng người chiến sĩ lúc bấy giờ.
Xem thêm: Phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 1
Phân tích khổ 3 Đại cáo Bình ngô - Mẫu 5
Bình Ngô đại o một văn kiện tuyên ngôn nền độc lập của Đại Việt về quyền
quyền sống của con người cũng khúc thiên anh hùng ca của quân dân ta trong
chiến tranh chống quân Minh xâm lược. Đặc biệt khi đọc đoạn thơ thứ ba khắc họa
chân thực những trận đánh anh dũng của ta khiến địch máu chảy đầu rơi cả ng
thấy được cái tinh thần nhân đạo của quân dân nhà Lê.
Trong Bình Ngô đại cáo, nhân tố quan trọng mang đến chiến thắng trong cuộc khởi
nghĩa đó vị anh hùng Lợi. Nguyễn Trãi miêu tả đó vị anh ng lòng tự tôn
dân tộc, căm ghét giặc Minh đến độ “Ngẫm tlớn đội trời chung/Căm giặc nước
thề không cùng sống”. Đó chính là nguyên nhân để Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa lấy nơi
hoang Lam Sơn làm căn cứ chờ thời diệt giặc. Lợi còn vị nh tụ đáng
kính với tinh thần kiên trì “Nếm mật nằm gai/chốc đà mười mấy năm trời” xây dựng
lực lượng, thu phục quần hùng, coi trọng nhân tài quan trọng lòng quyết tâm
đánh giặc ngoại xâm “Tấm lòng cứu nước vẫn đăm đăm muốn tiến về phía đông”, tiến
về tương lai rực rỡ cho dân tộc.
Nghĩa quân ta lúc bấy giờ yếu kém về mọi mặt “Vừa lúc cờ nghĩa dấy lên/Chính là lúc
quân thù đương mạnh”, ta thiếu người tài Tuấn kiệt như sao buổi sớm/Nhân tài như
mùa thu”, thiếu binh tham gia “Trông người người lại ng vắng bóng, mịt
như chốn bể khơi”. Trong khi đó, bọn giặc ngày đêm tàn sát, vét của cải, nước đã
mất đến nơi, khiến Lợi “vội như cứu người chết đuối”. Giặc vẫn hoành hành
“hung đồ ngang dọc”, tình cảnh khó khăn chồng chất khó khăn.
Với lòng quyết tâm, căm thù giặc nghĩa quân ta đã khắc phục khó khăn ban đầu vừa
hội tụ nghĩa quân, vừa đoàn kết “tướng một lòng phụ tử”. Ta sử dụng mưu lược
“dùng quân mai phục”, thế trận “lấy ít địch nhiều”, “lấy yếu chống mạnh”, khiến quân
dân ta bừng bừng khí thế, giành được nhiều chiến công vang dội. Điều này xuất phát
bởi tấm lòng nhân nghĩa của nghĩa, chứng minh một chân lý chính nghĩa ắt phải thắng
gian tà. Trận đầu tiên mở ra thắng lợi vang dội được Nguyễn Trãi tạo dựng với những
hình ảnh thiên hùng vĩ, về sự mạnh mẽ hùng dũng của nghĩa quân. Trái với ta thì quân
thù thật thảm hại “nghe hơi mất vía”, nín thở cầu thoát thân” trái ngược hẳn với
vẻ ngang tàn trước đây. Thừa thắng xông lên, quân ta liên tiếp giành cứ điểm quan
trọng Đông Đô Tây Kinh khiến “Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn
dặm/ Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm”. Đây những hình ảnh chân
thực về chiến tranh phải đổ tuy máu của ta và của địch đều đổ xuống, nhưng ta thắng
sự chính nghĩa, tinh thần anh dũng hi sinh. Còn giặc bại trận thì kẻ chịu “bêu
đầu”,“bỏ mạng”, tên tướng cầm đầu Vương Thông muốn thay đổi tình nhưng “lửa
cháy lại càng cháy”.
Trên tinh thần nhân nghĩa vốn quân ta đã mcho giặc đường lui nhưng chúng lại cầu
cứu một cách ngoan cố với việc cử mấy tên tướng Liễu Thăng, Mộc Thạnh Tuyên
Đức. Nhưng nào đâu ngờ
“Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Ta sau lại đưa tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực”,
Khiến giặc Minh gặp hậu quả “Liễu Thăng cụt đầu/Lương Minh bại trận tử
vong/Lí Khánh cùng kế tự vẫn” . Nghĩa quân ta trên đà lớn mạnh tiếp mở rộng quy
mô tuyển thêm binh sĩ chuẩn bị cho trận chiến, quét sạch bóng quân thù,
“Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông”
Khắp nơi xác giặc bỏ mạng với những hình ảnh “thây chất đầy đường, máu trôi đỏ
nước mang tính phóng đại, cho thấy sự tàn khốc của chiến tranh. Cái chất bi tráng y
phải lấy thiên hiên ra để diễn tả hết Cảnh quân giặc giẫm đạp lên nhau bỏ trốn thật
thảm. Xuất phát từ tấm lòng của quân dân ta “đánh kẻ chạy đi không ai đánh người
chạy lại” ta đã “mở đường hiếu sinh” cho chúng. Hành động này vừa khiến giặc phải
kính sợ, vừa để nước ta tập vào xây dựng đất nước cũng kế ch hòa hoãn cho
muôn đời sau này.
Phần ba của Bình Ngô đại cáo đã diễn tả chân thực quá trình khởi nghĩa, đánh đuổi
quân xâm lược của bằng giọng văn hào hùng, bi tráng, tiết tấu dồn dập cùng những
hình ảnh giàu sức gợi. Những hình ảnh bộc lộ sinh động khí của nghĩa quân khiến
tác phẩm xứng đáng với cái tên là một thiên anh hùng ca của dân tộc, đất nước.
Phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo - Mẫu 6
Hình ảnh của vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn những khó khăn trong buổi đầu dấy
nghiệp. Nguyễn Trãi đã phản ánh chân thực giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn bằng bút pháp tự sự kết hợp với trữ tình. Tác giả đã khắc hoạ thành công hình
tượng Lê Lợi trong buổi đầu dấy nghiệp đầy gian khổ:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Trong hình tượng Lợi sự thống nhất hài hoà giữa con người nh thường thủ
tĩnh nghĩa quân. Lợi xứng đáng linh hồn của cuộc khởi nghĩa bởi ông khả
năng tổ chức, tập hợp, đoàn kết mọi người, đồng thời phẩm chất của một nhà quân
sự, chính trị tài ba. Lê Lợi căm thù giặc sâu sắc và quyết tâm cao độ để thực hiện
tưởng đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi đất nước:
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống.
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;
Ngẫm trước đến nay, lễ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.
“Ngẫm thù lớn đội trời chung, Căm giặc ớc thề không cùng sống” thái độ
chí ớng của lãnh tụ. Đau lòng nhức óc, nếm mật nằm gai, quên ăn giận… sự
rèn luyện, thử thách đối với bản thân, từ trái tim đến khối óc. Không phải một sớm
một chiều suốt mười mấy năm trời. Bởi trong tâm trí lúc nào cũng canh cánh
mối lo toan cứu nước, cứu dân cho nên Lợi luôn trong tâm trạng: Chỉ băn khoăn
một nỗi đồ hồi. Qua hình tượng Lợi. Nguyễn Trãi đã nói lên được tính chất nhân
dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Lúc đầu, so sánh tương quan lực lượng giữa hai bên thì ta yếu hơn giặc rất nhiều:
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đương mạnh.
Buổi đầu của cuộc khởi nghĩa cùng gian nan, thiếu thốn. Lợi nghĩa quân đã
phải ợt qua muôn ngàn khó khăn, gian khổ: Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài
như mùa thu. Thiếu quân, thiếu lương nhưng nhờ tấm lòng cứu nước, nhờ tướng
một lòng phụ tử cuộc khởi nghĩa đã vượt qua những khó khăn thử thách ngày
càng lớn mạnh, đủ sức tổng phản công giành thắng lợi.
Vậy sức mạnh nào đã giúp nghĩa quân Lam Sơn vượt qua những khó khăn nói trên?
Trước hết, nghĩa quân sức mạnh của tưởng nhân nghĩa, của ý thức dân tộc, của
mục đích chiến đấu nhằm mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, bảo vệ nền độc lập
truyền thống văn hiến lâu đời của quốc gia Đại Việt. Sau đó, yếu tố quan trọng quyết
định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa tài trí u lược, phẩm chất anh hùng của
Lợi. Ông thể hiện rất rõ vai trò của một bậc minh chủ: căm thù giặc sâu sắc, tự tin, tự
nguyện đặt vận mệnh của quốc gia, dân tộc lên vai mình.
Phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo - Mẫu 7
Bình Ngô đại cáo không chỉ một văn kiện nhằm tuyên ngôn nền độc lập của Đại
Việt, tuyên ngôn về quyền quyền sống của con người còn khúc thiên anh
hùng ca về cuộc kháng chiến của quân dân ta trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống
quân Minh m lược. đó, ta thấy hiện lên thật chân thực hào hùng những trận
đánh đi vào lịch sử, những trận đánh khiến địch máu chảy đầu rơi cả trăm năm sau
vẫn còn kinh hãi, cũng thấy được cái tinh thần nhân nghĩa, nhân đạo của chủ, tướng
nhà Lê.
Trong Bình Ngô đại cáo, trước hết phải nhắc đến nhân tố quan trọng hàng đầu trong
cuộc khởi nghĩa đó chủ soái Lợi. Nguyễn Trãi miêu tả ông là người anh hùng
lòng yêu nước thương dân, ng tự tôn dân tộc sâu sắc, thế nên ông căm ghét giặc
Minh vô cùng "Ngẫm tlớn há đội trời chung/Căm giặc nước thề không cùng sống",
ghét đến độ phải một mất một còn, ta địch buộc một bên phải tiêu vong. Đó chính
nguyên nhân, tiền đề đầu tiên để vị lãnh tụ Lợi dựng cờ khởi nghĩa chốn Lam
Sơn, lấy nơi hoang làm căn cứ nương mình, chờ thời diệt giặc. Hơn thế nữa,
Lợi còn hội tụ rất nhiều yếu tố khác để trở thành vị lãnh tụ đáng kính bao gồm lòng
kiên trì bền bỉ "Nếm mật nằm gai/chốc đà mười mấy năm trời" để xây dựng lực lượng,
khả năng thu phục quần hùng, biết coi trọng nhân tài "cỗ xe cầu hiền thường chăm
chăm còn dành phía tả" quan trọng nhất đó lòng quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại
xâm bao nhiêu gian khó "Tấm lòng cứu nước vẫn đăm đăm muốn tiến về phía
đông", tiến về mặt trời, về một tương lai tươi sáng rực rỡ cho dân tộc.
Thế nhưng chủ soái giỏi, nhưng nghĩa quân ta lúc bấy giờ còn yếu kém về mọi
mặt so với quân địch "Vừa lúc cờ nghĩa dấy lên/Chính lúc quân thù đương mạnh",
về khí ta áp đảo quân thù, nhưng về mặt vật chất quân số rõ ràng ta nằm thế yếu,
mọi khó khăn chồng chất cứ đổ dồn trong buổi đầu dựng cờ khởi nghĩa khiến Lợi
phải "đau đầu nhức óc". Thứ nhất ta thiếu người hiền tài đứng ra giúp nước "Tuấn
kiệt như sao buổi sớm/Nhân tài như mùa thu", thiếu cả binh tham gia khởi nghĩa
giết giặc "Trông người người lại càng vắng bóng, mịt như chốn bể khơi". Trong
khi đó, quân giặc vẫn ngày đêm tàn sát nhân dân, vơ vét của cải, không chuyện ác nào
không làm, nước đã mất đến nơi, đến độ khiến Lợi lo lắng, mất ăn mất ngủ "vội vã
như cứu người chết đuối". ơng thực thì cạn kiệt, quân đội thì thưa thớt, giặc vẫn
hoành hành ngang dọc rêu rao làm việc "hung đồ ngang dọc", phải nói khó khăn
chồng chất khó khăn.
Nhưng bằng lòng quyết tâm cứu nước, bằng lòng căm thù giặc sâu sắc nghĩa quân ta
bằng mọi cách để khắc phục khó khăn ban đầu. Hội tụ nghĩa quân, nêu cao tấm lòng
chính nghĩa, đoàn kết "nhân dân bốn bể một nhà", "tướng một lòng phụ tử". Vận
dụng mưu lược trong chiến đấu "dùng quân mai phục", tinh thần anh dũng hi sinh "lấy
ít địch nhiều", "lấy yếu chống mạnh", khiến cho mỗi trận đánh của quân dân ta đều
khí bừng bừng, thu được nhiều chiến công vang dội. Nguyên nhân xuất phát bởi tấm
lòng nhân nghĩa, chính nghĩa của nghĩa quân "Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/Lấy
chí nhân thay cường bạo", chứng minh một chân không thể dời đổi, chính nghĩa ắt
phải thắng gian tà. Những trận đầu tiên mở ra trường kỳ thắng lợi thật vang dội "Trận
Bồ Đằng sấm vang chớp giật/Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay", Nguyễn Trãi sử dụng
những hình ảnh thiên hùng vĩ, tạo nên sức gợi về sự mạnh mẽ, oanh tạc hùng dũng
trong từng trận chiến của nghĩa quân. Trái với hình ảnh oai hùng của nghĩa quân thì
quân thù lại trông thật thảm hại, kẻ "nghe hơi mất vía", kẻ thì "nín thở cầu thoát
thân" thật hài hước, nực ời, cái bọn trước đây hung hăng ngang tàn thế nay
chẳng khác nào loài chuột lấm lem, chui lủi. Thừa thắng xông lên, vừa hành quân tiến
đánh vừa tuyển binh, quân ta liên tiếp giành lại những cứ điểm quan trọng như Đông
Đô, Tây Kinh. Giặc thất bại liên tiếp khiến "Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi
vạn dặm/ Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm", những hình ảnh có phần ghê
rợn, nhưng diễn tả một cách thật chân thực những trận đánh lịch sử, chiến tranh ắt
phải đổ máu là vậy. Máu của ta máu của địch cùng đổ xuống, nhưng ta thắng ở tấm
lòng kiên ờng, anh dũng hi sinh, thề sống chết với giặc. Quân giặc trước thế khí
hùng dũng của nghĩa quân ta thì khí thế tan tác, kẻ chịu "bêu đầu", kẻ "đành bỏ
mạng", tên Vương Thông muốn gỡ thế nguy khốn nhưng "lửa cháy lại càng cháy".
Quân ta hăng lại càng hăng, giặc chỉ còn đường "Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí
cùng lực kiệt", bởi con đường phản luân thường đạo chẳng bao giờ thể đi xa.
"Chẳng đánh người chịu khuất ta đây mưu phạt tâm công", trên tinh thần nhân
nghĩa vốn ta đã định cho giặc một đường lui cuối cùng, xin hàng rút lui về nước
thế nhưng chúng lại âm u cầu cứu viện nhằm cứu vãn tình hình, thật ngoan cố
không thôi. Chẳng thế nhãi nhép chuột bọ Liễu Thăng, Tuyên Đức, Mộc Thạnh lại
vấy vá, nhăm nhe tiến sang nước ta lần nữa nhằm lật ngược thế cờ đã sắp đến hồi kết.
Nhưng nào đâu dễ thế, bởi "Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong/
Ta sau lại đưa ớng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực", để xem giặc Minh còn
huênh hoang, vênh o được đến bao giờ. Cái âm mưu hèn mọn của chúng dẫn đến
những hậu quả "Liễu Thăng cụt đầu/Lương Minh bại trận tử vong/Lí Khánh cùng
kế tự vẫn" thế phải tự rước họa chỉ cái lòng tham bẩn của mình không.
Địch càng tổn thấy, mất mát bao nhiêu, thì khí quân ta lại càng tăng, nghĩa quân
tràn đầy nhiệt huyết chiến đấu, hứng chí bừng bừng tựa như tiếng ngựa phi, tiếng chân
chạy rầm rập vang động cả núi rừng, "Thuận đà ta đưa lưỡi đao tung phá", khiến quân
giặc tan tác, "bí nước quay mũi giáo đánh nhau", đúng chó cùng rứt giậu. Nghĩa
quân ta trên đà lớn mạnh.
"Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Tất cả là chuẩn bị cho trận chiến cuối cùng, quét sạch bóng quân thù, thế nên:
"Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ."
Quân giặc phải hốt hoảng xin hàng kẻo không kịp, khắp nơi đâu đâu cũng xác
giặc bỏ mạng "thây chất đầy đường, máu trôi đỏ nước", những hình ảnh tính phóng
đại, thể hiện được sự tàn khốc của cuộc chiến, đồng thời cái o hùng trong lịch sử
phân tranh của dân tộc. Cái chất hào hùng, bi tráng ấy Nguyễn Trãi phải lấy thiên
nhiên ra mới thể diễn tả hết được: "Ghê gớm thay sắc phong n phải đổi/ Thảm
đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ". thể thấy cái chết nào cũng đều đáng tiếc, trận
đổ máu nào ng buồn thảm đau đớn, âu cũng sinh linh cả, một chốc mấy ngàn
mạng bỏ, thì trời đất cũng phải tối m đâu ai muốn cảnh "thây chất thành núi, cỏ
nội đầm đìa máu đen". Cảnh quân giặc rối rít xin hàng, giẫm đạp lên nhau bỏ trốn
thật thảm hại, tan tác, xuất phát từ tấm lòng nhân nghĩa "đánh kẻ chạy đi không ai
đánh người chạy lại" nên nghĩa quân ta đã cho giặc con đường về nước "mở đường
hiếu sinh", cấp thuyền, cấp ngựa, cấp lương thực cho chúng. Vừa khiến giặc phải nể
nang, kính sợ, vừa để quân ta ỡng sức, tránh đổ máu nhiều hơn nữa, bắt tay vào xây
dựng đất nước. Nếu đuổi cùng giết tận chắc chắn để lại mối tlớn trong lòng giặc,
sớm muộn cũng ngày chúng sang trả thù thêm, lúc ấy ắt ta phải chịu thiệt thòi, nên
là lùi một bước cũng nên, kế sách hòa hoãn của cha ông ta muôn đời luôn sáng suốt
vậy.
Phần ba của Bình Ngô đại cáo đã i hiện lại một cách chân thực, sinh động quá trình
khởi nghĩa, đánh đuổi quân Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn. Bằng giọng văn
rất đỗi hào hùng, bi tráng, tiết tấu nhanh, dồn dập, những hình nh thiên nhiên giàu
sức gợi, mang tính biểu tượng cao như mặt trời, mặt trăng, sông, núi hùng vĩ. Những
hình ảnh đầy nhiệt huyết, khí bừng bừng của nghĩa quân được miêu tả bằng những
cụm tính từ sắc thái cao nhất, đem so nh với hình ảnh thiên nhiên to lớn, bao la.
Luận điệu thuyết phục, dẫn chứng thực trong lịch sử càng m tăng sức lôi cuốn,
đem đến một thiên anh hùng ca, một khúc tráng ca bất tận, vang động cả một thời,
khẳng định sức mạnh và chân lý của dân tộc, đất nước.
Phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 3 - Mẫu 8
Nguyễn Trãi đại thi hào của nền văn học nước nhà. Bình Ngô đại cáo được xem
“áng thiên cổ hùng văn” thấm đẫm nhiều cảm xúc, ghi chép về một thời hào dùng của
dân tộc. Đoạn 3 của bài cáo đã khắc họa một cách chân thực nhất cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn chống lại quân Minh dưới sự lãnh đạo của chủ soái Lê Lợi. Phân tích Bình
Ngô đại cáo đoạn 3 để hiểu rõ hơn về khởi nghĩa Lam Sơn.
Bình Ngô đại cáo, bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc ta. Vai trò chủ chốt của
chủ soái Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ngay từ những câu đầu tiên của đoạn
3, chúng ta đã thấy Nguyễn Trãi đã dùng ngòi bút của mình để xây dựng lại hình
tượng chủ soái Lợi, người công lớn nhất đem lại chiến thắng cho khởi nghĩa
Lam Sơn:
“Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống”
Nguyễn Trãi sử dụng đại từ “Ta” như đang dẫn lại lời nói của chủ tướng Lợi,
khẳng định một tâm thế hào hùng, chắc chắn, cương quyết của người cầm quyền.
vị ớng dẫn đầu một đội quân lớn, một bậc tôi tớ trung thành của nhân n, Lê Lợi
hiểu rất rõ những nỗi căm thù đối với giặc Minh xâm lược.
Lợi, người chủ soái bản lĩnh, hy sinh hết mình độc lập dân tộc. Nỗi căm phẫn
này ăn vào tận sâu trong xương tủy, thề không đội trời chung “không cùng sống”
chung trên một mảnh đất. Hơn thế, chúng ta thấy được Lợi đã nếm trải biết bao
nhiêu đau thương, gian khổ để m ra sách ợc đối phó, đánh đuổi quân phương Bắc
xâm lược:
“Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”
Tác giả dùng những từ ngữ giàu cảm xúc, mang tính nhấn mạnh đến nỗi đau, niềm
trăn trở suy của người cầm quân “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”, “quên ăn
vì giận”. Thể hiện được những lo âu về các khó khăn sẽ gặp phải trong cuộc đấu tranh
giành tự do cho dân tộc sắp tới. Đồng thời đó còn là nỗi trăn trở về kế sách, chiến lược
binh pháp sử dụng trong cuộc chiến. Trong bất cứ cuộc kháng chiến nào cũng
muôn vàn những khó khăn, thiếu người tài để làm việc lớn, cũng không đủ nguồn
nhân lực thể cùng chung chí hướng, sát nh cùng nhau đánh tan giặc ngoại xâm.
Sự chênh lệch về binh lược so với đối thủ rất lớn, nhưng đó lại những tiền đề để
người chiến sĩ quyết liệt, kiên cường hơn với cuộc kháng chiến, tìm mọi cách để giành
độc lập, tự do cho nhân dân. Nhờ những sự hi sinh vất vả, vượt lên mọi gian khổ đó,
mà khởi nghĩa Lam Sơn đã giành thắng lợi, quân Minh xâm lược đã bị đánh bại.
Qua Bình Ngô đại cáo đoạn 3 ta cảm nhận được cuộc khởi Nghĩa Lam Sơn cuộc
khởi nghĩa hào hùng, đi vào lịch sử dân tộc. Sau khi nhắc đến vai trò, những hi sinh
của chủ tướng Lê Lợi, của quân dân ngày đêm rèn luyện binh lược. Tác giả tái hiện lại
diễn biến đầy kịch tính của khởi nghĩa Lam Sơn:
“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.”
Để khắc họa chiến tích hào hùng của cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Trãi đã mượn hình ảnh
của thiên nhiên. Thiên nhiên với sông núi thì luôn hùng như những chiến tích
nghĩa quân Lam Sơn đã làm được. Tác giả sử dụng phép nhân a, phóng đại, “gươm
mài đá, đá núi cũng mòn,” “voi uống nước, ớc sông phải cạn” để nhấn mạnh sự
kiên trì, bền bỉ trong chiến đấu, hy sinh cả tính mạng để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh
thổ. cho cuộc chiến diễn ra trường kỳ, ác liệt nhưng tất cả quân dân đều tin
tưởng vào một chiến thắng vẻ vang, chính nghĩa sẽ luôn thắng gian tà. “Đánh một
trận, sạch không kình ngạc” “Đánh hai trận tan tác chim muông” cho thấy sức mạnh
khủng khiến của nghĩa quân Lam Sơn. Tất cả đều mang trong mình một tin thần quật
cường, sức chiến đấu mạnh mẽ không chịu lùi bước trước quân thù, dập tắt tất csự
kiêu ngạo, hống hách của quân địch.
Tác giả nhắc đến tất cả các địa danh mà quân Lam Sơn đã giành thắng lợi, như một sự
khẳng định chúng ta đã đuổi tất cả bọn xâm lược phương Bắc ra khỏi bờ cõi nước
Nam:
“Bị ta chặn Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía vỡ mật!
Nghe Thăng thua Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, u chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
……………………..
Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển vẫn hồn bay
phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân
run”
Niềm tự hào dân tộc sâu sắc trước chiến thắng vẻ vang chống quân Minh xâm lược
Khi phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 3 những câu văn cuối cùng, ta cảm nhận được
sâu sắc niềm tự hào dân tộc trước chiến thắng vẻ vang của quân Lam Sơn. Đây
thắng lợi đã được lưu vào sử sách dân tộc, như một lời nhắc nhở thế hệ mai sau về sự
hi sinh, quật cường của cha ông ta để giữ vững nền độc lập cho dân tộc. Từ đó, xây
dựng lòng yêu nước, sự tự hào trong mỗi con người Việt Nam cho thời bình hay
thời chiến.
Nguyễn Trãi đã liệt đầy đủ những chiến tích của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dưới sự
lãnh đạo tài tình của chủ tướng Lợi: chiến thắng Bồ Đằng, Trà Lân, Trần Trí, Sơn
Thọ, Lý An, Mã An, Chi Lăng…:
“Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn”.
Quân địch đã thất bại một cách ê chề dưới tay quân dân ta, phải tìm đến bước
đường cùng “kế tự vẫn”. Trong vòng chưa đầy một tháng, nước Nam đã sạch bóng
quân thù.
Như vậy, thông qua Bình Ngô đại cáo đoạn 3, ta thấy Nguyễn Trãi đã chia phần này
thành ba nội dung tách biệt nhưng liền mạch. Qua đó khắc họa một cách chân thực
nhất diễn biến của cuộc khởi nghĩa. Từ những ngày đầu chuẩn bị kháng chiến, tìm
kiếm, lên kế hoạch sách lược chiến đấu cho đến thời điểm cuộc chiến tranh nổ ra,
những chiến tích oanh liệt quân dân ta đã làm được. Sau cùng niềm kiêu
hãnh tự hào sâu sắc về tinh thần quật cường, ợt mọi gian khó của nghĩa quân Lam
Sơn. Chúng ta đã buộc quân Minh xâm lược phải nhận sự thất bại trong ê chề, hoảng
loạn chạy trốn không kịp về phương Bắc, nước Nam sạch bóng quân thù. Những dòng
thơ cuối như một lời khẳng định lặp lại, một cách chắc chắn rằng giang sơn đã thu về
một mối:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới…
Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay”
Qua Bình Ngô đại cáo Đoạn 3 giúp chúng ta hiểu hơn cuộc chiến chống quân xâm
lược trường kỳ của lịch sử ông cha ta. Bằng ngòi bút đầy tự hào, lập luận sắc bén, giàu
sức thuyết phục Nguyễn Trãi đã làm nên một Bình Ngô đại cáo “hùng văn thiên cổ”,
xứng đáng với danh xưng bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc Việt. Bình Ngô
đại cáo trở thành bản tổng kết hào hùng của lịch sử dân tộc nước nhà trong cuộc
kháng chiến chống quân Minh xâm lược thời bấy giờ.
| 1/29

Preview text:


Dàn ý phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo Dàn ý số 1 1. Mở bài
● Giới thiệu ngắn gọn tác phẩm Bình Ngô đại cáo
● Giới thiệu khái quát nội dung cần nghị luận: Khổ 3 của tác phẩm 2. Thân bài
* Khẳng định nhân tố quan trọng hàng đầu trong cuộc khởi nghĩa đó là chủ soái Lê Lợi:
● Là người anh hùng yêu nước thương dân, có lòng tự tôn dân tộc, sự căm ghét
giặc ngoại xâm sâu sắc "Ngẫm thù lớn... không cùng sống"
● Lòng kiên trì, bền bỉ "Nếm mật nằm gai... mười mấy năm trời" để xây dựng lực lượng
● Khả năng thu phục quân hùng, biết coi trọng nhân tài "Cỗ xe cầu hiền... phía tả"
● Lòng quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm dẫu còn nhiều gian khó "Tấm lòng... phía Đông"
* "Tường thuật" lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
- Giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa:
● Sự chênh lệch về mọi mặt so với quân giặc
● Thiếu người hiền tài ra giúp nước "Tuấn kiệt như sao buổi sớm/ Nhân tài như
lá mùa thu", thiếu binh sĩ tham gia khởi nghĩa giết giặc
● Lương thực cạn kiệt, quân đội thưa thớt, giặc vẫn hoành hành ngang dọc ngày đêm
=> Khó khăn chồng chất khó khăn nhưng sĩ khí quân ta áp đảo kẻ thù, đồng lòng, đoàn kết, lạc quan.
- Giai đoạn quân ta phản công:
● Trận thắng đầu tiên mở ra trường kì thắng lợi thật vang dội: "Trận Bồ Đằng... chẻ tro bay"
● Các trận thắng tiếp theo ở Đông Đô, Tây Kinh: "Ninh Kiều máu chảy thành
sông... nhơ để ngàn năm"
=> Hình ảnh có phần ghê rợn nhưng diễn tả chân thực hình ảnh những trận đánh lịch sử
- Hình ảnh quân ta hùng dũng, càng đánh lại càng hăng, đánh cho giặc tan tác, tuy
thắng nhưng không đuổi cùng giết tận mà đã cho giặc một con đường lui, cấp thuyền,
cấp ngựa cho chúng về nước => Tinh thần nhân nghĩa và kế sách hòa hoãn sáng suốt,
tránh mối hiểm họa sau này của cha ông. - Hình ảnh của giặc:
● Hèn nhát "nghe hơi mà mất vía", ham sống sợ chết "nín thở cầu thoát thân",
"bó tay để đợi bại vong... lực kiệt"... khác xa với hình ảnh ngang ngược hung hăng trước đó
● Kẻ chịu"bêu đầu", kẻ "đành bỏ mạng", tên Vương Thông muốn gỡ thế nguy
khốn nhưng "lửa cháy lại càng cháy"
● "Liễu Thăng cụt đầu; Lương Minh bại trận tử vong; Lí Khánh cùng kế tự vẫn"...
● Quân giặc đầu hàng, giẫm đạp lên nhau xin bỏ trốn...
* Nghệ thuật được sử dụng trong khổ thơ này:
● Nghệ thuật cường điệu, phóng đại
● Bút pháp tương phản, đối lập. 3. Kết bài
● Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật khổ 3 bài Bình Ngô đại cáo.
● Nêu suy nghĩ, cảm xúc của bản thân sau khi học xong đoạn trích. Dàn ý số 2 1. Mở bài:
● Giới thiệu về tác giả tác phẩm Bình Ngô đại cáo
● Dẫn dắt người đọc vào việc phân tích đoạn 3 của Bình Ngô đại cáo 2. Thân bài:
*Khẳng định quyết định thắng lợi trong cuộc khởi nghĩa đó là người lãnh đạo: Lê Lợi:
– Là người anh hùng có lòng tự tôn dân tộc, yêu nước thương dân, sự căm ghét giặc
ngoại xâm “Ngẫm thù lớn… không cùng sống”
– Lòng kiên trì “Nếm mật nằm gai… mười mấy năm trời” xây dựng lực lượng
– Khả năng thu phục, biết coi trọng nhân tài
– Sự quyết tâm đánh ngoại xâm dẫu gian khó “Tấm lòng… phía Đông”
“Tường thuật” diễn biến của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
*Giai đoạn đầu khởi nghĩa:
– Sự chênh lệch tất cả các mặt so với quân giặc
– Thiếu người tài ra giúp nước, thiếu binh sĩ tham gia giết giặc
– Lương thực cạn kiệt, giặc vẫn hoành hành ngày đêm, quân đội thưa thớt
=> Khó khăn chồng chất nhưng sĩ khí áp đảo kẻ thù, với sự đoàn kết, lạc quan.
*Giai đoạn phản công:
– Trận thắng đầu tiên thật vang dội: “Trận Bồ Đằng… chẻ tro bay”
– Các trận thắng tiếp theo: “Ninh Kiều máu chảy thành sông… nhơ để ngàn năm”
=> Hình ảnh diễn tả chân thực những trận đánh lịch sử
Quân ta hùng dũng, đánh cho giặc tan tác, nhưng không đuổi cùng giết tận mà cho
giặc con đường lui, cho chúng về nước => Tinh thần nhân nghĩa và hòa hoãn sáng
suốt, tránh mối họa sau này.
*Hình ảnh của giặc:
– Hèn nhát, ham sống sợ chết khác xa với hình ảnh ngang ngược trước đó
– Kẻ chịu”bêu đầu”, kẻ thì “đành bỏ mạng”, “lửa cháy lại càng cháy”
– Quân giặc đầu hàng, xin bỏ trốn…
*Nghệ thuật trong khổ thơ này:
– Nghệ thuật phóng đại – Bút pháp tương phản 3 Kết bài:
– Khẳng định lại giá trị khổ 3 bài Bình Ngô đại cáo.
Xem thêm: Phân tích đoạn 2 bài thơ Bình Ngô đại cáo
Bình ngô Đại cáo đoạn 3 - Mẫu 1
Trong mối quan hệ giữa lịch sử và văn học, ta bắt gặp những thời điểm lịch sử đồng
thời cũng là thời điểm văn học. Điều đó được minh chứng cụ thể qua Nam quốc sơn
hà với chiến thắng sông Như Nguyệt, Hịch tướng sĩ với cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên mông lần hai và Bình ngô đại cáo cùng cuộc đại phá quân Minh toàn thắng.
Thế nhưng Bình ngô đại cáo là trường hợp đặc biệt mà từ trước đến nay vẫn giữ vai
trò như áng “thiên cổ hùng văn” không tiền khoáng hậu. Cảm hứng về độc lập dân tộc
và tương lai đất nước đã hòa quyện và kết tinh thành sức mạnh của cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn trong khổ thơ thứ ba.
Đại cáo bình Ngô được đặt dưới hai nguồn cảm hứng là cảm hứng chính trị và cảm
hứng sáng tác. Cảm hứng chính trị đã đem đến cho dân tộc một bản tuyên ngôn độc
lập hùng hồn, đanh thép. Cảm hứng sáng tác đã khơi nguồn cảm xúc đem đến một kiệt
tác văn chương. Khi hai nguồn cảm hứng hòa quyện đã viết lên áng thiên cổ hùng văn
mang đậm giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ. Khổ thơ thứ ba nêu bật ý chí quyết chiến
quyết thắng của nhân dân Đại Việt.
Với cảm hứng dồi dào, phong phú tác giả đã dụng công khắc họa tháng ngày thắng lợi
vẻ vang nhất. Bám vào sườn lịch sử để cuộc khởi nghĩa hiện lên với tất cả tính chất
phong phú, lớn rộng, sinh động của nó. Bằng tài năng của mình, nguyễn Trãi đã tái
hiện tất cả diễn biến trong giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa và tập trung chủ yếu làm
nổi bật đời sống tâm lí của người anh hùng Lê Lợi.
Khắc họa hình tượng Lê Lợi tác giả đã sử dụng điển “nếm mật nằm gai” nói về Việt
Vương Câu Tiễn. Dường như chính cảm hứng anh hùng của dân tộc đã giúp tác giả
xây dựng thành công chân dung người anh hùng Lê Lợi:
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống.
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Với hoài bão và bầu nhiệt huyết yêu nước, Lê Lợi cùng những chiến hữu đã vững tay
chèo để vượt qua mọi gian nan thách thức, mọi gian khổ chông gai: thiếu nhân tài,
thiếu lương thực… Nhưng hơn tất cả nhờ “tấm lòng cứu nước”, nhờ “gắng chí khắc
phục gian nan” và nhờ “manh lệ chi đồ tứ lập”, “phụ tử chi binh nhất tâm” cuộc khởi
nghĩa dần bước qua khó khăn để buổi đầu đi đến cuộc tổng tiến công giành thắng lợi.
Xét về khoảng thời gian lịch sử từ năm 1418 đến 1424 là sáu năm “đau khổ” được
nhắc đến bằng hai sự kiện:
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần
Khi Khôi Huyện quân không một đội
Nó không chỉ tiêu biểu cho buổi gian lao của cuộc chiến mà còn nổi bật với tinh thần
lạc quan của người dân: lạc quan ngay trong hoàn cảnh đen tối, tin tưởng ngay khi tạm
thời thất bại. Chúng ta vững ý chí, chúng ta chắc niềm tin vì tin tưởng nhân dân, vì
biết phát huy sức mạnh của dân, đặc biệt là tầng lớp manh lệ:
Yết can vi kì, manh lệ chi đồ tứ lập
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm
Đó là tư tưởng lớn mà mãi sau này đến khi Nguyễn Đình Chiểu ta mới một lần nữa
thấy nhân dân tấp nập. Trong bản tuyên ngôn như Bình ngô đại cáo những người
manh lệ được nhắc đến công khai và đầy trịnh trọng “cũng là chưa thấy xưa nay”.
Hai câu thơ có ý nghĩa như bản lề chuyển tiếp:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo
Có thể nói sau bao suy tư, chiêm nghiệm, bao đớn đau, căm giận, sau bao lo lắng
quyết tâm đến lúc này tâm trạng tác giả mới thả lỏng đến hả hê, sảng khoái. Bao trùm
đoạn văn là những hình tượng phong phú, đa dạng được đo bằng thiên nhiên tráng lệ,
kì vĩ tiếp theo là vẽ ra khung cảnh chiến thắng “sấm vang chớp giật”, “trúc trẻ cho
bay”, “sạch không kình ngạc”, “tan tác chim muông”, “trút sạch lá khô” khiến “đá núi
cũng mòn”, “nước sông cũng phải cạn”.
Bên cạnh chiến công lẫy lừng của quân và dân ta là thất bại ê chề của tướng giặc khi
“máu chảy thành sông”, “máu trôi đỏ nước”, “thây chất đầy nội”, “thây chất đầy
đường”. Chiến trường khi ấy tan tác trăm bề, thời gian, không gian như đắm chìm
trong thuốc súng, khói bom “sắc phong vân phải đổi”, “ảnh phật nguyệt phải mờ” với
những chuyển rung dồn dập, dữ dội. Các tính từ chỉ mức độ ở điểm tối đa tạo thành hai mảng đối lập.
Bức tranh toàn cảnh về thất bại ê chề của kẻ thù thì mỗi tên một vẻ, mỗi đứa một
cảnh: Trần Hiệp phải chịu bêu đầu,… và gặp nhau ở một điểm là sự ham sống sợ chết
đến hèn nhát. Qua hình tượng kẻ thù hèn nhát và được tha tội chết đã nêu bật tính chất
chính nghĩa, nhân đạo sáng ngời của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
Voi uống nước, nước sông phải cạn
Đánh một trận, sạch không kinh ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông.
Sự dồn dập như xương sống của đoạn văn để hòa quyện giữa hình ảnh, âm thanh, nhịp
điệu nhằm miêu tả một cách chân thật cuộc tổng phản công thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Hình tượng kẻ thù thảm hại, bi thương, nhục nhã càng tăng thêm khí thế hào hùng của
khởi nghĩa. Qua hình tượng kẻ thù hèn nhát và được tha tội chết, được ưu ái tạo mọi
điều kiện tiếp tục sống, Nguyễn Trãi càng làm nổi bật tính chất chính nghĩa, tư tưởng
nhân nghĩa, nhân đạo sáng người của khởi nghĩa Lam Sơn.
Quả đúng, 4000 năm lịch sử đã vẽ lên trang sử hào hùng, đã phản ánh vào trong văn
học thông qua những nhà văn, nhà thơ lớn và đồng thời cũng là những anh hùng của
dân tộc. Trong lời tuyên bố kết thúc, cảm hứng về độc lập dân tộc và tương lai đất
nước đã hòa quyện cảm hứng về vũ trụ khi “bỉ”, khi “hối” nhưng không nằm ngoài
quy luật hướng tới sự sáng tươi, xây dựng “đài xuân dân tộc” khi vận hội duy tân đã mở.
Phân tích Đại cáo Bình ngô đoạn 3 - Mẫu 2
Nguyễn Trãi, một vị anh hùng dân tộc lẫy lừng của đất nước Việt Nam với nhiều công
lao, sự cống hiến hết mình để bảo vệ Tổ quốc. Tình yêu nước giống như ngọn lửa luôn
rực cháy và thổi bùng trong ông, lớn lên trong thời kì nước mất nhà tan do đó mà đã
tôi luyện và hình thành nên Nguyễn Trãi với một lòng nồng nàn yêu nước. Không chỉ
vậy, Nguyễn Trãi còn nổi tiếng bởi tài năng trong lĩnh vực văn học với những tác phẩm nổi tiếng.
Hầu hết, các tác phẩm của ông đều nói về tình yêu nước sâu sắc, lí tưởng cao cả. Điều
đó được thể hiện đậm nét qua bài Bình Ngô đại cáo, mà điển hình ở đây là đoạn 3 của
tác phẩm. Bình Ngô đại cáo Đoạn 3 giúp chúng ta hiểu hơn cuộc chiến chống quân
xâm lược trường kỳ của lịch sử ông cha ta.
Nguyễn Trãi đã cho chúng ta thấy điều đó khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong buổi
đầu sơ khai. Và hình ảnh đầu tiên xuất hiện là chủ tướng Lê Lợi: Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Cách tự xưng gần gũi ta, xuất thân nơi núi, chốn hoang dã cũng bước ra từ nhân dân
nhưng vì mến nghĩa mà đứng lên. Vị lãnh tụ mang theo trong mình tấm lòng căm thù
giặc sâu sắc, há đội trời chung, thề không cùng sống với bao nhiêu trăn trở, ưu tư đau
lòng nhức óc, quên ăn vì giận, những trằn trọc, nỗi băn khoăn cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Vượt qua những ngày tháng nếm mật nằm gai, thấu hiểu lẽ hưng phế ở
đời, người anh hùng ấy đã trở thành linh hồn của cuộc khởi nghĩa. So với địch, tướng
sĩ Lam Sơn khi bắt đầu hoàn toàn yếu thế. Đúng lúc khởi nghĩa là lúc quân thù đương
mạnh, nhân tài, tuấn kiệt của ta lại hiếm hoi, thậm chí quân tiếp viện, lực lượng trực
tiếp chiến đấu lẫn lương thảo đều ít ỏi, khó khăn. Vậy điều gì lại giúp Lê Lợi và cộng
sự của mình thắng lợi? Đó chẳng phải là:
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông;
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành về phía tả.
Người chủ tướng nhận mệnh lớn trời trao, biết khắc phục gian nan thì cũng tìm ra
được con đường chiến đấu. Vì thế, có tinh thần đoàn kết nhân dân bốn cõi một nhà,
tướng sĩ một lòng phụ tử; có kế sách lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều và trên hết
ta có đại nghĩa, có chí nhân để: Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Chính nhờ đó mà mỗi ngày, mỗi ngày lực lượng kháng chiến một lớn mạnh, lại biết
tận dụng thời cơ, quân ta đã mở những chiến dịch phản công và giành thắng lợi vẻ vang.
Trong phạm vi hạn hẹp của bài cáo, nhưng với sự khéo léo tài tình của mình, Nguyễn
Trãi đã tái hiện lại một cách chân thực, nhiều góc độ, giúp người đọc rất dễ hình dung
ra toàn cảnh của chiến trường. Trước hết phải kể đến những trận đánh liên tiếp, nối
dài, phủ rộng khắp mọi miền. Mở màn là chiến dịch là trận Bồ Đằng, miền Trà Lân ở
xứ Nghệ, tiếp tục kéo đến Tây Kinh xứ Thanh, rồi thẳng tiến về Đông Đô với hai trận
Ninh Kiều và Tốt Động, bảo vệ thành công Thăng Long. “Thằng nhãi con Tuyên
Đức” là vua nhà Minh lúc bấy giờ phải động bình cứu viện, nhưng nghĩa quân Lam
Sơn lại chặn đứng bọn viện binh bằng những trận đánh liên tiếp, mạnh mẽ:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu,
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.
Có thể nói, trong một đoạn văn dài người đọc không thể rời mắt, những trận đánh như
sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay, thừa thắng ruổi dài mà xông lên, cứ thuận đà mà:
Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông
Quân tướng thì khí thế hừng hực, quyết chiến, quyết thắng thật oai hùng:
– Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh
– Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn
Ta ở trong tư thế chủ động tấn công, lấn chiếm cả chiến trường. Từ không khí đến
cảnh tượng đều để lại thật nhiều ấn tượng:
Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.
Nhìn lại từ buổi đầu khởi nghĩa mà thấy thật là một kì tích, một sức mạnh thật phi thường.
Nhưng quá trình lược thuật về cuộc khởi nghĩa, không dừng lại ở việc ca ngợi chiến
thắng của ta, mà còn khắc họa một cách sống động, chân thực về sự thất bại của kẻ
thù. Cứ nghĩ đến cảnh Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường/ Xương Giang,
Bình Than, máu trôi đỏ nước ta không khỏi ghê rợn. Nếu ta chủ động thì giặc lại rơi
vào bị động, thất thế. Chứng cứ liên tục gỡ thế nguy, cứu trận đánh, bó tay để đợi bại
vọng, trí cùng lực kiệt… Lũ giặc cả tướng liên quân đều suy sụp về tinh thần, hao hụt
về ý chí nghe hơi mà mất vía, nín thở cầu thoát thân, kẻ bêu đầu, kẻ bỏ mạng, bại trận
tử vong, cùng kế tự vẫn… Thất bại nhục nhã, ê chề ấy là kết cục tất yếu của bọn chúng.
Tuy nhiên, đường nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi – Lê Lợi vạch ra từ ban đầu vẫn luôn
luôn soi tỏ. Ta chiến thắng nhưng biết điểm dừng, không dồn giặc vào thế khốn cùng
mà ngược lại còn mở đường hiếu sinh cho chúng một con đường sống, cũng là để toàn
dân nghỉ ngơi, lấy sức. Ta đã cấp cho chúng thuyền, ngựa để trở về. Vì thế thắng lợi
của ta là thắng lợi của tinh thần thượng võ, của lòng nhân ái, nhân văn. Cũng bởi vậy
mà kẻ thù đã thua lại còn phục, sẵn sàng cởi giáp ra hàng, trói tay tự xin hàng, lê gối
dâng tờ tạ tội, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc,
về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Giọng điệu sục sôi, khí thế, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, bút pháp tương phản, mang
tính sử thi, Đại cáo bình Ngô đã làm sống dậy những trang sử hào hùng, oanh liệt của
dân tộc. Niềm tự hào, kiêu hãnh không chỉ là ở những chiến công mà ở sức mạnh của
toàn dân quyết chí một lòng để làm nên chiến thắng vẻ vang.
Sáng đến đoạn cuối giọng điệu có phần thư thái, mang không khí mừng vui phấn khởi
khi nhắc đến vấn đề quan trọng nhất, đó là nền độc lập, cảnh thái bình.
Xã tắc từ đây vững bền Ai nấy đều hay
Vậy là từ nay đã chấm dứt cảnh bạo tàn, khốc liệt, sẽ không còn những tháng ngày
tăm tối, đau thương dưới ách quân thù. Lời tuyên bố độc lập như vang lên đầy hào
sảng, mang tới niềm vui sướng, tự hào cho muôn triệu con dân. Bao khao khát bấy lâu
nay, giờ cả non sông rạng rỡ, đến nhật nguyệt, càn khôn cũng sáng ngời. Dân tộc từ
nay có thể ngẩng đầu kiêu hãnh và hướng tới một ngày mai tươi sáng, một kỷ nguyên
xây dựng đất nước độc lập, hòa bình.
Đã sáu trăm năm trôi qua, lịch sử cũng đã lùi vào dĩ vãng, nhưng Đại cáo bình Ngô
vẫn trọn vẹn sức sống như thuở ban đầu. Bản văn kiện lịch sử mang tầm tư tưởng vĩ
đại, một luận văn tổng kết lịch sử yêu nước vô cùng xuất sắc, cũng là một áng văn
chương tiêu biểu cho ngòi bút thần Nguyễn Trãi. Tác phẩm chính là nguồn cảm hứng
bất tận cho bao thế hệ người Việt Nam về lòng yêu nước, về tinh thần đấu tranh bảo
vệ và dựng xây đất nước.
Phân tích Bình Ngô đại cáo - Mẫu 3
Sau khi đánh tan giặc Minh, Nguyễn Trãi thay mặt cho Lê Lợi viết bài cáo để thông
báo cho toàn thể nhân dân về trận đánh thắng lợi. Bài cáo không chỉ khẳng định được
chủ quyền nước nhà, tố cáo tội ác của giặc Minh mà còn trình bày quá trình từ đấu
tranh bất khuất đến thắng lợi của nhân dân Đại Việt. Đặc biệt vai trò lãnh đạo và ý chí
quyết đánh tan quân giặc của vua Lê Lợi được thể hiện rõ.
Mở đầu phần ba tác giả nêu lên những khó khăn mà bản thân vua Lê Lợi nói riêng và
nhân dân Đại Việt nói chung phải đối mặt: “Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.”
Đoạn thơ thể hiện những khó khăn và ý chí quyết tâm của vua Lê Lợi. Vì không chấp
nhận được cảnh nhân dân trở thành nô lệ cho bọn giặc Minh quỷ dữ kia mà người anh
hùng Lê Lợi đã quyết ở chốn hoang dã, nếm mật nằm gai mà chờ ngày dấy cờ khởi
nghĩa. Vua Lê căm thù giặc, đau lòng đến nhức óc, mộng mị cũng trằn trọc chỉ vì một
mục tiêu đánh bại quân Minh. Giữa lúc quân Minh đang còn mạnh vậy mà muốn khởi
nghĩa người tài lại khó tìm: “Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,”
Nghệ thuật so sánh càng cho thấy hoàn cảnh khó khăn của đất nước. Khó khăn chồng
chất khó khăn, nhà vua không có ai để bàn bạc hay đỡ đần. Tuy nhiên, lòng người
muốn cứu nước vẫn cứ đăm đăm hướng về phía Đông mong dẹp giặc. Trông người thì
người vắng bóng nên Lê Lợi phải tự mình gắng sức, phần vì muốn dẹp giặc phần vì lo
nỗi nước nhà. Cũng có những lúc lương hết, binh tan nhưng trăm dân như một, ý chí
quật cường, vua Lê sử dụng kế sách lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh.
Và sự thật cho thấy bằng những cố gắng vượt qua khó khăn và ý chí cũng chiến lược
thao binh tuyệt vời Lê Lợi đã lãnh đạo nhân dân giành được chiến thắng và đánh đuổi quân Minh về nước: “Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay ……..
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp”
Bằng biện pháp nghệ thuật liệt kê các sự việc từng trận đánh được nhà văn thuật lại
một cách chi tiết nhất. Những cái tên như Trần Trí, Sơn Thọ, Lý An, Phương Chính,
Tuyên Đức, Liễu thăng…đều trở thành những cái tên làm trò cười cho thiên hạ. Vì
tham công vì bạo ngược ngu dốt mà chuốc lấy. “Ngày mười tháng tám” rồi “ngày hai
mươi” tác giả sử dụng thời gian để thuật lại diễn tiến của quá trình vua Lê Lợi và
những binh sĩ của mình dành chiến thắng từng bước. Chúng ta lấy nhân nghĩa để trừ
bạo ngược, lấy chính nghĩa để thắng hung tàn. Các trận đánh đều sấm vang chớp giật,
tan tác tro bay. Đánh cho chúng không còn được rút lui phải bò ra mà xin hàng, xác
người chất thành đống, máu tanh trôi đầy sông.
Không chỉ thắng trận liên tiếp, Lê Lợi và những binh sĩ của mình thể hiện sự nhân
nghĩa nhân đạo kể cả khi chúng ta dành phần thắng:
“Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run. Họ đã tham sống sợ chết hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.”
Mặc dù thắng trận nhưng quân ta vẫn cấp cho chúng thuyền, ngựa để về. Theo Lê Lợi,
họ đã muốn hòa thực lòng thì ta nên giữ lấy toàn quân, để nhân dân nghỉ sức.
Đây quả là một quá trình chiến đấu đầy gian khổ để có chiến thắng như ngày hôm
nay. Chiến tranh của quân dân Đại Việt là chiến tranh chính nghĩa, lấy nhân nghĩa để
chiến đấu với bạo ngược hung tàn, và kết quả là chính nghĩa dành chiến thắng. Đồng
thời ta cũng tự hào về vua Lê Lợi – một người tài trí hơn người đã lãnh đạo nhân dân
đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi. Đặc biệt không thể không kể đến tài năng và
công lao của Nguyễn Trãi khi viết áng thiên cổ hùng văn này.
Phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo - Mẫu 4
Nguyễn Trãi, bậc thi hào lỗi lạc của trên văn đàn văn học Việt Nam, với kiệt tác Bình
Ngô đại cáo, nhà thơ đã để lại bản hùng ca thiên cổ cho thế hệ sau của dân tộc. Đặc
biệt đoạn thơ thứ 3 chính là bản hùng ca hào hùng về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn: “Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”
Đại từ ta mở đầu đoạn thơ ba như một lời khẳng định chắc chắn, hào hùng, thể hiện rõ
tâm thế của người thủ lĩnh Lê Lợi. Hơn ai hết, là một vị tướng dẫn quân đánh trận,
cũng là một bậc tôi trung, ông hiểu hơn ai hết cảm giác căm thù giặc đến tận xương
tủy, mà như trong đoạn thơ đã khẳng định hùng hồn: căm thù giặc thề không cùng
chung sống. Nhưng nếu chỉ giữ trong lòng ngọn lửa hận, thì sẽ sớm trở nên mù quáng
và hồ đồ, do đó, vị chủ tướng ấy không chỉ mang trong mình nỗi hận niềm đau, mà
còn dồn nén, chất chứa biết bao nhiêu niềm suy tư, trăn trở, đến nỗi “đau lòng nhức
óc”, “nếm mật nằm gai”, “quên ăn vì giận”, những trăn trở về kế sách binh lược, và
cũng cả những âu lo về khó khăn thách thức trong chặng đường phía trước sắp phải
trải qua. Bước đầu kháng chiến những khó khăn là vô vàn không thể kể xiết, nhân tài
như lá mùa thu, kẻ tài trí đỡ đần việc lớn thiếu thốn, chẳng có người chủ lực cùng sát
cánh trường kì, cả sự gian nan muôn trùng về binh lực so với đối thủ, ấy thế nhưng nó
lại trở thành đòn bẩy để những người chiến sĩ kiên cường, quyết liệt kháng chiến.
Cuối cùng, ông trời không phụ lòng người, không phụ sự hi sinh nếm mật nằm gai
đớn đau, vất vả của nghĩa quân Lam Sơn, đại sự đã thành công.
“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.”
Hình ảnh thiên nhiên được sử dụng trong 4 câu thơ như một cách nói hình ảnh, khắc
tạc chiến tích vĩ đại và sự hào hùng mà nghĩa quân Lam Sơn đã tạo ra. Hình ảnh gươm
mài đá, đá núi cũng mòn, và voi uống nước, nước sông phải cạn, phải chăng muốn
nhấn mạnh cho ta thấy tinh thần bền bỉ chiến đấu, sự kiên trì, hy sinh nhẫn nại của
những người chiến sĩ nghĩa quân Lam Sơn, đồng thời chỉ ra cho ta một chân lí trong
kháng chiến. Đó là kháng chiến trường kỳ, đồng thời cũng phần nào thấy được triết lý
mà nhà thơ luôn tin tưởng, đó là những cuộc chiến đấu vì chính nghĩa luôn luôn giành
chiến thắng xứng đáng. Các cụm từ miêu tả với động từ mạnh “sạch không kình ngạc,
tan tác chim muông” đã cho thấy sức tiến công, chiến đấu và tinh thần quật cường,
hào hùng của những binh lính tham gia chiến trận, chúng ta không chỉ giành chiến
thắng mà còn giành chiến thắng vẻ vang, quét sạch nhuệ khí và sự hống hách, kiêu ngạo của kẻ thù:
“Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run”
Cuối cùng, tác giả đã kết thúc đoạn ba của bài cáo với một giọng văn đầy từ hào khi
tái hiện lại những thắng lợi vẻ vang, liên tiếp của nghĩa quân trong cuộc kháng chiến
chống quân Minh xâm lược. Những thắng lợi góp phần lưu danh sử sách nghìn năm
còn mãi, về một thời kì dân tộc, chiến sĩ của quân ta đã chiến đấu, chiến thắng, từ đó
mà hun đúc nên tâm hồn yêu nước bất khuất, quật cường cho các thế hệ - cũng là nét
đẹp riêng của con người Việt Nam lịch sử. Mở đầu cho chuỗi chiến tích lịch sử hào
hùng của Nghĩa quân lam Sơn là chiến thắng Bồ Đằng, Trà Lân, rồi đến cả vùng Trần
Trí, Sơn Thọ, Lý An,... và cứ thế, mạch thơ trở nên sôi nổi, đậm chất tráng ca khi liệt
kê hàng loạt những chiến công lẫy lừng của vị chủ tướng Lê Lợi:
"Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khanh cùng kế tự vẫn".
Tổng kết lại có thể thấy trong phần ba của bài cáo, Nguyễn Trãi chia làm ba phần lập
luận chính, thứ nhất là tái hiện hình ảnh nghĩa quân Lam Sơn trong những ngày đầu
kháng chiến khó khăn, gian khổ để có thể làm nên nghiệp lớn. Tiếp đó, là niềm tự hào
và kiêu hãnh của tác giả khi không chỉ đánh thắng quân địch, mà còn làm chúng thua
một cách tâm phục không phục bằng cách liệt kê những thất bại ê chề, nhục nhã của
quân địch. Những câu thơ dài, với khí văn hào sảng đã toát lên rất rõ điều ấy. Những
dòng thơ cuối, là dòng thơ khép lại, là dòng cảm xúc đã được lắng đọng, dồn nén, là
bút lực sâu xa nhất mà nhà thơ gửi gắm, đó là niềm tin tưởng và khát mong một đất
nước, giang sơn thiên thu còn mãi:
"Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới Xa gần bá cáo Ai nấy đều hay”
Với giọng văn hào sảng, cùng cách lập luận sắc bén, sâu sắc, thuyết phục, Nguyễn
Trãi đã biến Bình Ngô đại cáo như trở thành bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của
dân tộc, là bản tổng kết lịch sử hào hùng, là khúc tráng ca vĩ đại bất tận về quá trình
chiến đấu, về chiến công, và về hình tượng người chiến sĩ lúc bấy giờ.
Xem thêm: Phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 1
Phân tích khổ 3 Đại cáo Bình ngô - Mẫu 5
Bình Ngô đại cáo là một văn kiện tuyên ngôn nền độc lập của Đại Việt và về quyền
quyền sống của con người và cũng là khúc thiên anh hùng ca của quân dân ta trong
chiến tranh chống quân Minh xâm lược. Đặc biệt khi đọc đoạn thơ thứ ba khắc họa
chân thực những trận đánh anh dũng của ta khiến địch máu chảy đầu rơi cả và cũng
thấy được cái tinh thần nhân đạo của quân dân nhà Lê.
Trong Bình Ngô đại cáo, nhân tố quan trọng mang đến chiến thắng trong cuộc khởi
nghĩa đó là vị anh hùng Lê Lợi. Nguyễn Trãi miêu tả đó là vị anh hùng có lòng tự tôn
dân tộc, căm ghét giặc Minh đến độ “Ngẫm thù lớn há đội trời chung/Căm giặc nước
thề không cùng sống”. Đó chính là nguyên nhân để Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa lấy nơi
hoang dã Lam Sơn làm căn cứ chờ thời cơ diệt giặc. Lê Lợi còn là vị lãnh tụ đáng
kính với tinh thần kiên trì “Nếm mật nằm gai/chốc đà mười mấy năm trời” xây dựng
lực lượng, thu phục quần hùng, coi trọng nhân tài và quan trọng là lòng quyết tâm
đánh giặc ngoại xâm “Tấm lòng cứu nước vẫn đăm đăm muốn tiến về phía đông”, tiến
về tương lai rực rỡ cho dân tộc.
Nghĩa quân ta lúc bấy giờ yếu kém về mọi mặt “Vừa lúc cờ nghĩa dấy lên/Chính là lúc
quân thù đương mạnh”, ta thiếu người tài “Tuấn kiệt như sao buổi sớm/Nhân tài như
lá mùa thu”, thiếu binh sĩ tham gia “Trông người người lại càng vắng bóng, mịt mù
như chốn bể khơi”. Trong khi đó, bọn giặc ngày đêm tàn sát, vơ vét của cải, nước đã
mất đến nơi, khiến Lê Lợi “vội vã như cứu người chết đuối”. Giặc vẫn hoành hành
“hung đồ ngang dọc”, tình cảnh khó khăn chồng chất khó khăn.
Với lòng quyết tâm, căm thù giặc nghĩa quân ta đã khắc phục khó khăn ban đầu vừa
hội tụ nghĩa quân, vừa đoàn kết “tướng sĩ một lòng phụ tử”. Ta sử dụng mưu lược
“dùng quân mai phục”, thế trận “lấy ít địch nhiều”, “lấy yếu chống mạnh”, khiến quân
dân ta bừng bừng khí thế, giành được nhiều chiến công vang dội. Điều này xuất phát
bởi tấm lòng nhân nghĩa của nghĩa, chứng minh một chân lý chính nghĩa ắt phải thắng
gian tà. Trận đầu tiên mở ra thắng lợi vang dội được Nguyễn Trãi tạo dựng với những
hình ảnh thiên hùng vĩ, về sự mạnh mẽ hùng dũng của nghĩa quân. Trái với ta thì quân
thù thật thảm hại “nghe hơi mà mất vía”, “nín thở cầu thoát thân” trái ngược hẳn với
vẻ ngang tàn trước đây. Thừa thắng xông lên, quân ta liên tiếp giành cứ điểm quan
trọng Đông Đô và Tây Kinh khiến “Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn
dặm/ Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm”. Đây là những hình ảnh chân
thực về chiến tranh phải đổ tuy máu của ta và của địch đều đổ xuống, nhưng ta thắng
sự chính nghĩa, tinh thần anh dũng hi sinh. Còn lũ giặc bại trận thì kẻ chịu “bêu
đầu”,“bỏ mạng”, tên tướng cầm đầu Vương Thông muốn thay đổi tình nhưng “lửa cháy lại càng cháy”.
Trên tinh thần nhân nghĩa vốn quân ta đã mở cho giặc đường lui nhưng chúng lại cầu
cứu một cách ngoan cố với việc cử mấy tên tướng Liễu Thăng, Mộc Thạnh Tuyên
Đức. Nhưng nào đâu ngờ
“Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Ta sau lại đưa tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực”,
Khiến lũ giặc Minh gặp hậu quả là “Liễu Thăng cụt đầu/Lương Minh bại trận tử
vong/Lí Khánh cùng kế tự vẫn” . Nghĩa quân ta trên đà lớn mạnh tiếp mở rộng quy
mô tuyển thêm binh sĩ chuẩn bị cho trận chiến, quét sạch bóng quân thù,
“Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông”
Khắp nơi xác giặc bỏ mạng với những hình ảnh “thây chất đầy đường, máu trôi đỏ
nước mang tính phóng đại, cho thấy sự tàn khốc của chiến tranh. Cái chất bi tráng ấy
phải lấy thiên hiên ra để diễn tả hết Cảnh quân giặc giẫm đạp lên nhau mà bỏ trốn thật
là thảm. Xuất phát từ tấm lòng của quân dân ta “đánh kẻ chạy đi không ai đánh người
chạy lại” ta đã “mở đường hiếu sinh” cho chúng. Hành động này vừa khiến giặc phải
kính sợ, vừa để nước ta tập vào xây dựng đất nước và cũng là kế sách hòa hoãn cho muôn đời sau này.
Phần ba của Bình Ngô đại cáo đã diễn tả chân thực quá trình khởi nghĩa, đánh đuổi
quân xâm lược của bằng giọng văn hào hùng, bi tráng, tiết tấu dồn dập cùng những
hình ảnh giàu sức gợi. Những hình ảnh bộc lộ sinh động sĩ khí của nghĩa quân khiến
tác phẩm xứng đáng với cái tên là một thiên anh hùng ca của dân tộc, đất nước.
Phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo - Mẫu 6
Hình ảnh của vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn và những khó khăn trong buổi đầu dấy
nghiệp. Nguyễn Trãi đã phản ánh chân thực giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn bằng bút pháp tự sự kết hợp với trữ tình. Tác giả đã khắc hoạ thành công hình
tượng Lê Lợi trong buổi đầu dấy nghiệp đầy gian khổ: Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Trong hình tượng Lê Lợi có sự thống nhất hài hoà giữa con người bình thường và thủ
tĩnh nghĩa quân. Lê Lợi xứng đáng là linh hồn của cuộc khởi nghĩa bởi ông có khả
năng tổ chức, tập hợp, đoàn kết mọi người, đồng thời có phẩm chất của một nhà quân
sự, chính trị tài ba. Lê Lợi căm thù giặc sâu sắc và có quyết tâm cao độ để thực hiện lí
tưởng đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi đất nước:
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống.
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;
Ngẫm trước đến nay, lễ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.
“Ngẫm thù lớn há đội trời chung, Căm giặc nước thề không cùng sống” là thái độ và
chí hướng của lãnh tụ. Đau lòng nhức óc, nếm mật nằm gai, quên ăn vì giận… là sự
rèn luyện, thử thách đối với bản thân, từ trái tim đến khối óc. Không phải một sớm
một chiều mà là suốt mười mấy năm trời. Bởi vì trong tâm trí lúc nào cũng canh cánh
mối lo toan cứu nước, cứu dân cho nên Lê Lợi luôn ở trong tâm trạng: Chỉ băn khoăn
một nỗi đồ hồi. Qua hình tượng Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã nói lên được tính chất nhân
dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Lúc đầu, so sánh tương quan lực lượng giữa hai bên thì ta yếu hơn giặc rất nhiều:
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đương mạnh.
Buổi đầu của cuộc khởi nghĩa vô cùng gian nan, thiếu thốn. Lê Lợi và nghĩa quân đã
phải vượt qua muôn ngàn khó khăn, gian khổ: Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài
như lá mùa thu. Thiếu quân, thiếu lương nhưng nhờ tấm lòng cứu nước, nhờ tướng sĩ
một lòng phụ tử mà cuộc khởi nghĩa đã vượt qua những khó khăn thử thách và ngày
càng lớn mạnh, đủ sức tổng phản công giành thắng lợi.
Vậy sức mạnh nào đã giúp nghĩa quân Lam Sơn vượt qua những khó khăn nói trên?
Trước hết, nghĩa quân có sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa, của ý thức dân tộc, của
mục đích chiến đấu là nhằm mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, bảo vệ nền độc lập và
truyền thống văn hiến lâu đời của quốc gia Đại Việt. Sau đó, yếu tố quan trọng quyết
định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa là tài trí mưu lược, phẩm chất anh hùng của Lê
Lợi. Ông thể hiện rất rõ vai trò của một bậc minh chủ: căm thù giặc sâu sắc, tự tin, tự
nguyện đặt vận mệnh của quốc gia, dân tộc lên vai mình.
Phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo - Mẫu 7
Bình Ngô đại cáo không chỉ là một văn kiện nhằm tuyên ngôn nền độc lập của Đại
Việt, tuyên ngôn về quyền quyền sống của con người mà nó còn là khúc thiên anh
hùng ca về cuộc kháng chiến của quân dân ta trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống
quân Minh xâm lược. Ở đó, ta thấy hiện lên thật chân thực và hào hùng những trận
đánh đi vào lịch sử, những trận đánh khiến địch máu chảy đầu rơi cả trăm năm sau
vẫn còn kinh hãi, cũng thấy được cái tinh thần nhân nghĩa, nhân đạo của chủ, tướng nhà Lê.
Trong Bình Ngô đại cáo, trước hết phải nhắc đến nhân tố quan trọng hàng đầu trong
cuộc khởi nghĩa đó là chủ soái Lê Lợi. Nguyễn Trãi miêu tả ông là người anh hùng có
lòng yêu nước thương dân, lòng tự tôn dân tộc sâu sắc, thế nên ông căm ghét giặc
Minh vô cùng "Ngẫm thù lớn há đội trời chung/Căm giặc nước thề không cùng sống",
ghét đến độ phải một mất một còn, ta và địch buộc một bên phải tiêu vong. Đó chính
là nguyên nhân, là tiền đề đầu tiên để vị lãnh tụ Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa chốn Lam
Sơn, lấy nơi hoang dã làm căn cứ nương mình, chờ thời cơ diệt giặc. Hơn thế nữa, Lê
Lợi còn hội tụ rất nhiều yếu tố khác để trở thành vị lãnh tụ đáng kính bao gồm lòng
kiên trì bền bỉ "Nếm mật nằm gai/chốc đà mười mấy năm trời" để xây dựng lực lượng,
có khả năng thu phục quần hùng, biết coi trọng nhân tài "cỗ xe cầu hiền thường chăm
chăm còn dành phía tả" và quan trọng nhất đó là lòng quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại
xâm dù có bao nhiêu gian khó "Tấm lòng cứu nước vẫn đăm đăm muốn tiến về phía
đông", tiến về mặt trời, về một tương lai tươi sáng rực rỡ cho dân tộc.
Thế nhưng dù có chủ soái giỏi, nhưng nghĩa quân ta lúc bấy giờ còn yếu kém về mọi
mặt so với quân địch "Vừa lúc cờ nghĩa dấy lên/Chính là lúc quân thù đương mạnh",
về sĩ khí ta áp đảo quân thù, nhưng về mặt vật chất quân số rõ ràng ta nằm ở thế yếu,
mọi khó khăn chồng chất cứ đổ dồn trong buổi đầu dựng cờ khởi nghĩa khiến Lê Lợi
phải "đau đầu nhức óc". Thứ nhất là ta thiếu người hiền tài đứng ra giúp nước "Tuấn
kiệt như sao buổi sớm/Nhân tài như lá mùa thu", thiếu cả binh sĩ tham gia khởi nghĩa
giết giặc "Trông người người lại càng vắng bóng, mịt mù như chốn bể khơi". Trong
khi đó, quân giặc vẫn ngày đêm tàn sát nhân dân, vơ vét của cải, không chuyện ác nào
không làm, nước đã mất đến nơi, đến độ khiến Lê Lợi lo lắng, mất ăn mất ngủ "vội vã
như cứu người chết đuối". Lương thực thì cạn kiệt, quân đội thì thưa thớt, giặc vẫn
hoành hành ngang dọc rêu rao làm việc "hung đồ ngang dọc", phải nói khó khăn chồng chất khó khăn.
Nhưng bằng lòng quyết tâm cứu nước, bằng lòng căm thù giặc sâu sắc nghĩa quân ta
bằng mọi cách để khắc phục khó khăn ban đầu. Hội tụ nghĩa quân, nêu cao tấm lòng
chính nghĩa, đoàn kết "nhân dân bốn bể một nhà", "tướng sĩ một lòng phụ tử". Vận
dụng mưu lược trong chiến đấu "dùng quân mai phục", tinh thần anh dũng hi sinh "lấy
ít địch nhiều", "lấy yếu chống mạnh", khiến cho mỗi trận đánh của quân dân ta đều sĩ
khí bừng bừng, thu được nhiều chiến công vang dội. Nguyên nhân xuất phát bởi tấm
lòng nhân nghĩa, chính nghĩa của nghĩa quân "Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/Lấy
chí nhân thay cường bạo", chứng minh một chân lý không thể dời đổi, chính nghĩa ắt
phải thắng gian tà. Những trận đầu tiên mở ra trường kỳ thắng lợi thật vang dội "Trận
Bồ Đằng sấm vang chớp giật/Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay", Nguyễn Trãi sử dụng
những hình ảnh thiên hùng vĩ, tạo nên sức gợi về sự mạnh mẽ, oanh tạc hùng dũng
trong từng trận chiến của nghĩa quân. Trái với hình ảnh oai hùng của nghĩa quân thì
quân thù lại trông thật thảm hại, kẻ "nghe hơi mà mất vía", kẻ thì "nín thở cầu thoát
thân" thật hài hước, nực cười, cái bọn trước đây hung hăng ngang tàn là thế mà nay
chẳng khác nào loài chuột lấm lem, chui lủi. Thừa thắng xông lên, vừa hành quân tiến
đánh vừa tuyển binh, quân ta liên tiếp giành lại những cứ điểm quan trọng như Đông
Đô, Tây Kinh. Giặc thất bại liên tiếp khiến "Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi
vạn dặm/ Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm", những hình ảnh có phần ghê
rợn, nhưng diễn tả một cách thật chân thực những trận đánh lịch sử, chiến tranh ắt
phải đổ máu là vậy. Máu của ta và máu của địch cùng đổ xuống, nhưng ta thắng ở tấm
lòng kiên cường, anh dũng hi sinh, thề sống chết với giặc. Quân giặc trước thế khí
hùng dũng của nghĩa quân ta thì khí thế tan tác, kẻ chịu "bêu đầu", kẻ "đành bỏ
mạng", tên Vương Thông muốn gỡ thế nguy khốn nhưng "lửa cháy lại càng cháy".
Quân ta hăng lại càng hăng, giặc chỉ còn đường "Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí
cùng lực kiệt", bởi con đường phản luân thường đạo lý chẳng bao giờ có thể đi xa.
"Chẳng đánh mà người chịu khuất ta đây mưu phạt tâm công", trên tinh thần nhân
nghĩa vốn ta đã định cho giặc một đường lui cuối cùng, xin hàng mà rút lui về nước
thế nhưng chúng lại âm mưu cầu cứu viện nhằm cứu vãn tình hình, thật ngoan cố
không thôi. Chẳng thế lũ nhãi nhép chuột bọ Liễu Thăng, Tuyên Đức, Mộc Thạnh lại
vấy vá, nhăm nhe tiến sang nước ta lần nữa nhằm lật ngược thế cờ đã sắp đến hồi kết.
Nhưng nào đâu có dễ thế, bởi "Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong/
Ta sau lại đưa tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực", để xem lũ giặc Minh còn
huênh hoang, vênh váo được đến bao giờ. Cái âm mưu hèn mọn của chúng dẫn đến
những hậu quả là "Liễu Thăng cụt đầu/Lương Minh bại trận tử vong/Lí Khánh cùng
kế tự vẫn" thế có phải là tự rước họa chỉ vì cái lòng tham dơ bẩn của mình không.
Địch càng tổn thấy, mất mát bao nhiêu, thì sĩ khí quân ta lại càng tăng, nghĩa quân
tràn đầy nhiệt huyết chiến đấu, hứng chí bừng bừng tựa như tiếng ngựa phi, tiếng chân
chạy rầm rập vang động cả núi rừng, "Thuận đà ta đưa lưỡi đao tung phá", khiến quân
giặc tan tác, "bí nước quay mũi giáo đánh nhau", đúng là chó cùng rứt giậu. Nghĩa
quân ta trên đà lớn mạnh.
"Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Tất cả là chuẩn bị cho trận chiến cuối cùng, quét sạch bóng quân thù, thế nên:
"Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ."
Quân giặc phải hốt hoảng mà xin hàng kẻo không kịp, khắp nơi đâu đâu cũng là xác
giặc bỏ mạng "thây chất đầy đường, máu trôi đỏ nước", những hình ảnh có tính phóng
đại, thể hiện được sự tàn khốc của cuộc chiến, đồng thời là cái hào hùng trong lịch sử
phân tranh của dân tộc. Cái chất hào hùng, bi tráng ấy Nguyễn Trãi phải lấy thiên
nhiên ra mới có thể diễn tả hết được: "Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi/ Thảm
đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ". Có thể thấy cái chết nào cũng đều đáng tiếc, trận
đổ máu nào cũng buồn thảm và đau đớn, âu cũng là sinh linh cả, một chốc mấy ngàn
mạng bỏ, thì trời đất cũng phải tối tăm vì đâu ai muốn cảnh "thây chất thành núi, cỏ
nội đầm đìa máu đen". Cảnh quân giặc rối rít xin hàng, giẫm đạp lên nhau mà bỏ trốn
thật thảm hại, tan tác, xuất phát từ tấm lòng nhân nghĩa "đánh kẻ chạy đi không ai
đánh người chạy lại" nên nghĩa quân ta đã cho giặc con đường về nước "mở đường
hiếu sinh", cấp thuyền, cấp ngựa, cấp lương thực cho chúng. Vừa khiến giặc phải nể
nang, kính sợ, vừa để quân ta dưỡng sức, tránh đổ máu nhiều hơn nữa, bắt tay vào xây
dựng đất nước. Nếu đuổi cùng giết tận chắc chắn để lại mối thù lớn trong lòng giặc,
sớm muộn cũng có ngày chúng sang trả thù thêm, lúc ấy ắt ta phải chịu thiệt thòi, nên
là lùi một bước cũng nên, kế sách hòa hoãn của cha ông ta muôn đời luôn sáng suốt là vậy.
Phần ba của Bình Ngô đại cáo đã tái hiện lại một cách chân thực, sinh động quá trình
khởi nghĩa, đánh đuổi quân Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn. Bằng giọng văn
rất đỗi hào hùng, bi tráng, tiết tấu nhanh, dồn dập, những hình ảnh thiên nhiên giàu
sức gợi, mang tính biểu tượng cao như mặt trời, mặt trăng, sông, núi hùng vĩ. Những
hình ảnh đầy nhiệt huyết, sĩ khí bừng bừng của nghĩa quân được miêu tả bằng những
cụm tính từ ở sắc thái cao nhất, đem so sánh với hình ảnh thiên nhiên to lớn, bao la.
Luận điệu thuyết phục, dẫn chứng có thực trong lịch sử càng làm tăng sức lôi cuốn,
đem đến một thiên anh hùng ca, một khúc tráng ca bất tận, vang động cả một thời,
khẳng định sức mạnh và chân lý của dân tộc, đất nước.
Phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 3 - Mẫu 8
Nguyễn Trãi là đại thi hào của nền văn học nước nhà. Bình Ngô đại cáo được xem là
“áng thiên cổ hùng văn” thấm đẫm nhiều cảm xúc, ghi chép về một thời hào dùng của
dân tộc. Đoạn 3 của bài cáo đã khắc họa một cách chân thực nhất cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn chống lại quân Minh dưới sự lãnh đạo của chủ soái Lê Lợi. Phân tích Bình
Ngô đại cáo đoạn 3 để hiểu rõ hơn về khởi nghĩa Lam Sơn.
Bình Ngô đại cáo, bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc ta. Vai trò chủ chốt của
chủ soái Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ngay từ những câu đầu tiên của đoạn
3, chúng ta đã thấy Nguyễn Trãi đã dùng ngòi bút của mình để xây dựng lại hình
tượng chủ soái Lê Lợi, người có công lớn nhất đem lại chiến thắng cho khởi nghĩa Lam Sơn: “Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống”
Nguyễn Trãi sử dụng đại từ “Ta” như đang dẫn lại lời nói của chủ tướng Lê Lợi,
khẳng định một tâm thế hào hùng, chắc chắn, cương quyết của người cầm quyền. Là
vị tướng dẫn đầu một đội quân lớn, một bậc tôi tớ trung thành của nhân dân, Lê Lợi
hiểu rất rõ những nỗi căm thù đối với giặc Minh xâm lược.
Lê Lợi, người chủ soái bản lĩnh, hy sinh hết mình vì độc lập dân tộc. Nỗi căm phẫn
này ăn vào tận sâu trong xương tủy, thề không đội trời chung “không cùng sống”
chung trên một mảnh đất. Hơn thế, chúng ta thấy được Lê Lợi đã nếm trải biết bao
nhiêu đau thương, gian khổ để tìm ra sách lược đối phó, đánh đuổi quân phương Bắc xâm lược:
“Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”
Tác giả dùng những từ ngữ giàu cảm xúc, mang tính nhấn mạnh đến nỗi đau, niềm
trăn trở suy tư của người cầm quân “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”, “quên ăn
vì giận”. Thể hiện được những lo âu về các khó khăn sẽ gặp phải trong cuộc đấu tranh
giành tự do cho dân tộc sắp tới. Đồng thời đó còn là nỗi trăn trở về kế sách, chiến lược
binh pháp sử dụng trong cuộc chiến. Trong bất cứ cuộc kháng chiến nào cũng có
muôn vàn những khó khăn, thiếu người tài để làm việc lớn, cũng không đủ nguồn
nhân lực có thể cùng chung chí hướng, sát cánh cùng nhau đánh tan giặc ngoại xâm.
Sự chênh lệch về binh lược so với đối thủ là rất lớn, nhưng đó lại là những tiền đề để
người chiến sĩ quyết liệt, kiên cường hơn với cuộc kháng chiến, tìm mọi cách để giành
độc lập, tự do cho nhân dân. Nhờ những sự hi sinh vất vả, vượt lên mọi gian khổ đó,
mà khởi nghĩa Lam Sơn đã giành thắng lợi, quân Minh xâm lược đã bị đánh bại.
Qua Bình Ngô đại cáo đoạn 3 ta cảm nhận được cuộc khởi Nghĩa Lam Sơn là cuộc
khởi nghĩa hào hùng, đi vào lịch sử dân tộc. Sau khi nhắc đến vai trò, những hi sinh
của chủ tướng Lê Lợi, của quân dân ngày đêm rèn luyện binh lược. Tác giả tái hiện lại
diễn biến đầy kịch tính của khởi nghĩa Lam Sơn:
“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.”
Để khắc họa chiến tích hào hùng của cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Trãi đã mượn hình ảnh
của thiên nhiên. Thiên nhiên với sông núi thì luôn hùng vĩ như những chiến tích mà
nghĩa quân Lam Sơn đã làm được. Tác giả sử dụng phép nhân hóa, phóng đại, “gươm
mài đá, đá núi cũng mòn,” “voi uống nước, nước sông phải cạn” để nhấn mạnh sự
kiên trì, bền bỉ trong chiến đấu, hy sinh cả tính mạng để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh
thổ. Dù cho cuộc chiến diễn ra trường kỳ, ác liệt nhưng tất cả quân và dân đều tin
tưởng vào một chiến thắng vẻ vang, chính nghĩa sẽ luôn thắng gian tà. “Đánh một
trận, sạch không kình ngạc” “Đánh hai trận tan tác chim muông” cho thấy sức mạnh
khủng khiến của nghĩa quân Lam Sơn. Tất cả đều mang trong mình một tin thần quật
cường, sức chiến đấu mạnh mẽ không chịu lùi bước trước quân thù, dập tắt tất cả sự
kiêu ngạo, hống hách của quân địch.
Tác giả nhắc đến tất cả các địa danh mà quân Lam Sơn đã giành thắng lợi, như một sự
khẳng định chúng ta đã đuổi tất cả bọn xâm lược phương Bắc ra khỏi bờ cõi nước Nam:
“Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
……………………..
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run”
Niềm tự hào dân tộc sâu sắc trước chiến thắng vẻ vang chống quân Minh xâm lược
Khi phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 3 ở những câu văn cuối cùng, ta cảm nhận được
sâu sắc niềm tự hào dân tộc trước chiến thắng vẻ vang của quân Lam Sơn. Đây là
thắng lợi đã được lưu vào sử sách dân tộc, như một lời nhắc nhở thế hệ mai sau về sự
hi sinh, quật cường của cha ông ta để giữ vững nền độc lập cho dân tộc. Từ đó, xây
dựng lòng yêu nước, sự tự hào trong mỗi con người Việt Nam dù cho là thời bình hay thời chiến.
Nguyễn Trãi đã liệt kê đầy đủ những chiến tích của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dưới sự
lãnh đạo tài tình của chủ tướng Lê Lợi: chiến thắng Bồ Đằng, Trà Lân, Trần Trí, Sơn
Thọ, Lý An, Mã An, Chi Lăng…:
“Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn”.
Quân địch đã thất bại một cách ê chề dưới tay quân và dân ta, phải tìm đến bước
đường cùng là “kế tự vẫn”. Trong vòng chưa đầy một tháng, nước Nam đã sạch bóng quân thù.
Như vậy, thông qua Bình Ngô đại cáo đoạn 3, ta thấy Nguyễn Trãi đã chia phần này
thành ba nội dung tách biệt nhưng liền mạch. Qua đó khắc họa một cách chân thực
nhất diễn biến của cuộc khởi nghĩa. Từ những ngày đầu chuẩn bị kháng chiến, tìm
kiếm, lên kế hoạch sách lược chiến đấu cho đến thời điểm cuộc chiến tranh nổ ra,
những chiến tích oanh liệt mà quân và dân ta đã làm được. Sau cùng là niềm kiêu
hãnh tự hào sâu sắc về tinh thần quật cường, vượt mọi gian khó của nghĩa quân Lam
Sơn. Chúng ta đã buộc quân Minh xâm lược phải nhận sự thất bại trong ê chề, hoảng
loạn chạy trốn không kịp về phương Bắc, nước Nam sạch bóng quân thù. Những dòng
thơ cuối như một lời khẳng định lặp lại, một cách chắc chắn rằng giang sơn đã thu về một mối:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới… Xa gần bá cáo Ai nấy đều hay”
Qua Bình Ngô đại cáo Đoạn 3 giúp chúng ta hiểu hơn cuộc chiến chống quân xâm
lược trường kỳ của lịch sử ông cha ta. Bằng ngòi bút đầy tự hào, lập luận sắc bén, giàu
sức thuyết phục Nguyễn Trãi đã làm nên một Bình Ngô đại cáo “hùng văn thiên cổ”,
xứng đáng với danh xưng bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc Việt. Bình Ngô
đại cáo trở thành bản tổng kết hào hùng của lịch sử dân tộc nước nhà trong cuộc
kháng chiến chống quân Minh xâm lược thời bấy giờ.