Văn mẫu lớp 10: Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi | Cánh diều

Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô Đại Cáo gồm 3 gợi ý cách viết kèm theo 14 bài văn xuất sắc của các học sinh giỏi. Qua bài văn phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi các bạn sẽ được trang bị kiến thức, suy nghĩ sâu sắc để nhanh chóng biết cách viết bài văn phân tích hay.

Dàn ý tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo
Dàn ý số 1
a) Mở bài
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm:
Nguyễn Trãi là một vị anh hùng dân tộc, một nhà văn hóa kiệt xuất, nhân vật
toàn tài số một của lịch sử Việt Nam thời phong kiến.
Đại cáo bình Ngô là bài cáo viết bằng văn ngôn do Nguyễn Trãi soạn thảo vào
mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo về việc
giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến với nhà Minh, khẳng định sự độc lập
của nước Đại Việt.
- Khái quát về tưởng nhân nghĩa tác giả muốn truyền đạt: đây tưởng quan
trọng chủ đạo trong bài, tưởng này mang tính nhân văn giá trị nhân đạo sâu
sắc.
b) Thân bài
* Quan niệm về tư tưởng nhân nghĩa
- Theo quan niệm Nho giáo: tưởng nhân nghĩa mối quan hệ giữa người với
người dựa trên cơ sở của tình thương và đạo lí.
- Trong quan niệm của Nguyễn Trãi: tưởng nhân nghĩa chắt lọc những hạt nhân
cơ bản nhất, tích cực nhất của của Nho giáo để đem đến một nội dung mới đó là:
Yên dân: Làm cho cuộc sống nhân dân yên ổn, no đủ, hạnh phúc.
Trừ bạo: Vì nhân mà dám đứng lên diệt trừ bạo tàn, giặc xâm lược.
=> Đó là tư tưởng rất tiến bộ, tích cực và phù hợp với tinh thần của thời đại.
* Sự thể hiện của tư tưởng nhân nghĩa trong Đại cáo bình Ngô
- Nhân nghĩa gắn với sự khẳng định chủ quyền, độc lập dân tộc.
Đứng trên lập trường nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền dân tộc bằng
một loạt dẫn chứng đầy thuyết phục:
- Nền văn hiến lâu đời
- Lãnh thổ, bờ cõi được phân chia rõ ràng, cụ thể
- Phong tục tập quán phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc
- Có các triều đại lịch sử sánh ngang với các triều đại Trung Hoa.
-> Khẳng định độc lập dân tộc chân lí, sự thật hiển nhiên không ai thể chối
cãi, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc.
=> Đây là tiền đề cơ sở của tư tưởng nhân nghĩa bởi chỉ khi ta xác lập được chủ quyền
dân tộc thì mới có những lí lẽ để thực thi những hành động “nhân nghĩa”.
- Nhân nghĩa thể hiện sự cảm thông, chia svới nỗi thống khổ của người dân mất
nước.
Đứng trên lập trường nhân bản, tác giả liệt hàng loạt những tội ác man của giặc
Minh với nhân dân ta:
- Khủng bố, sát hại người dân vô tội: Nướng dân đen, vùi con đỏ,...
- Bóc lột thuế khóa, vơ vét tài nguyên, sản vật: nặng thuế khóa, nơi nơi cạm đất
- Phá hoại môi trường, sự sống: tàn hại giống côn trùng, cây cỏ,...
- Bóc lột sức lao động: Bị ép xuống biển ngọc, người bị đem vào núi đãi cát tìm
vàng,...
- Phá hoại sản xuất: Tan tác cả nghề canh cửi,...
-> Nỗi căm phẫn, uất hận của nhân dân ta trước tội ác của giặc.
=> Niềm cảm thông, xót xa, chia sẻ với nỗi thống khổ mà nhân dân ta phải chịu đựng.
- Nhân nghĩa là nền tảng sức mạnh để chiến thắng kẻ thù
- Cuộc chiến của ta ban đầu gặp vàn khó khăn: Lương hết mấy tuần, quân không
một đội
- Nhưng nghĩa quân biết dựa vào sức dân, được nhân dân đồng tình, ủng hộ đã phản
công giành được thắng lợi to lớn:
Những thắng lợi ban đầu đã tạo thanh thế cho nghĩa quân, trở thành nỗi khiếp
đảm của kẻ thù
Nghĩa quân liên tiếp giành thắng lợi tiêu diệt giặc ở các thành chúng chiếm
đóng, tiêu diệt cả viện binh của giặc.
=> Tư tưởng nhân nghĩa với những hành động nhân nghĩa đã khiến quân dân sự
đoàn kết, đồng lòng tạo thành sức mạnh to lớn tiêu diệt kẻ thù bởi tất cả mọi người
đều cùng chung một mục đích chiến đấu.
- Nhân nghĩa thể hiện ở tinh thần chuộng hòa bình, tinh thần nhân đạo của dân tộc
+ Sau khi tiêu diệt viện binh, quân ta đã thực thi chính sách nhân nghĩa:
Không đuổi cùng giết tận, mở đường hiếu sinh.
Cấp thuyền, phát ngựa cho họ trở về.
+ Để quân ta nghỉ ngơi, dưỡng sức
-> Đây cách ứng xử với nhân đạo, vừa khôn khéo của nghĩa quân Lam Sơn, khẳng
định tính chất chính nghĩa cuộc chiến của ta, thể hiện truyền thống nhân đạo, nhân
văn, chuộng hòa bình của dân tộc Đại Việt.
=> Thể hiện tầm nhìn xa trông rộng để duy trì quan hệ ngoại giao sau chiến tranh của
dân tộc ta với Trung Quốc.
c) Kết bài
- Khái quát, đánh giá lại vấn đề trong tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi qua Bình
Ngô đại cáo
- Liên hệ tư tưởng nhân nghĩa trong thời đại hiện nay.
Dàn ý s 2
1. M bài
- Gii thiệu đôi nét v tác gi Nguyn Trãi và tác phẩm "Bình ngô đại cáo".
- Sơ lược v tư tưởng nhân đạo ca Nguyễn Trãi trong " Bình ngô đại cáo".
2. Thân bài
- Hoàn cnh sáng tác, th loi.
- Tư tưởng nhân đạo ca Nguyn Trãi:
Yêu nước, thương dân, khát vọng mang đến cuc sng m no cho dân, quan
tâm đến ý nguyn ca dân.
Lên án ti ác ca gic Minh.
Vì dân tr bo.
- tưởng nhân đạo đã chi phối Nguyn Trãi những hành động c th: góp công
sc vào cuc khởi nghĩa Lam Sơn, đánh đui gic Minh.
- "Bình ngô đại cáo" là bn cáo trạng đanh thép đối vi k thù xâm lược, th hin
nim t hào v mt dân tc.
- Bn cht tt đp của dân ta, luôn kiên cưng trong mi hoàn cnh.
- Lời văn cô đọng, hàm súc, chng c rõ ràng, lp lun cht ch đầy thuyết phc.
- ớng đến một tương lai tươi sáng, trên ới vua tôi đồng lòng góp sức mang đến
cuc sng m no, hnh phúc cho muôn dân.
3. Kết bài
- Khẳng định tưởng nhân đo ca Nguyễn Trãi trong " Bình ngô đại cáo" suy
nghĩ về trách nhim bản thân đối với quê hương, đất nưc.
Dàn ý s 3
I. M bài
Gii thiu tác gi, tác phm, tóm tt chính tr · Tác gi Nguyn Trãi, tác phm "Bình
Ngô đi cáo" · Ni dung: Bài cáo không nhng t cáo ti ác ca quân gic, ngi ca
cuc khởi nghĩa Lam Sơn mà chứa đậm tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc
II. Thân bài
Nêu s sâu sc v nhn thc ca tác gi đối vi tư tưởng nhân nghĩa
Nêu các tư tượng nhân nghĩa trong tác phẩm.
III. Kết bài:
Khẳng định giá tr của tư tưởng nhân nghĩa: Thế h hôm nay phi gi gìn và phát huy
đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa của truyn thng uống nước nh nguồn, luôn đưa tư tưởng
nhân nghĩa, tinh thần nhân đạo lên trên hết trong các tình hung.
Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô Đại cáo hay nhất
Xuyên sut chặng đường tn ti phát trin của văn học Việt Nam, ng nhân
nghĩa đóng vai trò như một si ch đỏ ni lin thi đại. Nhân nghĩa là mt trong nhng
truyn thng quý báu t bao đi nay ca dân tc ta, truyn thống đó được kế tha
phát huy theo chiu dài ca lch s. Nền văn học trung đại Việt Nam ra đời gn lin
vi quá trình dựng c gi nước đau thương oanh liệt, oai hùng. vy, hu
hết các tác phẩm ra đời trong thời này đều mang trong mình si ch đỏ xuyên sut
y, và mt trong những áng văn tiêu biểu nht không th không k đến “thiên cổ hùng
văn” của người anh hùng dân tc Nguyn Trãi “Bình Ngô đại o”, bài cáo đã vút
cao tinh thần độc lp dân tc, tinh thn yêu nước còn được ghi nhắc đến muôn đi.
Đặc bit cn phi k đến ởng nhân nghĩa được Nguyn Trãi th hin trong
“Cáo bình Ngô” đã trở thành giá tr tưởng cao đẹp nht mà nhân dân ta mãi ngi ca
và hướng ti.
“Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”
Đó là lời ca tng ni tiếng ca vua Thánh Tông dành cho Nguyn Trãi sau hơn hai
mươi năm bị m oan tày tri. Trong suốt bao năm qua, Nguyễn Trãi luôn được nh
tới như mt truyn k, va là một nhà tư tưng, nhà chính tr đại tài ca dân tc mt
bc anh hùng toàn tài hiếm có, người đã công trong việc phò vua xây dng
nghip ln, va là một nhà văn, nhà thơ kiệt xut ca nền văn học trung đi Vit Nam.
Cuc đi và s nghip ca ông được đúc kết trong câu thơ của Chế Lan Viên:
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh gic
Nguyn Du viết Kiu, đất nưc hóa thành văn”
(T quc bao gi đẹp thế này chăng?)
Các tác phm ca ông là s kết tinh đp đẽ nht của tư tưởng chính nghĩa, lòng yêu
nước nng nàn cùng lp lun sc so, cht ch, giọng văn hùng hồn, đầy tính thuyết
phc với tư tưởng ly dân làm gc. Và mt trong nhng tác phm ca ông th hin rõ
nht điu này không th không k đến áng “thiên cổ hùng văn” – “Bình Ngô đại cáo”.
“Bình Ngô đại cáo” là bài cáo được viết bng c văn do Nguyn Trãi son tho vào
mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định Vương Lê Li đ tuyên cáo v vic giành
chiến thng trong cuc kháng chiến vi nhà Minh, khẳng định s độc lp ca nưc
Đại Việt. Đây được coi là bản Tuyên ngôn độc lp th hai ca Việt Nam, sau bài thơ
thần “Nam quốc sơn hà”. Song, “Bình Ngô đại cáo” không phải ch đưc tiếp nhn
ch yếu như một văn bản hành chính mà còn được đón nhận như một kit tác văn
chương. “Bình Ngô đại cáo” qua ngòi bút thiên tài của Nguyn Trãi tr thành mt bn
anh hùng ca đp nht thi đi ca ông, thm đm tinh thn yêu nước, tư tưởng nhân
nghĩa mà người đi ca tng mãi v sau.
Tư tưởng nhân nghĩa xuất hin rt sm trong truyn thng triết hc Trung Hoa. Theo
Khng Tử, “nhân” là “yêu người” và để yêu người tht s bằng lòng “nhân” thì phải
“hiểu người”. Còn “nghĩa” được nhn mnh là s cư xử cho thích hp da trên vic
“hiểu người”. “Nhân” và “nghĩa” luôn thể hin phm chất cao đp ca ngưi quân t.
Xét đến Mnh Tử, ngưi kế tc Khng T, ch nhân đứng hàng đầu trong bốn đức
ln: Nhân Nghĩa – L Trí. Chúng bt ngun t bốn đầu mi ca Thiện. Trong đó,
lòng thương xót là đu mi ca nhân. Có th nói, những tư tưởng và những quan điểm
khác nhau v nhân nghĩa phản ánh đời sng tinh thn của con người Trung Hoa đã
ảnh hưởng sâu sc đến tư tưởng truyn thống phương Đông nói chung và Vit Nam
nói riêng.
Thế nhưng, sự tiếp nhn ca các bậc văn nhân Đại Vit đi với văn hóa Trung Hoa
không phi là s tiếp nhn th động và gieo trng lên mnh đất văn hc nhng ht
mm có sẵn mà đó là một s tiếp nhn có chn lc, kết hp hài hòa nhng tinh túy ca
tư tưởng nhân nghĩa Nho giáo với truyn thống quý báu bao đi ca dân tc Vit Nam
như:
“Lá lành đùm lá rách”
“Thương người như th thương thân”
Do đó, tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo khi vào nước ta đã đưc tiếp biến mt cách
tích cc. Nhân nghĩa ca Nho giáo vì thế hòa quyn cùng với nhân nghĩa của nhân
dân. Nguyễn Trãi đã tiếp thu trn vn nhng tinh hoa văn hoá ấy để ri tác phm nào
ca ông cũng thấm đưm tinh thần nhân đạo cao đẹp, yêu nước thương dân mà “Bình
Ngô đại cáo” là một ví d rõ nét.
-khốp đã từng khẳng định: “Một ngh sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo t
trong ct tủy”. Sê-khp coi tinh thần nhân đạo là phm cht bt buc phi có trong
mi ngưi cm bút, là tiêu chuẩn, điều kiện để đánh giá mức độ chân chính ca nhà
văn. Bởi tác phẩm văn học chân chính th hin cái tâm ca ngưi ngh sĩ, phi hàm
cha tinh thần nhân văn sâu sc, cha đng nim vui, ni kh đau của con ngưi.
“Bình Ngô đại cáo” chính là một tác phẩm như thế. Tinh thn nhân văn được Nguyn
Trãi th hiện trong bài cáo trước hết nm quan nim v tưởng nhân nghĩa của ông.
Ngay t đầu, Nguyễn Trãi đã khẳng định s đấu tranh này là vì li ích ca nhân dân:
“Tng nghe: Việc nhân nghĩa cốt yên dân
Quân điếu phạt trưc lo tr bạo”
Nhân nghĩa vn là một tư tưởng đạo Nho, là mi quan h gia ngưi vi ngưi da
trên cơ sở của tình thương và đạo lí. Nhưng ở đây, với bn ch “yên dân”, “trừ bạo”,
Nguyễn Trãi đã nâng nó lên một tm cao mi, tr thành một lý tưởng xã hi, mt đo
lý dân tc có giá tr đến muôn đời: việc nhân nghĩa ở đời cốt là lo cho dân đưc m no,
giúp cho dân được yên n. Nguyn Trãi đã khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là
quy lut tt yếu trong mi thời đại n là nòng ct, là tài sn, là sc mnh, sinh khí
ca mt quc gia. “Yên dân”, tc là làm cho cuc sng của nhân dân được yên n, no
đủ, hạnh phúc. Nhưng để được “yên dân” trưc phi lo “tr bo”, có nghĩa phải
nhân mà dám đứng lên dit tr bạo tàn, đánh tan quân xâm lưc.
đây, có thể nói Nguyễn Trãi đã sử dng tài tình nghịch lí “gậy ông đập lưng ông”:
ông dùng chính nhng luận điểm kinh đin v nhân nghĩa của tư tưởng Trung Hoa
từng được các bc thánh hiền như Khổng T, Mnh Tử,… đúc kết li mà bọn tướng
Minh đều đã thuộc nm lòng đ qut li bọn chúng. Đối vi Nguyễn Trãi, “nhân
nghĩa” không còn là mt quan nim đo đức hn hp mà là một lý tưng xã hi, c
cuc đời ông chưa từng có một giây phút nào ngưng lo nghĩ cho dân cho nước:
“D có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đ khắp đòi phương”
(Cnh ngày hè)
Bc anh hùng y lo cho dân bng tt c tình thương tận sâu nơi đáy lòng. Dân giàu,
nước mạnh, dân no đủ, nước thái bình, đây là giấc mơ Nguyễn Trãi luôn khc khoi
sut c cuộc đời du cho cuc đi y phi chu nhiều đắng cay và oan khuất, hơn hết,
nó còn là c mt hc thuyết nhân sinh p đã đến lúc bt ra thành li. Nếu giấc mơ
kia là ca bậc đại nhân, thì cái lõi tư tưởng ca giấc mơ là ca bậc đại trí. Đó là tư
ởng nhân nghĩa đã được Nguyn Trãi vch rõ ngay trong hai câu m đầu “Bình Ngô
đại cáo”, một tư tưng rt tiến b, tích cc, phù hp vi tinh thn ca thi đi và cho
đến ngày nay vn còn nguyên giá tr.
Nếu thế k XI lũ gic Tng hn xiêu phách lạc khi nghe âm hưởng ca bài thơ thn
Nam quốc sơn hà vang lên bên bến sông Như Nguyệt, hay đến thế k XX thc dân
Pháp cũng chẳng còn cái c nào kéo sang xâm phm nưc Nam sau khi nghe nhng
li dõng dc ca ch tch H Chí Minh trong bản Tuyên ngôn Đc lp, thì thế k XV,
Nguyễn Trãi cũng đã khẳng định mt cách hùng hn v lãnh th Vit Nam với lũ giặc
ngoại xâm. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyn Trãi còn gn lin với tư tưởng yêu nước,
vi vic bo v ch quyền đất nưc, khẳng định ch quyn quc gia và tinh thần độc
lp dân tc:
“Như nước Đi Vit ta t trưc
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông b cõi đã chia
Phong tc Bắc Nam cũng khác
T Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lp
Đến Hán, Đường, Tng Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mnh yếu tng lúc khác nhau,
Song hào kit đời nào cũng có.”
Ch mt t “ta” mang ý sở hu, Nguyễn Trãi cũng đã dõng dạc khẳng định rng lãnh
th Đại Vit là bt kh xâm phm. đây, ông đưa ra mt quan niệm đưc đánh giá là
đầy đủ nht lúc by gi v các yếu t to thành mt quốc gia độc lập: nưc Vit ta có
nền văn hiến t bao đi, có núi sông b cõi, ranh giới đã phân định, có phong tc tp
quán phong phú, có các triều đại sánh ngang vi “Hán, Đưng, Tống, Nguyên”, có
nhân tài phò vua dit gic. Còn nh trong “Nam quốc sơn hà”, Lý Thưng Kit mi
ch khẳng định bng một phương diện đó là lãnh thổ, nhưng lại sách tri. Đến “Cáo
bình Ngô”, Nguyễn Trãi mi nâng tầm chân lý độc lp lên nhiều phương din rt c
th ch không còn mơ hồ như trước. Đây là tiền đề cơ s của tư tưởng nhân nghĩa bởi
ch khi ta xác lập được ch quyn dân tc thì mi có nhng lý l để thc thi nhng
hành động “nhân nghĩa” làm cho quốc thái dân an.
Để nêu bật tư thế độc lp t ng ca dân tc, Nguyễn Trãi đã sử dng cách diễn đạt
sóng đôi. Đi Việt và Trung Hoa đã bao đi song song tn tại. Ông đã đt các triều đại
“Triệu, Đinh, Lý, Trần” của ta ngang hàng vi “Hán, Đưng, Tống, Nguyên” của
Trung Hoa, điều đó cho ta thấy, nếu không có một tình yêu nước nng nàn, mt lòng
t hào dân tc mãnh lit thì làm sao có đưc s so sánh tinh tế và sâu sắc như vậy.
Ngoài ra, câu văn còn đưc tăng sc thuyết phc lên gp bi khi Nguyn Trãi s dng
nhiu t ng ch tính cht hin nhiên vn có khi nêu rõ s tn ti ca Đi Vit: “t
trưc”, “đã lâu”,“đã chia”, “cũng khác”. Ngh thut thành công nht ca đoạn đầu tiên
nói riêng và c bài cáo nói chung chính là th văn biền ngẫu được nhà thơ khai thác
mt cách trit đ nhưng không kém phần tinh tế.
Như vậy, Bình Ngô đại cáo đã ghi nhn một chân lý độc lập đầy tinh thần nhân nghĩa.
Độc lp ấy có được không phi do tri định mà là do nhân định. Chính nhân dân bao
đời là người đã gây dựng nền độc lp. Biết bao xương máu đã đ xung, biết bao s
đồng cam cng kh, bao nhiêu m hôi, nưc mt của nhân dân đã đ xung c nghìn
năm để dng xây nên hình hài T quc. Vì thế, đó là điều “bất kh xâm phạm”. Suốt
c sáu trăm năm khi đt nưc đc lp t ch, lần đầu tiên chân lý ch quyn dân tc
được vang lên mt cách dõng dc, khí thế, t hào đến vậy. Như vậy, có th thấy tư
ởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi mang đm sc thái ca tinh thần yêu nước truyn
thng luôn chy trong huyết qun con Rng cháu Tiên.
“Văn chương bt h c kim đều viết bng huyết lệ” (Lâm Ngũ Đưng), phải chăng
khi viết những câu văn liệt kê tng ti ác tày tri ca quân gic đi vi dân ta, ngòi
bút ca Nguyễn Trãi cũng đã nhỏ l, trái tim ca ông cũng đã r máu? Tư tưng nhân
nghĩa ở Nguyn Trãi còn th hin s cm thông, chia s vi ni thng kh của người
dân mt nưc cùng ni tc gin, nim ut hn ngút tri vi ti ác không th dung th
ca quân gic. Vì thương dân, ông đã xót xa trưc nhng thm cảnh mà “quân cung
Minh thừa cơ gây hoạ” do “bọn gian tà bán nước cầu vinh”:
“Nướng dân đen trên ngọn la hung tàn
Vùi con đ xuống dưi hm tai v
Di tri lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây binh kết oán tri mấy mươi năm
Bi nhân nghĩa nát c đất tri.
Nng thuế khoá sạch không đầm núi.”
Chiến tranh đã gây ra bao đau thương , mất mát cho nhân dân ta. Chính sách đng hóa
ca nhà Minh va tàn bo va thâm đc, bao gm nhng th đoạn hy dit dã man, có
th nói tt c những gì là cơ sở tn ti v vt cht và tinh thn ca mt quc gia dân
tc chúng đu tìm cách hy dit dn. Chúng b tên nưc ta, chia làm quân huyện như
đất đai nhà Minh. Chúng đàn áp khng b cc kì man r hòng dp tt phong trào và ý
chí phn kháng của nhân dân ta. “Nướng dân đen trên ngọn la hung tàn”/ “Vùi con
đỏ xuống dưới hm tai v”, Nguyn Trãi s dng nhng t ng biu cm, gi hình gi
cảm như “nướng”, “vùi”, “dân đen”, “con đỏ”… Nhân nghĩa còn là s s chia đng
cm, cm thông vi nỗi đau của ngưi dân mất nước.
Lt li s sách, nhìn li nhng ti ác tày tri ca quân gic gây ra cho dân ta mà ch
biết ut nghn trong lòng: Chúng bt ph n, tr em làm nô lệ, mua bán như một th
hàng hóa. Chúng rút rut ngưi treo lên cây, nu tht ngưi làm du, phanh thây ph
n có thai, nưng sống người làm trò chơi, cht thây ngưi làm m mua vui.
Không ch có vy, bn gic còn thc hin mt chế độ sưu thuế cng np nng n để
vơ vét của ci, cướp đoạt tài nguyên, sn vt:
Ngưi b ép xung biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mp thung lung.
.......
Tan tác c ngh canh ci.”
Chúng phá hoại nhân dân thôi chưa đủ, còn phá hoi c i trường sng xung quanh
đến ni tàn hi cn trùng, cây c. Bn man r còn bóc lt đến tàn kit sc lao đng
ca người dân “bị đem vào núi đãi cát tìm vàng”, “ bị ép xung biển dòng lưng mò
ngc”, coi mng sống con người như cỏ rác mc cho “cá mp thung luồng”, mặc cho
“rừng sâu nước độc”. Chúng vơ vét tài nguyên đến tận cùng “vét sản vt”, “bt chim
tr”, “bẫy hươu đen” đến ni “chn chốn lưới chăng”, “nơi nơi cm đt”. Gic Minh
quy nhiễu đến ni sn xut b đình trệ “tan tác cả ngh canh ci”, cuc sng nhân dân
b hu hoi không còn li gì “tàn hi c ging côn trùng cây c”, đẩy nhân dân đến
bước đường cùng “nheo nhóc thay kẻ goá ba khốn cùng”. Chúng đã hung hăng,
ngang ngược xúc phm đến đạo lí nhân nghĩa của đt trời và lòng ngưi.
Còn nh trong “Hịch tướng sĩ”, Trần Hưng Đạo cũng có một trái tim cháy bng v
lòng căm thù gic và mt trái tim sắt đá quyết tâm đánh đuổi gic ra khi b cõi nước
nhà: “Ta thường ti bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gi, ruột đau như cắt, nước mt đầm đìa;
ch căm tức chưa xả tht, lt da, nut gan ung máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này
phơi ngoài nội c, nghìn xác này gói trong da nga, ta cũng vui lòng.” Đó là tâm trng
căm phn tột cùng và hào khí “sát thát” Đông A của thi Trn.
Còn trong “Bình Ngô đi cáo”, cùng vi mt nim phn ut thu tri, Nguyễn trãi đã
vch trn bn cht thc ca k xâm lược bng những câu văn chất cha biết bao nhiêu
phn nộ, bi thương. Ti ác ca gic Minh chng cht đến ni du cht tri tre rng
cũng không ghi hết, dơ bẩn đến ni nưc bin Đông cuồn cuộn cũng không rửa sch
mùi, khiến cho tri đt chng th dung th.
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết ti,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không ra sch mùi!
L nào tri đt dung tha? Ai bo thn dân chịu được?”
Ngòi bút nh máu ca Nguyn Trãi va th hin nỗi căm phẫn, nim ut hn nghn
ngào của ông trước ti ác ca gic, va bc l nim cm thông, xót xa, chia s vi ni
thng kh mà nhân dân ta phi chịu đựng sut mấy mươi năm. Ngay c khi b bn
lng thần đố k, vu cáo, thm chí b h gc, khiến ông buc lòng phi hai ln xin v trí
sĩ tại Côn Sơn, tấm lòng ưu quốc ái dân ca ông vn không lúc nào nguôi:
“ Bui mt tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cun cun nước triều dâng.”
(Thut hng)
Trưc nhng ti ác chng cht ca giặc như vy, chúng ta chmột con đường là
đánh đuổi chúng ra khi b cõi để tr bo, yên dân. Xót xa cho cảnh nước mt nhà tan,
Lê Li người anh hùng áo vi đt Lam Sơn đã phất c khởi nghĩa:
“Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngm thù lớn há đội tri chung
Căm giặc nước th không cùng sng.”
S sách còn ghi chuyn chàng thanh niên Nguyễn Trãi khóc theo cha đến tn i Nam
Quan khi cha ông là Nguyn Phi Khanh b gic Minh bt gii v Kim Lăng. “Nợ nước,
thù nhà”, Nguyn Trãi khc sâu li cha dn: “Con trở v lp chí, ra nhc cho nưc,
tr thù cho cha, như thế mi là đi hiếu”. Cuộc đời Nguyn Trãi bt đu bng thm
kch “nưc mt nhà tan”. Chính “mi hận Nam Quan” đã nhen nhóm ngọn la ca
lòng yêu nước thương nòi trong tâm khảm Nguyễn Trãi để mt ngày kia nó bùng cháy
thành ho diệm sơn đốt cháy quân gic. Nung nu chí vọng “đền n c, báo thù
nhà”, khi nghe tin Lê Li khởi nghĩa ở Lam Sơn, Nguyễn Trãi bèn trn khỏi Đông
Quan tìm vào Thanh Hoá gp Lê Lợi, dâng “Bình Ngô sách”, đưc Lê Li trng dng.
Ông đã đng cam cng kh với nghĩa quân Lam Sơn suốt mười năm kháng chiến, để
ri viết nên những câu văn chân thực nht v hin thc gian kh khi cuc khởi nghĩa
Lam Sơn mới bt đu:
“Li ngt vì:
Tun kiệt như sao bui sm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Vic bôn tu thiếu k đ đần,
Nơi duy ác hiếm ngưi bàn bc”
“Khi Linh Sơn lương hết my tun,
Lúc Khôi Huyn quân không một đội.”
Tuy gp nhiu thiếu thốn, khó khăn nhưng tinh thần và lòng quyết tâm đã dâng cao
như núi, tướng sĩ và nhân dân đều bn gan vng chí, chung sc chung lòng khc phc
gian nan, nh s đoàn kết ca toàn dân và chiến lưc, chiến thuật đúng đắn, nghĩa
quân biết da vào sc dân, được nhân dân đồng tình, ng h đã phản công giành được
thng li to ln. Rõ ràng nhn thc v vai trò, công sc của nhân dân đã được nâng
lên mt tm cao chưa thy trong lch s, phản ánh đúng đn tinh thn ca thi đi
chng Minh. đây, Nguyễn Trãi có cách miêu t rt ngn gọn nhưng vẫn làm ni bt
lên s hong s, hoang mang ca quân gic hai trận đánh ác liệt xy ra ti B Đằng
và Trà Lân, còn quân ta thì càng đánh càng mạnh, sĩ khí càng tăng cao:
“Sĩ khí đã hăng
Quân Thanh càng mnh
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lí An, Phương Chinh nín th cầu thoát thân.”
Với tư tưởng nhân nghĩa cao cả, “Đem đại nghĩa để thng hung tàn/ Lấy chí nhân để
thay cưng bạo” Nguyễn Trãi đã đưa ra một chân lý: phải giương cao ngọn c “nhân
nghĩa, an dân”, phải c gắng đoàn kết lòng dân làm sc mnh ca nưc, làm thế nước.
Để làm ni bt giữa nhân nghĩa với hung tàn, gia chính nghĩa với phi nghĩa, gia
chiến thng và chiến bi,… Nguyễn Trãi đã sử dng ngh thut đi lập, tương phản rt
tài tình, đem đến nhiu nim tin, lòng t hào, s h hê cho người nghe, người đc. Ta
vi giặc Minh khác nào như mặt tri vi bóng tối, như văn minh với man rợ, như tất
thng vi tht bi. Ông ch trương cứu nước bng sc mnh ca dân, mun ly li
được nưc phi biết ly sc dân mà kháng chiến. Sc mạnh nhân nghĩa ca nhân dân
ta “ly yếu chng mnh, lấy ít địch nhiều” đã làm nên chiến thng v vang đánh dấu
nhng mc son chói li trong trang vàng s sách. Nhng thng lợi ban đầu đã tạo
thanh thế cho nghĩa quân, trở thành ni khiếp đảm ca k thù:
“Ninh Kiu máu chy thành sông, tanh trôi vn dm
Tt Đng thây cht đy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc âm quân gic: Trn Hiệp đã phải bêu đầu.
Mt gian k thù: Lí Lượng cũng đành bỏ mạng.”
Tha thắng xông lên, nghĩa quân liên tiếp giành thng li tiêu dit gic các thành
chúng chiếm đóng, tiêu diệt c vin binh ca gic. Nguyn Trãi tp trung bút lc k v
chiến dịch Chi Lăng Xương Giang. Đây là bản hùng ca vang di nht ca cuc
kháng chiến trường kì.
Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh t Khâu Ôn kéo li,
Năm ấy tháng mười, Mc Thạch chia đường t Vân Nam tiến sang.”
Nhưng ta đã có sự b phòng chu đáo. Hai gọng kìm ca gic liên tiếp b b gãy:
“Ta trưc điu bnh th him, cht mũi tên phong.
Sau lại sai tướng chn đường, tuyt nguồn lương thực.”
Sau đó là những chiến thng dn dp. Ging văn hăm hở như có tiếng thúc gic chiến
thng của người viết, mch văn dồn đuổi như cố theo kịp bưc hành quân thn tc và
những đòn đánh cấp tp ca nghĩa quân:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trn t vong.
Ngày hai tám, Thượng thư Lí Khánh cùng kế t vẫn.”
Câu văn đúc lại, ngn gọn, đầy hình ảnh thâm xưng phóng đi nhm cc t sc mnh
vĩ đại, khí thế áp đo ca quân ta:
“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nưc sông phi cn,
Đánh mt trn, sch không kình ngc
Đánh hai trận, tan tác chim muông.”
Lit kê nhng chiến công vang di liên tiếp ca quân dân ta cũng như tô đậm tư thế đê
hèn của quân xâm lược lúc thm bi bng giọng văn hào hùng sảng khoái, Nguyn
Trãi vn nhm mục đích khẳng định hùng hn sc mạnh vô địch của tư tưng nhân
nghĩa và truyền thống nhân nghĩa tốt đp ca dân tc Vit.
“Nhân dân bn cõi mt nhà, dng cn trúc ngn c php phi;
ớng sĩ một lòng ph tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.”
C bản đại cáo là bài tráng ca, anh hùng ca v nhng chiến công hin hách, vinh
quang mà dân tộc đã chung sức, chung lòng làm nên được. Đúng là chỉ có chân lý đc
lp t do mới đem đến khí thế, khát vng cháy bỏng như thế. Nguyn Trãi hẳn đã chờ,
ch suốt bao nhiêu năm để t mình viết lên nhng khonh khc lch s chng bao gi
quên ấy. Để hơn một ln ông khẳng định chc chn cuc chiến này, s đồng khi này
là xut phát t chính nghĩa, từ tư tưởng nhân nghĩa đã tr thành đạo lý tt đp t bao
đời ca nhân dân Vit Nam ta.
Tư tưởng nhân nghĩa vi những hành động nhân nghĩa đã khiến quân và dân có s
đoàn kết, đng lòng to thành sc mnh to ln tiêu dit k thù bi tt c mi ngưi
đều cùng chung mt mc đích chiến đấu. Khi đánh giặc, càng đánh càng hăng, khí thế
ngập đất tri bi trái tim luôn tràn tr tình yêu nước. Bi thế nên quân ta mới đánh bại
quân gic. Lúc này, quân gic hin lên trong tht đáng thương, thm hi:
“Đô đc Thôi T lê gi dâng t t ti,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay đ t xin hàng.”
“B ta chn Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ng khiếp vía mà v mt!
Nghe Thăng thua Cn Trm, quân Mc Thnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.”
“Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chng kp,
Quân gic các thành khốn đốn, ci giáp ra hàng
ng gic b cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng”
Tư tưởng nhân nghĩa ca Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo” còn thể hin vic
đối đãi vi k thù. Nhân nghĩa thể hin tinh thn chung hòa bình, tinh thn nhân
đạo ca dân tc:
“Tưng gic b cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mng
Thần vũ chẳng giết hi, th lòng tri ta m đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bin mà vn hn bay
phách lạc, Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ nga, v đến nước mà vn
tim đp chân run.
H đã tham sống s chết mà hoà hiếu thc lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân ngh sc.
Chng những mưu kế kì diu
Cũng là chưa thấy xưa nay”
Đến khi chiến thng gic Minh, mt ln nữa, tư tưởng nhân nghĩa – tm lòng thanh
cao ca c Trai càng cao vi vi. Ông thương dân, mong mun sm yên bình cho
quân dân nên ông đã lấy toàn dân là hơn, để nhân dân ngh sức. Tư tưởng nhân nghĩa
trong suy nghĩ ca Nguyn Trãi là tinh thn yêu chung hòa bình, công lý, s hiếu
sinh, hiếu hòa, độ ng bao dung. Dân tộc ta đã mở đưng hiếu sinh cho k thù khi
chúng bi vong. Quân gic đã “tham sng s chết”, ta cũng chng cạn tình. Quan điểm
“lấy chí nhân để thay cường bạo” của Nguyễn Trãi chính là đưc biu hin đây.
Đây là cách ng x va nhân đo, va khôn khéo của nghĩa quân Lam Sơn, khẳng
định tính chất chính nghĩa cuộc chiến ca ta, va th hin truyn thống nhân đạo, nhân
văn, chuộng hòa bình ca dân tộc Đại Vit, va th hin tm nhìn xa trông rộng để
duy trì quan h ngoi giao sau chiến tranh ca dân tc ta vi Trung Hoa.
Coi trọng con người, quý trng nhân dân, coi trng tình hòa hiếu gia các dân tc ông
đã đặt nhân nghĩa lên trên tất c. Trong tác phm Cáo bình Ngô ca Nguyễn Trãi, tư
ởng nhân nghĩa dường như hòa quyện trong tng li tng ý, tỏa ra dưi ngòi bút sc
bén ca ông. Nguyn Trãi đã là một nhà thơ tư tưng ln biết chọn cho mình lí tưởng
đẹp đẽ và cao quý như vậy.
Bài cáo kết thúc. Câu văn chuyển sang nhp khoan thai, dàn tri, trang trng. Ging
văn hiền hoà tươi vui:
“Xã tc t đây vững bn
Giang sơn t đây đổi mi
Càn khôn bĩ rồi li thái
Nht nguyt hi ri li minh
Ngàn năm vết nhc nhã sch làu
Muôn thu nn thái bình vng chc”
Các hình nh xã tắc, giang sơn, kiền khôn, nht nguyt c tăng dần v độ ln có sc
mạnh vũ trụ, dường như mới đ đo được cảnh thái bình. Chân lý độc lp c thế
vang xa, vang rộng mãi. Nhưng niềm vui không n ào bi Nguyn Trãi hiểu hơn ai
hết cái giá đt ca chiến thắng, và cái ơn rt sâu ca đng bào, ca tri đt t tông
thiêng liêng đã đồng lòng giúp đỡ. Li tuyên b còn cha đng c đạo lý uống nước
nh ngun. Bi vy mi nói, tác gi ca bài cáo không ch tài năng trác vit mà đc
độ cũng vô biên. Giá tr độc lp, ch quyn ca bản đại cáo được thiết lp bi nhng
tư tưởng nhân văn, truyn thống đạo lý gc r như vậy. T đây dân tộc ta bưc sang
mt trang mi trang s vàng ca đc lp, t do, hoà bình. Nhân nghĩa ca Nguyn
Trãi là cn phi đấu tranh để cho dân tc Vit Nam tn ti và phát triển. Nhân nghĩa
giống như là một phép lạ, làm cho “Càn khôn bĩ rồi lại thái” / “Nhật nguyt hi ri li
minh”.
Phạm Văn Đồng có nhận định rằng “Văn chương của Nguyễn Trãi đã đạt đến đỉnh
cao ca ngh thuật, đều hay và đẹp l thường”. Bên cạnh giá tr nhân đo sâu sc,
“Bình Ngô đại cáo” , mt nét đc sc na v ngh thut là lời văn giấụ hình tượng.
“Bình Ngô đại cáo” có ngôn ngữ trang trọng, hình tượng tráng lệ, kì vĩ. Các thủ pháp
ngh thuật như so sánh, thậm xưng, cảm thán… được Nguyn Trãi s dng rt đc sc
gi cm kì l. Cáo là mt trong nhng th văn xuôi cổ; cách đặt câu mang tính quy
phm c điển. Nguyễn Trãi đã sử dng biến hóa các kiu câu t t, bát t, câu t lc,
câu song quan, câu cách cú, câu gi hc, làm cho nhịp văn lúc co ngắn, lúc dui dài,
lúc nén xung, lúc dn dập. Khí văn mạnh mẽ, mang âm điệu anh hùng ca.
Có khi là các thi liu văn liệu c đi vào bài cáo mt cách thanh thoát hp dẫn như: cần
trúc ngn cờ, nước sông chén rượu, trúc ch tro bay, sch không kình ngc… M đầu
là hai ch “yên dân”, kết thúc là”thái bình”, “chiến thắng”, là “thanh bình”, là “duy
tân” điểu đó đã thể hin tính nht khí, nht quân của Bình Ngô đại cáo. Ch nói v
phương diện ngh thut, Bình Ngô đi cáo xng dáng là bài ca thng trn, khúc hát
hòa bình của ông cha lưu mãi ngàn thu. Trong tác phẩm này, tác gi đã kết hp mt
cách uyn chuyn gia tính chân xác lch s vi cht s thi anh hùng ca qua lối văn
bin ngu mu mc ca mt ngn bút tài hoa uyên thâm Hán hc.
Nguyn Trãi từng nói: “Phàm mưu vic ln phi lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to
phi lấy nhân nghĩa làm đầu: duy nhân nghĩa có gồm đ thì công vic mi thành
công”. T xưa đến nay, ch nhng bậc đại nhân đại trí như Nguyn Trãi mi chn
nhân nghĩa (hay chủ nghĩa nhân đạo) làm nn tng cho s nghip ca mình. Ni dung
tư tưởng nhân nghĩa ca Nguyễn Trãi cơ bn là tinh thần yêu nưc, trng dân an dân,
lòng khoan dung đ ng kết hp vi ý chí hòa bình và xây dng đất nưc giàu mnh.
“Thanh nam châm thu hút mi thế h vẫn là cái cao thượng, cái đẹp và cái nhân đạo
ca lòng ngưi.” (Xê Lê Khốp). “Bình Ngô đại cáo” mãi là áng thiên c hùng văn, là
bn tuyên ngôn v ch quyền độc lp dân tc, bn cáo trng ti ác ca k thù, bn
hùng ca v cuc khởi nghĩa Lam Sơn mà trong đó thanh nam châm thu hút mi thế h
chính là tư tưởng nhân nghĩa cao đp của ngưi anh hùng dân tc Nguyn Trãi. Xin
được mưn li của nhà thơ Xuân Diệu để thay cho li kết: “Trưc Lê Li, đã tng có
chiến thng oanh lit đuổi sạch quân Nguyên xâm lược thi nhà Trn, sau thi Lê
Li, s có chiến thng thn tc của vua Quang Trung đánh đui 20 vn quân Thanh
xâm lược, nhưng trong văn học s ch có một áng văn Bình Ngô đi cáo, bi các l:
không có ba Nguyn Trãi để viết ba áng văn khải hoàn mà lch s đòi hỏi ba thi
điểm, mà ch có mt Nguyn Trãi c th, hiu c Trai, đầu triu Lê cùng vi tài
thao lưc kinh bang tế thế, đã có cái thiên tài viết văn”.
Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo ngắn
Nguyễn Trãi không chỉ một nhà quân sự kiệt xuất của dân tộc ông còn nhà
thơ, nhà văn chính luận tài ba của nền văn học trung đại Việt Nam với nhiều tác phẩm
xuất sắc được viết bằng cả chữ Nôm chữ Hán. Đặc biệt, nhắc tới những áng văn
chính luận của Nguyễn Trãi không thể nào chúng ta không nhắc tới "Bình Ngô đại
cáo" - một tác phẩm được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết ra sau cuộc kháng chiến
chống quân Minh. Tác phẩm đã để lại một n tượng sâu sắc trong lòng người đọc
được xem là "Bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc".
thể xem Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo ba cái mốc đánh
dấu những chặng đường phát triển rực rỡ của chủ nghĩa u nước trong văn học trung
đại Việt Nam. Tuy nhiên, Nam quốc sơn hà và Hịch tướng sĩ là hai bước của giai đoạn
tiến hành những cuộc chiến tranh giữ nước đại nhằm khẳng định sự tồn tại chủ
quyền của quốc gia Đại Việt. Bình Ngô đại cáo lại một giai đoạn khác, gian nan
hơn, vẻ vang hơn, giai đoạn đánh đuổi giặc ngoại xâm, giải phóng dân tộc khỏi ách
lệ. Nói cách khác, Bình Ngô đại cáo ra đời trong một giai đoạn lịch sử nhiều đặc
điểm khác biệt so với thời Lí Trần.
Sự thất bại của hai cuộc khởi nghĩa do Giản Định Trùng Quang lãnh đạo đã khẳng
định rằng sứ mệnh lịch sử của nhà Trần đã chấm dứt. Trong hoàn cảnh như vậy, vị
hào trưởng bình thường đất Lam Sơn nhận chân rất sức mạnh hay vai trò lịch sử
to lớn, có tính chất quyết định của yếu tố nhân dân trong công cuộc giải phóng dân tộc
khỏi ách đô hộ của giặc Minh. Được lòng dân, đoàn kết được toàn dân chính là đòi hỏi
lớn lao của thời đại đặt ra với những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Dựa
vào dân dựa vào chính nghĩa. chính nghĩa thì nhất định thắng lợi. Đây chính
tưởng lớn của thời đại chống Minh được Nguyễn Trãi nêu phần đầu bài Cáo:
"Nhân nghĩa chi cử yếu tại an dân" Suốt toàn bài, những từ ngữ, hình ảnh nói đến dân
chiếm một tỉ lệ khá cao so với các tác phẩm của những thời trước đó vốn tập. trung
tả hình ảnh người trai quý tộc u nước, khát khao lập chiến công. Dân trong bài cáo
tập hợp những dân đen, con đỏ (thương sinh, xích tử), những phu phen, tạp dịch,
những người dòng lưng ngọc, đã cát tìm vàng trong những Kim Trường Cục Châu
Trường Dục, những người làm ruộng, những kẻ lệ (manh lệ). Đó những tầng lớp
thấp nhất trong hội phong kiến nhưng lại chiếm đa số trên mảnh đất Đà Việt bao
đời tồn tại phát triển bằng nền kinh tế ng nghiệp. Thơ văn Trần ít chú ý đến
họ chỉ tập trung miêu tả hình ảnh những người anh hùng quý tộc. chứng tỏ
rằng thực tiến lịch sử của thời đại chống Minh đòi hỏi phải phá vỡ cách hiểu bị chi
phối nghiêm ngặt bởi đẳng cấp, tôn ti trật tự phong kiến về vai trò của quần chúng
thời Lí Trần. Sau này, trong thơ của mình, Nguyễn Trãi cũng hay nhắc đến vai trò lịch
sử của dân ông đã nhận thức được ngày một sản sắc trước, trong sau cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn.
Phúc chu dĩ tín dân do thủy
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên
(Lật thuyền mới biết dân như nước
Cậy hiểm khôn xoay được mệnh trời)
(Quan Hải)
Hoặc
Ở yên thì nhớ lòng xung đột
Ăn lộc đền ơi kẻ cấy cày
(Báo kính cảnh giới - 19)
tưởng yên dân sợi chỉ đỏ xuyên suốt, làm nền tảng cho sức mạnh của toàn bài
cáo. dân chính nghĩa. Nhân nghĩa thực sự phải dân. Dân người phẫn
nộ trước ách thống trị của ngoại bang và cũng chính dân, những người lấy gậy thay cờ
(Yết can vi manh lệ chi đồ tử tập) sẽ lớn mạnh, đoàn kết, hợp lực thành một cơn
bão dữ quét sạch xâm lược.
Khởi nguồn từ Khổng học, tưởng nhân nghĩa của Trung Quốc, thực chất, không
thực thi cho tầng lớp manh lệ hèn kém mà Nho giáo cho là những kẻ tiểu nhân mặc
về nghĩa của từ thì nhân nghĩa mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong một
hội, một cộng đồng. Theo Khổng học, tiểu nhân là những kẻ không đọc sách thánh
hiền nên học thuyết nhân nghĩa không thể nh cho họ. Trong Luận ngữ, Khổng Tử
nhấn mạnh nhiều lần sự khác biệt giữa người quân tử với kẻ tiểu nhân: "Quân tử ý
thức làm tốt cho người không làm điều ác còn tiểu nhân thì ngược lại"; "Quân tử
lo về đạo đức, tiểu nhân lo về đất đai,... Quân tử lo về việc nghĩa, tiểu nhân lo việc lợi
Điều nghĩa con đường, điều lễ cánh cửa, chỉ người quân tử mới biết đi con
đường đó, ra vào cánh cửa đó 4 Mạnh Tử phát biểu: "Dân vi quý tắc thứ chi, quân
vi khinh", thực chất nói đến một thứ chính trị được lòng dân chữ dân của ông
cũng giới hạn trong tầng lớp hằng sản. Ông khẳng định: "Nếu người dân không hằng
sản thì họ không hằng tâm” “không người quân tử thì lấy ai cai trị kẻ thôn
quê".
tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi sự kế thừa đầy sáng tạo học thuyết Nho giáo
bởi lẽ, chữ dân trong bài cáo chủ yếu để những tầng lớp thấp nhất trong hội
phong kiến, những manh lệ dân đen, con đỏ... Điều này hoàn toàn phù hợp với thực
tế lịch sử truyền thống nhân đạo tốt đẹp của dân tộc. Bình Nđại cáo cũng nhắc
đến quan điểm với Tquốc về những yếu tố cấu thành một dân tộc. Đây là quan điểm
tiên tiến của thời đại được phát biểu một cách hoàn chỉnh đầy sức thuyết phục so
với các thời đại trước đó. Nam quốc sơn hà quan tâm đến 3 yếu tố:
Địa (sông núi ớc Nam), Chính tr(vua Nam ở), Sách trời (thiên thư) hay thiên
mệnh
Hịch tướng sĩ quan tâm nhiều đến yếu tố thái ấp do bị chi phổi nặng nề của chế độ đại
điền trang đang phát triển mạnh mẽ thời Trần, Nguyễn Trãi phát biểu đầy đủ, ràng
hơn trên cơ sở thời Lí, Trần:
- Địa lí (núi sông bờ cõi đã chia)
- Nền văn hoá lâu đời (vốn xưng nền văn hiến đã lâu).
- Yếu tố tâm lí, phong tục, tập quán (phong tục Bắc Nam cũng khác)
- Các triều đại chính trị (từ Triệu, Đinh, Lí, Trần. )
- Người tài (song hào kiệt đời nào cũng có).
- Truyền thống lịch sử vẻ vang (Lưu Cung tham công nên thất bại).
Đây đoạn văn mang tính chất tổng kết những yếu tố cấu thành một cộng đồng dân
tộc. thể hiện một cách hiểu mới mẻ, sâu sắc, toàn diện, nh thành, phát triển
được kiểm nghiệm từ chính thực tiễn lịch sử. Stalin một định nghĩa được xem
khá hoàn chỉnh và dân tộc: Dân tộc là một khối cộng đồng ổn định thành lập trong lịch
sử dựa trên sở cộng đồng về tiếng nói, lãnh thổ, về sinh hoạt kinh tế tình hình
tâm thể hiện trong cộng đồng văn hóa. So với định nghĩa này, ta thể thấy quan
điểm của Nguyễn Trãi tiến bộ như thế nào trong thời điểm đó.
"Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi không chỉ một văn kiện lịch sử còn
một áng văn chính luận sâu sắc với sự kết hợp thuần nhuyễn giữa yếu tố chính luận
trữ tình. Trải qua bao nhiều ngàn năm phát triển lịch sử dân tộc nhưng giá trị, ý nghĩa
to lớn của bài cáo này vẫn còn nguyên giá trị cho đến hôm nay. Phần đầu của bài cáo
nêu một cách rõ ràng mối quan hệ hữu giữa 3 yếu tố: Nhân - Dân - Nước. Chính
mối quan hệ này mới nền tảng cho toàn bộ luận đề chính nghĩa của áng thiên cổ
hùng văn Bình Ngô đại cáo.
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo
Bài làm mẫu 1
Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu
Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng
(Tố Hữu)
Tuy ra đời gần sáu trăm năm, nhưng cho đến nay muôn đời sau nữa, Bình Ngô đại
cáo những tác phẩm khác của Nguyễn Trãi mãi mãi đi sâu vào lòng người.
tưởng nhân nghĩa trong thơ văn Nguyễn Trãi thấm sâu, ngay khi mở đầu Bình Ngô đại
cáo ông viết:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Vậy nhân nghĩa gì? Nho giáo cho rằng: Nhân nghĩa quan hệ tốt đẹp giữa người
với người trong cộng đồng. Khái niệm này mang nội hàm rất đẹp, rất tiến bộ cao
cả. Nguyễn Trãi đã khẳng định: Điều chủ yếu của nhân nghĩa phải giữ yên dân.
thương yêu dân, muốn cho dân được yên ổn làm ăn nên phải trừ bạo từ những k
sách nhiễu dân.
Từ quan hứng xử mang tính cách nhân, Nguyễn Trãi đã nâng lên thành tưởng
hội. một nhiệm vụ cụ thể, nói như Đinh Gia Khánh thì tưởng nhân nghĩa này
không hồ, gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước. Chính nhân nghĩa, thương
dân nên Nguyễn Trãi xem những hành động man rợ của quân Minh hành hạ dân như
đốt lửa thiêu sống, đào hố để chôn sống những người dân tội những việc phi
nhân nghĩa, là bạo ngược, do đó chúng phải bị trừng phạt. Như vậy nghĩa Việc
nhân nghĩa, hành động nhân nghĩa không phải một cái gì trừu tượng, chung chung,
nó biểu hiện bằng Việc cụ thể, là chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi, tiêu diệt các
cuộc phản nghịch chông triều đình để xây dựng xã hội vua sáng, tòi hiền. Việc ấy phải
được giao phó cho quân đội. Nguyễn Trãi không hồ về sự nghiệp giải phóng dân
tộc thể dùng đường lối thỏa hiệp cải lương để châm dứt can qua, hòa bình muôn
thuở, mà phải có sức mạnh của lực lượng quân sự và sức mạnh của đại nghĩa.
Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo
Không chỉ lấy nghĩa để thắng hung, không lấy nhân thay bạo, đây sự đối đầu
lịch sử của cuộc kháng Minh này, kẻ thù hung tàn ờng bạo. Nướng dân đen
trèn ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Tội ác trời không dung, đất không tha ấy của giặc Minh:
Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi
Tội ác ấy phải bị trừng phạt Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. Quân đây nhân dân:
Tập hợp thành đội quân đại nghĩa - chí nhân để chống lại quân cường bạo giặc Minh.
Vậy là triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi xét đến cùng là lòng yêu nước thương nhân
dân. Đó chính chủ nghĩa yêu nước. làm nền cho bản hùng ca bất hủ Cáo Binh
Ngô, ánh sáng diệu để Nguyễn Trãi nêu một quan điểm về quyền n tộc
do đó ông đã định nghĩa về đất ớc khá ràng, hoàn chỉnh, khoa học. Trong những
lời mở đầu bài cáo trang trọng, thật đĩnh đạc và tự hào.
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Trải qua bao biến động lịch sử, Nguyễn Trãi nói lại cái chữ đế đầy tinh thần độc lập tự
chủ ấy. Nước Đại Việt có cương vực, có lịch sử. có phong tục và có văn hiến, nghĩa là
nhân nghĩa. không cần không thể phụ thuộc để tồn tại. Mọi mưu toan muốn
biến nó thành quận huyện, thành chư hầu sẽ phải chịu thảm họa. Lịch sử đâu đã quên:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Thế nay bọn giặc Minh: Mượn tiếng điếu dân phạt tội, thực làm việc tàn bạo,
lấn cướp đất ớc ta, bóc lột nhân dân ta, thuế nặng hình phiền, vét của quý, n
mọn xóm làng không được yên ổn. Nhân nghĩa lại thế ư? (Bài 8 Quân Trung từ
mệnh tập). Cái thế đứng của một dân tộc trọng nhân nghĩa ấy sẽ bằng mọi giá
cho quân thù nếm cay đắng cha ông chúng ta phải trả giá cho sự tàn bạo lỗi đạo,
ngạo mạn, xấc xược...
Sức mạnh nhân nghĩa của nhân dân ta lấy yếu chống manh, lấy ít địch nhiều đã làm
nên chiến thắng.
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Những trang nhật chiến sự thể hiện một cuộc tấn công đại quy mô, mạnh mẽ, hào
hùng. Chiến thắng càng gần, thế trận càng trở nên biến hóa, kẻ thù chưa kịp trở tay đối
phó thì đã lại:
Đánh hồi trống thứ nhất, sạch không kình ngạc
Đánh hồi trống thứ hai, tan tác chim muông...
Miêu tả cuộc tổng tấn công đại pquân thù, lẽ trong lịch sử văn học Việt Nam
chưa bao giờ những trang o hùng sáng chói như thế. Đội quân làm nên chiến
thắng ấy, chính là đội quân đã xác định nhân nghĩa chiến đấu, an dân trừ
bạo.
Nhân nghĩa là sức mạnh để chiến thắng. Chí nhân, đại nghĩa là nền tảng của chủ nghĩa
nhân đạo dân tộc ta bao đời đeo đuổi để tạo dựng nền văn hiến mang bản chất truyền
thống của con người Việt Nam. Ở đây Nguyễn Trãi đã nêu cao chủ nghĩa nhân đạo ấy,
gắn bó với nhân nghĩa mà chủ nghĩa yêu nước.
Coi trọng con người, quý trọng nhân dân, coi trọng tình hòa hiếu giữa các dân tộc.
Chúng ta không sự man rợ của giặc trả thù bằng những hành động man rợ.
quý hơn sinh mạng con người? Người ta hoa của đất do đó nhân nghĩa sau chiến
tranh tấm lòng, ttuệ để giải quyết những hậu quả, cho Bốn phương biển cả
thanh bình,... Đối với quân giặc đã bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng.
Chúng ta đã chẳng giết hại cho chúng đường hiếu sinh. Chúng ta cái thế để xử
tội ác chiến tranh, đủ sức để trừng phạt, nhưng nhân nghĩa không cho phép chúng
ta làm điều khi bọn giặcđã tham sống sợ chết hòa hiếu thực lòng. Chúng ta tha
tội cho chúng để chấm dứt can qua trong tương lai, để được an dân không phải chỉ
ngày một ngày hai mà mãi mãi nhân dân được nghĩ sức trong thanh bình:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Nghĩa triết nhân nghĩa, hành động nhân nghĩa của chúng ta đã toàn thắng. Ta đã
đạt mục đích, không cần phải xử sự như những kẻ cuồng sát không nhân nghĩa.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện ngay cả khi cổ vũ quân dân ta tiêu diệt
giặc, nhưng lại rất cảm thông với nhân dân binh sĩ Trung Quốc bị tàn hại bởi chiến
tranh. Nguyễn Trãi từng vạch tội tướng giặc với nhân dân Trung Quốc: Chúng lại
muôn cùng binh độc vũ, khiến nhân dân tội liền năm phải thiệt mạng chốn gươm
đao, những kẻ lưu li phải nát gan ở nơi đồng cỏ (Bài 28 - Quân Trung từ mệnh tập).
Bình Ngô đại cáo xét về mặt tưởng thì đây tác phẩm nổi bật về chù nghĩa nhân
đạo, minh chứng hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh.
Triết nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý ta phải khai thác,
đào sâu, nhưng nổi lên bề mặt lộ thiên của nó chính là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm
thương dân. Vì yêu ớc thương dân Nguyễn Trãi những quan niệm tiến bộ về
bản chất mục đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ quôc Bốn phương biển cả
thanh bình. yêu thương dân trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi tố cáo tội ác
quân Minh đanh thép trong cuộc chiến tranh vệ quốc trở thành một tác phẩm còn lại
mãi với thời gian.
Đã sáu trăm m trôi qua, Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc nhà thơ, nhà
văn, ởng chính trị, thực sự sống mãi trong lòng dân tộc khi c thế hệ con cháu
mang tưởng nhân nghĩa của Người đã làm nên bao sự tích diệu, bao chiến công
lẫy lừng, như trong chiến tranh chống Chú tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu ởng
nhân nghĩa ấy mà đối xử nhân đạo với những tên giặc lái. Bọn chúng đã đem bom đạn
đến giết hại nhân dân ta tàn phá đất nước ta, gây bao tang tóc đau thương cho nhân
dân trên mọi miền đất nước, vậy mà khi bắt sốngchúng, ta vẫn đối xử nhân đạo cho
khách sạn Hintơn, sau ngày toàn thắng 30/04/1975 trao trả lại cho phía Mĩ. Phải
chăng đó là được bắt nguồn từ tư tưởng Nguyễn Trãi.
Đem đại nghĩa thẳng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo
Bài làm mẫu 2
Năm 1407, giặc Minh xâm lăng nước ta. Năm 1417, tại núi rừng Lam Sơn, Thanh
Hóa, Lợi phất cờ khởi nghĩa xưng Bình Định ơng. Trải qua mười năm kháng
chiến cùng gian lao anh dũng, nhân n ta quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi.
Mùa xuân năm 1482, thay lời Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo Bình Ngô đại cáo.
Bình Ngô đại cáo khẳng định sức mạnh nhân nghĩa, nhân dân Đại Việt căm thù lên án
tội ác ghê tởm của quân “cuồng Minh”, ca ngợi những chiến công oanh liệt thuở “bình
Ngô”, tuyên bố đất ớc Đại Việt bước o kỉ nguyên mới độc lập, thái bình bền
vững muôn thuở.
Tuy ra đời gần sáu trăm năm, nhưng cho đến nay muôn đời sau nữa, Bình Ngô đại
cáo những tác phẩm khác của Nguyễn Trãi mãi mãi đi sâu vào lòng người.
tưởng “nhân nghĩa’' trong thơ văn Nguyễn Trãi thâm sâu, ngay khi mở đầu Bình Ngô
đại cáo, ông viết:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Việc nhân nghĩa gì? Nho giáo cho rằng: Nhân nghĩa quan hệ tốt đẹp giữa người
với người trong cộng đồng. Khái niệm này mang nội hàm rất đẹp, rất tiến bộ cao
cả. Nguyễn Trãi đã khẳng định: Điều chủ yếu của nhân nghĩa gi“yên dân”.
thương yêu dân, muốn cho dân được yên ổn làm ăn nên phải “trừ bạo” là trừ những kẻ
sách nhiễu dân.
Từ quan hệ ứng xử mang tính cá nhân, Nguyễn Trãi đã nâng lên thành lí tưởng xã hội,
một nhiệm vụ cụ thể, nói theo Đinh Gia Khánh thì “tư tưởng này không mơ hồ, nó gắn
chặt với chủ nghĩa yêu nước”. Chính “nhân nghĩa”, thương dân nên Nguyễn Trãi
xem những hành động man rợ của quân Minh hành hạ nhân n ta như đốt lửa thiêu
sống, đào hố để chôn sống dân lành vô tội là những việc phi nhân nghĩa, là bạo ngược,
do đó chúng ta phải trừng phạt. Như vậy nghĩa “việc nhân nghĩa”, hành động
nhân nghĩa không phải một cái đó trừu tượng, chung chung, biểu hiện bằng
“việc” cụ thể chống quân xâm lược để giyên bờ cõi, tiêu diệt các nguồn phản
động chống triều đình để xây dựng xã hội “vua sáng, tôi hiền”. Việc ấy phải được giao
phó cho quân đội. Nguyễn Trãi không hồ về sự nghiệp giải phóng dân tộc thể
dùng đường lối thỏa hiệp mềm yếu để chấm dứt can qua, hòa bình muôn thuở,
phải có sức mạnh của quân sự và sức mạnh của “đại nghĩa”:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”.
Lấy nghĩa để thắng hung, lấy nhân thay bạo. đây trong sự đối đầu lịch sử của cuộc
kháng Minh này, kẻ thù là hung tàn và cường bạo:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.
Tội ác “trời không dung, đất không tha” ấy của giặc Minh:
“Trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Nước Đông Hải không rửa sạch mùi”.
Tội ác ấy phải trừng phạt: “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Quân ở đây là nhân dân:
tập hợp thành đội quân “đại nghĩa - chí nhân” để chống lại quân cường bạo giặc Minh.
Vậy là, triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi xét đến cùng là lòng yêu nước thương dân.
Đó chính chủ nghĩa yêu nước. Nó làm nền cho bản hùng ca bất hủ “Cáo bình Ngô”,
nó là ánh sáng kì diệu để Nguyễn Trãi nêu lên một quan điểm về quyền dân tộc, do
đó ông đã định nghĩa về đất nước khá ràng, hoàn chỉnh, khoa học trong lời mở đầu
bài cáo trang trọng, thật đĩnh đạc và tự hào.
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.
Trải qua bao biến động của lịch sử, Nguyễn Trãi lặp lại quyền vương để đầy tinh thần
độc lập tự chủ ấy. ớc Đại Việt cương vực, lịch sử, phong tục nền văn
hiến, nghĩa nhân nghĩa. không cần không thể phụ thuộc để tồn tại. Mọi
mưu toan muốn biến thành quận huyện, thành chư hầu phải chi thảm họa. Lịch sử
đâu đã quên:
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã".
Thế nay bọn giặc Minh “mượn tiếng điếu dân phạt tội, thực làm việc tàn bạo,
lấn cướp đất nước ta, bóc lột nhân dân ta, thế nặng hình phiền, vét của quý, dân
mọn xóm làng không được yên ổn”. Nhân nghĩa lại thế Lí? Thế đứng của một dân
tộc trong nhân nghĩa bằng mọi gcho quân thù nếm cay đắng cha ông chúng ta
phải trả giá cho sự tàn bạo “lỗi đạo”, ngạo mạn, xấc xược...
Sức mạnh nhân nghĩa của nhân dân ta “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều” đã làm
nên chiến thắng.
“Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn”.
Những trang nhật chiến sự thể hiện một cuộc tấn công đại quy mạnh mẽ, hào
hùng. Chiến thắng càng gần, thế trận càng trở nên biến hóa kẻ thù chưa kịp trở tay đối
phó thì đã lại:
“Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông”.
Miêu tả cuộc tổng tiến công đại phá quân thù, ltrong lịch sử văn học Việt Nam
chưa bao giờ những trang o hùng sáng chói như thế. Đội quân làm nên chiến
thắng ấy, chính đội quân đã xác định “vì nhân nghĩa mà chiến đấu, an dân trừ
bạo”.
Nhân nghĩa sức mạnh để chiến thắng. “Cnhân, đại nghĩa” nền tảng của chủ
nghĩa nhân đạo dân tộc ta bao đời đeo đuổi để tạo dựng nền văn hiến mang bản
chất truyền thống của con người Việt Nam. đây, Nguyễn Trãi đã nêu cao chủ nghĩa
nhân đạo ấy, gắn nó với nhân nghĩa là chủ nghĩa yêu nước.
Coi trọng con người, quý trọng nhân dân, coi trọng tình hòa hiếu giữa các dân tộc nên
chúng ta đã đặt nhân nghĩa lên trên tất cả. quý hơn sinh mạng con người?
“Người, ta hoa của đất’’ do đó nhân nghĩa sau chiến tranh tấm lòng, trí tuệ để
giải quyết những hậu quả, cho “bốn phương biển cả thanh nh”... đối với quân giặc
đã bị “cầm như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng”, chúng ta đã “chẳng giết hại”
cho chúng “đường hiếu sinh”. Chúng ta cái thế để “xử tội ác chiến tranh, đủ sức
để trừng phạt, nhưng nhân nghĩa không cho phép chúng ta làm điều đó khi bọn giặc đã
tham sống sợ chết hòa hiếu thực lòng”. Chúng ta tha tội cho chúng để chấm dứt
can qua trong tương lai, để được “an dân” không phải chỉ ngày một ngày hai mãi
mãi dân ta được “nghỉ sức” trong thanh bình:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới”.
Nghĩa triết nhân nghĩa, hành động nhân nghĩa của chúng ta đã toàn thắng. Ta đã
đạt mục đích, không cần phải xử sự như những kẻ cuồng sát không nhân nghĩa.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện ngay cả khi cổ vũ nhân dân ta tiêu diệt
giặc, nhưng lại rất thông cảm với nhân dân binh Trung Quốc bị tàn hại bởi chiến
tranh. Nguyễn Trãi từng vạch tội ớng giặc với nhân dân Trung Quốc: chúng lại
muốn cùng binh độc vũ, khiến nhân dân tội liền năm phải thiệt mạng chốn gươm
đao, những kẻ lưu li phải nát gan nơi chốn đồng cỏ” (Bài 28 - Quân Trung từ mệnh
tập).
Bình Ngô đại cáo xét về mặt tưởng tác phẩm nổi bật về chủ nghĩa nhân đạo,
chứng minh hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh. Triết
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn nmỏ quặng quý ta phải khai thác đào sâu,
nhưng nổi lên bề mặt lộ thiên của nó chính chủ nghĩa yêu nước, tình cảm thương
dân. Vì yêu nước thương dân Nguyễn Trãi có ởng tiến bộ về bản chất mục
đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ quốc ước vọng “bốn phương biển cả thanh
bình”. yêu thương nhân dân trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi tố cáo tội ác
quân Minh đanh thép như thế, miêu tả những trang hào hùng của quân dân ta trong
cuộc chiến tranh vệ quốc. Bình Ngô đại cáo trở thành một tác phẩm còn lại mãi với
thời gian.
Đã sáu trăm m trôi qua, Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc nhà thơ, nhà
văn, nhà tưởng chính trị, thực sự sống mãi trong lòng dân tộc khi các thế hệ con
cháu mang tư tưởng nhân nghĩa của Người đã làm nên bao kì tích, bao chiến thắng lẫy
lừng, như trong chiến tranh chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu tưởng
nhân nghĩa ấy mà đối xử nhân đạo với những phi công Mỹ ngụy. Họ đã đem bom đạn
đến giết hại nhân dân ta trên mọi miền đất nước, tàn phá đất nước ta, gây bao đau
thương tang tóc cho nhân dân ta. Vậy khi bắt sống những kẻ ấy, ta vẫn đối xử
nhân đạo sau ngày toàn thắng 30 - 4 - 1975 trao trả lại cho Mỹ. Phải chăng đó
được nguồn từ tư tưởng Nguyễn Trãi.
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
ấy chí nhân để thay cường bạo”.
Bình Ngô đại cáo vừa một bản tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống giặc
Minh vừa lời tuyên ngôn độc lập, hòa bình. Đồng thời áng “thiên cổ hùng văn"
khẳng định sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt.
Bài làm mẫu 3
Vua Thánh tông đã từng đề cao: Ức Trai lòng sáng tựa sao khuê ngày nay, nhà
thơ Hoàng Trung Thông đã đánh giá: Nguyễn Trãi tinh hoa của dân tộc qua bao
thời đại kết hợp lại. Trong suốt bao năm qua, Nguyễn Trãi được nhớ tới như một nhà
văn, nhà thơ vĩ đại của non sông Việt Nam, một nhà tư tưởng, một nhà chính trị đại tài
của dân tộc Việt Nam thế kỉ XV. Tuy gặp nhiều oan khuất và bi kịch, suốt cả cuộc đời
tận tụy cống hiến của Nguyễn Trãi được bao trùm bởi một tưởng đại: tưởng
nhân nghĩa, qua thơ văn ông, chúng ta có thể thấy điều đó. Bình Ngô đại cáo
một trong số các tác phẩm thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa này.
Tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp được thấm nhuần xuyên suốt qua từ câu đầu tiên:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
tưởng nhân nghĩa đã được khẳng định ngay từ đầu tác phẩm. Nguyễn Trãi đã viết
tự đáy lòng ông, chứ không chỉ như được từng nghe suông. Chính ông đã coi việc
nhân nghĩa cốt yên dân như mục tiêu phấn đấu cao nhất của đời mình. Cả cuộc đời
ông đã dành trọn cho những công việc nhân nghĩa, ta có thể coi đó là lí tưởng của ông.
Một lí tưởng cao quý. Với đạo đức nho giáo ngày xưa, nhân nghĩa là một điều con
người ai cũng phải có, và thể hiện bằng cách xử sự đối đãi tốt đẹp với người khác.
Nguyễn Trãi, nhân nghĩa đã được nhân lên một tầm cao hơn hẳn, mở rộng hơn
nữa: đó là lo cho dân, giúp cho dân dân ở đây nói với nghĩa bao trùm tất cả thiên hạ,
ta thể thấy lòng Nguyễn Trãi bao la suy nghĩ của ông thật rộng lớn. Với cách
một vị quan trên phương diện thay lời Vua để viết lời tuyên cáo chiến thắng,
Nguyễn Trãi đã khẳng định nhân nghĩa là yên dân tức là làm cho dân được yên ổn làm
ăn, ấm no hạnh phúc trong an bình. thế, quân điếu phạt trước lo trừ bạo, phải dẹp
tan giặc giã hung tàn để cho yên n. Ông thương dân lo cho dân với tất cả tấm
lòng mình, không phải để ban ơn cho dân mà là đền ơn dân như ông từng nghĩ ăn lộc,
đền ơn kẻ cấy cày. Đó một suy nghĩ hết sức tiến bộ đáng quý biết bao trong thời
đại lúc bấy giờ, mà qua bao thời gian, đến ngày nay vẫn vô cùng giá trị.
Trong suốt toàn i Cáo bình Ngô, ngòi bút của Nguyễn Trãi đã tỏ rõ lòng ưu ái đối
với dân. thương n, ông đã xót xa trước những thảm cảnh quân cuồng Minh
thừa cơ gây họa do bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Chúng đã:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Cũng từng chứng kiến sự tan cửa nát nhà, sự man rợ của bọn cuồng Minh sát hại
người vô số, nên Nguyễn Trãi đã hiểu rõ lòng thương cảm và căm giận thay khi những
người dân đang gặp cảnh chiến tranh khốc liệt. Những dân đen, con đỏ là những người
tầng lớp khốn khổ nhất hội, những người chuyên đi cày cấy, đi ở, đi làm thuê
xuất hiện dưới ngòi bút Nguyễn Trãi cùng tình cảm của ông. Sự quan tâm này thật
không dễ được những người vốn m quan lại như ông, thế đây điều rất
tốt đẹp của tư tưởng Nguyễn Trãi.
Càng thương dân, ông càng căm giận quân xâm lược. Đoạn kể tội giặc của ông với
những hình ảnh cthể trong bài Cáo bình Ngô đầy ớc mắt đồng cảm thương xót
cho nhân dân, cho quê hương cho cây cỏ núi sông, đồng thời ngùn ngụt lòng căm thù,
tức giận đối với kẻ ngoại xâm và bán nước.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc…
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Trước tội ác đến độ
Trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Nước Đông Hải không rửa sạch mùi
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần dân chịu được?…
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống.
tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã mách bảo ông rằng, đã đến lúc trừ bạo để
yên dân. Tâm trạng của ông, cũng là của Lợi canh cánh suốt ngày đêm nỗi lo làm
sao đánh giặc, cứu dân thoát cơn nguy biến giành lại độc lập cho giang sơn.
tưởng nhân nghĩa đây xét đến cùng lòng yêu nước thương dân. Lòng yêu nước,
thương dân đại ấy đã khiến Nguyễn Trãi cũng như Lợi: đau lòng nhức óc, nếm
mật nằm gai suốt mười mấy năm trời. Bài cáo toát lên một tinh thần yêu nước, tự hào
dân tộc khi nhắc lại lịch sử:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu…
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần, bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Đến khi chiến thắng giặc Minh, một lần nữa, tưởng nhân nghĩa tấm lòng thanh
cao của Ức Trai càng cao vời vợi. Ông thương dân, mong muốn sớm yên bình cho
quân dân nên ông đã lấy toàn dân hơn, để nhân dân nghỉ sức. Đối với vị chủ tướng
như ông, chiến thắng không phải tất cả, nếu nhân dân cần cuộc sống ấm no thì ta cho
họ, ta cũng không nên vì lợi lộc mà quên đi mục đích ban đầu.
Hơn thế nữa, tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn đối với những kẻ đã gây họa
cho nước Đại Việt. Theo ông, binh đao khói lửa chỉ chuyện bất đắc dĩ, làm hao
tổn sinh mạng, ông luôn mưu phạt tâm công, dùng áng văn chính luận sức mạnh
hơn 10 binh đtránh đổ máu thu phục được lòng người. Với quân tướng bại trận
của giặc, ông đã tha bổng giúp cho về nước, không giết hại: thể lòng trời, ta mở
đường hiếu sinh để giữ vẹn hòa hiếu. Ta thấy Nguyễn Trãi quả một con người nhân
nghĩa, với tấm lòng nhân hậu, bác ái và thanh cao tuyệt vời!
Trong tác phẩm Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, ởng nhân nghĩa dường như hòa
quyện trong từng lời từng ý, tỏa ra ới ngòi bút sắc bén của ông. Nguyễn Trãi đã
một nhà thơ tư tưởng lớn biết chọn cho mình lí tưởng đẹp đẽ và cao quý như vậy. Ông
đã nguyện dành hết tất cả tài đức, khả năng của mình cho việc nhân nghĩa, để trợ dân.
thế, sau khi về ẩn, khi vua mời ra làm quan, ông đã sẵn sàng ra ngay không nề
hà.
Tâm hồn Nguyễn Trãi đong đầy nhân nghĩa, rất thanh cao trong sáng, thể coi
như một viên ngọc quý. Tên tuổi ông một dấu son lớn trong trang sử danh nhân
Việt Nam. Tư tưởng nhân nghĩa của ông vượt thời gian - qua bao thế kỉ, bao triều đại,
vượt cả không gian - vang danh trên thế giới, ý nghĩa rộng lớn không biên giới của
lòng nhân nghĩa ấy để trở thành một tư tưởng vĩ đại của loài người.
Chúng ta kính trọng Nguyễn Trãi với tưởng nhân nghĩa quý báu đã góp phần lớn
lao cho lịch sử dân tộc, lại càng thương thay cho cuộc đời lắm éo le, oan khuất của
ông. Nguyên nhân cũng chính những kẻ xấu không chịu nổi tưởng của ông quá
tiến bộ, con người ông quá trong sạch tốt đẹp, sự trung thực của một con người
nhân nghĩa - Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi đã được mọi người đời sau thương mến kính
trọng tưởng hành động (rất nhân nghĩa) của ông. Chúng ta tin rằng, chúng ta
sẽ thực hiện được những điều ích cho n, cho ớc, như Nguyễn Trãi tổ tiên
chúng ta đã từng theo đuổi sẽ nhiều tấm gương sáng noi theo ông ngôi sao
khuê sáng mãi trên bầu trời Đại Việt.
Bài làm mẫu 4
Nguyễn Trãi một đại anh hùng của dân tộc danh nhân văn hóa của thế giới cũng
là một nhân vật toàn tài chịu nhiều oan khuất trong lịch sử xã hội Việt Nam. Ông cũng
được coi nhà văn chính luận kiệt xuất của dân tộc ta. Nguyễn Trãi một tác giả
xuất sắc về nhiều thể loại văn học kể cả chữ Nôm chữ Hán. Ông để lại một khối
lượng tác phẩm có giá trị cao và quy mô lớn.
Trong số đó tác phẩm “Bình ngô đại cáo”là một tác phẩm kiệt xuất của ông. Bìa thơ là
khúc tráng ca ca ngợi cuộc khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược của nghĩa quân
Lam Sơn. Hơn thế, tác phẩm đã trở thành áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ,
bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập vị thế dân tộc. điểm cốt
lõi mà “Bình Ngô đại cáo” thể hiện ở cả hai tư cách ấy chính là lý tưởng “nhân nghĩa”
mà nhân dân ta mãi mãi ngợi ca và hướng tới.
Mở đầu tác phẩm Nguyễn Trãi nêu lên một luận điểm về nguyên nhân nghĩa: “việc
nhân nghĩa cốt yên dân”Tư tưởng về nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trước hết chính
“yên dân”. Dùng nhân dân với cái nhân nghĩa để đi đánh giặc ngoại xâm đem lại bình
yên ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Dùng quân nhân nghĩa để đánh quân xâm lược
trước hết để an dân để yên dân, Nhân nghĩa tinh thần dân yên dân chính
nghĩa của nhân dân mang bản sắc dân tộc.
Nhân nghĩa đây chính để cứu dân để trbạo. Nvậy nghĩa “Việc nhân
nghĩa”, hành động nhân nghĩa không phải một cái trừu tượng, chung chung,
biểu hiện bằng “Việc” cụ thể, chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi, tiêu diệt các
cuộc phản nghịch chông triều đình để xây dựng hội “vua sáng, tôi hiền”. Việc ấy
phải được giao phó cho quân đội. Câu thơ tiếp theo làm tô đậm khẳng định thêm ý câu
thơ trước đó: “quân điếu phạt trước lo trừ bạo” Nguyễn Trãi đã coi việc an dân yên
dân là mục tiêu của nhân nghĩa còn “trừ bạo là đối tượng phương tiện của nhân nghĩa.
Như vậy người nhân nghĩa phải lo trừ bạo tức lo dẹp quân cướp nước. Dùng nhân
nghĩa để đối xử với kẻ bại trận xoa dịu hận thù để không gây hậu quả về sau cũng
chính nhân nghĩa đối với nhân n. thể nới tưởng y vừa cụ thể lại chỉ ra
điểm cốt lõi điểm bản nhất. Ta nhìn vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thì lẽ
tưởng nhân nghĩa ấy được đề cao hơn bao giờ hết:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”
Người nhân nghĩa phải lo trừ “bạo”, tức lo diệt quân cướp nước. Người nhân nghĩa
phải đấu tranh sao cho “hợp trời, thuận người”, nên thể lấy “yếu chống mạnh”, lấy
“ít địch nhiều”, lấy đại nghĩa thắng hung tàn”, lấy “chí nhân thay cường bạo”. Nhân
nghĩa cần phải đấu tranh để cho dân tộc Việt Nam tồn tại phát triển. Nhân nghĩa
giống nhưmột phép lạ, làm cho “càn khôn đã bĩ mà lại thái, trời trăng đã mờ lại
trong”.
tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi , vậy, mang đậm sắc thái của tinh thần yêu
nước truyền thống của người Việt Nam. Ở đây, có thể thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa của
Nguyễn Trãi đã vượt n trên tưởng nhân nghĩa của các thánh nhân trước đây
sự sáng tạo, phát triển trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. ởng nhân nghĩa ấy
còn được nhắc đến lòng thương dân tin tưởng nhân dân biết ơn nhân dân. Dân
chúng luân được ông nhắc đến trong chiến tranh trong thời hòa bình đất nước
độc lập.
Ông nhận thức rất mọi sản phẩm mình đang dùng đều được lấy từ nhân dân.
Nhân dân sản xuất ra mọi của cải vật chất , nhân dân làm ra lúc gạo quần áo làm ra
cung điện nguy nga nhân dân đã nuôi sống ông. Sống gần dân thương dân thương
dân, lúc nào ông cũng chỉ nghĩ cho nhân dân trước tiên tất cả nhân dân vài cuộc
ống yên ổn của nhân dân dân.
Chính thế ta thấy ngay từ câu đầu tiên của bài cáo ông đã nhắc đến nhân dân.
Bởi mọi hoạt động lớn nhất của quốc gia cũng chỉ nhằm một mục đích duy nhất đó
đem lại cuộc sống an nhàn cho nhân dân. Suốt cuộc đời ông sống gần dân nên ông đã
thấy được những đức tính cao đẹp của nhân dân hiểu được những mong muốn của
nhân dân.Tư tưởng nhân nghĩa ấy như đã được nói trên đó còn lòng bao dung với
kẻ thù.
tưởng ấy đã được Nguyễn Trãi thể hiện trong khởi nghĩa Lam Sơn và thể nới
chính tưởng ấy cùng với tài mưu lược quyết đoán của ông chính nguyên nhân
dẫn tới chiến thắng quân Minh của nhân dân ta. Ta kết hợp giữa sức mạnh của quân
đội với những lẽ thu phục quân giặc làm hạn chế máu rơi thiệt hại về quân sĩ. Đó
chính nhân nghĩa. Tư tưởng nhân nghĩa ấy còn được thể hiện sự khoan dung khi
kẻ thù đã bại trận.
Nó thể hiện đức hiếu sinh của dân tộc Việt Nam nói chung cũng chính là tấm lòng bao
dung của Nguyễn Trãi trong khi đối phó với quân địch trong cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn. Ta đánh địch bằng sức mạnh bằng ý chí sự căm thù quân giặc khi đã đem quân
sang định cướp nước ta. Nhưng khi giặc đã bại trận ta cũng không nên trút sự căm
giận đó thể tàn sát khiến cảnh máu chảy đầu rơi xảy ra. Ta chiến đấu cốt chỉ để lấy lại
đất đai để toàn vẹn lãnh thổ đó chính là mục tiêu cuối cùng.
Vậy cho nên khi đã thắng trận ta cũng không tàn sát để cho bọn chúng một con
đường lui để chúng được quay về đoàn tụ với gia đình người thân. Điều đó cũng sẽ
khiến cho dân tộc ta được tôn trọng được coi trọng biết ơn. Việc làm này cũng
khiến cho quân Minh e dè mà không dám quay lại nước ta tấn công nữa.
Chiến lược đánh giặc cứu nước, cứu dân, “mở nền thái bình muôn thuở” bằng nhân
nghĩa của Nguyễn Trãi đã ý nghĩa rất to lớn cả về mặt luận cũng như thực tiễn
đấu tranh cứu nước dựng nước của dân tộc ta. Nguyễn Trãi Lợi, cùng với
quân dân Đại Việt đã kiên quyết thi hành một đường lối kết thúc chiến tranh rất sáng
tạo, rất nhân nghĩa: “nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn hùng binh.
Gây lại hòa hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh cho muôn đời”. Đó thật sự
tưởng lớn của một con người tài “kinh bang tế thế” là một tưởng sức sống
“vang đến muôn đời”.Ta cũng thể nói thêm về tài chiến lược của Nguyễn Trãi còn
được thể hiện ở chỗ cầu người hiền tài giúp nước giúp dân. Nguyễn Trãi đã quan niệm
rằng người hiền tài càng nhiều thì xã tắc mới càng được hưng thịnh nhân dân mới
được ấm no hạnh phúc mới thể đánh đuổi quân giặc không m quay lại chiến
đánh trên đất nước ta thêm một lần nào nữa.
Bình Ngô đại cáo xét về mặt tưởng thì đây tác phẩm nổi bật về chủ nghĩa nhân
đạo, minh chứng hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh.
Triết nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý ta phải khai thác,
đào sâu, nhưng nổi lên bề mặt lộ thiên của nó chính là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm
thương dân. Vì yêu ớc thương dân Nguyễn Trãi những quan niệm tiến bộ về
bản chất mục đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ quốc “Bốn phương biển cả
thanh bình”.
yêu thương dân trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi tố cáo tội ác quân Minh
đanh thép trong cuộc chiến tranh vệ quốc trở thành một tác phẩm còn lại mãi với thời
gian.Tư tưởng nhân nghĩa trong “bình ngô đại cáo không chỉ ý nghĩa to lớn xét về
mặt nhân nghĩa còn tầm ảnh hưởng tới toàn thống chính trị của đất nước trong
những thời đại sau này nữa. tưởng nhân nghĩa ấy sẽ còn mãi trường tồn với dân tộc
với đất nước Việt Nam cho đến tận bây giờ.
Bài làm mẫu 5
Nguyễn Trãi một danh nhân n hóa lớn của Việt Nam, người đóng góp to lớn
trong công cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Ông không chỉ nổi tiếng
trong sự nghiệp chính trị còn một tác giả lớn của nền văn học Việt Nam. Nhắc
đến Nguyễn Trãi không thể không nhắc đến Bình Ngô đại cáo áng thiên cổ hùng văn
của dân tộc. Đặc biệt trong tác phẩm này, Nguyễn Trãi đã đưa ra những quan niệm
mới mẻ mang giá trị nhân đạo sâu sắc về tưởng nhân nghĩa. Nhân nghĩa ấy không
sáo rỗng rập khuôn Nho giáo lại hài hòa vào trong cuộc kháng chiến trong cuộc
sống của nhân dân. Cùng tìm hiểu về tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo.
Bình Ngô đại cáo ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt. Cuối năm 1427, sau khi
chiến thắng giặc Minh, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lợi viết nh Ngô đại cáo. Tính
chất trọng đại ấy thể hiện ngay nhan đề tác phẩm. Bình Ngô chính dẹp tan, dẹp
loạn tận gốc quân Minh xâm lược Ngô quê cha đất tổ của Chu Nguyên Chương,
người sáng lập nhà Minh.
“Đại cáo” thể hiện được quy rộng lớn, hướng đến mọi đối ợng trong hội.
“Bình Ngô đại cáo” bài cáo tuyên bố cho mọi người biết về sự nghiệp đánh tan
quân Minh xâm lược, kết thúc thời kì độc lập mở ra thời kỳ độc lập tự do cho dân tộc.
Tác phẩm được viết theo thể cáo một thể loại thừa được vua chúa sử dụng để ban
bố sắc lệnh, có thể viết bằng văn biền ngẫu hoặc văn xuôi kết hợp với văn vần.
Khi tìm hiểu về tưởng nhân nghĩa trong nh ngô đại cáo, ta thấy mở đầu tác phẩm
tác giả đã nêu ra luận đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến. Đó tưởng nhân
nghĩa, là sự tồn tại độc lập lâu đời của dân tộc ta, là những chứng cứ về sự thất bại của
giặc.
Có thể thấy, tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi thể hiện qua
nhiều phương diện, cụ thể như quan niệm nhân nghĩa, mục đích của cuộc chiến đấu….
Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo đã được Nguyễn Trãi sử dụng để mở đầu
cho tác phẩm và cũng là luận đề chính nghĩa đầu tiên:
“Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
tưởng nhân nghĩa sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. ởng nhân
nghĩa làm sở luận cho cuộc kháng chiến. Đây một tưởng được nhiều ớc
phương đông mặc nhiên thừa nhận. Nhân nghĩa là mối quan hệ tốt đẹp giữa con người
với con người trên cơ sở tình thương và đạo lý.
Trên squan điểm nhân nghĩa của Nho giáo tình hình n tộc, Nguyễn Trãi đã
xác định mục đích nội dung của tưởng nhân nghĩa “yên dân”, “trừ bạo”. “Yên
dân” khiến cho nhân dân cuộc sống ấm no, hạnh phúc, “dân giàu đủ khắp đòi
phương”. Đây là ởng lớn khát khao suốt đời Nguyễn Trãi theo đuổi. Bởi ông
hiểu chỉ có cuộc sống nhân dân ấm no thì xã hội mới có thể thái bình thịnh trị. Bởi dân
là gốc, sức dân là sức nước, nước có thể đẩy thuyền cũng có thể lật thuyền.
“Trừ bạo” chính diệt trừ những điều bạo ngược những điều khiến cho cuộc sống
nhân dân lầm than. Khi tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo, ta thấy đặt trong
hoàn cảnh đất nước bấy giờ, “bạo” đây chính giặc Minh xâm lược. thương
nhân dân mà đứng lên khởi nghĩa, “điếu dân phạt tội”mang nét nghĩa ấy. Từ những
phạm trù đạo đức thẩm mỹ cao siêu của Nho giáo, Nguyễn Trãi đã đưa nhân nghĩa trở
nên gần gũi phù hợp với tình hình thực tiễn của nước ta nhân nghĩa yêu nước
chống ngoại xâm.
tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo theo quan niệm của Nguyễn Trãi mang
giá trị nhân đạo sâu sắc. Ông thực thi, đề cao tuyên truyền nhân nghĩa để giành
quyền lợi cho nhân n, đoạt lại quyền sống, độc lập, tự do, trả lại cho nhân dân cuộc
sống bình yên. Cuộc chiến đấu của nhân dân ta không phải xuất phát từ mục đích quân
sự hay tham vọng chủ một phương xuất phát từ “yên dân” trên sở tưởng
nhân nghĩa.
Bởi lẽ đó, cuộc kháng chiến của chúng ta một cuộc kháng chiến chính nghĩa.
Điều này giúp ta hiểu thêm về nhân cách và con người Nguyễn Trãi một người trung
hiếu với nước với dân.
Sau khi nêu tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo, tác giả nêu chân khách
quan về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt. Đây là cơ sở, làm chỗ dựa
để Nguyễn Trãi triển khai nội dung bài cáo. Tuy Nguyễn Trãi chưa đề cập đến quyền
con người nhưng quyền dân tộc thì rất rõ. Chân về sự tồn tại độc lập chủ quyền
của nước Đại Việt có sở vững chắc từ thực tế lịch sử, ng phù hợp với luận đề
chính nghĩa.
Chính nước ta một ớc độc lập nên việc xâm lược của giặc Minh một điều
phi nghĩa. Tác giả liệt các phương diện để xác định một quốc gia độc lập. Đây
yếu tố giúp cho Bình Ngô đại cáo được xem như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của
dân tộc
“Như nước Đại Việt ta từ trước
....
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Những phương diện được nêu ra bao gồm: nền văn hiến riêng, chủ quyền lãnh thổ,
phong tục tập quán khác biệt giữa ta phương Bắc, lịch sử triều đại của dân tộc Đại
Việt, anh hùng hào kiệt. Khi phân tích tưởng nhân nghĩa trong nh ngô đại cáo, ta
thấy những phương diện ấy đều được căn cứ vào lịch sử khách quan không thể nào
chối cãi.
Văn hiến là những giá trị truyền thống văn hóa lâu đời, thiên về những giá trị tinh thần
thể hiện tính dân tộc, tính lịch sử nét. Nước ta một nền văn hiến lâu đời mang
đậm tinh thần dân tộc. nền văn hiến ấy được hình thành trong chiều dài lịch sử,
không kém cạnh Trung Hoa. Bờ cõi đất ớc cũng đã được phân định xưa nay. Lãnh
thổ ấy được bảo vệ bằng biết bao xương máu của bao thế hệ đã ngã xuống độc lập
quê hương. Vì thế nên ta phải tiếp tục chiến đấu để giữ vững nền độc lập.
Câu thơ này gợi nhắc đến khi thế hào hùng mà ta từng bắt gặp trong Nam quốc sơn hà
của Thường Kiệt. Tác giả đã liệt những triều đại của ta “Triệu, Đinh, Lí, Trần
sánh đôi cùng các triều đại của Trung Hoa Hán, Đường, Tống, Nguyên”. Cách nói
sóng đôi ấy cho thấy ta Trung Hoa bình đẳng với nhau nên việc xâm lược một
điều phi nghĩa.
Việc sử dụng từ “đế” lại một lần nữa khẳng định sự bình đẳng của ta Trung Hoa.
Bởi ngày xưa chỉ vua của Trung Hoa mới được xưng đế, các nước khác chỉ thể
xưng chư hầu. Khi tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo, người đọc cũng
nhận thấy việc xưng đế cho thấy được sự ngang hàng bình đẳng giữa các quốc gia.
Yếu tố cuối cùng được Nguyễn Trãi đề cập đến nhân tài, hào kiệt. Bởi nhân tài
mang ý nghĩa quan trọng quyết định sự hưng thịnh của cả một quốc gia. Như Thân
Nhân Trung từng nhận xét “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”.
Nước ta có biết anh hùng hào kiệt từ những người hữu danh đến những người vô danh
nhưng điểm chung của họ là đều dốc hết sức mình cho sự phát triển của đất nước. Nếu
trong Nam quốc sơn hà căn cứ vào “thiên thư” để xác định chquyền sự độc lập thì
Nguyễn Trãi đã căn cứ vào lịch sử.
Những phương diện của một đất nước độc lập cũng được Nguyễn Trãi liệt đầy đủ, bao
quát hơn. tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo còn được thể hiện việc tác
giả đề cập c dân tộc quyền lợi như nhau, bình đẳng với nhau. Những chứng cứ
lịch sử được nêu ra bằng chứng hùng hồn nhất giàu sức thuyết phục không thể chối
bỏ. Việc sử dụng biện pháp liệt kê kết hợp các từ ngữ mang tính khẳng định “từ trước,
đã lâu, đã chia, cũng khác, bao đời đời nào cũng có”, đoạn văn đã khẳng định sự tồn
tại độc lập của nước Đại Việt là điều hiển nhiên, lâu đời.
Điều đó chứng tỏ ta Bắc Triều bình đẳng với nhau nên việc m phạm chủ quyền
dân tộc điều phi nghĩa không thể chấp nhận được. Ta phải đứng lên để bảo vệ lấy
nền độc lập, bảo vệ lấy cuộc sống bình yên của con dân Đại Việt. Điều này góp phần
khẳng định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến.
tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo còn thể hiện lập luận cuối cùng được
Nguyễn Trãi đưa ra để khẳng định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chính
những chứng cứ về sự thất bại của giặc.
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”
Nguyễn Trãi đã liệt những tên người, tên địa danh gắn liền với thất bại nhục nhã
của giặc. Đó u Cung, Triệu Tiết với mục đích m chiếm phi nghĩa khát
vọng quyền lực, danh vọng “tham công”, “thích lớn”. Đó Toa Đô, Ô Mã. Kết
cuộc đều “thất bại”, “tiêu vong”, “giết tươi”, “bắt sống”. Tác giả chỉ nhắc đến thất
bại của giặc nhưng qua đó đã gợi ra chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta.
Tác giả gợi nhắc đến quá khứ nhục nhã của quân giặc để khẳng định một chân lý: trận
chiến vì mục đích phi nghĩa thì không thể thắng lợi. Đồng thời, gợi nhắc quá khứ cũng
nhằm mục đích khẳng định hiện tại gợi mở tương lai. Những chứng cứ lịch sử về
sự thất bại thảm hại của quân giặc càng làm sáng tỏ tính chính nghĩa của cuộc kháng
chiến, thể hiện niềm tự hào dân tộc.
Nguyễn Trãi đã khẳng định cuộc kháng chiến của ta cuộc chiến chính nghĩa nhằm
mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, bảo vệ nền độc lập truyền thống văn hiến lâu đời
của dân tộc. Nguyễn Trãi đã bóc trần bộ mặt giả dối của quân giặc khi chúng lợi dụng
tình hình rối ren của nước ta để cất binh xâm lược.
“Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”
Giặc Minh lấy cớ “phục lại nước bị diệt nối lại dòng bị tuyệt”, “phù Trần diệt Hồ giúp
An Nam” để sang xâm lược nước ta. Liên hệ với thực tiễn lịch sử, ta nhận thấy đây ch
là luận điệu xảo trá của quân giặc để xâm chiếm nước ta. Lợi dụng tình trạng hỗn loạn
của đất nước, không được lòng dân của nhà Hồ bọn phong kiến phương Bắc đã
“ngư ông đắc lợi”.Tác giả đã bóc trần âm mưu ấy qua các từ ngữ “nhân”, “thừa cơ”.
Việc làm mục đích xâm lược của quân giặc một căn cứ quan trọng làm sự phi
nghĩa của giặc và sự chính nghĩa của ta đây cũng là một khía cạnh cho thấy tư tưởng
nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo. Lật tẩy mục đích xâm lược nước ta không phải
chính nghĩa như cách quân Minh biện minh, tác giả đã cho thấy bộ mặt thật của quân
ngoại xâm. Để từ đó làm rõ sự tàn ác của quân giặc. Nguyễn Trãi không chỉ vạch trần
bộ mặt gian ác của những kẻ ngoại xâm n làm sự xảo trá bất trung của những
kẻ phản nước, không giữ vững lập trường.
ởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo còn thể hiện mục đích xâm lược phi
nghĩa của giặc còn dẫn đến những hành động bạo tàn không thể chấp nhận được.
Những tội ác man rợ được thể hiện qua những hình ảnh giàu sức gợi đầy ám ảnh day
dứt
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Chính sách cai trị thâm độc tàn bạo của giặc mà nạn nhân trực tiếp là những người dân
nghèo khổ đáng thương.
“Nặng thuế khóa sạch không đầm núi
Người bị bắt xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc
Vét sản vật, bắt chim trả chốn chốn lưới giăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen nơi nơi cạm đặt
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ
Hay:
“Nay xây nhà mai đắp đất chân tay nào phục dịch cho vừa
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi”
Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi chưa đề cập đến một âm mưu tội ác ng thâm
độc của giặc Minh chủ trương đồng hóa, Hán hóa người Việt trên nhiều lĩnh vực
khác nhau như bắt người tài mang về Trung Quốc, thu gom trống đồng, bắt trang phục
theo phong tục người Hán,… nhưng tác giả đã đi sâu tố cáo những chủ trương cai
trị phản nhân đạo, cùng khắc của giặc Minh như: hủy hoại cuộc sống con người
bằng hành động diệt chủng, tàn sát người dân vô tội. Tội ác ấy khiến cho người dân vô
tội lâm vào cảnh khốn cùng. Đây hành vi phi nghĩa, cần phải diệt trừ. Nguyễn Trãi
đứng trên lập trường nhân dân để thấu hiểu cho hoàn cảnh khốn khó bế tắc thấu tận
trời xanh của “dân đen”, “con đỏ”.
“Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Những tội ác ấy khiến đất trời phẫn nộ. Tội ác giặc chồng chất không sao kể hết. Bao
đau thương oán hận chồng chất. Để phục vụ cho mục đích phi nghĩa để thỏa mãn đam
quyền lực quân giặc đã gieo rắc bao đau thương, kinh hãi cho nhân dân gây ra
cảnh kẻ tóc bạc tiễn kẻ đầu xanh, mẹ xa con vợ mất chồng không nơi nương tựa. Nỗi
oán hận ấy của những người dân thấp cổ họng kêu trời không thấu kêu đất không
nghe ấy ngút cả đất trời.
Đứng trên lập trường nhân dân, ta không khỏi cảm thấy xót thương, đau đớn. càng
xót thương đau đớn bao nhiêu thì càng căm thù giặc bấy nhiêu. thể thấy, tưởng
nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo thể hiện sâu sắc qua việc tác giả vạch trần bộ mặt
“dạ sói” tàn ác của quân giặc.
Như đã nói, chính những hành động bất nghĩa của giặc đối với nhân dân đất nước
mà nghĩa quân phải dựng cờ khởi nghĩa cất binh đánh dẹp. tưởng nhân nghĩa trong
Bình ngô đại cáo không chỉ được thể hiện trong mục đích chiến đấu còn được thể
hiện nét trong xuyên suốt quá trình kháng chiến. Trước khi đi vào giai đoạn kháng
chiến khốc liệt, tác giả lại một lần nữa nhắc lại tư tưởng nhân nghĩa:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”
Nhân nghĩa cũng chính nguồn cội sức mạnh của cuộc kháng chiến thần thánh của
dân tộc ta. Cuộc chiến với quân Minh một cuộc chiến sự tương quan chênh lệch
lực ợng rất lớn. Nhưng điều đó không m quân ta nhục chí. Bởi trước sự “hung
tàn”, “cường bạo” của giặc, ta đã có “đại nghĩa” và “chí nhân”.
Đó chính sợi dây nối kết hàng ngàn trái tim con dân Đại Việt a chung một nhịp
đập hướng về đất ớc Điều này thể hiện nét tưởng nhân nghĩa trong Bình
ngô đại cáo. Sức mạnh của sự đoàn kết dân tộc đến từ điều y. Ta chiến đấu nhân
nghĩa nhân nghĩa đã tạo nên sức mạnh đoàn kết dân tộc để từ đó tạo nên những
chiến thắng vang dội.
“Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm
Trận đánh được miêu tả theo trình tự thời gian. Tác giả lần ợt điểm qua các trận
đánh mang tính bước ngoặt của cuộc kháng chiến. Đó trận đánh mở màn Bồ Đằng,
Trà Lân. Các trận đánh giai đoạn giữa Tây Kinh, Ninh Kiều, Tốt Động, Đông Đô cũng
được điểm qua với thất bại nặng nề thảm thương của giặc. hai trận đánh cuối
Chi Lăng, Yên. Những chiến công của ta được liệt theo chiều tăng dần, dồn
dập. Đối lập với khí thế hào hùng của quân dân ta là sự thất bại nhục nhã của giặc.
“Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.“
Giặc thua bởi lẽ một chân lý bất diệt
“Những người bất nghĩa tiêu vong
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh”
(Bạch Đằng giang phú Trương Hán Siêu)
Kẻ thù xâm lược nước ta chỉ nhằm thỏa n sự tham lam, khát vọng quyền lực mà
không để tâm những hành động phi nghĩa ấy đã gây ra bao đau thương mất mát không
chỉ về tài sản và còn cả về tình mạng của những người dân nước Nam vô tội.
tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo còn được thể hiện sâu sắc qua triết lý đó
là một cuộc chiến phi nghĩa nên tất yếu là sẽ thất bại. Phép liệt kê những tên bại tướng
của giặc trong cuộc chiến này càng đậm thêm sự bất ổn của quân giặc dự báo trước
sự thất bại điều tất yếu. Thế nhưng khi chiến thắng, nghĩa quân Lam Sơn vẫn
giương cao ngọn cờ nhân nghĩa
“Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển vẫn hồn bay
phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân
run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.”
Ta không chỉ tha tội chết cho quân giặc đầu hàng còn cấp ngựa, cấp thuyền, lương
ăn cho quân bại trận. Điều ấy một hành động bao dung cao thượng của nghĩa quân.
Đó cũng là một hành động phù hợp với mục đích chiến đấu nhân dân. Đó chính là
nhân văn, là tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo.
Ta không đuổi cùng giết tận bởi ta hiểu chiến tranh gây ra biết bao cảnh lầm than
hơn hết ta chiến đấu để bảo vệ chính nghĩa. Qua hành động bao dung dành cho kẻ địch
bại trận, ta đã thể hiện lòng nhân đạo, chính nghĩa đúng với tưởng nhân nghĩa đã
được nêu ra. Đồng thời đây cũng sách lược để tính kế lâu dài, bền vững cho non
sông. Chính vì điều đó đã tạo ra tiền đề cho tương lai của đất nước.
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc“
Đó cũng chính lời khẳng định dứt khoát, mạnh mẽ giang sơn từ đây độc lập, thái
bình. Chiến thắng của ta, sự bền vững của giang sơn chính một trong những minh
chứng lịch sử sống động nhất cho tư tưởng nhân nghĩa. Tác phẩm khép lại một thời kỳ
đấu tranh gian khổ nhưng hào hùng để mở ra một thời đại mới độc lập tự do.
Nguyễn Trãi đã kết hợp nhuần nhị giữa giọng văn hùng hồn đanh thép cùng cách nói
hình ảnh giàu sức gợi đã cho thấy được tinh thần nhân nghĩa của ông nói riêng của
cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm ợc nói chung. Nhân dân chính những
nạn nhân trực tiếp đáng thương. Cuộc sống nhân dân vốn đã khốn khó nay càng khốn
khó hơn gấp bội lần, lầm than bế tắc không lối thoát.
Và đó cũng nguyên nhân chính là động lực thúc đẩy mạnh mẽ cho nghĩa quân đứng
lên dựng cờ khởi nghĩa để bảo vệ nhân n. Đó cũng do ta dành được chiến
thắng, nhận được sự ủng hộ đồng lòng của cả đất trời cả dân tộc.
Tư tưởng nhân nghĩa là giá trị cốt lõi của Bình Ngô đại cáo nói riêng, của tư tưởng mà
Nguyễn Trãi suốt đời theo đuổi nói chung. Tất đều lấy nhân nghĩa làm sở, từ cuộc
chiến tranh vệ quốc cho đến công cuộc xây dựng dân tộc. Qua đó, ta thấy được tấm
lòng bao dung quảng đại luôn lo cho dân cho nước của Nguyễn Trãi. Ông đúngmột
con người “tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”.
Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô Đại Cáo ngắn gọn
Bài làm mẫu 1
Nguyễn Trãi - một nhân vật lịch sử đại, nhà văn, nhà thơ kiệt xuất, danh nhân văn
hóa dân tộc và có đóng góp quan trọng cho sự phát triển của văn hóa văn học dân tộc.
Tác phẩm "Đại o nh Ngô" được ông thừa lệnh vua Lợi viết để tuyên cáo về
chiến thắng giặc Nnăm 1428, mang ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập thứ
hai của dân tộc, một áng "thiên cổ hùng văn" của dân tộc. Nội dung bài cáo không chỉ
tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược, ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn còn mang
tưởng nhân nghĩa sâu sắc.
thể nói, tưởng nhân nghĩa trong "Bình Ngô đại cáo" tưởng chủ đạo, xuyên
suốt toàn bộ bài cáo, đây là một tưởng nhân văn cao đẹp đề cao giá trị nhân đạo
của dân tộc Việt Nam ta. Theo quan niệm Nho giáo, nhân nghĩa chính tình nghĩa
con người, mối quan hệ giữa con người với nhau dựa trên tinh thần yêu thương,
đùm bọc bảo vệ lẫn nhau. Với Nguyễn Trãi, ởng nhân nghĩa được quan niệm
theo cách cụ thể và cơ bản nhất, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử dân tộc lúc bấy giờ:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
Nhân nghĩa đối với Nguyễn Trãi cốt nhất hai việc "trừ bạo" "yên dân", nghĩa
diệt trừ các thế lực tàn bạo đày đọa nhân dân, làm cho cuộc sống người dân được yên
ổn, ấm no và hạnh phúc đó mới là nhân nghĩa. Trong tác phẩm, tác giả đã đề cập tới tư
tưởng nhân nghĩa trên những khía cạnh khác nhau, tuy nhiên khía cạnh nào,
tưởng này vẫn hết sức đúng đắn và mang ý nghĩa sâu sắc.
Trước hết, nhân nghĩa được gắn với việc khẳng định chủ quyền, độc lập của dân tộc:
"Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác..."
Với những dẫn chứng đầy thuyết phục về chủ quyền dân tộc từ nền văn hiến, cương
vực lãnh thổ, phong tục tập quán các triều đại lịch sử..., tác giả đã khẳng định nền
chủ quyền độc lập dân tộc điều không thể chối cãi. Chỉ khi khẳng định chủ quyền
của dân tộc thì mọi nh động của ta mới sở đúng với nhân nghĩa. Trên lập
trường tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã lên án tố cáo tội ác man rợ của quân xâm
lược:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm."
thể nói, tội ác của giặc Minh không n tính người, nhân đạo, từ khủng bố,
bóc lột sức lao động, n sát người dân tội đến hách dịch đủ loại thuế khóa, vừa
vét cạn kiệt nguồn tài nguyên lại ra tay phá hoại sản xuất, hủy hoại môi trường sống
của nhân dân ta. Tác gikhông chỉ bộc lộ niềm phẫn uất và sự căm ttận xương tủy
của nhân dân trước tội ác của giặc, còn bộc lộ niềm thương xót, đau đớn cùng với
nỗi đau của nhân dân. Chính nhân nghĩa đã gắn kết lòng dân, lòng dân chính sức
mạnh lớn nhất để đánh thắng kẻ thù, không có sức mạnh nào có thể vượt qua được sự
đoàn kết đồng lòng và quyết tâm của một dân tộc:
"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo"
Mặc giai đoạn đầu của cuộc chiến ta gặp vàn khó khăn, thiếu thốn cả về lương
thực lẫn quân đội nhưng chính nhờ vào lòng dân, sức dân ta bước đầu giành thắng
lợi, sau đó nghĩa quân như được tiếp thêm sức mạnh nhờ sự khiếp vía của kẻ t
đánh đâu thắng đấy. Đây chính quả ngọt của việc hành động nhân nghĩa dựa trên
tưởng nhân nghĩa. Sau khi đã giành được thắng lợi hoàn toàn, tinh thần nhân nghĩa
của nhân dân ta còn được bộc lộ qua cách ứng xử với kẻ thù thua trận:
"Mã Kì, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
về đến nước mà vẫn tim đập chân run."
Cấp phát thuyền ngựa cho tướng lĩnh cùng binh lính kẻ thù trở về chính là thể hiện
lòng nhân ái, chính sách nhân nghĩa của nhân dân ta, ta không đánh đuổi đến cùng
để lui cho họ con đường hiếu sinh, vừa để cho quân ta nghỉ ngơi lại vừa giữ được lòng
nhân đạo. Đường lối y một lần nữa đã khẳng định tính chính nghĩa trong cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn, tô đậm thêm truyền thống nhân đạo, yêu chuộng hòa bình của dân tộc
ta.
Bài làm mẫu 2
Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta khiến dân chúng khổ sở, cuộc sống đảo lộn.
Lợi đã ng 18 ớng lĩnh dấy cờ khởi nghĩa. Trong đó, Nguyễn Trãi một tài
năng xuất chúng trong hàng ngũ dũng ớng. Năm 1427, cuộc khởi nghĩa thắng lợi.
Một năm sau đó, phụng sự Lợi, Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại cáo”. Tác phẩm
đã đứng trên lập trường chính nghĩa để lấy làm ởng xuyên suốt. tưởng nhân
nghĩa là vấn đề được đề cập tới đầu tiên khi nhắc tới giá trị của tác phẩm.
tưởng nhân nghĩa một truyền thống đạo tốt đẹp của nhân dân ta. Trong quan
niệm truyền thống, tưởng nhân nghĩa được biểu hiện tình thương giữa con người
với con người, nhấn mạnh ở lòng trung thành với vua. Còn đối với Nguyễn Trãi, nhân
nghĩa là để yên dân, là bảo vệ hạnh phúc cho nhân dân. Hạnh phúc lớn nhất của dân là
được sống trong môi trường hòa bình, yên ổn làm ăn, không lâm vào cảnh chết chóc,
đau thương. Nhân nghĩa không phải thương người một cách chung chung thông
qua hành động đó là “trừ bạo” để “an dân”.
Trong tác phẩm “Bình Ngô đại cáo”, tưởng nhân nghĩa được thể hiện trước hết
việc Nguyễn Trãi gắn nhân nghĩa với bảo vchủ quyền đất nước, khẳng định chủ
quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc.
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.”
Đoạn thơ đã khẳng định niềm tự hào tự tôn dân tộc ý thức về đất ớc chủ quyền
dân tộc khi nhấn mạnh đất ớc phải lịch sử, nền văn hiến, lãnh thổ, phong tục
riêng và những cái tên hào kiệt riêng. Ngay khi thể hiện ý thức về nhân dân, ý thức
về đất nước đã cho thấy lòng yêu nước lòng tự hào dân tộc lớn lao của Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi quả là một nhà tư tưởng tiến bộ.
Truyền thống nhân nghĩa còn gắn với truyền thống yêu sự chính trực, ghét sự gian tà,
căm thù sâu sắc bọn bán nước và cướp nước.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”
Đoạn thơ này đã vạch bộ mặt gian tà, hiểm ác, xảo trá của giặc Minh, chỉ ra tội ác của
bọn chúng. Lòng m thù giặc sâu sắc thể hiện trong việc tác giả vạch mặt tố cáo tội
ác “trời không dung đất không tha”
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Nguyễn Trãi sử dụng những từ ngữ biểu cảm, gợi hình gợi cảm như “nướng”, “vùi”,
“dân đen”, “con đỏ”… Nhân nghĩa còn sự sẻ chia đồng cảm cảm thông với nỗi đau
của người dân mất nước:
“Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.”
tưởng nhân nghĩa trong suy ngcủa Nguyễn Trãi tinh thần yêu chuộng hòa
bình, công lý, sự hiếu sinh, hiếu hòa, độ lượng bao dung. Dân tộc ta đã mở đường hiếu
sinh cho kẻ thù khi chúng bại vong
“Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay
phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân
run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay”
Tóm lại, tưởng nhân nghĩa tưởng bao trùm xuyên suốt trong tác phẩm
“Bình Ngô đại cáo”cũng tinh thần của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Qua đó, Nguyễn
Trãi thể hiện tinh thần nhân bản và giá trị nhân văn sâu sắc. Tư tưởng nhân nghĩa cũng
chính kim chỉ nam cho đường lối chính trquân sự của cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn. Từ tưởng đó, Lợi giương cao ngọn cờ chính nghĩa hiệu triệu quần chúng
tham gia khởi nghĩa chống Minh, góp phần to lớn cho cuộc khởi nghĩa chiến thắng
hoàn toàn.
Bài làm mẫu 3
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của
nước Nam, sau bài “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt. Đọc những câu thơ hùng
hồn, hào sảng, chúng ta sẽ nhận ra tư tưởng nhân nghĩa là tư tưởng xuyên suốt bài cáo.
Nó làm nền cho những tư tưởng khác và làm nên sự thành công của bài cáo.
tưởng nhân nghĩa không phải tưởng quá lạ đối với ớc Nam. Đây
tưởng đã được Nho giáo nhắc đến rất nhiều. Tuy nhiên với nho giáo thì nhân nghĩa
chính mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người. Nhưng đến Nguyễn Trãi thì quan
điểm nhân nghĩa của ông không phải bao m nội dung rộng như vậy. Đối với ông
nhà lãnh đạo tài ba thì nhân nghĩa chính là “yên dân”:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Với hai câu thơ trên đã khái quát được tưởng nhân nghĩa lớn lao của Nguyễn Trãi
đối với dân với nước. Ông không suy nghĩ sâu xa, không như Khổng Tử. Đối với ông
nhân nghĩa thực ra là khái niệm rất gần gũi với đời thường. Để đất nước thống nhất
hòa thuận, trước hết cần phải “yên dân”. Khi dân được yên, được sống trong ấm no
hạnh phúc thì tất thảy đất nước đó sẽ phát triển như một quy luật. Đây là một tư tưởng
rất hiện đại, mà sau này Hồ Chí Minh đã thừa kế và phát huy “Lấy dân làm gốc”.
thể thấy Nguyễn Trãi đã coi "dân” chính trụ cột của một quốc gia, người chèo
thuyền cũng là dân và người lật thuyền cũng là dân. Tư tưởng này giản dị nhưng lại có
ý nghĩa sâu sắc. Trong những cuộc kháng chiến thì nhân dân đóng vai trò quan trọng
đối với sự thắng bại của cuộc chiến đó. Nếu dân mạnh, lòng dân yên thì ắt hẳn sẽ đánh
bay hết sự tàn bạo của quân thù.
Nguyễn Trãi xem những hành động tàn bạo, man rợ của các nước chư hầu cuối cùng
sẽ bị trừng phạt thích đáng. Nguyễn Trãi không có tư tưởng cầu hòa, nhân nhượng hay
thỏa hiệp mà nhất định phải dùng lòng dân và sức dân:
Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo
Đối với ông thì việc nghĩa luôn chiến thắng việc gian ác những kẻ xảo quyệt sẽ bị
đền tội. Với giọng văn hùng hồn, quyết liệt, ông đã thuyết phục được người đọc về
thuyết nhân nghĩa thời bấy giờ, còn có ảnh hưởng cho đến ngày nay.
Nếu như trước đây Thường Kiệt nêu ra định nghĩa về độc lập việc khẳng định
chủ quyền thì sang Nguyễn Trãi, ông đã hùng hồn:
"Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Từ Triệu Đinh Lý Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương"
“Văn hiến” của nước Nam là do nhân dân Việt Nam xây dựng, trải qua thăng trầm, sự
tàn khốc mất mát của chiến tranh mới được. tưởng ấy rất thiết thực phù
hợp đối với hoàn cảnh của đất nước ta.
Sức mạnh của nhân nghĩa đã tạo nên những chiến thắng vang dội núi sông:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Với những chiến thắng vang dội, oanh liệt đó chính nhờ sự đoàn kết, lấy ít địch
nhiều của nhân dân ta. Không phải dân tộc nào cũng có thể làm được như vậy, dân tộc
ta là dân tộc lấy dân làm gốc, mọi việc do dân và làm vì dân.
tưởng nhân nghĩa không chỉ được thể hiện ý chí cũng như sự đoàn kết của nhân
dân còn thể hiện thái độ đối với quân Trung Quốc khi thất thủ. Quân dân ta
không giết hại còn dành cho “đường hiếu sinh”. Chỉ với những hành động đó đã
đủ thấy được tinh thần nhân nghĩa, không triệt đường của kẻ khác thật đáng ngưỡng
mộ.
Chính tưởng nhân nghĩa mang đậm nhân đạo đó đã giúp cho đất nước ta được tự
do, độc lập, thoát khỏi ách nô lệ 4000 năm lịch sử:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Một lời khẳng định chắc nịch, như một hồi chuông vang lên để cho mọi người trên thế
giới này biết được rằng đất nước Việt Nam đã chủ quyền, đã thực sự hòa bình
thống nhất.
Cho đến bây giờ, khi đã trải qua bao nhiêu thăng trầm và biến cố nhưng tư tưởng nhân
nghĩa của Nguyễn Trãi vẫn còn giữ nguyên giá trị. giúp cho đất nước ta được
nhiều thành tựu vang dội như hiện nay. Gấp trang sách lại nhưng n vang vọng đâu
đây tư tưởng nhân nghĩa, nhân đạo của ông.
Bài làm mẫu 4
thể thấy được “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi đó chính một minh chứng
hào hùng cho chiến thắng chống giặc Minh của nhân dân ta. Thật dễ thể nhận thấy
được rằng xuyên suốt tác phẩm ởng nhân nghĩa, chủ nghĩa yêu nước được tác
giả khai thác, đào sâu. Ta như thể khẳng định được triết nhân nghĩa của Nguyễn
Trãi đúng những quan niệm tiến bộ giá trị ý nghĩa trong mọi thời đại. Thực tế
cho thấy đã hơn 6 thế kỷ trôi qua, tưởng nhân nghĩa của người anh hùng ấy dường
như cứ vẫn sống mãi trong lòng dân tộc làm nên chiến công lừng lẫy.
“Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”.
lẽ chính cuộc đời ông tấm gương về khí tiết thanh cao hơn nữa cũng như
chính lòng yêu nước thương dân nồng nàn khởi nguồn từ ởng nhân nghĩa,
lấy dân làm gốc. Ta thể khẳng định toàn bộ bài tưởng nhân nghĩa chính một
sợi chỉ đỏ chạy dọc theo toàn bộ bài thơ, từ khi người anh hùng Lam Sơn dựng cờ
khởi nghĩa đến khi chiến thắng, biển trời thanh bình biết bao nhiêu.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Ta như nhận thấy được “nhân” và “nghĩa’ dường như cũng chính đạo lí ở đời, ta
như thấy được đạo lý giữa con người với con người và giữa con người với cuộc đời,
tôn chỉ trong hội mọi thời đại. Trong tuyệt tác nổi tiếng “Bình Ngô đại cáo” thì
‘nhân” đã như thể hiện bằng nh động thực tế chăm lo cuộc sống nhân dân, nhân
đâu thật sâu rộng, tích cực. Và hơn nữa là còn nghĩa là việc trừ bạo ngược để nhân dân
xã tắc được bình yên.
Ta thể hiểu rằng, trước sự xuất phát từ tưởng nhân đạo để n dân thì phải trừ
bạo. Do đó có thể thấy được chính tưởng nhân nghĩa cốt nhằm mục đích là đem
lại hạnh phúc cho người dân. lẽ cũng chính thương nhân n cần dựng cờ
khởi nghĩa để trừ hung bạo. tưởng nhân nghĩa đặc sắc sâu sắc trong “Bình Ngô
đại cáo” dường như đã quy cho cùng tất cả dân, hạnh phúc ấm no của nhân
dân xuyên suốt tác phẩm.
tưởng ấy dường như ràng, không hồ, được tác giả nâng lên thành
tưởng hội, gắn chặt với chủ nghĩa yêu ớc. lẽ chính nhân nghĩa nên ông
xem những hành động mang tính tội ác của giặc Minh như thiêu lửa đốt, những
hành động như đã đào hố chôn sống nhân dântội những việc nhân đạo. Hành
động thật nhân nghĩa không trừ tượng những việc làm cụ thể đó chính chống
quân xâm lăng, tiêu diệt thế lực thù địch.
Ta như thấy được triết nhân nghĩa xuất phát từ nền tảng của lòng yêu nước thương
dân, đó nền tảng của bản anh hùng ca “Bình Ngô đại cáo’. hơn hết chính tác
phẩm quan điểm về quyền dân tộc, từ đó ông định nghĩa về đất nước thật trang
trọng, tự hào biết bao nhiêu:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Nguyễn Trãi - Đại anh hùng của dân tộc dường như cũng đã chỉ ra rằng nhân nghĩa
sức mạnh để chiến thắng, đây có lẽ cũng chính là nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo của
dân tộc Việt Nam bao đời để tạo dựng nền văn hiến mang truyền thống của con người
Việt Nam. Ta như thấy được chính tưởng ấy nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ
thống tưởng triết học, chính trị của ông, vượt ra khỏi phạm vi chính trị thông
thường trở thành nền tảng, cũng đồng thời nguyên tắc trong quản lý, lãnh đạo đất
nước.
Trong tác phẩm, ta như thấy được Nguyễn Trãi đề cao nhân dân, ông luôn luôn coi
trọng sự hòa hảo giữa các dân tộc. Nhưng dường như không sự tàn ác của giặc mà
trả thù bằng thủ đoạn tàn nhẫn, man rợ. Đó thể chính tấm lòng, trí tuệ Việt
Nam sau chiến tranh.
“Bình Ngô đại cáo” chính áng thiên cổ ng văn của vị anh hùng dân tộc Nguyễn
Trãi. ờng như cũng chính văn bản tổng kết cuộc kháng chiến gian lao
nhưng đầy tự hào, anh hùng của dân tộc ta n một thập kỷ. Đó chính việc toát lên
tác phẩm làtưởng nhân nghĩa, tư tưởng chủ đạo cho chính trị, ngoại giao cho xã tắc
muôn đời sau.
Bài làm mẫu 5
Nguyễn Trãi đã từng viết: “Bui một lòng trung lẫn hiếu/ Mài chăng khuyết nhuộm
chăng đen”, câu thơ đã cho thấy khí tiết, tấm lòng suốt một đời dân nước của
ông. Nguồn gốc tạo nên tấm lòng đẹp đẽ ấy chính tưởng nhân nghĩa. tưởng
nhân nghĩa kim chỉ nam, chi phối toàn bộ sáng tác của Nguyễn Trãi. Bình Ngô đại
cáo được viết cũng không phải nằm ngoài vòng ấy. Tư tưởng nhân nghĩa chi phối toàn
bộ tác phẩm này của ông.
Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trãi đã khẳng định:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Nhân khái niệm trung tâm của tưởng nho gia, nhân tức yêu thương con người;
nghĩa là những điều hợp lẽ phải, làm theo khuôn phép xử thế. Mạnh Tử đã kết hợp hai
khái niệm này tạo thành “nhân nghĩa” là nguyên tắc ứng xử bản trong quan hệ giữa
con người với nhau, giữa con người phải yêu thương nhau. Đến Nguyễn Trãi, ông đã
nâng tưởng lên một tầm cao mới, nhân nghĩa với Nguyễn Trãi không chỉ dừng
hành xử yêu thương mà còn phải làm cho nhân n cuộc sống yên ổn “yên dân”
và cách thức hành động chính là “trừ bạo”. Trừ bạo ở đây chính là tiêu diệt quân Minh
xâm lược, để đem lại cuộc sống an bình, hạnh phúc cho nhân dân. Cđời ông luôn lo
nghĩ cho dân, luôn mong nhân dân sống trong an ấm, no đủ: “Dẽ có Ngu cầm đàn một
tiếng/ n giàu đủ khắp đòi phương”, ông lo cho dân bằng tất cả tấm lòng, tình yêu
thương bao la. Đây tưởng cùng tiến bộ cho đến ngày nay vẫn còn giữ
nguyên giá trị. Câu luận đề này chính sợ dây đỏ để Nguyễn Trãi triển khai toàn bộ
tác phẩm của mình.
Để làm nổi bật tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã lật mở những trang sử hào hùng
trong quá khứ của dân tộc để thấy được thất bại thảm hại của những kẻ luôn mang
tưởng xâm lược nước khác, giọng văn ở đây thật hào sảng:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Không chỉ quá khứ, ngay cả thời điểm hiện tại, quân Minh đã gây ra biết bao
tội ác cho nhân ta: “Người bị bắt xuống biển ngọc, ngán thay mập, thuồng
luồng/ Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng thiêng nước độc”.Tội ác của
chúng “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” khiến cho “Lẽ nào trời đất dung tha/ Ai bảo
thần dân chịu được?”. Đọc những câu thơ ta như cảm nhận được hết nỗi đau khổ, tủi
nhục mà nhân dân đã phải chịu đựng suốt bao năm qua và càng căm tức hơn những tội
ác của quân Minh đối với người dân vô tội.
Chính bởi tội ác khiến cả trời đất không dung tha như vậy nên Lợi đã phất cờ,
đứng lên khởi nghĩa, giành lại độc lập cho dân tộc: “Trời thử lòng trao cho mệnh lớn/
Ta gắng chí khắc phục gian lao”. Chính Lợi đã hiện thực hóa tưởng nhân nghĩa,
tiêu diệt kẻ cường bạo để đem lại cuộc sống bình yên cho muôn dân: “Đem đại nghĩa
để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay ờng bạo”. Sau bao năm tháng nếm mật,
nằm gai, nghĩa quân trải qua biết bao thử thách, cuối cùng ngày một lớn mạnh, nhận
được sự ủng hộ của muôn dân: “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ
phấp phới/ Tướng một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”. Toàn n
đoàn kết một lòng đem hết sức mạnh thể chất tinh thần chống lại bọn cuồng Minh.
Bởi đây cuộc kháng chiến chính nghĩa nên thế lực của ta ngày một cải thiện, từ
thế bị động, yếu ớt ta chuyển sang thế chủ động, liên tục tấn công như bão, giáng
những đòn mạnh mẽ làm kẻ thù không kịp trở tay: “Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi
mất vía/ Lí An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân”. Quân ta đi đến đâu chiến thắng
đến đó, uy lực sức mạnh không thể sánh nổi: “Gươm mài đá, đá núi cũng
mòn/…/Đánh hai trận tan tác chim muông”. Trái lại, kẻ thù lộ diện những kẻ ham
sống sợ chết, khi thất bại kẻ đầu hàng, kẻ dày xéo lên nhau hòng thoát thân: “lê gối
dâng tờ tạ tội” “trói tay để tự xin hàng”. Nguyễn Trãi liệt hàng loạt thất bại thảm
hại của kẻ thù với câu văn giàu hình ảnh: thây chất đầy đường, máu trôi đỏ nước,
khiếp vía vỡ mật, xéo lên nhau chạy để thoát thân,Biện pháp liệt đã tỏ ra
cùng đắc dụng, giọng văn hào hùng, sảng khoái, Nguyễn Trãi đã lên tiếng khẳng định
lại một lần nữa sức mạnh củatưởng nhân nghĩa, tư tưởng ấy đã đem lại chiến thắng
vẻ vang cho dân tộc ta.
tưởng nhân nghĩa còn được thể hiện trong cách đối đãi với kẻ thù. Mặc giặc
Minh gây ra những tội ác tày trời với nhân dân ta, nhưng khi chúng bại trận, thua thảm
hại, cầu hòa, quân ta lập tức đồng ý: Họ đã tham sống sợ chết, hòa hiếu thực lòng/
Ta lấy toàn quân hơn, để nhân dân nghỉ sức. Đây hành động đối xử hết sức nhân
văn, nhân bản với kẻ thù, cho chúng một con đường sống, cấp vài nghìn thuyền cho
chúng về ớc. Cách làm này vừa khiến chúng thua trong tâm phục khẩu phục, vừa
tạo điều kiện cho nhân dân ta nghỉ ngơi, dưỡng sức sau những năm dài gian lao chiến
đấu, đồng thời đây cũng hội để triều đình mới xây dựng đất nước vững mạnh cả
về kinh tế quân sự. Quả “Chẳng những mưu kế diệu/ Cũng chưa thấy xưa
nay”.
Chiến công oanh liệt được kết thúc bằng lời tuyên bố đầy khí thế, hào hùng: “Xã tắc
từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới/ Kiền khôn rồi lại thái/ Nhật nguyệt hối
rồi lại minh”. Tư tưởng nhân nghĩa đã đem lại sức mạnh vô biên cho quân dân ta, giúp
dân ta giành được thắng lợi vẻ vang, không chỉ giành lại độc lập cho dân tộc còn
cho thấy tư thế, tầm vóc của một dân tộc luôn sống và đề cao đạo lý nhân nghĩa.
Với ngòi bút chính luận sắc sảo, lập luận sắc bén hùng hồn, dẫn chứng phong phú
thuyết phục, Nguyễn Trãi đã tạo nên một áng thiên cổ hùng văn cho muôn đời. Giá trị
của áng thiên cổ ấy chính là tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời cho đến mãi muôn đời sau.
Bài làm mẫu 6
Năm 1428, đất nước ta sạch bóng quân Minh xâm lược, Nguyễn Trãi thay lời nhà vua
để viết nên Bình Ngô đại cáo đọc trong lễ tuyên bố kết thúc chiến tranh, nước Đại
Việt từ nay bước sang giai đoạn bốn phương biển cả thái bình.
Điều làm nên giá trị nội dung bất hủ của tác phẩm chính là tư tưởng nhân nghĩa truyền
thống đã được Nguyễn Trãi đúc kết như một chân lí ngay trong hai câu mở đầu.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
ởng ấy, chân ấy nền tảng của mọi suy nghĩ, hành động, chiến ợc, chiến
thuật quyết tâm chiến đấu, chiến thắng của quân dân ta trong cuộc kháng chiến
chống kẻ thù xâm lược phương Bắc. Hơn ai hết, Nguyễn Trãi thấm nhuần quan điểm
tiến bộ của Nho giáo, coi dân gốc (dân vi bản), ý dân ý Trời. Ông cho rằng, bất
cứ triều đại nào muốn tồn tại dài lâu vững mạnh đều phải dựa vào dân, đặt mục
đích yên dân lên hàng đầu bởi dân có yên thì nước mới thịnh.
Từ triết nhân nghĩa thủy chung, Nguyễn Trãi đã cụ thế hóa một cách ràng
dễ hiểu. n dân mọi đường chính sách của triều đình phải phù hợp với ý nguyện
của dân, không ngoài việc làm cho dân được sống trong cảnh thanh bình, ấm no, hạnh
phúc: để cho chốn hang cùng ngõ vắng không còn tiếng hờn khóc, oán sầu.
Muốn cho nhân dân được cuộc sống tốt đẹp như vậy thì điều đương nhiên phải
lo trừ bạo, nghĩa diệt trừ tất cả các thế lực tham lam, bạo ngược làm tổn hại đến
quyền lợi của dân lành. Yên dân, trừ bạo hai vế liên quan chặt chẽ với nhau, hỗ
trợ cho nhau để tạo nên tính hoàn chỉnh của tưởng nhân nghĩa bao trùm xuyên
suốt cuộc kháng chiến giữ nước vĩ đại lúc bấy giờ.
Khi Lợi phất cao cờ khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Minh thì tưởng nhân
nghĩa đã được biến thành hành động cụ thể thiết thực đánh đuổi giặc thù ra khỏi
bờ cõi để cứu dân khỏi cơn binh đao, tang tóc. Ông viện dẫn chứng cứ lịch sử để
khẳng định rằng những kẻ ctình đi ngược lại đạo nhân nghĩa cuối cùng đều chuốc
lấy tai họa:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Gần mười năm qua, quân cuồng Minh đáng khinh bỉ ghê tởm đã gây ra biết bao tội
ác trời không dung, đất không tha trên đất nước này:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh, kết oán, trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi...
nghĩa chúng đã ngu ngược xúc phạm đến đạo nhân nghĩa của đất trời lòng
người. Tội ác của chúng tất sẽ bị trừng trị đích đáng và đương nhiên là chúng tự chuốc
lấy thảm họa vào thân.
Trước những tội ác chồng chất của giặc như vậy, chúng ta chỉ một con đường
đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi để trừ bạo, yên dân. Xót xa cho cảnh nước mất nhà
tan, Lê Lợi - người anh hùng áo vải đất Lam Sơn đã phất cờ khởi nghĩa:
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn,
Ta gắng chí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Sức mạnh của cuộc kháng chiến chống quân Minh được nhân lên gấp bội bởi tính chất
chính nghĩa mục đích cao cả của nó: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí
nhân để thay cường bạo. Tinh thần đoàn kết son sắt tạo ra những chiến ợc, chiến
thuật thần kì: lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều, xoay chuyển tình thế từ bị động
sang chủ động tiến ng như bão, giáng trả quân thù những đòn sấm vang chớp
giật, trúc chẻ tro bay, lập nên chiến công hiển hách:
Sĩ khí đã hăng, Quân thanh càng mạnh
Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Quân thù bị đẩy vào tình thế khốn đốn, cùng đường:
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp.
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giúp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng.
Liệt kê những chiến công vang dội liên tiếp của quân dân ta cũng như tô đậm tư thế đê
hèn của quân xâm lược lúc thảm bại bằng giọng văn hào hùng sảng khoái, Nguyễn
Trãi vẫn nhằm mục đích khẳng định hùng hồn sức mạnh địch của tưởng nhân
nghĩa truyền thống nhân nghĩa tốt đẹp của dân tộc Việt. Thực tế đã chứng minh
điều đó bằng thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược.
Kết thúc bài cáo khúc khải hoàn ca của ởng Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo. Một lần nữa, dân tộc Việt :.ngẩng cao đầu chiến
thắng, rộng lòng tha chết cho những kẻ bạo nghịch đã: quỳ gối đầu hàng: Thần vũ
chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu linh. Lại chu cấp cho chúng nào thuyền,
nào ngựa để trở về cố quốc. Cái uy, cái dũng, cái nhân trong đạo truyền thống nhân
nghĩa Việt Nam một lần nữa khiến kẻ thù khiếp sợ, ra đến bể vẫn hồn bay phách
lạc, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Lời tuyên cáo của vua Lê vẫn vang mãi ngàn năm trên đất nước này:
Xã tắc từ đây vững bền,
........
Ai nấy đều hay.
Chiến công oanh liệt của cuộc chiến tranh giữ nước đại chống quân xâm lược nhà
Minh đã đậm thêm lịch sử vẻ vang của dân tộc cũng dẫn chứng ng hồn
chứng minh cho sức mạnh vô biên của tư tưởng nhân nghĩa Việt Nam.
Với ngòi bút chính luận sắc sảo tuyệt vời cùng tài năng sử dụng ngôn ngữ linh hoạt,
hình ảnh sinh động, giàu sức biểu cảm. Nguyễn Trãi đã viết nên một áng thiên cổ
hùng văn một không hai trong lịch sử văn học nước nhà. Thông qua bài Bình Ngô
đại cáo. Nguyễn Trãi khẳng định chắc chắn rằng tưởng nhân nghĩa chính cội
nguồn hiển hách trong lịch sử giữ nước suốt mấy ngàn năm.
Bài làm mẫu 7
Nguyễn Trãi điển hình của vị hiền tài suốt đời đem tài trí phục vụ nhân dân.
tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi trong "Bình ngô đại cáo" nêu ước nguyện muốn cứu
dân khỏi vòng tai họa, mang đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho dân. "Bình ngô đại
cáo" gói trọn tấm lòng của Nguyễn Trãi, thể hiện tư tưởng nhân đạo của ông theo cách
hiểu sâu sắc, không dừng lại cụ thể một người nào, một giai cấp, tầng lớp nào
nhân rộng ra là muôn dân.
Đất nước đại thắng vào tháng 11/1428, Lợi giao cho Nguyễn Trãi viết bài cáo để
tuyên bố quân ta đại thắng, ớc ta bước vào kỉ nguyên mới, phục hưng dân tộc.
"Bình ngô đại cáo" áng thiên cổ hùng văn được viết theo thể n biền ngẫu, với
giọng văn hùng hồn đã tuyên bố nền độc lập chủ quyền của nước nhà.
Lời tuyên ngôn độc lập của "Bình ngô đại o" hoàn thiện hơn bản tuyên ngôn trước
đó "Sông núi nước Nam" tương truyền của Thường Kiệt, bởi Nguyễn Trãi đã
khẳng khái đặt các triều đại Việt Nam ngang hàng với các triều đại Trung Quốc bổ
sung thêm các phương diện quan trọng khác để khẳng định độc lập, chủ quyền của
một quốc gia.
Kèm theo đó, ông đã nêu tiền đề nhân nghĩa, lấy dân làm gốc. Từ một quan niệm
sống, cách xử tốt đẹp giữa người với người, "nhân nghĩa" theo Nguyễn Trãi là phải
biết hành động "yên dân", "trừ bạo". Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi bắt nguồn t
tấm lòng u nước, thương dân, dân, bởi vua thuyền, n chúng nước, nước
nâng thuyền, nước cũng có thể lật thuyền.
Khác với Nguyễn Du- một danh nhân văn a thế giới- đại thi hào dân tộc, tưởng
nhân đạo của Nguyễn Du yêu thương con người, ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của họ,
lên án những chế độ, giai cấp chà đạp nhân phẩm của họ. Cái nhìn nhân đạo của
Nguyễn Du hướng về con người nhỏ trong hội, cụ thể là người phụ nữ ới chế
độ phong kiến.
Riêng Nguyễn Trãi-bậc hiền tài- một danh nhân văn hóa thế giới khác lại ớng
tưởng nhân đạo của mình rộng ra khắp muôn dân. Theo Nguyễn Trãi, nhân đạo yêu
nước, thương dân, quan tâm đến khát vọng, ý nguyện của dân, dân trừ bạo, mang
đến cuộc sống ấm no cho dân.
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
tưởng dân đã soi sáng, dẫn lối cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Chiến
thắng giặc Minh việc làm chính nghĩa hợp với ng dân. Khi đem quân xâm lược
nước ta, bọn chúng y ra nhiều tội ác khiến lòng người căm phẫn: hủy hoại cuộc
sống con người, hủy hoại môi trường sống, đẩy người dân vào hoàn cảnh bi đát, cùng
cực.
"Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi."
Nguyễn Trãi người tấm lòng yêu nước, thương dân nên ông không thể trơ mắt
nhìn muôn dân lầm than, cực. tưởng nhân đạo đã chi phối Nguyễn Trãi
những hành động cụ thể: góp công sức vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đánh đuổi giặc
Minh. Ông vạch trần âm mưu xâm lược của chúng, nêu lên khối căm thù chất chứa
trong lòng người dân bằng giọng văn khi uất hận trào sôi, khi cảm thương tha thiết.
"Bình ngô đại cáo" bản cáo trạng đanh thép đối với kẻ thù m lược đồng thời thể
hiện niềm tự hào về một dân tộc tự ờng, không chịu khuất phục, dũng cảm tranh
đấu cho nền độc lập nước nhà. Cái nhìn nhân đạo hướng về nhân dân giúp Nguyễn
Trãi phát hiện ra bản chất tốt đẹp của dân ta, luôn kiên cường trong mọi hoàn cảnh.
Cảm thương cho họ, Nguyễn Trãi đã lên án, tố cáo tội ác của kẻ thù khẳng định
lòng căm thù sâu sắc.
"Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống"
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mang tính chất chính nghĩa, nhân đạo vì mục đích của cuộc
khởi nghĩa là hướng đến nền độc lập cho muôn dân an hưởng thái bình, ấm no. Kẻ thù
sau khi thua trận được tha tội được tạo điều kiện để về nước hành động thể hiện
tưởng nhân đạo của dân ta. Lời văn đọng, hàm súc, chứng cứ ng, lập luận
chặt chẽ đầy thuyết phục đã khẳng định được tài năng tấm lòng của Nguyễn Trãi.
Ông tuyên bố độc lập và bày tỏ niềm tin vào thái bình vững chắc của đất nước.
"Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới"
Nguyễn Trãi luôn hướng đến một tương lai tươi sáng, trên dưới vua tôi đồng lòng góp
sức mang đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho muôn dân. tưởng nhân đạo của
Nguyễn Trãi là tư tưởng lớn, nêu bật nhân cách cao cả của ông.Cao quý thay tấm lòng
trung quân, ái quốc, hết lòng phụng sự vì dân của Nguyễn Trãi! Ông một nhân cách
lớn dành cả đời hành động theo lẽ sống lớn.
tưởng nhân đạo đọng lại trong "Bình ngô đại cáo" như một lời gửi đến mai sau,
nhắc nhở nghĩa vụ của mỗi người đối với quê hương, đất ớc. Hãy học tập rèn
luyện không chỉ mang lại cuộc sống tốt đẹp cho bản thân còn cho mọi người trong
xã hội.
Bài làm mẫu 8
Nguyễn Trãi một vị anh hùng của dân tộc, danh nhân văn a của thế giới. Cuộc
đời ông trải qua nhiều biến cố oan c nhưng ông đã để lại rất nhiều những tác
phẩm giá trị đồ sộ cho đời sau kể cả về chữ nôm chữ hán. Trong đó “bình ngô
đại cáo” là một trong những tác phẩm kiệt xuất của ông .
Bình ngô đại cáo một khúc tráng ca nhằm ca ngợi cuộc khởi nghĩa chống quân
Minh xâm lược của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn . Hơn thế nữa, tác phẩm này đã trở
thành một áng thiên chùng văn bất hủ đời đời, một bản tuyên ngôn độc lập đanh
thép ,hùng hồn về nền độc lập của dân tộc ta. Điểm cốt lõi của tác phẩm được thể hiện
cả hai tư cách đó là “nhân nghĩa” mà nhân dân ta ca ngợi mãi cho đến về sau.
Mở đầu cho tác phẩm thì Nguyễn Trãi đã nêu lên một nguyên nhân nghĩa đó
“việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Tư tưởng nhân nghĩa đó xuyên suốt cả bài thơ, dùng
nhân dân với cái nhân nghĩa để đi chống giặc ngoại xâm mang lại sự bình n,ấm no
và hạnh phúc cho muôn dân.
Nhân nghĩa tinh thần chính nghĩa của nhân dân mang lại bản sắc riêng của dân tộc.
Nhân nghĩa ở đây chính là để trừ bạo cho dân, nó được biểu hiện bằng những việc làm
cụ thể hơn. Đó chống quân xâm lược để giữ vững bờ cõi ,tiêu diệt các cuộc phản
nghịch chống lại triều đình.“quân điếu phạt trước lo trừ bạo” Nguyễn Trãi đã xem việc
an dân mục tiêu của nhân nghĩa , đó là trừ bọn cướp nước . Dùng nhân nghĩa để đối
xử với những bọn bại trận xoa dịu hận thù để không gây hậu quả về sau cũng việc
làm nhân nghĩa
tưởng nhân nghĩa ấy còn được nhắc tới đó lòng thương dân, tin tưởng biết ơn
nhân dân. Dan chúng luôn được ông nhắc tới trong chiến tranh trong thời bình .
Nhân dân sản xuất ra của cải vật chất ,sống gần dân thương dân lúc nào cũng chỉ
nghĩ đến nhân dân trước tiên. Chính vì vậy chúng ta thấy được ngay từ đầu bài
cáo chúng ta thấy nhắc được tới nhân dân đầu tiên. Trong suốt cuộc đời của sống sống
gần dân và ở ngay cạnh dân cho nên ông hiểu được mong muốn của nhân dân.
tưởng nhân nghĩa đó còn sự bao dung đối với kẻ thù. tưởng ấy đã được
Nguyễn Trãi thể hiện trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn . thể nói rằng chính
tưởng ấy cùng với tài mưu lược đã chiến thắng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
tưởng nhân nghĩa đó còn được thể hiện sự khoan dung cho kẻ thù khi chúng bại
trận. thể hiện được đức hiếu sinh của dân tộc ta cũng như tấm lòng bao dung của
Nguyễn Trãi khi đối phó với địch trong cuộc khởi nghĩa. Chúng ta đánh giặc bằng ý
chí sức mạnh sự căm thù nhưng khi chúng bại trận đầu i máu chảy thì chúng ta
sự khoan dung. Ta chiến đấu cũng chỉ để lấy lại lãnh thổ, lấy lại sự bình yên cho
muôn dân, đó chính là mục tiêu cuối cùng.
Những việc làm của dân tộc ta đối với kẻ thù làm cho nước họ phải tôn trọng, biết ơn.
chính việc làm này cũng khiến cho quân minh e không dám quay đầu lại xâm
lược nước ta nữa. “nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn hùng binh. Gây lại
hòa hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh cho muôn đời”. Đây thật sự một tưởng
lớn cho con người tài “kinh bang tế thế” và một tưởng sức sống vang mãi
cho tới muôn đời sau.
Ta cũng có thể hiểu được tài chiến lược của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở chỗ cầu
người hiền tài giúp ích cho nhân dân. Nguyễn Trãi đã quan niệm người hiền tài càng
nhiều thì lúc đấy xã tắc mới hưng thịnh được ,nhân dân mới ấm no hạnh phúc.
Qua tác phẩm bình ngô đại cáo cho chúng ta thấy rằng tư tưởng nhân đạo, là một minh
chứng cho cuộc chiến thắng hùng hồn của nhân dân ta.
tưởng nhân nghĩa trong bình ngô đại cáo không chỉ là ý nghĩa to lớn mà còn
tầm ảnh hưởng rất nhiều đến tình hình chính trị của đất nước thời đại sau. tưởng
nhân nghĩa này luôn trường tồn mãi mãi với dân tộc ta cho đến tận bây giờ.
Bài làm mẫu 9
ãdcf
Nguyn Trãi không ch mt nhà quân s kit xut ca dân tc mà ông còn nhà
thơ, nhà văn chính luận tài ba ca nền văn học trung đại Vit Nam vi nhiu tác phm
xut sắc được viết bng c ch Nôm ch Hán. Đc bit, nhc ti nhng áng văn
chính lun ca Nguyn Trãi không th nào chúng ta không nhc tới "Bình Ngô đại
cáo" - mt tác phẩm được Nguyn Trãi tha lnh Li viết ra sau cuc kháng chiến
chng quân Minh. Tác phẩm đã để li mt ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc
được xem là "Bản tuyên ngôn độc lp th hai ca dân tc".
th xem Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, và Bình Ngô đại cáo ba cái mốc đánh
du nhng chặng đường phát trin rc r ca ch nghĩa yêu ớc trong văn hc trung
đại Vit Nam. Tuy nhiên, Nam quốc sơn hà và Hịch tướng sĩ là hai bưc của giai đoạn
tiến hành nhng cuc chiến tranh gi nước đại nhm khẳng định s tn ti ch
quyn ca quốc gia Đại Việt. Bình Ngô đại cáo li một giai đoạn khác, gian nan hơn,
v vang hơn, giai đoạn đánh đuổi gic ngoi xâm, gii phóng dân tc khi ách l.
Nói cách khác, Bình Ngô đại cáo ra đời trong một giai đoạn lch s nhiều đặc điểm
khác bit so vi thi Lí Trn.
S tht bi ca hai cuc khởi nghĩa do Giản Định Trùng Quang lãnh đạo đã khẳng
định rng s mnh lch s ca nhà Trần đã chấm dt. Trong hoàn cảnh như vậy, v
hào trưởng bình thường đất Lam Sơn nhận chân rt sc mnh hay vai trò lch s
to ln, có tính cht quyết định ca yếu t nhân dân trong công cuc gii phóng dân tc
khỏi ách đô hộ ca giặc Minh. Được lòng dân, đoàn kết được toàn dân chính là đòi hỏi
ln lao ca thời đại đặt ra vi nhng người lãnh đạo cuc khởi nghĩa Lam Sơn. Dựa
vào dân dựa vào chính nghĩa. chính nghĩa thì nhất định thng lợi. Đây chính
tưởng ln ca thời đại chống Minh được Nguyn Trãi nêu phn đầu bài Cáo:
"Nhân nghĩa chi cử yếu ti an dân" Sut toàn bài, nhng t ng, hình ảnh nói đến dân
chiếm mt t l khá cao so vi các tác phm ca nhng thời trước đó vốn tp. trung
t hình ảnh người trai quý tộc yêu c, khát khao lp chiến công. Dân trong bài cáo
tp hp những dân đen, con đỏ (thương sinh, xích tử), nhng phu phen, tp dch,
những người dòng lưng ngọc, đã cát tìm vàng trong những Kim Trường Cc Châu
Trưng Dc, nhng người làm rung, nhng kl (manh lệ). Đó những tng lp
thp nht trong hi phong kiến nhưng lại chiếm đa số trên mảnh đất Đà Việt bao
đời tn ti phát trin bng nn kinh tế ng nghiệp. Thơ văn Trần ít chú ý đến
h ch tp trung miêu t hình nh nhng người anh hùng quý tc. chng t
rng thc tin lch s ca thời đại chống Minh đòi hỏi phi phá v cách hiểu bị chi
phi nghiêm ngt bởi đẳng cp, tôn ti trt t phong kiến v vai trò ca qun chúng
thi Lí Trần. Sau này, trong thơ của mình, Nguyễn Trãi cũng hay nhắc đến vai trò lch
s của dân ông đã nhận thức đưc ngày mt sn sắc trưc, trong sau cuc khi
nghĩa Lam Sơn.
Phúc chu dĩ tín dân do thy
Th him nan bng mnh ti thiên
(Lt thuyn mi biết dân như nước
Cy hiểm khôn xoay đưc mnh tri)
(Quan Hi)
Hoc
yên thì nh lòng xung đột
Ăn lc đền ơi kẻ cy cày
(Báo kính cnh gii - 19)
tưởng yên dân si ch đỏ xuyên sut, làm nn tng cho sc mnh ca toàn bài
cáo. dân chính nghĩa. Nhân nghĩa thc s phải dân. Dân ngưi phn
n trưc ách thng tr ca ngoại bang và cũng chính dân, những ngưi ly gy thay c
(Yết can vi manh l chi đ t tp) s ln mạnh, đoàn kết, hp lc thành một cơn
bão d quét sạch xâm lược.
Khi ngun t Khng học, tưởng nhân nghĩa của Trung Quc, thc cht, không
thc thi cho tng lp manh l hèn kém mà Nho giáo cho là nhng k tiu nhân mc dù
v nghĩa của t thì nhân nghĩa mi quan h tốt đẹp giữa người với người trong mt
hi, mt cộng đồng. Theo Khng hc, tiu nhân nhng k không đọc sách thánh
hin nên hc thuyết nhân nghĩa không th dành cho h. Trong Lun ng, Khng T
nhn mnh nhiu ln s khác bit giữa người quân t vi k tiu nhân: "Quân t ý
thc làm tốt cho người không làm điều ác còn tiểu nhân thì ngưc li"; "Quân t
lo v đạo đức, tiu nhân lo v đất đai,... Quân tử lo v việc nghĩa, tiểu nhân lo vic li
Điều nghĩa con đường, điều l cánh ca, ch người quân t mi biết đi con
đường đó, ra vào cánh cửa đó 4 Mạnh T phát biu: "Dân vi quý tc th chi, quân
vi khinh", thc chất nói đến mt th chính tr được lòng dân ch dân ca ông
cũng giới hn trong tng lp hng sn. Ông khẳng định: "Nếu ngưi dân không hng
sn thì h không hng tâm” “không ngưi quân t thì ly ai cai tr k thôn
quê".
tưởng nhân nghĩa của Nguyn Trãis kế thừa đầy sáng to hc thuyết Nho giáo
bi l, ch dân trong bài cáo ch yếu để nhng tng lp thp nht trong xã hi
phong kiến, nhng manh l là dân đen, con đỏ... Điều này hoàn toàn phù hp vi thc
tế lch s truyn thống nhân đo tốt đẹp ca dân tộc. Bình Ngô đại cáo cũng nhắc
đến quan điểm vi T quc v nhng yếu t cu thành mt dân tộc. Đây là quan điểm
tiên tiến ca thời đại được phát biu mt cách hoàn chỉnh đầy sc thuyết phc so
vi các thi đi trước đó. Nam quốc sơn hà quan tâm đến 3 yếu t:
Địa (sông núi c Nam), Chính tr (vua Nam ), Sách trời (thiên thư) hay thiên
mnh
Hịch tướng sĩ quan m nhiều đến yếu t thái p do b chi phi nng n ca chế độ đại
điền trang đang phát trin mnh m thi Trn, Nguyn Trãi phát biu đầy đủ, ràng
hơn trên cơ sở thi Lí, Trn:
- Địa lí (núi sông b i đã chia)
- Nền văn hoá lâu đi (vốn xưng nền văn hiến đã lâu).
- Yếu t tâm lí, phong tc, tp quán (phong tc Bc Nam cũng khác)
- Các triều đại chính tr (t Triệu, Đinh, Lí, Trần. )
- Ngưi tài (song hào kit đời nào cũng có).
- Truyn thng lch s v vang (Lưu Cung tham công nên thất bi).
Đây đoạn văn mang tính chất tng kết nhng yếu t cu thành mt cộng đồng dân
tc. th hin mt cách hiu mi m, sâu sc, toàn din, hình thành, phát trin
được kim nghim t chính thc tin lch s. Stalin một định nghĩa đưc xem
khá hoàn chnh và dân tc: Dân tc là mt khi cộng đồng ổn định thành lp trong lch
s dựa trên sở cộng đồng v tiếng nói, lãnh th, v sinh hot kinh tế tình hình
tâm th hin trong cộng đồng văn hóa. So với định nghĩa này, ta thể thy quan
điểm ca Nguyn Trãi tiến b như thế nào trong thi đim đó.
"Bình Ngô đại cáo" ca Nguyn Trãi không ch một văn kiện lch s còn
một áng văn chính luận sâu sc vi s kết hp nhun nhuyn gia yếu t chính lun
tr tình. Trải qua bao nhiêu ngàn năm phát triển lch s dân tộc nhưng giá trị, ý
nghĩa to ln ca bài o này vn còn nguyên giá tr cho đến hôm nay. Phần đầu ca
bài cáo nêu mt cách ràng mi quan h hữu giữa 3 yếu t: Nhân - Dân - c.
Chính mi quan h này mi là nn tng cho toàn b luận đề chính nghĩa của áng thiên
c hùng văn Bình Ngô đại cáo.
| 1/76

Preview text:


Dàn ý tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo Dàn ý số 1 a) Mở bài
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm:
● Nguyễn Trãi là một vị anh hùng dân tộc, một nhà văn hóa kiệt xuất, nhân vật
toàn tài số một của lịch sử Việt Nam thời phong kiến.
● Đại cáo bình Ngô là bài cáo viết bằng văn ngôn do Nguyễn Trãi soạn thảo vào
mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo về việc
giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến với nhà Minh, khẳng định sự độc lập của nước Đại Việt.
- Khái quát về tư tưởng nhân nghĩa mà tác giả muốn truyền đạt: đây là tư tưởng quan
trọng chủ đạo trong bài, tư tưởng này mang tính nhân văn và có giá trị nhân đạo sâu sắc. b) Thân bài
* Quan niệm về tư tưởng nhân nghĩa
- Theo quan niệm Nho giáo: Tư tưởng nhân nghĩa là mối quan hệ giữa người với
người dựa trên cơ sở của tình thương và đạo lí.
- Trong quan niệm của Nguyễn Trãi: Tư tưởng nhân nghĩa là chắt lọc những hạt nhân
cơ bản nhất, tích cực nhất của của Nho giáo để đem đến một nội dung mới đó là:
● Yên dân: Làm cho cuộc sống nhân dân yên ổn, no đủ, hạnh phúc.
● Trừ bạo: Vì nhân mà dám đứng lên diệt trừ bạo tàn, giặc xâm lược.
=> Đó là tư tưởng rất tiến bộ, tích cực và phù hợp với tinh thần của thời đại.
* Sự thể hiện của tư tưởng nhân nghĩa trong Đại cáo bình Ngô
- Nhân nghĩa gắn với sự khẳng định chủ quyền, độc lập dân tộc.
Đứng trên lập trường nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền dân tộc bằng
một loạt dẫn chứng đầy thuyết phục:
- Nền văn hiến lâu đời
- Lãnh thổ, bờ cõi được phân chia rõ ràng, cụ thể
- Phong tục tập quán phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc
- Có các triều đại lịch sử sánh ngang với các triều đại Trung Hoa.
-> Khẳng định độc lập dân tộc là chân lí, sự thật hiển nhiên mà không ai có thể chối
cãi, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc.
=> Đây là tiền đề cơ sở của tư tưởng nhân nghĩa bởi chỉ khi ta xác lập được chủ quyền
dân tộc thì mới có những lí lẽ để thực thi những hành động “nhân nghĩa”.
- Nhân nghĩa thể hiện ở sự cảm thông, chia sẻ với nỗi thống khổ của người dân mất nước.
Đứng trên lập trường nhân bản, tác giả liệt kê hàng loạt những tội ác dã man của giặc Minh với nhân dân ta:
- Khủng bố, sát hại người dân vô tội: Nướng dân đen, vùi con đỏ,...
- Bóc lột thuế khóa, vơ vét tài nguyên, sản vật: nặng thuế khóa, nơi nơi cạm đất
- Phá hoại môi trường, sự sống: tàn hại giống côn trùng, cây cỏ,...
- Bóc lột sức lao động: Bị ép xuống biển mò ngọc, người bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,...
- Phá hoại sản xuất: Tan tác cả nghề canh cửi,...
-> Nỗi căm phẫn, uất hận của nhân dân ta trước tội ác của giặc.
=> Niềm cảm thông, xót xa, chia sẻ với nỗi thống khổ mà nhân dân ta phải chịu đựng.
- Nhân nghĩa là nền tảng sức mạnh để chiến thắng kẻ thù
- Cuộc chiến của ta ban đầu gặp vô vàn khó khăn: Lương hết mấy tuần, quân không một đội
- Nhưng nghĩa quân biết dựa vào sức dân, được nhân dân đồng tình, ủng hộ đã phản
công giành được thắng lợi to lớn:
● Những thắng lợi ban đầu đã tạo thanh thế cho nghĩa quân, trở thành nỗi khiếp đảm của kẻ thù
● Nghĩa quân liên tiếp giành thắng lợi tiêu diệt giặc ở các thành chúng chiếm
đóng, tiêu diệt cả viện binh của giặc.
=> Tư tưởng nhân nghĩa với những hành động nhân nghĩa đã khiến quân và dân có sự
đoàn kết, đồng lòng tạo thành sức mạnh to lớn tiêu diệt kẻ thù bởi tất cả mọi người
đều cùng chung một mục đích chiến đấu.
- Nhân nghĩa thể hiện ở tinh thần chuộng hòa bình, tinh thần nhân đạo của dân tộc
+ Sau khi tiêu diệt viện binh, quân ta đã thực thi chính sách nhân nghĩa:
Không đuổi cùng giết tận, mở đường hiếu sinh.
Cấp thuyền, phát ngựa cho họ trở về.
+ Để quân ta nghỉ ngơi, dưỡng sức
-> Đây là cách ứng xử với nhân đạo, vừa khôn khéo của nghĩa quân Lam Sơn, khẳng
định tính chất chính nghĩa cuộc chiến của ta, thể hiện truyền thống nhân đạo, nhân
văn, chuộng hòa bình của dân tộc Đại Việt.
=> Thể hiện tầm nhìn xa trông rộng để duy trì quan hệ ngoại giao sau chiến tranh của
dân tộc ta với Trung Quốc. c) Kết bài
- Khái quát, đánh giá lại vấn đề trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi qua Bình Ngô đại cáo
- Liên hệ tư tưởng nhân nghĩa trong thời đại hiện nay. Dàn ý số 2 1. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Trãi và tác phẩm "Bình ngô đại cáo".
- Sơ lược về tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi trong " Bình ngô đại cáo". 2. Thân bài
- Hoàn cảnh sáng tác, thể loại.
- Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi:
• Yêu nước, thương dân, khát vọng mang đến cuộc sống ấm no cho dân, quan
tâm đến ý nguyện của dân.
• Lên án tội ác của giặc Minh. • Vì dân trừ bạo.
- Tư tưởng nhân đạo đã chi phối Nguyễn Trãi có những hành động cụ thể: góp công
sức vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đánh đuổi giặc Minh.
- "Bình ngô đại cáo" là bản cáo trạng đanh thép đối với kẻ thù xâm lược, thể hiện
niềm tự hào về một dân tộc.
- Bản chất tốt đẹp của dân ta, luôn kiên cường trong mọi hoàn cảnh.
- Lời văn cô đọng, hàm súc, chứng cứ rõ ràng, lập luận chặt chẽ đầy thuyết phục.
- Hướng đến một tương lai tươi sáng, trên dưới vua tôi đồng lòng góp sức mang đến
cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho muôn dân. 3. Kết bài
- Khẳng định tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi trong " Bình ngô đại cáo" và suy
nghĩ về trách nhiệm bản thân đối với quê hương, đất nước. Dàn ý số 3 I. Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, tóm tắt chính trị · Tác giả Nguyễn Trãi, tác phẩm "Bình
Ngô đại cáo" · Nội dung: Bài cáo không những tố cáo tội ác của quân giặc, ngợi ca
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mà chứa đậm tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc II. Thân bài
Nêu sự sâu sắc về nhận thức của tác giả đối với tư tưởng nhân nghĩa
Nêu các tư tượng nhân nghĩa trong tác phẩm. III. Kết bài:
Khẳng định giá trị của tư tưởng nhân nghĩa: Thế hệ hôm nay phải giữ gìn và phát huy
đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa của truyền thống uống nước nhớ nguồn, luôn đưa tư tưởng
nhân nghĩa, tinh thần nhân đạo lên trên hết trong các tình huống.
Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô Đại cáo hay nhất
Xuyên suốt chặng đường tồn tại và phát triển của văn học Việt Nam, tư tưởng nhân
nghĩa đóng vai trò như một sợi chỉ đỏ nối liền thời đại. Nhân nghĩa là một trong những
truyền thống quý báu từ bao đời nay của dân tộc ta, truyền thống đó được kế thừa và
phát huy theo chiều dài của lịch sử. Nền văn học trung đại Việt Nam ra đời gắn liền
với quá trình dựng nước và giữ nước đau thương mà oanh liệt, oai hùng. Vì vậy, hầu
hết các tác phẩm ra đời trong thời kì này đều mang trong mình sợi chỉ đỏ xuyên suốt
ấy, và một trong những áng văn tiêu biểu nhất không thể không kể đến “thiên cổ hùng
văn” của người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi – “Bình Ngô đại cáo”, bài cáo đã vút
cao tinh thần độc lập dân tộc, tinh thần yêu nước còn được ghi nhắc đến muôn đời.
Đặc biệt cần phải kể đến là tư tưởng nhân nghĩa được Nguyễn Trãi thể hiện trong
“Cáo bình Ngô” đã trở thành giá trị tư tưởng cao đẹp nhất mà nhân dân ta mãi ngợi ca và hướng tới.
“Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”
Đó là lời ca tụng nổi tiếng của vua Lê Thánh Tông dành cho Nguyễn Trãi sau hơn hai
mươi năm bị hàm oan tày trời. Trong suốt bao năm qua, Nguyễn Trãi luôn được nhớ
tới như một truyền kỳ, vừa là một nhà tư tưởng, nhà chính trị đại tài của dân tộc – một
bậc anh hùng toàn tài hiếm có, người đã có công trong việc phò tá vua Lê xây dựng
nghiệp lớn, vừa là một nhà văn, nhà thơ kiệt xuất của nền văn học trung đại Việt Nam.
Cuộc đời và sự nghiệp của ông được đúc kết trong câu thơ của Chế Lan Viên:
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn”
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?)
Các tác phẩm của ông là sự kết tinh đẹp đẽ nhất của tư tưởng chính nghĩa, lòng yêu
nước nồng nàn cùng lập luận sắc sảo, chặt chẽ, giọng văn hùng hồn, đầy tính thuyết
phục với tư tưởng lấy dân làm gốc. Và một trong những tác phẩm của ông thể hiện rõ
nhất điều này không thể không kể đến áng “thiên cổ hùng văn” – “Bình Ngô đại cáo”.
“Bình Ngô đại cáo” là bài cáo được viết bằng cổ văn do Nguyễn Trãi soạn thảo vào
mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo về việc giành
chiến thắng trong cuộc kháng chiến với nhà Minh, khẳng định sự độc lập của nước
Đại Việt. Đây được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam, sau bài thơ
thần “Nam quốc sơn hà”. Song, “Bình Ngô đại cáo” không phải chỉ được tiếp nhận
chủ yếu như một văn bản hành chính mà còn được đón nhận như một kiệt tác văn
chương. “Bình Ngô đại cáo” qua ngòi bút thiên tài của Nguyễn Trãi trở thành một bản
anh hùng ca đẹp nhất thời đại của ông, thấm đẫm tinh thần yêu nước, tư tưởng nhân
nghĩa mà người đời ca tụng mãi về sau.
Tư tưởng nhân nghĩa xuất hiện rất sớm trong truyền thống triết học Trung Hoa. Theo
Khổng Tử, “nhân” là “yêu người” và để yêu người thật sự bằng lòng “nhân” thì phải
“hiểu người”. Còn “nghĩa” được nhấn mạnh là sự cư xử cho thích hợp dựa trên việc
“hiểu người”. “Nhân” và “nghĩa” luôn thể hiện phẩm chất cao đẹp của người quân tử.
Xét đến Mạnh Tử, người kế tục Khổng Tử, chữ nhân đứng hàng đầu trong bốn đức
lớn: Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí. Chúng bắt nguồn từ bốn đầu mối của Thiện. Trong đó,
lòng thương xót là đầu mối của nhân. Có thể nói, những tư tưởng và những quan điểm
khác nhau về nhân nghĩa phản ánh đời sống tinh thần của con người Trung Hoa đã
ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng truyền thống phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng.
Thế nhưng, sự tiếp nhận của các bậc văn nhân Đại Việt đối với văn hóa Trung Hoa
không phải là sự tiếp nhận thụ động và gieo trồng lên mảnh đất văn học những hạt
mầm có sẵn mà đó là một sự tiếp nhận có chọn lọc, kết hợp hài hòa những tinh túy của
tư tưởng nhân nghĩa Nho giáo với truyền thống quý báu bao đời của dân tộc Việt Nam như:
“Lá lành đùm lá rách”
“Thương người như thể thương thân”
Do đó, tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo khi vào nước ta đã được tiếp biến một cách
tích cực. Nhân nghĩa của Nho giáo vì thế hòa quyện cùng với nhân nghĩa của nhân
dân. Nguyễn Trãi đã tiếp thu trọn vẹn những tinh hoa văn hoá ấy để rồi tác phẩm nào
của ông cũng thấm đượm tinh thần nhân đạo cao đẹp, yêu nước thương dân mà “Bình
Ngô đại cáo” là một ví dụ rõ nét.
Sê-khốp đã từng khẳng định: “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ
trong cốt tủy”. Sê-khốp coi tinh thần nhân đạo là phẩm chất bắt buộc phải có trong
mỗi người cầm bút, là tiêu chuẩn, điều kiện để đánh giá mức độ chân chính của nhà
văn. Bởi tác phẩm văn học chân chính thể hiện cái tâm của người nghệ sĩ, phải hàm
chứa tinh thần nhân văn sâu sắc, chứa đựng niềm vui, nỗi khổ đau của con người.
“Bình Ngô đại cáo” chính là một tác phẩm như thế. Tinh thần nhân văn được Nguyễn
Trãi thể hiện trong bài cáo trước hết nằm ở quan niệm về tư tưởng nhân nghĩa của ông.
Ngay từ đầu, Nguyễn Trãi đã khẳng định sự đấu tranh này là vì lợi ích của nhân dân:
“Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Nhân nghĩa vốn là một tư tưởng đạo Nho, là mối quan hệ giữa người với người dựa
trên cơ sở của tình thương và đạo lí. Nhưng ở đây, với bốn chữ “yên dân”, “trừ bạo”,
Nguyễn Trãi đã nâng nó lên một tầm cao mới, trở thành một lý tưởng xã hội, một đạo
lý dân tộc có giá trị đến muôn đời: việc nhân nghĩa ở đời cốt là lo cho dân được ấm no,
giúp cho dân được yên ổn. Nguyễn Trãi đã khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là
quy luật tất yếu trong mọi thời đại – dân là nòng cốt, là tài sản, là sức mạnh, sinh khí
của một quốc gia. “Yên dân”, tức là làm cho cuộc sống của nhân dân được yên ổn, no
đủ, hạnh phúc. Nhưng để được “yên dân” trước phải lo “trừ bạo”, có nghĩa phải vì
nhân mà dám đứng lên diệt trừ bạo tàn, đánh tan quân xâm lược.
Ở đây, có thể nói Nguyễn Trãi đã sử dụng tài tình nghịch lí “gậy ông đập lưng ông”:
ông dùng chính những luận điểm kinh điển về nhân nghĩa của tư tưởng Trung Hoa
từng được các bậc thánh hiền như Khổng Tử, Mạnh Tử,… đúc kết lại mà bọn tướng
Minh đều đã thuộc nằm lòng để quật lại bọn chúng. Đối với Nguyễn Trãi, “nhân
nghĩa” không còn là một quan niệm đạo đức hạn hẹp mà là một lý tưởng xã hội, cả
cuộc đời ông chưa từng có một giây phút nào ngưng lo nghĩ cho dân cho nước:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương” (Cảnh ngày hè)
Bậc anh hùng ấy lo cho dân bằng tất cả tình thương tận sâu nơi đáy lòng. Dân giàu,
nước mạnh, dân no đủ, nước thái bình, đây là giấc mơ Nguyễn Trãi luôn khắc khoải
suốt cả cuộc đời dẫu cho cuộc đời ấy phải chịu nhiều đắng cay và oan khuất, hơn hết,
nó còn là cả một học thuyết nhân sinh ấp ủ đã đến lúc bật ra thành lời. Nếu giấc mơ
kia là của bậc đại nhân, thì cái lõi tư tưởng của giấc mơ là của bậc đại trí. Đó là tư
tưởng nhân nghĩa đã được Nguyễn Trãi vạch rõ ngay trong hai câu mở đầu “Bình Ngô
đại cáo”, một tư tưởng rất tiến bộ, tích cực, phù hợp với tinh thần của thời đại và cho
đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
Nếu thế kỉ XI lũ giặc Tống hồn xiêu phách lạc khi nghe âm hưởng của bài thơ thần
Nam quốc sơn hà vang lên bên bến sông Như Nguyệt, hay đến thế kỉ XX thực dân
Pháp cũng chẳng còn cái cớ nào kéo sang xâm phạm nước Nam sau khi nghe những
lời dõng dạc của chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn Độc lập, thì ở thế kỉ XV,
Nguyễn Trãi cũng đã khẳng định một cách hùng hồn về lãnh thổ Việt Nam với lũ giặc
ngoại xâm. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn gắn liền với tư tưởng yêu nước,
với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia và tinh thần độc lập dân tộc:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.”
Chỉ một từ “ta” mang ý sở hữu, Nguyễn Trãi cũng đã dõng dạc khẳng định rằng lãnh
thổ Đại Việt là bất khả xâm phạm. Ở đây, ông đưa ra một quan niệm được đánh giá là
đầy đủ nhất lúc bấy giờ về các yếu tố tạo thành một quốc gia độc lập: nước Việt ta có
nền văn hiến tự bao đời, có núi sông bờ cõi, ranh giới đã phân định, có phong tục tập
quán phong phú, có các triều đại sánh ngang với “Hán, Đường, Tống, Nguyên”, có
nhân tài phò vua diệt giặc. Còn nhớ trong “Nam quốc sơn hà”, Lý Thường Kiệt mới
chỉ khẳng định bằng một phương diện đó là lãnh thổ, nhưng lại ở sách trời. Đến “Cáo
bình Ngô”, Nguyễn Trãi mới nâng tầm chân lý độc lập lên nhiều phương diện rất cụ
thể chứ không còn mơ hồ như trước. Đây là tiền đề cơ sở của tư tưởng nhân nghĩa bởi
chỉ khi ta xác lập được chủ quyền dân tộc thì mới có những lý lẽ để thực thi những
hành động “nhân nghĩa” làm cho quốc thái dân an.
Để nêu bật tư thế độc lập tự cường của dân tộc, Nguyễn Trãi đã sử dụng cách diễn đạt
sóng đôi. Đại Việt và Trung Hoa đã bao đời song song tồn tại. Ông đã đặt các triều đại
“Triệu, Đinh, Lý, Trần” của ta ngang hàng với “Hán, Đường, Tống, Nguyên” của
Trung Hoa, điều đó cho ta thấy, nếu không có một tình yêu nước nồng nàn, một lòng
tự hào dân tộc mãnh liệt thì làm sao có được sự so sánh tinh tế và sâu sắc như vậy.
Ngoài ra, câu văn còn được tăng sức thuyết phục lên gấp bội khi Nguyễn Trãi sử dụng
nhiều từ ngữ chỉ tính chất hiển nhiên vốn có khi nêu rõ sự tồn tại của Đại Việt: “từ
trước”, “đã lâu”,“đã chia”, “cũng khác”. Nghệ thuật thành công nhất của đoạn đầu tiên
nói riêng và cả bài cáo nói chung chính là thể văn biền ngẫu được nhà thơ khai thác
một cách triệt để nhưng không kém phần tinh tế.
Như vậy, Bình Ngô đại cáo đã ghi nhận một chân lý độc lập đầy tinh thần nhân nghĩa.
Độc lập ấy có được không phải do trời định mà là do nhân định. Chính nhân dân bao
đời là người đã gây dựng nền độc lập. Biết bao xương máu đã đổ xuống, biết bao sự
đồng cam cộng khổ, bao nhiêu mồ hôi, nước mắt của nhân dân đã đổ xuống cả nghìn
năm để dựng xây nên hình hài Tổ quốc. Vì thế, đó là điều “bất khả xâm phạm”. Suốt
cả sáu trăm năm khi đất nước độc lập tự chủ, lần đầu tiên chân lý chủ quyền dân tộc
được vang lên một cách dõng dạc, khí thế, tự hào đến vậy. Như vậy, có thể thấy tư
tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi mang đậm sắc thái của tinh thần yêu nước truyền
thống luôn chảy trong huyết quản con Rồng cháu Tiên.
“Văn chương bất hủ cổ kim đều viết bằng huyết lệ” (Lâm Ngũ Đường), phải chăng
khi viết những câu văn liệt kê từng tội ác tày trời của quân giặc đối với dân ta, ngòi
bút của Nguyễn Trãi cũng đã nhỏ lệ, trái tim của ông cũng đã rỉ máu? Tư tưởng nhân
nghĩa ở Nguyễn Trãi còn thể hiện ở sự cảm thông, chia sẻ với nỗi thống khổ của người
dân mất nước cùng nỗi tức giận, niềm uất hận ngút trời với tội ác không thể dung thứ
của quân giặc. Vì thương dân, ông đã xót xa trước những thảm cảnh mà “quân cuồng
Minh thừa cơ gây hoạ” do “bọn gian tà bán nước cầu vinh”:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây binh kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.”
Chiến tranh đã gây ra bao đau thương , mất mát cho nhân dân ta. Chính sách đồng hóa
của nhà Minh vừa tàn bạo vừa thâm độc, bao gồm những thủ đoạn hủy diệt dã man, có
thể nói tất cả những gì là cơ sở tồn tại về vật chất và tinh thần của một quốc gia dân
tộc chúng đều tìm cách hủy diệt dần. Chúng bỏ tên nước ta, chia làm quân huyện như
đất đai nhà Minh. Chúng đàn áp khủng bố cực kì man rợ hòng dập tắt phong trào và ý
chí phản kháng của nhân dân ta. “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn”/ “Vùi con
đỏ xuống dưới hầm tai vạ”, Nguyễn Trãi sử dụng những từ ngữ biểu cảm, gợi hình gợi
cảm như “nướng”, “vùi”, “dân đen”, “con đỏ”… Nhân nghĩa còn là sự sẻ chia đồng
cảm, cảm thông với nỗi đau của người dân mất nước.
Lật lại sử sách, nhìn lại những tội ác tày trời của quân giặc gây ra cho dân ta mà chỉ
biết uất nghẹn trong lòng: Chúng bắt phụ nữ, trẻ em làm nô lệ, mua bán như một thứ
hàng hóa. Chúng rút ruột người treo lên cây, nấu thịt người làm dầu, phanh thây phụ
nữ có thai, nướng sống người làm trò chơi, chất thây người làm mồ mua vui.
Không chỉ có vậy, bọn giặc còn thực hiện một chế độ sưu thuế cống nạp nặng nề để
vơ vét của cải, cướp đoạt tài nguyên, sản vật:
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng. .......
Tan tác cả nghề canh cửi.”
Chúng phá hoại nhân dân thôi chưa đủ, còn phá hoại cả môi trường sống xung quanh
đến nỗi tàn hại cả côn trùng, cây cỏ. Bọn man rợ còn bóc lột đến tàn kiệt sức lao động
của người dân “bị đem vào núi đãi cát tìm vàng”, “ bị ép xuống biển dòng lưng mò
ngọc”, coi mạng sống con người như cỏ rác mặc cho “cá mập thuồng luồng”, mặc cho
“rừng sâu nước độc”. Chúng vơ vét tài nguyên đến tận cùng “vét sản vật”, “bắt chim
trả”, “bẫy hươu đen” đến nỗi “chốn chốn lưới chăng”, “nơi nơi cạm đặt”. Giặc Minh
quấy nhiễu đến nỗi sản xuất bị đình trệ “tan tác cả nghề canh cửi”, cuộc sống nhân dân
bị huỷ hoại không còn lại gì “tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ”, đẩy nhân dân đến
bước đường cùng “nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”. Chúng đã hung hăng,
ngang ngược xúc phạm đến đạo lí nhân nghĩa của đất trời và lòng người.
Còn nhớ trong “Hịch tướng sĩ”, Trần Hưng Đạo cũng có một trái tim cháy bỏng về
lòng căm thù giặc và một trái tim sắt đá quyết tâm đánh đuổi giặc ra khỏi bờ cõi nước
nhà: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa;
chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này
phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.” Đó là tâm trạng
căm phẫn tột cùng và hào khí “sát thát” Đông A của thời Trần.
Còn trong “Bình Ngô đại cáo”, cùng với một niềm phẫn uất thấu trời, Nguyễn trãi đã
vạch trần bản chất thực của kẻ xâm lược bằng những câu văn chất chứa biết bao nhiêu
phẫn nộ, bi thương. Tội ác của giặc Minh chồng chất đến nỗi dẫu chặt trụi tre rừng
cũng không ghi hết, dơ bẩn đến nỗi nước biển Đông cuồn cuộn cũng không rửa sạch
mùi, khiến cho trời đất chẳng thể dung thứ.
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?”
Ngòi bút nhỏ máu của Nguyễn Trãi vừa thể hiện nỗi căm phẫn, niềm uất hận nghẹn
ngào của ông trước tội ác của giặc, vừa bộc lộ niềm cảm thông, xót xa, chia sẻ với nỗi
thống khổ mà nhân dân ta phải chịu đựng suốt mấy mươi năm. Ngay cả khi bị bọn
lộng thần đố kị, vu cáo, thậm chí bị hạ gục, khiến ông buộc lòng phải hai lần xin về trí
sĩ tại Côn Sơn, tấm lòng ưu quốc ái dân của ông vẫn không lúc nào nguôi:
“ Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng.” (Thuật hứng)
Trước những tội ác chồng chất của giặc như vậy, chúng ta chỉ có một con đường là
đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi để trừ bạo, yên dân. Xót xa cho cảnh nước mất nhà tan,
Lê Lợi – người anh hùng áo vải đất Lam Sơn đã phất cờ khởi nghĩa: “Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống.”
Sử sách còn ghi chuyện chàng thanh niên Nguyễn Trãi khóc theo cha đến tận ải Nam
Quan khi cha ông là Nguyễn Phi Khanh bị giặc Minh bắt giải về Kim Lăng. “Nợ nước,
thù nhà”, Nguyễn Trãi khắc sâu lời cha dặn: “Con trở về lập chí, rửa nhục cho nước,
trả thù cho cha, như thế mới là đại hiếu”. Cuộc đời Nguyễn Trãi bắt đầu bằng thảm
kịch “nước mất nhà tan”. Chính “mối hận Nam Quan” đã nhen nhóm ngọn lửa của
lòng yêu nước thương nòi trong tâm khảm Nguyễn Trãi để một ngày kia nó bùng cháy
thành hoả diệm sơn đốt cháy quân giặc. Nung nấu chí vọng “đền nợ nước, báo thù
nhà”, khi nghe tin Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Nguyễn Trãi bèn trốn khỏi Đông
Quan tìm vào Thanh Hoá gặp Lê Lợi, dâng “Bình Ngô sách”, được Lê Lợi trọng dụng.
Ông đã đồng cam cộng khổ với nghĩa quân Lam Sơn suốt mười năm kháng chiến, để
rồi viết nên những câu văn chân thực nhất về hiện thực gian khổ khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mới bắt đầu: “Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc”
“Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.”
Tuy gặp nhiều thiếu thốn, khó khăn nhưng tinh thần và lòng quyết tâm đã dâng cao
như núi, tướng sĩ và nhân dân đều bền gan vững chí, chung sức chung lòng khắc phục
gian nan, nhờ sự đoàn kết của toàn dân và chiến lược, chiến thuật đúng đắn, nghĩa
quân biết dựa vào sức dân, được nhân dân đồng tình, ủng hộ đã phản công giành được
thắng lợi to lớn. Rõ ràng nhận thức về vai trò, công sức của nhân dân đã được nâng
lên một tầm cao chưa thấy trong lịch sử, phản ánh đúng đắn tinh thần của thời đại
chống Minh. Ở đây, Nguyễn Trãi có cách miêu tả rất ngắn gọn nhưng vẫn làm nổi bật
lên sự hoảng sợ, hoang mang của quân giặc ở hai trận đánh ác liệt xảy ra tại Bồ Đằng
và Trà Lân, còn quân ta thì càng đánh càng mạnh, sĩ khí càng tăng cao: “Sĩ khí đã hăng
Quân Thanh càng mạnh
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lí An, Phương Chinh nín thở cầu thoát thân.”
Với tư tưởng nhân nghĩa cao cả, “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để
thay cường bạo” Nguyễn Trãi đã đưa ra một chân lý: phải giương cao ngọn cờ “nhân
nghĩa, an dân”, phải cố gắng đoàn kết lòng dân làm sức mạnh của nước, làm thế nước.
Để làm nổi bật giữa nhân nghĩa với hung tàn, giữa chính nghĩa với phi nghĩa, giữa
chiến thắng và chiến bại,… Nguyễn Trãi đã sử dụng nghệ thuật đối lập, tương phản rất
tài tình, đem đến nhiều niềm tin, lòng tự hào, sự hả hê cho người nghe, người đọc. Ta
với giặc Minh khác nào như mặt trời với bóng tối, như văn minh với man rợ, như tất
thắng với thất bại. Ông chủ trương cứu nước bằng sức mạnh của dân, muốn lấy lại
được nước phải biết lấy sức dân mà kháng chiến. Sức mạnh nhân nghĩa của nhân dân
ta “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều” đã làm nên chiến thắng vẻ vang đánh dấu
những mốc son chói lọi trong trang vàng sử sách. Những thắng lợi ban đầu đã tạo
thanh thế cho nghĩa quân, trở thành nỗi khiếp đảm của kẻ thù:
“Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc âm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu.
Mọt gian kẻ thù: Lí Lượng cũng đành bỏ mạng.”
Thừa thắng xông lên, nghĩa quân liên tiếp giành thắng lợi tiêu diệt giặc ở các thành
chúng chiếm đóng, tiêu diệt cả viện binh của giặc. Nguyễn Trãi tập trung bút lực kể về
chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang. Đây là bản hùng ca vang dội nhất của cuộc kháng chiến trường kì.
Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại,
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạch chia đường từ Vân Nam tiến sang.”
Nhưng ta đã có sự bố phòng chu đáo. Hai gọng kìm của giặc liên tiếp bị bẻ gãy:
“Ta trước điều bỉnh thủ hiểm, chặt mũi tên phong.
Sau lại sai tướng chặn đường, tuyệt nguồn lương thực.”
Sau đó là những chiến thắng dồn dập. Giọng văn hăm hở như có tiếng thúc giục chiến
thắng của người viết, mạch văn dồn đuổi như cố theo kịp bước hành quân thần tốc và
những đòn đánh cấp tập của nghĩa quân:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.
Ngày hai tám, Thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.”
Câu văn đúc lại, ngắn gọn, đầy hình ảnh thâm xưng phóng đại nhằm cực tả sức mạnh
vĩ đại, khí thế áp đảo của quân ta:
“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn,
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông.”
Liệt kê những chiến công vang dội liên tiếp của quân dân ta cũng như tô đậm tư thế đê
hèn của quân xâm lược lúc thảm bại bằng giọng văn hào hùng sảng khoái, Nguyễn
Trãi vẫn nhằm mục đích khẳng định hùng hồn sức mạnh vô địch của tư tưởng nhân
nghĩa và truyền thống nhân nghĩa tốt đẹp của dân tộc Việt.
“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.”
Cả bản đại cáo là bài tráng ca, anh hùng ca về những chiến công hiển hách, vinh
quang mà dân tộc đã chung sức, chung lòng làm nên được. Đúng là chỉ có chân lý độc
lập tự do mới đem đến khí thế, khát vọng cháy bỏng như thế. Nguyễn Trãi hẳn đã chờ,
chờ suốt bao nhiêu năm để tự mình viết lên những khoảnh khắc lịch sử chẳng bao giờ
quên ấy. Để hơn một lần ông khẳng định chắc chắn cuộc chiến này, sự đồng khởi này
là xuất phát từ chính nghĩa, từ tư tưởng nhân nghĩa đã trở thành đạo lý tốt đẹp từ bao
đời của nhân dân Việt Nam ta.
Tư tưởng nhân nghĩa với những hành động nhân nghĩa đã khiến quân và dân có sự
đoàn kết, đồng lòng tạo thành sức mạnh to lớn tiêu diệt kẻ thù bởi tất cả mọi người
đều cùng chung một mục đích chiến đấu. Khi đánh giặc, càng đánh càng hăng, khí thế
ngập đất trời bởi trái tim luôn tràn trề tình yêu nước. Bởi thế nên quân ta mới đánh bại
quân giặc. Lúc này, quân giặc hiện lên trong thật đáng thương, thảm hại:
“Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.”
“Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.”
“Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng”
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo” còn thể hiện ở việc
đối đãi với kẻ thù. Nhân nghĩa thể hiện ở tinh thần chuộng hòa bình, tinh thần nhân đạo của dân tộc:
“Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay
phách lạc, Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay”
Đến khi chiến thắng giặc Minh, một lần nữa, tư tưởng nhân nghĩa – tấm lòng thanh
cao của Ức Trai càng cao vời vợi. Ông thương dân, mong muốn sớm yên bình cho
quân dân nên ông đã lấy toàn dân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Tư tưởng nhân nghĩa
trong suy nghĩ của Nguyễn Trãi là tinh thần yêu chuộng hòa bình, công lý, sự hiếu
sinh, hiếu hòa, độ lượng bao dung. Dân tộc ta đã mở đường hiếu sinh cho kẻ thù khi
chúng bại vong. Quân giặc đã “tham sống sợ chết”, ta cũng chẳng cạn tình. Quan điểm
“lấy chí nhân để thay cường bạo” của Nguyễn Trãi chính là được biểu hiện ở đây.
Đây là cách ứng xử vừa nhân đạo, vừa khôn khéo của nghĩa quân Lam Sơn, khẳng
định tính chất chính nghĩa cuộc chiến của ta, vừa thể hiện truyền thống nhân đạo, nhân
văn, chuộng hòa bình của dân tộc Đại Việt, vừa thể hiện tầm nhìn xa trông rộng để
duy trì quan hệ ngoại giao sau chiến tranh của dân tộc ta với Trung Hoa.
Coi trọng con người, quý trọng nhân dân, coi trọng tình hòa hiếu giữa các dân tộc ông
đã đặt nhân nghĩa lên trên tất cả. Trong tác phẩm Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, tư
tưởng nhân nghĩa dường như hòa quyện trong từng lời từng ý, tỏa ra dưới ngòi bút sắc
bén của ông. Nguyễn Trãi đã là một nhà thơ tư tưởng lớn biết chọn cho mình lí tưởng
đẹp đẽ và cao quý như vậy.
Bài cáo kết thúc. Câu văn chuyển sang nhịp khoan thai, dàn trải, trang trọng. Giọng văn hiền hoà tươi vui:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc”
Các hình ảnh xã tắc, giang sơn, kiền khôn, nhật nguyệt cứ tăng dần về độ lớn có sức
mạnh vũ trụ, dường như mới đủ đo được cảnh thái bình. Chân lý độc lập cứ thế mà
vang xa, vang rộng mãi. Nhưng niềm vui không ồn ào bởi Nguyễn Trãi hiểu hơn ai
hết cái giá đắt của chiến thắng, và cái ơn rất sâu của đồng bào, của trời đất tổ tông
thiêng liêng đã đồng lòng giúp đỡ. Lời tuyên bố còn chứa đựng cả đạo lý uống nước
nhớ nguồn. Bởi vậy mới nói, tác giả của bài cáo không chỉ tài năng trác việt mà đức
độ cũng vô biên. Giá trị độc lập, chủ quyền của bản đại cáo được thiết lập bởi những
tư tưởng nhân văn, truyền thống đạo lý gốc rễ như vậy. Từ đây dân tộc ta bước sang
một trang mới – trang sử vàng của độc lập, tự do, hoà bình. Nhân nghĩa của Nguyễn
Trãi là cần phải đấu tranh để cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Nhân nghĩa
giống như là một phép lạ, làm cho “Càn khôn bĩ rồi lại thái” / “Nhật nguyệt hối rồi lại minh”.
Phạm Văn Đồng có nhận định rằng “Văn chương của Nguyễn Trãi đã đạt đến đỉnh
cao của nghệ thuật, đều hay và đẹp lạ thường”. Bên cạnh giá trị nhân đạo sâu sắc,
“Bình Ngô đại cáo” , một nét đặc sắc nữa về nghệ thuật là lời văn giấụ hình tượng.
“Bình Ngô đại cáo” có ngôn ngữ trang trọng, hình tượng tráng lệ, kì vĩ. Các thủ pháp
nghệ thuật như so sánh, thậm xưng, cảm thán… được Nguyễn Trãi sử dụng rất đặc sắc
gợi cảm kì lạ. Cáo là một trong những thể văn xuôi cổ; cách đặt câu mang tính quy
phạm cổ điển. Nguyễn Trãi đã sử dụng biến hóa các kiểu câu tứ tự, bát tự, câu tứ lục,
câu song quan, câu cách cú, câu gối hạc, làm cho nhịp văn lúc co ngắn, lúc duỗi dài,
lúc nén xuống, lúc dồn dập. Khí văn mạnh mẽ, mang âm điệu anh hùng ca.
Có khi là các thi liệu văn liệu cổ đi vào bài cáo một cách thanh thoát hấp dẫn như: cần
trúc ngọn cờ, nước sông chén rượu, trúc chẻ tro bay, sạch không kình ngạc… Mở đầu
là hai chữ “yên dân”, kết thúc là”thái bình”, “chiến thắng”, là “thanh bình”, là “duy
tân” điểu đó đã thể hiện tính nhất khí, nhất quân của Bình Ngô đại cáo. Chỉ nói về
phương diện nghệ thuật, Bình Ngô đại cáo xứng dáng là bài ca thắng trận, khúc hát
hòa bình của ông cha lưu mãi ngàn thu. Trong tác phẩm này, tác giả đã kết hợp một
cách uyển chuyển giữa tính chân xác lịch sử với chất sử thi anh hùng ca qua lối văn
biền ngẫu mẫu mực của một ngọn bút tài hoa uyên thâm Hán học.
Nguyễn Trãi từng nói: “Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to
phải lấy nhân nghĩa làm đầu: duy nhân nghĩa có gồm đủ thì công việc mới thành
công”. Từ xưa đến nay, chỉ những bậc đại nhân đại trí như Nguyễn Trãi mới chọn
nhân nghĩa (hay chủ nghĩa nhân đạo) làm nền tảng cho sự nghiệp của mình. Nội dung
tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi cơ bản là tinh thần yêu nước, trọng dân an dân,
lòng khoan dung độ lượng kết hợp với ý chí hòa bình và xây dựng đất nước giàu mạnh.
“Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái đẹp và cái nhân đạo
của lòng người.” (Xê Lê Khốp). “Bình Ngô đại cáo” mãi là áng thiên cổ hùng văn, là
bản tuyên ngôn về chủ quyền độc lập dân tộc, bản cáo trạng tội ác của kẻ thù, bản
hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mà trong đó thanh nam châm thu hút mọi thế hệ
chính là tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp của người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Xin
được mượn lời của nhà thơ Xuân Diệu để thay cho lời kết: “Trước Lê Lợi, đã từng có
chiến thắng oanh liệt đuổi sạch quân Nguyên xâm lược ở thời nhà Trần, sau thời Lê
Lợi, sẽ có chiến thắng thần tốc của vua Quang Trung đánh đuổi 20 vạn quân Thanh
xâm lược, nhưng trong văn học sử chỉ có một áng văn Bình Ngô đại cáo, bởi các lẽ:
không có ba Nguyễn Trãi để viết ba áng văn khải hoàn mà lịch sử đòi hỏi ở ba thời
điểm, mà chỉ có một Nguyễn Trãi cụ thể, hiệu Ức Trai, ở đầu triều Lê cùng với tài
thao lược kinh bang tế thế, đã có cái thiên tài viết văn”.
Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo ngắn
Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự kiệt xuất của dân tộc mà ông còn là nhà
thơ, nhà văn chính luận tài ba của nền văn học trung đại Việt Nam với nhiều tác phẩm
xuất sắc được viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Đặc biệt, nhắc tới những áng văn
chính luận của Nguyễn Trãi không thể nào chúng ta không nhắc tới "Bình Ngô đại
cáo" - một tác phẩm được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết ra sau cuộc kháng chiến
chống quân Minh. Tác phẩm đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc và
được xem là "Bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc".
Có thể xem Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, và Bình Ngô đại cáo là ba cái mốc đánh
dấu những chặng đường phát triển rực rỡ của chủ nghĩa yêu nước trong văn học trung
đại Việt Nam. Tuy nhiên, Nam quốc sơn hà và Hịch tướng sĩ là hai bước của giai đoạn
tiến hành những cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại nhằm khẳng định sự tồn tại và chủ
quyền của quốc gia Đại Việt. Bình Ngô đại cáo lại ở một giai đoạn khác, gian nan
hơn, vẻ vang hơn, giai đoạn đánh đuổi giặc ngoại xâm, giải phóng dân tộc khỏi ách nô
lệ. Nói cách khác, Bình Ngô đại cáo ra đời trong một giai đoạn lịch sử có nhiều đặc
điểm khác biệt so với thời Lí Trần.
Sự thất bại của hai cuộc khởi nghĩa do Giản Định và Trùng Quang lãnh đạo đã khẳng
định rằng sứ mệnh lịch sử của nhà Trần đã chấm dứt. Trong hoàn cảnh như vậy, vị
hào trưởng bình thường đất Lam Sơn nhận chân rất rõ sức mạnh hay là vai trò lịch sử
to lớn, có tính chất quyết định của yếu tố nhân dân trong công cuộc giải phóng dân tộc
khỏi ách đô hộ của giặc Minh. Được lòng dân, đoàn kết được toàn dân chính là đòi hỏi
lớn lao của thời đại đặt ra với những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Dựa
vào dân là dựa vào chính nghĩa. Có chính nghĩa thì nhất định thắng lợi. Đây chính là
tư tưởng lớn của thời đại chống Minh được Nguyễn Trãi nêu ở phần đầu bài Cáo:
"Nhân nghĩa chi cử yếu tại an dân" Suốt toàn bài, những từ ngữ, hình ảnh nói đến dân
chiếm một tỉ lệ khá cao so với các tác phẩm của những thời kì trước đó vốn tập. trung
tả hình ảnh người trai quý tộc yêu nước, khát khao lập chiến công. Dân trong bài cáo
là tập hợp những dân đen, con đỏ (thương sinh, xích tử), những phu phen, tạp dịch,
những người dòng lưng mà ngọc, đã cát tìm vàng trong những Kim Trường Cục Châu
Trường Dục, những người làm ruộng, những kẻ nô lệ (manh lệ). Đó là những tầng lớp
thấp nhất trong xã hội phong kiến nhưng lại chiếm đa số trên mảnh đất Đà Việt bao
đời tồn tại và phát triển bằng nền kinh tế nông nghiệp. Thơ văn Lí Trần ít chú ý đến
họ mà chỉ tập trung miêu tả hình ảnh những người anh hùng quý tộc. Nó chứng tỏ
rằng thực tiến lịch sử của thời đại chống Minh đòi hỏi phải phá vỡ cách hiểu cũ bị chi
phối nghiêm ngặt bởi đẳng cấp, tôn ti trật tự phong kiến về vai trò của quần chúng
thời Lí Trần. Sau này, trong thơ của mình, Nguyễn Trãi cũng hay nhắc đến vai trò lịch
sử của dân mà ông đã nhận thức được ngày một sản sắc trước, trong và sau cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Phúc chu dĩ tín dân do thủy
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên
(Lật thuyền mới biết dân như nước
Cậy hiểm khôn xoay được mệnh trời) (Quan Hải) Hoặc
Ở yên thì nhớ lòng xung đột
Ăn lộc đền ơi kẻ cấy cày
(Báo kính cảnh giới - 19)
Tư tưởng yên dân là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, làm nền tảng cho sức mạnh của toàn bài
cáo. Có dân là có chính nghĩa. Nhân nghĩa thực sự là phải vì dân. Dân là người phẫn
nộ trước ách thống trị của ngoại bang và cũng chính dân, những người lấy gậy thay cờ
(Yết can vi kì manh lệ chi đồ tử tập) sẽ lớn mạnh, đoàn kết, hợp lực thành một cơn
bão dữ quét sạch xâm lược.
Khởi nguồn từ Khổng học, tư tưởng nhân nghĩa của Trung Quốc, thực chất, không
thực thi cho tầng lớp manh lệ hèn kém mà Nho giáo cho là những kẻ tiểu nhân mặc dù
về nghĩa của từ thì nhân nghĩa là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong một
xã hội, một cộng đồng. Theo Khổng học, tiểu nhân là những kẻ không đọc sách thánh
hiền nên học thuyết nhân nghĩa không thể dành cho họ. Trong Luận ngữ, Khổng Tử
nhấn mạnh nhiều lần sự khác biệt giữa người quân tử với kẻ tiểu nhân: "Quân tử có ý
thức làm tốt cho người mà không làm điều ác còn tiểu nhân thì ngược lại"; "Quân tử
lo về đạo đức, tiểu nhân lo về đất đai,... Quân tử lo về việc nghĩa, tiểu nhân lo việc lợi
Điều nghĩa là con đường, điều lễ là cánh cửa, chỉ có người quân tử mới biết đi con
đường đó, ra vào cánh cửa đó 4 Mạnh Tử phát biểu: "Dân vi quý xã tắc thứ chi, quân
vi khinh", thực chất là nói đến một thứ chính trị được lòng dân và chữ dân của ông
cũng giới hạn trong tầng lớp hằng sản. Ông khẳng định: "Nếu người dân không hằng
sản thì họ không có hằng tâm” và “không có người quân tử thì lấy ai cai trị kẻ thôn quê".
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là sự kế thừa đầy sáng tạo học thuyết Nho giáo
bởi lẽ, chữ dân trong bài cáo chủ yếu là để những tầng lớp thấp nhất trong xã hội
phong kiến, những manh lệ là dân đen, con đỏ... Điều này hoàn toàn phù hợp với thực
tế lịch sử và truyền thống nhân đạo tốt đẹp của dân tộc. Bình Ngô đại cáo cũng nhắc
đến quan điểm với Tổ quốc về những yếu tố cấu thành một dân tộc. Đây là quan điểm
tiên tiến của thời đại được phát biểu một cách hoàn chỉnh và đầy sức thuyết phục so
với các thời đại trước đó. Nam quốc sơn hà quan tâm đến 3 yếu tố:
Địa lí (sông núi nước Nam), Chính trị (vua Nam ở), Sách trời (thiên thư) hay thiên mệnh
Hịch tướng sĩ quan tâm nhiều đến yếu tố thái ấp do bị chi phổi nặng nề của chế độ đại
điền trang đang phát triển mạnh mẽ thời Trần, Nguyễn Trãi phát biểu đầy đủ, rõ ràng
hơn trên cơ sở thời Lí, Trần:
- Địa lí (núi sông bờ cõi đã chia)
- Nền văn hoá lâu đời (vốn xưng nền văn hiến đã lâu).
- Yếu tố tâm lí, phong tục, tập quán (phong tục Bắc – Nam cũng khác)
- Các triều đại chính trị (từ Triệu, Đinh, Lí, Trần. )
- Người tài (song hào kiệt đời nào cũng có).
- Truyền thống lịch sử vẻ vang (Lưu Cung tham công nên thất bại).
Đây là đoạn văn mang tính chất tổng kết những yếu tố cấu thành một cộng đồng dân
tộc. Nó thể hiện một cách hiểu mới mẻ, sâu sắc, toàn diện, hình thành, phát triển và
được kiểm nghiệm từ chính thực tiễn lịch sử. Stalin có một định nghĩa được xem là
khá hoàn chỉnh và dân tộc: Dân tộc là một khối cộng đồng ổn định thành lập trong lịch
sử dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng nói, lãnh thổ, về sinh hoạt kinh tế và tình hình
tâm lí thể hiện trong cộng đồng văn hóa. So với định nghĩa này, ta có thể thấy quan
điểm của Nguyễn Trãi tiến bộ như thế nào trong thời điểm đó.
"Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi không chỉ là một văn kiện lịch sử mà nó còn là
một áng văn chính luận sâu sắc với sự kết hợp thuần nhuyễn giữa yếu tố chính luận và
trữ tình. Trải qua bao nhiều ngàn năm phát triển lịch sử dân tộc nhưng giá trị, ý nghĩa
to lớn của bài cáo này vẫn còn nguyên giá trị cho đến hôm nay. Phần đầu của bài cáo
nêu một cách rõ ràng mối quan hệ hữu cơ giữa 3 yếu tố: Nhân - Dân - Nước. Chính
mối quan hệ này mới là nền tảng cho toàn bộ luận đề chính nghĩa của áng thiên cổ
hùng văn Bình Ngô đại cáo.
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo Bài làm mẫu 1
Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu
Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng (Tố Hữu)
Tuy ra đời gần sáu trăm năm, nhưng cho đến nay và muôn đời sau nữa, Bình Ngô đại
cáo và những tác phẩm khác của Nguyễn Trãi mãi mãi đi sâu vào lòng người. Tư
tưởng nhân nghĩa trong thơ văn Nguyễn Trãi thấm sâu, ngay khi mở đầu Bình Ngô đại cáo ông viết:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Vậy nhân nghĩa là gì? Nho giáo cho rằng: Nhân nghĩa là quan hệ tốt đẹp giữa người
với người trong cộng đồng. Khái niệm này mang nội hàm rất đẹp, rất tiến bộ và cao
cả. Nguyễn Trãi đã khẳng định: Điều chủ yếu của nhân nghĩa là phải giữ yên dân. Vì
thương yêu dân, muốn cho dân được yên ổn làm ăn nên phải trừ bạo là từ những kẻ sách nhiễu dân.
Từ quan hệ ứng xử mang tính cách cá nhân, Nguyễn Trãi đã nâng lên thành tư tưởng
xã hội. một nhiệm vụ cụ thể, nói như Đinh Gia Khánh thì tư tưởng nhân nghĩa này
không mơ hồ, nó gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước. Chính vì nhân nghĩa, vì thương
dân nên Nguyễn Trãi xem những hành động man rợ của quân Minh hành hạ dân như
đốt lửa thiêu sống, đào hố để chôn sống những người dân vô tội là những việc phi
nhân nghĩa, là bạo ngược, do đó chúng phải bị trừng phạt. Như vậy có nghĩa là Việc
nhân nghĩa, hành động nhân nghĩa không phải một cái gì trừu tượng, chung chung, mà
nó biểu hiện bằng Việc cụ thể, là chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi, tiêu diệt các
cuộc phản nghịch chông triều đình để xây dựng xã hội vua sáng, tòi hiền. Việc ấy phải
được giao phó cho quân đội. Nguyễn Trãi không mơ hồ về sự nghiệp giải phóng dân
tộc có thể dùng đường lối thỏa hiệp cải lương để châm dứt can qua, hòa bình muôn
thuở, mà phải có sức mạnh của lực lượng quân sự và sức mạnh của đại nghĩa.
Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo
Không chỉ lấy nghĩa để thắng hung, không lấy nhân thay bạo, mà ở đây sự đối đầu
lịch sử của cuộc kháng Minh này, kẻ thù là hung tàn là cường bạo. Nướng dân đen
trèn ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Tội ác trời không dung, đất không tha ấy của giặc Minh:
Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi
Tội ác ấy phải bị trừng phạt Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. Quân ở đây là nhân dân:
Tập hợp thành đội quân đại nghĩa - chí nhân để chống lại quân cường bạo giặc Minh.
Vậy là triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi xét đến cùng là lòng yêu nước thương nhân
dân. Đó chính là chủ nghĩa yêu nước. Nó làm nền cho bản hùng ca bất hủ Cáo Binh
Ngô, nó là ánh sáng kì diệu để Nguyễn Trãi nêu một quan điểm về quyền dân tộc và
do đó ông đã định nghĩa về đất nước khá rõ ràng, hoàn chỉnh, khoa học. Trong những
lời mở đầu bài cáo trang trọng, thật đĩnh đạc và tự hào.
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Trải qua bao biến động lịch sử, Nguyễn Trãi nói lại cái chữ đế đầy tinh thần độc lập tự
chủ ấy. Nước Đại Việt có cương vực, có lịch sử. có phong tục và có văn hiến, nghĩa là
có nhân nghĩa. Nó không cần và không thể phụ thuộc để tồn tại. Mọi mưu toan muốn
biến nó thành quận huyện, thành chư hầu sẽ phải chịu thảm họa. Lịch sử đâu đã quên:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Thế mà nay bọn giặc Minh: Mượn tiếng điếu dân phạt tội, kì thực làm việc tàn bạo,
lấn cướp đất nước ta, bóc lột nhân dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân
mọn xóm làng không được yên ổn. Nhân nghĩa mà lại thế ư? (Bài 8 Quân Trung từ
mệnh tập). Cái thế đứng của một dân tộc có và trọng nhân nghĩa ấy sẽ bằng mọi giá
cho quân thù nếm cay đắng mà cha ông chúng ta phải trả giá cho sự tàn bạo lỗi đạo,
ngạo mạn, xấc xược...
Sức mạnh nhân nghĩa của nhân dân ta lấy yếu chống manh, lấy ít địch nhiều đã làm nên chiến thắng.
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Những trang nhật kí chiến sự thể hiện một cuộc tấn công đại quy mô, mạnh mẽ, hào
hùng. Chiến thắng càng gần, thế trận càng trở nên biến hóa, kẻ thù chưa kịp trở tay đối phó thì đã lại:
Đánh hồi trống thứ nhất, sạch không kình ngạc
Đánh hồi trống thứ hai, tan tác chim muông...
Miêu tả cuộc tổng tấn công đại phá quân thù, có lẽ trong lịch sử văn học Việt Nam
chưa bao giờ có những trang hào hùng sáng chói như thế. Đội quân làm nên chiến
thắng ấy, chính là đội quân đã xác định vì nhân nghĩa mà chiến đấu, vì an dân mà trừ bạo.
Nhân nghĩa là sức mạnh để chiến thắng. Chí nhân, đại nghĩa là nền tảng của chủ nghĩa
nhân đạo dân tộc ta bao đời đeo đuổi để tạo dựng nền văn hiến mang bản chất truyền
thống của con người Việt Nam. Ở đây Nguyễn Trãi đã nêu cao chủ nghĩa nhân đạo ấy,
gắn bó với nhân nghĩa mà chủ nghĩa yêu nước.
Coi trọng con người, quý trọng nhân dân, coi trọng tình hòa hiếu giữa các dân tộc.
Chúng ta không vì sự man rợ của giặc mà trả thù bằng những hành động man rợ. Có
gì quý hơn sinh mạng con người? Người ta là hoa của đất do đó nhân nghĩa sau chiến
tranh là tấm lòng, là trí tuệ để giải quyết những hậu quả, cho Bốn phương biển cả
thanh bình,... Đối với quân giặc đã bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng.
Chúng ta đã chẳng giết hại mà cho chúng đường hiếu sinh. Chúng ta có cái thế để xử
tội ác chiến tranh, có đủ sức để trừng phạt, nhưng nhân nghĩa không cho phép chúng
ta làm điều dó khi bọn giặcđã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng. Chúng ta tha
tội cho chúng để chấm dứt can qua trong tương lai, để được an dân không phải chỉ
ngày một ngày hai mà mãi mãi nhân dân được nghĩ sức trong thanh bình:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Nghĩa là triết lí nhân nghĩa, hành động nhân nghĩa của chúng ta đã toàn thắng. Ta đã
đạt mục đích, không cần phải xử sự như những kẻ cuồng sát không nhân nghĩa.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện ngay cả khi cổ vũ quân dân ta tiêu diệt
giặc, nhưng lại rất cảm thông với nhân dân và binh sĩ Trung Quốc bị tàn hại bởi chiến
tranh. Nguyễn Trãi từng vạch tội tướng giặc với nhân dân Trung Quốc: Chúng lại
muôn cùng binh độc vũ, khiến nhân dân vô tội liền năm phải thiệt mạng ở chốn gươm
đao, những kẻ lưu li phải nát gan ở nơi đồng cỏ (Bài 28 - Quân Trung từ mệnh tập).
Bình Ngô đại cáo xét về mặt tư tưởng thì đây là tác phẩm nổi bật về chù nghĩa nhân
đạo, minh chứng hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh.
Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý mà ta phải khai thác,
đào sâu, nhưng nổi lên bề mặt lộ thiên của nó chính là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm
thương dân. Vì yêu nước thương dân mà Nguyễn Trãi có những quan niệm tiến bộ về
bản chất và mục đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ quôc và Bốn phương biển cả
thanh bình. Vì yêu thương dân mà trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi tố cáo tội ác
quân Minh đanh thép trong cuộc chiến tranh vệ quốc trở thành một tác phẩm còn lại mãi với thời gian.
Đã sáu trăm năm trôi qua, Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc và là nhà thơ, nhà
văn, tư tưởng chính trị, thực sự sống mãi trong lòng dân tộc khi các thế hệ con cháu
mang tư tưởng nhân nghĩa của Người đã làm nên bao sự tích kì diệu, bao chiến công
lẫy lừng, như trong chiến tranh chống Mĩ Chú tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng
nhân nghĩa ấy mà đối xử nhân đạo với những tên giặc lái. Bọn chúng đã đem bom đạn
đến giết hại nhân dân ta tàn phá đất nước ta, gây bao tang tóc đau thương cho nhân
dân trên mọi miền đất nước, vậy mà khi bắt sốngchúng, ta vẫn đối xử nhân đạo cho và
khách sạn Hintơn, và sau ngày toàn thắng 30/04/1975 trao trả lại cho phía Mĩ. Phải
chăng đó là được bắt nguồn từ tư tưởng Nguyễn Trãi.
Đem đại nghĩa thẳng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo Bài làm mẫu 2
Năm 1407, giặc Minh xâm lăng nước ta. Năm 1417, tại núi rừng Lam Sơn, Thanh
Hóa, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa xưng là Bình Định Vương. Trải qua mười năm kháng
chiến vô cùng gian lao và anh dũng, nhân dân ta quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi.
Mùa xuân năm 1482, thay lời Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo Bình Ngô đại cáo.
Bình Ngô đại cáo khẳng định sức mạnh nhân nghĩa, nhân dân Đại Việt căm thù lên án
tội ác ghê tởm của quân “cuồng Minh”, ca ngợi những chiến công oanh liệt thuở “bình
Ngô”, tuyên bố đất nước Đại Việt bước vào kỉ nguyên mới độc lập, thái bình bền vững muôn thuở.
Tuy ra đời gần sáu trăm năm, nhưng cho đến nay và muôn đời sau nữa, Bình Ngô đại
cáo và những tác phẩm khác của Nguyễn Trãi mãi mãi đi sâu vào lòng người. Tư
tưởng “nhân nghĩa’' trong thơ văn Nguyễn Trãi thâm sâu, ngay khi mở đầu Bình Ngô đại cáo, ông viết:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Việc nhân nghĩa là gì? Nho giáo cho rằng: Nhân nghĩa là quan hệ tốt đẹp giữa người
với người trong cộng đồng. Khái niệm này mang nội hàm rất đẹp, rất tiến bộ và cao
cả. Nguyễn Trãi đã khẳng định: Điều chủ yếu của nhân nghĩa là giữ “yên dân”. Vì
thương yêu dân, muốn cho dân được yên ổn làm ăn nên phải “trừ bạo” là trừ những kẻ sách nhiễu dân.
Từ quan hệ ứng xử mang tính cá nhân, Nguyễn Trãi đã nâng lên thành lí tưởng xã hội,
một nhiệm vụ cụ thể, nói theo Đinh Gia Khánh thì “tư tưởng này không mơ hồ, nó gắn
chặt với chủ nghĩa yêu nước”. Chính vì “nhân nghĩa”, vì thương dân nên Nguyễn Trãi
xem những hành động man rợ của quân Minh hành hạ nhân dân ta như đốt lửa thiêu
sống, đào hố để chôn sống dân lành vô tội là những việc phi nhân nghĩa, là bạo ngược,
do đó chúng ta phải trừng phạt. Như vậy có nghĩa là “việc nhân nghĩa”, hành động
nhân nghĩa không phải một cái gì đó trừu tượng, chung chung, mà nó biểu hiện bằng
“việc” cụ thể là chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi, tiêu diệt các nguồn phản
động chống triều đình để xây dựng xã hội “vua sáng, tôi hiền”. Việc ấy phải được giao
phó cho quân đội. Nguyễn Trãi không mơ hồ về sự nghiệp giải phóng dân tộc có thể
dùng đường lối thỏa hiệp mềm yếu để chấm dứt can qua, hòa bình muôn thuở, mà
phải có sức mạnh của quân sự và sức mạnh của “đại nghĩa”:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”.
Lấy nghĩa để thắng hung, lấy nhân thay bạo. Ở đây trong sự đối đầu lịch sử của cuộc
kháng Minh này, kẻ thù là hung tàn và cường bạo:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.
Tội ác “trời không dung, đất không tha” ấy của giặc Minh:
“Trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Nước Đông Hải không rửa sạch mùi”.
Tội ác ấy phải trừng phạt: “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Quân ở đây là nhân dân:
tập hợp thành đội quân “đại nghĩa - chí nhân” để chống lại quân cường bạo giặc Minh.
Vậy là, triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi xét đến cùng là lòng yêu nước thương dân.
Đó chính là chủ nghĩa yêu nước. Nó làm nền cho bản hùng ca bất hủ “Cáo bình Ngô”,
nó là ánh sáng kì diệu để Nguyễn Trãi nêu lên một quan điểm về quyền dân tộc, và do
đó ông đã định nghĩa về đất nước khá rõ ràng, hoàn chỉnh, khoa học trong lời mở đầu
bài cáo trang trọng, thật đĩnh đạc và tự hào.
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.
Trải qua bao biến động của lịch sử, Nguyễn Trãi lặp lại quyền vương để đầy tinh thần
độc lập tự chủ ấy. Nước Đại Việt có cương vực, có lịch sử, có phong tục và nền văn
hiến, nghĩa là có nhân nghĩa. Nó không cần và không thể phụ thuộc để tồn tại. Mọi
mưu toan muốn biến nó thành quận huyện, thành chư hầu phải chi thảm họa. Lịch sử đâu đã quên:
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã".
Thế mà nay bọn giặc Minh “mượn tiếng điếu dân phạt tội, kì thực làm việc tàn bạo,
lấn cướp đất nước ta, bóc lột nhân dân ta, thế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân
mọn xóm làng không được yên ổn”. Nhân nghĩa mà lại thế Lí? Thế đứng của một dân
tộc trong nhân nghĩa bằng mọi giá cho quân thù nếm cay đắng mà cha ông chúng ta
phải trả giá cho sự tàn bạo “lỗi đạo”, ngạo mạn, xấc xược...
Sức mạnh nhân nghĩa của nhân dân ta “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều” đã làm nên chiến thắng.
“Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn”.
Những trang nhật kí chiến sự thể hiện một cuộc tấn công đại quy mô mạnh mẽ, hào
hùng. Chiến thắng càng gần, thế trận càng trở nên biến hóa kẻ thù chưa kịp trở tay đối phó thì đã lại:
“Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông”.
Miêu tả cuộc tổng tiến công đại phá quân thù, có lẽ trong lịch sử văn học Việt Nam
chưa bao giờ có những trang hào hùng sáng chói như thế. Đội quân làm nên chiến
thắng ấy, chính là đội quân đã xác định “vì nhân nghĩa mà chiến đấu, vì an dân mà trừ bạo”.
Nhân nghĩa là sức mạnh để chiến thắng. “Chí nhân, đại nghĩa” là nền tảng của chủ
nghĩa nhân đạo mà dân tộc ta bao đời đeo đuổi để tạo dựng nền văn hiến mang bản
chất truyền thống của con người Việt Nam. Ở đây, Nguyễn Trãi đã nêu cao chủ nghĩa
nhân đạo ấy, gắn nó với nhân nghĩa là chủ nghĩa yêu nước.
Coi trọng con người, quý trọng nhân dân, coi trọng tình hòa hiếu giữa các dân tộc nên
chúng ta đã đặt nhân nghĩa lên trên tất cả. Có gì quý hơn sinh mạng con người?
“Người, ta là hoa của đất’’ do đó nhân nghĩa sau chiến tranh là tấm lòng, là trí tuệ để
giải quyết những hậu quả, cho “bốn phương biển cả thanh bình”... đối với quân giặc
đã bị “cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng”, chúng ta đã “chẳng giết hại” mà
cho chúng “đường hiếu sinh”. Chúng ta có cái thế để “xử tội ác chiến tranh, có đủ sức
để trừng phạt, nhưng nhân nghĩa không cho phép chúng ta làm điều đó khi bọn giặc đã
tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng”. Chúng ta tha tội cho chúng để chấm dứt
can qua trong tương lai, để được “an dân” không phải chỉ ngày một ngày hai mà mãi
mãi dân ta được “nghỉ sức” trong thanh bình:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới”.
Nghĩa là triết lí nhân nghĩa, hành động nhân nghĩa của chúng ta đã toàn thắng. Ta đã
đạt mục đích, không cần phải xử sự như những kẻ cuồng sát không nhân nghĩa.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện ngay cả khi cổ vũ nhân dân ta tiêu diệt
giặc, nhưng lại rất thông cảm với nhân dân và binh sĩ Trung Quốc bị tàn hại bởi chiến
tranh. Nguyễn Trãi từng vạch tội tướng giặc với nhân dân Trung Quốc: chúng lại
muốn cùng binh độc vũ, khiến nhân dân vô tội liền năm phải thiệt mạng ở chốn gươm
đao, những kẻ lưu li phải nát gan ở nơi chốn đồng cỏ” (Bài 28 - Quân Trung từ mệnh tập).
Bình Ngô đại cáo xét về mặt tư tưởng là tác phẩm nổi bật về chủ nghĩa nhân đạo,
chứng minh hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh. Triết lí
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý mà ta phải khai thác đào sâu,
nhưng nổi lên bề mặt lộ thiên của nó chính là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm thương
dân. Vì yêu nước thương dân mà Nguyễn Trãi có tư tưởng tiến bộ về bản chất và mục
đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ quốc và ước vọng “bốn phương biển cả thanh
bình”. Vì yêu thương nhân dân trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi tố cáo tội ác
quân Minh đanh thép như thế, miêu tả những trang hào hùng của quân dân ta trong
cuộc chiến tranh vệ quốc. Bình Ngô đại cáo trở thành một tác phẩm còn lại mãi với thời gian.
Đã sáu trăm năm trôi qua, Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc và là nhà thơ, nhà
văn, nhà tư tưởng chính trị, thực sự sống mãi trong lòng dân tộc khi các thế hệ con
cháu mang tư tưởng nhân nghĩa của Người đã làm nên bao kì tích, bao chiến thắng lẫy
lừng, như trong chiến tranh chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng
nhân nghĩa ấy mà đối xử nhân đạo với những phi công Mỹ ngụy. Họ đã đem bom đạn
đến giết hại nhân dân ta trên mọi miền đất nước, tàn phá đất nước ta, gây bao đau
thương tang tóc cho nhân dân ta. Vậy mà khi bắt sống những kẻ ấy, ta vẫn đối xử
nhân đạo và sau ngày toàn thắng 30 - 4 - 1975 trao trả lại cho Mỹ. Phải chăng đó là
được nguồn từ tư tưởng Nguyễn Trãi.
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
ấy chí nhân để thay cường bạo”.
Bình Ngô đại cáo vừa là một bản tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống giặc
Minh vừa là lời tuyên ngôn độc lập, hòa bình. Đồng thời là áng “thiên cổ hùng văn"
khẳng định sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt. Bài làm mẫu 3
Vua Lê Thánh tông đã từng đề cao: Ức Trai lòng sáng tựa sao khuê và ngày nay, nhà
thơ Hoàng Trung Thông đã đánh giá: Nguyễn Trãi là tinh hoa của dân tộc qua bao
thời đại kết hợp lại. Trong suốt bao năm qua, Nguyễn Trãi được nhớ tới như một nhà
văn, nhà thơ vĩ đại của non sông Việt Nam, một nhà tư tưởng, một nhà chính trị đại tài
của dân tộc Việt Nam thế kỉ XV. Tuy gặp nhiều oan khuất và bi kịch, suốt cả cuộc đời
tận tụy cống hiến của Nguyễn Trãi được bao trùm bởi một tư tưởng vĩ đại: tư tưởng
nhân nghĩa, mà qua thơ văn ông, chúng ta có thể thấy điều đó. Bình Ngô đại cáo là
một trong số các tác phẩm thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa này.
Tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp được thấm nhuần xuyên suốt qua từ câu đầu tiên:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Tư tưởng nhân nghĩa đã được khẳng định ngay từ đầu tác phẩm. Nguyễn Trãi đã viết
tự đáy lòng ông, chứ không chỉ như được từng nghe suông. Chính ông đã coi việc
nhân nghĩa cốt ở yên dân như mục tiêu phấn đấu cao nhất của đời mình. Cả cuộc đời
ông đã dành trọn cho những công việc nhân nghĩa, ta có thể coi đó là lí tưởng của ông.
Một lí tưởng cao quý. Với đạo đức nho giáo ngày xưa, nhân nghĩa là một điều mà con
người ai cũng phải có, và thể hiện bằng cách xử sự đối đãi tốt đẹp với người khác.
Ở Nguyễn Trãi, nhân nghĩa đã được nhân lên một tầm cao hơn hẳn, và mở rộng hơn
nữa: đó là lo cho dân, giúp cho dân – dân ở đây nói với nghĩa bao trùm tất cả thiên hạ,
ta có thể thấy lòng Nguyễn Trãi bao la và suy nghĩ của ông thật rộng lớn. Với tư cách
một vị quan và trên phương diện thay lời Vua để viết lời tuyên cáo chiến thắng,
Nguyễn Trãi đã khẳng định nhân nghĩa là yên dân tức là làm cho dân được yên ổn làm
ăn, ấm no hạnh phúc trong an bình. Vì thế, quân điếu phạt trước lo trừ bạo, phải dẹp
tan giặc giã hung tàn để cho yên dân. Ông thương dân và lo cho dân với tất cả tấm
lòng mình, không phải để ban ơn cho dân mà là đền ơn dân như ông từng nghĩ ăn lộc,
đền ơn kẻ cấy cày. Đó là một suy nghĩ hết sức tiến bộ và đáng quý biết bao trong thời
đại lúc bấy giờ, mà qua bao thời gian, đến ngày nay vẫn vô cùng giá trị.
Trong suốt toàn bài Cáo bình Ngô, ngòi bút của Nguyễn Trãi đã tỏ rõ lòng ưu ái đối
với dân. Vì thương dân, ông đã xót xa trước những thảm cảnh mà quân cuồng Minh
thừa cơ gây họa do bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Chúng đã:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Cũng từng chứng kiến sự tan cửa nát nhà, sự man rợ của bọn cuồng Minh sát hại
người vô số, nên Nguyễn Trãi đã hiểu rõ lòng thương cảm và căm giận thay khi những
người dân đang gặp cảnh chiến tranh khốc liệt. Những dân đen, con đỏ là những người
ở tầng lớp khốn khổ nhất xã hội, những người chuyên đi cày cấy, đi ở, đi làm thuê
xuất hiện dưới ngòi bút Nguyễn Trãi cùng tình cảm của ông. Sự quan tâm này thật
không dễ gì có được ở những người vốn làm quan lại như ông, vì thế đây là điều rất
tốt đẹp của tư tưởng Nguyễn Trãi.
Càng thương dân, ông càng căm giận quân xâm lược. Đoạn kể tội giặc của ông với
những hình ảnh cụ thể trong bài Cáo bình Ngô đầy nước mắt đồng cảm thương xót
cho nhân dân, cho quê hương cho cây cỏ núi sông, đồng thời ngùn ngụt lòng căm thù,
tức giận đối với kẻ ngoại xâm và bán nước.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc…
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Trước tội ác đến độ
Trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Nước Đông Hải không rửa sạch mùi
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần dân chịu được?…
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã mách bảo ông rằng, đã đến lúc trừ bạo để
yên dân. Tâm trạng của ông, cũng là của Lê Lợi canh cánh suốt ngày đêm nỗi lo làm
sao đánh giặc, cứu dân thoát cơn nguy biến và giành lại độc lập cho giang sơn. Tư
tưởng nhân nghĩa ở đây xét đến cùng là lòng yêu nước thương dân. Lòng yêu nước,
thương dân vĩ đại ấy đã khiến Nguyễn Trãi cũng như Lê Lợi: đau lòng nhức óc, nếm
mật nằm gai suốt mười mấy năm trời. Bài cáo toát lên một tinh thần yêu nước, tự hào
dân tộc khi nhắc lại lịch sử:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu…
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần, bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Đến khi chiến thắng giặc Minh, một lần nữa, tư tưởng nhân nghĩa – tấm lòng thanh
cao của Ức Trai càng cao vời vợi. Ông thương dân, mong muốn sớm yên bình cho
quân dân nên ông đã lấy toàn dân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Đối với vị chủ tướng
như ông, chiến thắng không phải tất cả, nếu nhân dân cần cuộc sống ấm no thì ta cho
họ, ta cũng không nên vì lợi lộc mà quên đi mục đích ban đầu.
Hơn thế nữa, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn đối với những kẻ đã gây họa
cho nước Đại Việt. Theo ông, binh đao khói lửa chỉ là chuyện bất đắc dĩ, vì làm hao
tổn sinh mạng, ông luôn mưu phạt tâm công, dùng áng văn chính luận có sức mạnh
hơn 10 binh để tránh đổ máu mà thu phục được lòng người. Với quân tướng bại trận
của giặc, ông đã tha bổng và giúp cho về nước, không giết hại: thể lòng trời, ta mở
đường hiếu sinh để giữ vẹn hòa hiếu. Ta thấy Nguyễn Trãi quả là một con người nhân
nghĩa, với tấm lòng nhân hậu, bác ái và thanh cao tuyệt vời!
Trong tác phẩm Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa dường như hòa
quyện trong từng lời từng ý, tỏa ra dưới ngòi bút sắc bén của ông. Nguyễn Trãi đã là
một nhà thơ tư tưởng lớn biết chọn cho mình lí tưởng đẹp đẽ và cao quý như vậy. Ông
đã nguyện dành hết tất cả tài đức, khả năng của mình cho việc nhân nghĩa, để trợ dân.
Vì thế, sau khi về ở ẩn, khi vua mời ra làm quan, ông đã sẵn sàng ra ngay không nề hà.
Tâm hồn Nguyễn Trãi đong đầy nhân nghĩa, rất thanh cao và trong sáng, có thể coi
như một viên ngọc quý. Tên tuổi ông là một dấu son lớn trong trang sử danh nhân
Việt Nam. Tư tưởng nhân nghĩa của ông vượt thời gian - qua bao thế kỉ, bao triều đại,
và vượt cả không gian - vang danh trên thế giới, ý nghĩa rộng lớn không biên giới của
lòng nhân nghĩa ấy để trở thành một tư tưởng vĩ đại của loài người.
Chúng ta kính trọng Nguyễn Trãi với tư tưởng nhân nghĩa quý báu đã góp phần lớn
lao cho lịch sử dân tộc, lại càng thương thay cho cuộc đời lắm éo le, oan khuất của
ông. Nguyên nhân cũng chính vì những kẻ xấu không chịu nổi tư tưởng của ông quá
tiến bộ, con người ông quá trong sạch và tốt đẹp, vì sự trung thực của một con người
nhân nghĩa - Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi đã được mọi người đời sau thương mến kính
trọng vì tư tưởng và hành động (rất nhân nghĩa) của ông. Chúng ta tin rằng, chúng ta
sẽ thực hiện được những điều có ích cho dân, cho nước, như Nguyễn Trãi – tổ tiên
chúng ta đã từng theo đuổi – và sẽ có nhiều tấm gương sáng noi theo ông – ngôi sao
khuê sáng mãi trên bầu trời Đại Việt. Bài làm mẫu 4
Nguyễn Trãi là một đại anh hùng của dân tộc là danh nhân văn hóa của thế giới cũng
là một nhân vật toàn tài chịu nhiều oan khuất trong lịch sử xã hội Việt Nam. Ông cũng
được coi là nhà văn chính luận kiệt xuất của dân tộc ta. Nguyễn Trãi là một tác giả
xuất sắc về nhiều thể loại văn học kể cả chữ Nôm và chữ Hán. Ông để lại một khối
lượng tác phẩm có giá trị cao và quy mô lớn.
Trong số đó tác phẩm “Bình ngô đại cáo”là một tác phẩm kiệt xuất của ông. Bìa thơ là
khúc tráng ca ca ngợi cuộc khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược của nghĩa quân
Lam Sơn. Hơn thế, tác phẩm đã trở thành áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ,
là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Và điểm cốt
lõi mà “Bình Ngô đại cáo” thể hiện ở cả hai tư cách ấy chính là lý tưởng “nhân nghĩa”
mà nhân dân ta mãi mãi ngợi ca và hướng tới.
Mở đầu tác phẩm Nguyễn Trãi nêu lên một luận điểm về nguyên lí nhân nghĩa: “việc
nhân nghĩa cốt ở yên dân”Tư tưởng về nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trước hết chính là
“yên dân”. Dùng nhân dân với cái nhân nghĩa để đi đánh giặc ngoại xâm đem lại bình
yên ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Dùng quân nhân nghĩa để đánh quân xâm lược
trước hết là để an dân để yên dân, Nhân nghĩa là tinh thần vì dân yên dân là chính
nghĩa của nhân dân mang bản sắc dân tộc.
Nhân nghĩa ở đây chính là để cứu dân để trừ bạo. Như vậy có nghĩa là “Việc nhân
nghĩa”, hành động nhân nghĩa không phải một cái gì trừu tượng, chung chung, mà nó
biểu hiện bằng “Việc” cụ thể, là chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi, tiêu diệt các
cuộc phản nghịch chông triều đình để xây dựng xã hội “vua sáng, tôi hiền”. Việc ấy
phải được giao phó cho quân đội. Câu thơ tiếp theo làm tô đậm khẳng định thêm ý câu
thơ trước đó: “quân điếu phạt trước lo trừ bạo” Nguyễn Trãi đã coi việc an dân yên
dân là mục tiêu của nhân nghĩa còn “trừ bạo là đối tượng phương tiện của nhân nghĩa.
Như vậy người nhân nghĩa phải lo trừ bạo tức là lo dẹp quân cướp nước. Dùng nhân
nghĩa để đối xử với kẻ bại trận xoa dịu hận thù để không gây hậu quả về sau cũng
chính là nhân nghĩa đối với nhân dân. Có thể nới tư tưởng ấy vừa cụ thể lại chỉ ra
điểm cốt lõi điểm cơ bản nhất. Ta nhìn vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thì có lẽ tư
tưởng nhân nghĩa ấy được đề cao hơn bao giờ hết:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”
Người nhân nghĩa phải lo trừ “bạo”, tức lo diệt quân cướp nước. Người nhân nghĩa
phải đấu tranh sao cho “hợp trời, thuận người”, nên có thể lấy “yếu chống mạnh”, lấy
“ít địch nhiều”, lấy “đại nghĩa thắng hung tàn”, lấy “chí nhân thay cường bạo”. Nhân
nghĩa là cần phải đấu tranh để cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Nhân nghĩa
giống như là một phép lạ, làm cho “càn khôn đã bĩ mà lại thái, trời trăng đã mờ mà lại trong”.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi , vì vậy, mang đậm sắc thái của tinh thần yêu
nước truyền thống của người Việt Nam. Ở đây, có thể thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa của
Nguyễn Trãi đã vượt lên trên tư tưởng nhân nghĩa của các thánh nhân trước đây và có
sự sáng tạo, phát triển trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tư tưởng nhân nghĩa ấy
còn được nhắc đến là lòng thương dân tin tưởng nhân dân biết ơn nhân dân. Dân
chúng luân được ông nhắc đến trong chiến tranh và trong thời kì hòa bình đất nước độc lập.
Ông nhận thức rất rõ mọi sản phẩm mà mình đang dùng đều được lấy từ nhân dân.
Nhân dân sản xuất ra mọi của cải vật chất , nhân dân làm ra lúc gạo quần áo làm ra
cung điện nguy nga và nhân dân đã nuôi sống ông. Sống gần dân thương dân thương
dân, lúc nào ông cũng chỉ nghĩ cho nhân dân trước tiên tất cả là vì nhân dân vài cuộc
ống yên ổn của nhân dân dân.
Chính vì thế mà ta thấy ngay từ câu đầu tiên của bài cáo ông đã nhắc đến nhân dân.
Bởi mọi hoạt động lớn nhất của quốc gia cũng chỉ nhằm một mục đích duy nhất đó là
đem lại cuộc sống an nhàn cho nhân dân. Suốt cuộc đời ông sống gần dân nên ông đã
thấy được những đức tính cao đẹp của nhân dân và hiểu được những mong muốn của
nhân dân.Tư tưởng nhân nghĩa ấy như đã được nói ở trên đó còn là lòng bao dung với kẻ thù.
Tư tưởng ấy đã được Nguyễn Trãi thể hiện trong khởi nghĩa Lam Sơn và có thể nới
chính tư tưởng ấy cùng với tài mưu lược quyết đoán của ông chính là nguyên nhân
dẫn tới chiến thắng quân Minh của nhân dân ta. Ta kết hợp giữa sức mạnh của quân
đội với những lí lẽ thu phục quân giặc làm hạn chế máu rơi và thiệt hại về quân sĩ. Đó
chính là nhân nghĩa. Tư tưởng nhân nghĩa ấy còn được thể hiện ở sự khoan dung khi kẻ thù đã bại trận.
Nó thể hiện đức hiếu sinh của dân tộc Việt Nam nói chung cũng chính là tấm lòng bao
dung của Nguyễn Trãi trong khi đối phó với quân địch trong cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn. Ta đánh địch bằng sức mạnh bằng ý chí sự căm thù quân giặc khi đã đem quân
sang định cướp nước ta. Nhưng khi giặc đã bại trận ta cũng không nên trút sự căm
giận đó thể tàn sát khiến cảnh máu chảy đầu rơi xảy ra. Ta chiến đấu cốt chỉ để lấy lại
đất đai để toàn vẹn lãnh thổ đó chính là mục tiêu cuối cùng.
Vậy cho nên khi đã thắng trận ta cũng không tàn sát mà để cho bọn chúng một con
đường lui để chúng được quay về đoàn tụ với gia đình người thân. Điều đó cũng sẽ
khiến cho dân tộc ta được tôn trọng được coi trọng và biết ơn. Việc làm này cũng
khiến cho quân Minh e dè mà không dám quay lại nước ta tấn công nữa.
Chiến lược đánh giặc cứu nước, cứu dân, “mở nền thái bình muôn thuở” bằng nhân
nghĩa của Nguyễn Trãi đã có ý nghĩa rất to lớn cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn
đấu tranh cứu nước và dựng nước của dân tộc ta. Nguyễn Trãi và Lê Lợi, cùng với
quân dân Đại Việt đã kiên quyết thi hành một đường lối kết thúc chiến tranh rất sáng
tạo, rất nhân nghĩa: “nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn hùng binh.
Gây lại hòa hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh cho muôn đời”. Đó thật sự là tư
tưởng lớn của một con người có tài “kinh bang tế thế” và là một tư tưởng có sức sống
“vang đến muôn đời”.Ta cũng có thể nói thêm về tài chiến lược của Nguyễn Trãi còn
được thể hiện ở chỗ cầu người hiền tài giúp nước giúp dân. Nguyễn Trãi đã quan niệm
rằng người hiền tài càng nhiều thì xã tắc mới càng được hưng thịnh nhân dân mới
được ấm no hạnh phúc mới có thể đánh đuổi quân giặc không dám quay lại chiến
đánh trên đất nước ta thêm một lần nào nữa.
Bình Ngô đại cáo xét về mặt tư tưởng thì đây là tác phẩm nổi bật về chủ nghĩa nhân
đạo, minh chứng hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh.
Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý mà ta phải khai thác,
đào sâu, nhưng nổi lên bề mặt lộ thiên của nó chính là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm
thương dân. Vì yêu nước thương dân mà Nguyễn Trãi có những quan niệm tiến bộ về
bản chất và mục đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ quốc và “Bốn phương biển cả thanh bình”.
Vì yêu thương dân mà trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi tố cáo tội ác quân Minh
đanh thép trong cuộc chiến tranh vệ quốc trở thành một tác phẩm còn lại mãi với thời
gian.Tư tưởng nhân nghĩa trong “bình ngô đại cáo không chỉ có ý nghĩa to lớn xét về
mặt nhân nghĩa mà còn có tầm ảnh hưởng tới toàn thống chính trị của đất nước trong
những thời đại sau này nữa. Lí tưởng nhân nghĩa ấy sẽ còn mãi trường tồn với dân tộc
với đất nước Việt Nam cho đến tận bây giờ. Bài làm mẫu 5
Nguyễn Trãi là một danh nhân văn hóa lớn của Việt Nam, người có đóng góp to lớn
trong công cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Ông không chỉ nổi tiếng
trong sự nghiệp chính trị mà còn là một tác giả lớn của nền văn học Việt Nam. Nhắc
đến Nguyễn Trãi không thể không nhắc đến Bình Ngô đại cáo – áng thiên cổ hùng văn
của dân tộc. Đặc biệt trong tác phẩm này, Nguyễn Trãi đã đưa ra những quan niệm
mới mẻ mang giá trị nhân đạo sâu sắc về tư tưởng nhân nghĩa. Nhân nghĩa ấy không
sáo rỗng rập khuôn Nho giáo mà lại hài hòa vào trong cuộc kháng chiến trong cuộc
sống của nhân dân. Cùng tìm hiểu về tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo.
Bình Ngô đại cáo ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt. Cuối năm 1427, sau khi
chiến thắng giặc Minh, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo. Tính
chất trọng đại ấy thể hiện ngay ở nhan đề tác phẩm. Bình Ngô chính là dẹp tan, dẹp
loạn tận gốc quân Minh xâm lược – Ngô là quê cha đất tổ của Chu Nguyên Chương,
người sáng lập nhà Minh.
“Đại cáo” thể hiện được quy mô rộng lớn, hướng đến mọi đối tượng trong xã hội.
“Bình Ngô đại cáo” là bài cáo tuyên bố cho mọi người biết về sự nghiệp đánh tan
quân Minh xâm lược, kết thúc thời kì độc lập mở ra thời kỳ độc lập tự do cho dân tộc.
Tác phẩm được viết theo thể cáo là một thể loại thừa được vua chúa sử dụng để ban
bố sắc lệnh, có thể viết bằng văn biền ngẫu hoặc văn xuôi kết hợp với văn vần.
Khi tìm hiểu về tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo, ta thấy mở đầu tác phẩm
tác giả đã nêu ra luận đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến. Đó là tư tưởng nhân
nghĩa, là sự tồn tại độc lập lâu đời của dân tộc ta, là những chứng cứ về sự thất bại của giặc.
Có thể thấy, tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi thể hiện qua
nhiều phương diện, cụ thể như quan niệm nhân nghĩa, mục đích của cuộc chiến đấu….
Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo đã được Nguyễn Trãi sử dụng để mở đầu
cho tác phẩm và cũng là luận đề chính nghĩa đầu tiên: “Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Tư tưởng nhân nghĩa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. – Tư tưởng nhân
nghĩa làm cơ sở lí luận cho cuộc kháng chiến. Đây là một tư tưởng được nhiều nước
phương đông mặc nhiên thừa nhận. Nhân nghĩa là mối quan hệ tốt đẹp giữa con người
với con người trên cơ sở tình thương và đạo lý.
Trên cơ sở quan điểm nhân nghĩa của Nho giáo và tình hình dân tộc, Nguyễn Trãi đã
xác định mục đích và nội dung của tư tưởng nhân nghĩa là “yên dân”, “trừ bạo”. “Yên
dân” là khiến cho nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, “dân giàu đủ khắp đòi
phương”. Đây là lý tưởng lớn khát khao mà suốt đời Nguyễn Trãi theo đuổi. Bởi ông
hiểu chỉ có cuộc sống nhân dân ấm no thì xã hội mới có thể thái bình thịnh trị. Bởi dân
là gốc, sức dân là sức nước, nước có thể đẩy thuyền cũng có thể lật thuyền.
“Trừ bạo” chính là diệt trừ những điều bạo ngược – những điều khiến cho cuộc sống
nhân dân lầm than. Khi tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo, ta thấy đặt trong
hoàn cảnh đất nước bấy giờ, “bạo” ở đây chính là giặc Minh xâm lược. Vì thương
nhân dân mà đứng lên khởi nghĩa, “điếu dân phạt tội” là mang nét nghĩa ấy. Từ những
phạm trù đạo đức thẩm mỹ cao siêu của Nho giáo, Nguyễn Trãi đã đưa nhân nghĩa trở
nên gần gũi và phù hợp với tình hình thực tiễn của nước ta – nhân nghĩa là yêu nước chống ngoại xâm.
Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo theo quan niệm của Nguyễn Trãi mang
giá trị nhân đạo sâu sắc. Ông thực thi, đề cao và tuyên truyền nhân nghĩa để giành
quyền lợi cho nhân dân, đoạt lại quyền sống, độc lập, tự do, trả lại cho nhân dân cuộc
sống bình yên. Cuộc chiến đấu của nhân dân ta không phải xuất phát từ mục đích quân
sự hay tham vọng bá chủ một phương mà xuất phát từ “yên dân” trên cơ sở tư tưởng nhân nghĩa.
Bởi lẽ đó, cuộc kháng chiến của chúng ta là một cuộc kháng chiến vì chính nghĩa.
Điều này giúp ta hiểu thêm về nhân cách và con người Nguyễn Trãi – một người trung
hiếu với nước với dân.
Sau khi nêu tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo, tác giả nêu chân lí khách
quan về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt. Đây là cơ sở, làm chỗ dựa
để Nguyễn Trãi triển khai nội dung bài cáo. Tuy Nguyễn Trãi chưa đề cập đến quyền
con người nhưng quyền dân tộc thì rất rõ. Chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền
của nước Đại Việt có cơ sở vững chắc từ thực tế lịch sử, cũng phù hợp với luận đề chính nghĩa.
Chính vì nước ta là một nước độc lập nên việc xâm lược của giặc Minh là một điều
phi nghĩa. Tác giả liệt kê các phương diện để xác định một quốc gia độc lập. Đây là
yếu tố giúp cho Bình Ngô đại cáo được xem như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc
“Như nước Đại Việt ta từ trước ....
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Những phương diện được nêu ra bao gồm: nền văn hiến riêng, chủ quyền lãnh thổ,
phong tục tập quán khác biệt giữa ta và phương Bắc, lịch sử triều đại của dân tộc Đại
Việt, anh hùng hào kiệt. Khi phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo, ta
thấy những phương diện ấy đều được căn cứ vào lịch sử khách quan không thể nào chối cãi.
Văn hiến là những giá trị truyền thống văn hóa lâu đời, thiên về những giá trị tinh thần
thể hiện tính dân tộc, tính lịch sử rõ nét. Nước ta có một nền văn hiến lâu đời mang
đậm tinh thần dân tộc. Và nền văn hiến ấy được hình thành trong chiều dài lịch sử,
không kém cạnh Trung Hoa. Bờ cõi đất nước cũng đã được phân định xưa nay. Lãnh
thổ ấy được bảo vệ bằng biết bao xương máu của bao thế hệ đã ngã xuống vì độc lập
quê hương. Vì thế nên ta phải tiếp tục chiến đấu để giữ vững nền độc lập.
Câu thơ này gợi nhắc đến khi thế hào hùng mà ta từng bắt gặp trong Nam quốc sơn hà
của Lý Thường Kiệt. Tác giả đã liệt kê những triều đại của ta “Triệu, Đinh, Lí, Trần”
sánh đôi cùng các triều đại của Trung Hoa “Hán, Đường, Tống, Nguyên”. Cách nói
sóng đôi ấy cho thấy ta và Trung Hoa bình đẳng với nhau nên việc xâm lược là một điều phi nghĩa.
Việc sử dụng từ “đế” lại một lần nữa khẳng định sự bình đẳng của ta và Trung Hoa.
Bởi ngày xưa chỉ có vua của Trung Hoa mới được xưng đế, các nước khác chỉ có thể
xưng là chư hầu. Khi tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo, người đọc cũng
nhận thấy việc xưng đế cho thấy được sự ngang hàng bình đẳng giữa các quốc gia.
Yếu tố cuối cùng được Nguyễn Trãi đề cập đến là nhân tài, hào kiệt. Bởi nhân tài
mang ý nghĩa quan trọng quyết định sự hưng thịnh của cả một quốc gia. Như Thân
Nhân Trung từng nhận xét “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”.
Nước ta có biết anh hùng hào kiệt từ những người hữu danh đến những người vô danh
nhưng điểm chung của họ là đều dốc hết sức mình cho sự phát triển của đất nước. Nếu
trong Nam quốc sơn hà căn cứ vào “thiên thư” để xác định chủ quyền sự độc lập thì
Nguyễn Trãi đã căn cứ vào lịch sử.
Những phương diện của một đất nước độc lập cũng được Nguyễn Trãi liệt đầy đủ, bao
quát hơn. Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo còn được thể hiện ở việc tác
giả đề cập các dân tộc có quyền lợi như nhau, bình đẳng với nhau. Những chứng cứ
lịch sử được nêu ra là bằng chứng hùng hồn nhất giàu sức thuyết phục không thể chối
bỏ. Việc sử dụng biện pháp liệt kê kết hợp các từ ngữ mang tính khẳng định “từ trước,
đã lâu, đã chia, cũng khác, bao đời đời nào cũng có”, đoạn văn đã khẳng định sự tồn
tại độc lập của nước Đại Việt là điều hiển nhiên, lâu đời.
Điều đó chứng tỏ ta và Bắc Triều bình đẳng với nhau nên việc xâm phạm chủ quyền
dân tộc là điều phi nghĩa không thể chấp nhận được. Ta phải đứng lên để bảo vệ lấy
nền độc lập, bảo vệ lấy cuộc sống bình yên của con dân Đại Việt. Điều này góp phần
khẳng định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến.
Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo còn thể hiện ở lập luận cuối cùng được
Nguyễn Trãi đưa ra để khẳng định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chính là
những chứng cứ về sự thất bại của giặc.
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”
Nguyễn Trãi đã liệt kê những tên người, tên địa danh gắn liền với thất bại nhục nhã
của giặc. Đó là Lưu Cung, là Triệu Tiết với mục đích xâm chiếm phi nghĩa – khát
vọng quyền lực, danh vọng “tham công”, “thích lớn”. Đó là Toa Đô, là Ô Mã. Kết
cuộc đều là “thất bại”, “tiêu vong”, “giết tươi”, “bắt sống”. Tác giả chỉ nhắc đến thất
bại của giặc nhưng qua đó đã gợi ra chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta.
Tác giả gợi nhắc đến quá khứ nhục nhã của quân giặc để khẳng định một chân lý: trận
chiến vì mục đích phi nghĩa thì không thể thắng lợi. Đồng thời, gợi nhắc quá khứ cũng
nhằm mục đích khẳng định hiện tại và gợi mở tương lai. Những chứng cứ lịch sử về
sự thất bại thảm hại của quân giặc càng làm sáng tỏ tính chính nghĩa của cuộc kháng
chiến, thể hiện niềm tự hào dân tộc.
Nguyễn Trãi đã khẳng định cuộc kháng chiến của ta là cuộc chiến chính nghĩa nhằm
mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, bảo vệ nền độc lập truyền thống văn hiến lâu đời
của dân tộc. Nguyễn Trãi đã bóc trần bộ mặt giả dối của quân giặc khi chúng lợi dụng
tình hình rối ren của nước ta để cất binh xâm lược. “Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”
Giặc Minh lấy cớ “phục lại nước bị diệt nối lại dòng bị tuyệt”, “phù Trần diệt Hồ giúp
An Nam” để sang xâm lược nước ta. Liên hệ với thực tiễn lịch sử, ta nhận thấy đây chỉ
là luận điệu xảo trá của quân giặc để xâm chiếm nước ta. Lợi dụng tình trạng hỗn loạn
của đất nước, không được lòng dân của nhà Hồ mà bọn phong kiến phương Bắc đã
“ngư ông đắc lợi”.Tác giả đã bóc trần âm mưu ấy qua các từ ngữ “nhân”, “thừa cơ”.
Việc làm rõ mục đích xâm lược của quân giặc là một căn cứ quan trọng làm rõ sự phi
nghĩa của giặc và sự chính nghĩa của ta – đây cũng là một khía cạnh cho thấy tư tưởng
nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo. Lật tẩy mục đích xâm lược nước ta không phải vì
chính nghĩa như cách quân Minh biện minh, tác giả đã cho thấy bộ mặt thật của quân
ngoại xâm. Để từ đó làm rõ sự tàn ác của quân giặc. Nguyễn Trãi không chỉ vạch trần
bộ mặt gian ác của những kẻ ngoại xâm mà còn làm rõ sự xảo trá bất trung của những
kẻ phản nước, không giữ vững lập trường.
Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo còn thể hiện ở mục đích xâm lược phi
nghĩa của giặc còn dẫn đến những hành động bạo tàn không thể chấp nhận được.
Những tội ác man rợ được thể hiện qua những hình ảnh giàu sức gợi đầy ám ảnh day dứt
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Chính sách cai trị thâm độc tàn bạo của giặc mà nạn nhân trực tiếp là những người dân nghèo khổ đáng thương.
“Nặng thuế khóa sạch không đầm núi
Người bị bắt xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc
Vét sản vật, bắt chim trả chốn chốn lưới giăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen nơi nơi cạm đặt
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ” Hay:
“Nay xây nhà mai đắp đất chân tay nào phục dịch cho vừa
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi”
Ở Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi chưa đề cập đến một âm mưu tội ác vô cùng thâm
độc của giặc Minh là chủ trương đồng hóa, Hán hóa người Việt trên nhiều lĩnh vực
khác nhau như bắt người tài mang về Trung Quốc, thu gom trống đồng, bắt trang phục
và theo phong tục người Hán,… nhưng tác giả đã đi sâu tố cáo những chủ trương cai
trị phản nhân đạo, vô cùng hà khắc của giặc Minh như: hủy hoại cuộc sống con người
bằng hành động diệt chủng, tàn sát người dân vô tội. Tội ác ấy khiến cho người dân vô
tội lâm vào cảnh khốn cùng. Đây là hành vi phi nghĩa, cần phải diệt trừ. Nguyễn Trãi
đứng trên lập trường nhân dân để thấu hiểu cho hoàn cảnh khốn khó bế tắc thấu tận
trời xanh của “dân đen”, “con đỏ”.
“Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Những tội ác ấy khiến đất trời phẫn nộ. Tội ác giặc chồng chất không sao kể hết. Bao
đau thương oán hận chồng chất. Để phục vụ cho mục đích phi nghĩa để thỏa mãn đam
mê quyền lực mà quân giặc đã gieo rắc bao đau thương, kinh hãi cho nhân dân gây ra
cảnh kẻ tóc bạc tiễn kẻ đầu xanh, mẹ xa con vợ mất chồng không nơi nương tựa. Nỗi
oán hận ấy của những người dân thấp cổ bé họng kêu trời không thấu kêu đất không
nghe ấy ngút cả đất trời.
Đứng trên lập trường nhân dân, ta không khỏi cảm thấy xót thương, đau đớn. Và càng
xót thương đau đớn bao nhiêu thì càng căm thù giặc bấy nhiêu. Có thể thấy, tư tưởng
nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo thể hiện sâu sắc qua việc tác giả vạch trần bộ mặt
“dạ sói” tàn ác của quân giặc.
Như đã nói, chính vì những hành động bất nghĩa của giặc đối với nhân dân đất nước
mà nghĩa quân phải dựng cờ khởi nghĩa cất binh đánh dẹp. Tư tưởng nhân nghĩa trong
Bình ngô đại cáo không chỉ được thể hiện trong mục đích chiến đấu mà còn được thể
hiện rõ nét trong xuyên suốt quá trình kháng chiến. Trước khi đi vào giai đoạn kháng
chiến khốc liệt, tác giả lại một lần nữa nhắc lại tư tưởng nhân nghĩa:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”
Nhân nghĩa cũng chính là nguồn cội sức mạnh của cuộc kháng chiến thần thánh của
dân tộc ta. Cuộc chiến với quân Minh là một cuộc chiến có sự tương quan chênh lệch
lực lượng rất lớn. Nhưng điều đó không làm quân ta nhục chí. Bởi trước sự “hung
tàn”, “cường bạo” của giặc, ta đã có “đại nghĩa” và “chí nhân”.
Đó chính là sợi dây nối kết hàng ngàn trái tim con dân Đại Việt hòa chung một nhịp
đập hướng về đất nước – Điều này thể hiện rõ nét ở tư tưởng nhân nghĩa trong Bình
ngô đại cáo. Sức mạnh của sự đoàn kết dân tộc đến từ điều ấy. Ta chiến đấu vì nhân
nghĩa và nhân nghĩa đã tạo nên sức mạnh đoàn kết dân tộc để từ đó tạo nên những chiến thắng vang dội.
“Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay. Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm”
Trận đánh được miêu tả theo trình tự thời gian. Tác giả lần lượt điểm qua các trận
đánh mang tính bước ngoặt của cuộc kháng chiến. Đó là trận đánh mở màn Bồ Đằng,
Trà Lân. Các trận đánh giai đoạn giữa Tây Kinh, Ninh Kiều, Tốt Động, Đông Đô cũng
được điểm qua với thất bại nặng nề thảm thương của giặc. Và hai trận đánh cuối là
Chi Lăng, Mã Yên. Những chiến công của ta được liệt kê theo chiều tăng dần, dồn
dập. Đối lập với khí thế hào hùng của quân dân ta là sự thất bại nhục nhã của giặc.
“Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.“
Giặc thua bởi lẽ một chân lý bất diệt
“Những người bất nghĩa tiêu vong
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh”
(Bạch Đằng giang phú – Trương Hán Siêu)
Kẻ thù xâm lược nước ta chỉ nhằm thỏa mãn sự tham lam, khát vọng quyền lực mà
không để tâm những hành động phi nghĩa ấy đã gây ra bao đau thương mất mát không
chỉ về tài sản và còn cả về tình mạng của những người dân nước Nam vô tội.
Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo còn được thể hiện sâu sắc qua triết lý đó
là một cuộc chiến phi nghĩa nên tất yếu là sẽ thất bại. Phép liệt kê những tên bại tướng
của giặc trong cuộc chiến này càng tô đậm thêm sự bất ổn của quân giặc dự báo trước
sự thất bại là điều tất yếu. Thế nhưng khi chiến thắng, nghĩa quân Lam Sơn vẫn
giương cao ngọn cờ nhân nghĩa
“Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.”
Ta không chỉ tha tội chết cho quân giặc đầu hàng mà còn cấp ngựa, cấp thuyền, lương
ăn cho quân bại trận. Điều ấy là một hành động bao dung cao thượng của nghĩa quân.
Đó cũng là một hành động phù hợp với mục đích chiến đấu – vì nhân dân. Đó chính là
nhân văn, là tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo.
Ta không đuổi cùng giết tận bởi ta hiểu chiến tranh gây ra biết bao cảnh lầm than và
hơn hết ta chiến đấu để bảo vệ chính nghĩa. Qua hành động bao dung dành cho kẻ địch
bại trận, ta đã thể hiện lòng nhân đạo, chính nghĩa đúng với tư tưởng nhân nghĩa đã
được nêu ra. Đồng thời đây cũng là sách lược để tính kế lâu dài, bền vững cho non
sông. Chính vì điều đó đã tạo ra tiền đề cho tương lai của đất nước.
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc“
Đó cũng chính là lời khẳng định dứt khoát, mạnh mẽ giang sơn từ đây độc lập, thái
bình. Chiến thắng của ta, sự bền vững của giang sơn chính là một trong những minh
chứng lịch sử sống động nhất cho tư tưởng nhân nghĩa. Tác phẩm khép lại một thời kỳ
đấu tranh gian khổ nhưng hào hùng để mở ra một thời đại mới độc lập tự do.
Nguyễn Trãi đã kết hợp nhuần nhị giữa giọng văn hùng hồn đanh thép cùng cách nói
hình ảnh giàu sức gợi đã cho thấy được tinh thần nhân nghĩa của ông nói riêng của
cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược nói chung. Nhân dân chính là những
nạn nhân trực tiếp đáng thương. Cuộc sống nhân dân vốn đã khốn khó nay càng khốn
khó hơn gấp bội lần, lầm than bế tắc không lối thoát.
Và đó cũng là nguyên nhân chính là động lực thúc đẩy mạnh mẽ cho nghĩa quân đứng
lên dựng cờ khởi nghĩa – để bảo vệ nhân dân. Đó cũng là lý do ta dành được chiến
thắng, nhận được sự ủng hộ đồng lòng của cả đất trời cả dân tộc.
Tư tưởng nhân nghĩa là giá trị cốt lõi của Bình Ngô đại cáo nói riêng, của tư tưởng mà
Nguyễn Trãi suốt đời theo đuổi nói chung. Tất đều lấy nhân nghĩa làm cơ sở, từ cuộc
chiến tranh vệ quốc cho đến công cuộc xây dựng dân tộc. Qua đó, ta thấy được tấm
lòng bao dung quảng đại luôn lo cho dân cho nước của Nguyễn Trãi. Ông đúng là một
con người “tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”.
Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô Đại Cáo ngắn gọn Bài làm mẫu 1
Nguyễn Trãi - một nhân vật lịch sử vĩ đại, nhà văn, nhà thơ kiệt xuất, danh nhân văn
hóa dân tộc và có đóng góp quan trọng cho sự phát triển của văn hóa văn học dân tộc.
Tác phẩm "Đại cáo Bình Ngô" được ông thừa lệnh vua Lê Lợi viết để tuyên cáo về
chiến thắng giặc Ngô năm 1428, mang ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập thứ
hai của dân tộc, một áng "thiên cổ hùng văn" của dân tộc. Nội dung bài cáo không chỉ
tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược, ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mà còn mang tư
tưởng nhân nghĩa sâu sắc.
Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa trong "Bình Ngô đại cáo" là tư tưởng chủ đạo, xuyên
suốt toàn bộ bài cáo, đây là một tư tưởng nhân văn cao đẹp và đề cao giá trị nhân đạo
của dân tộc Việt Nam ta. Theo quan niệm Nho giáo, nhân nghĩa chính là tình nghĩa
con người, là mối quan hệ giữa con người với nhau dựa trên tinh thần yêu thương,
đùm bọc và bảo vệ lẫn nhau. Với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa được quan niệm
theo cách cụ thể và cơ bản nhất, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử dân tộc lúc bấy giờ:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
Nhân nghĩa đối với Nguyễn Trãi cốt nhất hai việc là "trừ bạo" và "yên dân", nghĩa là
diệt trừ các thế lực tàn bạo đày đọa nhân dân, làm cho cuộc sống người dân được yên
ổn, ấm no và hạnh phúc đó mới là nhân nghĩa. Trong tác phẩm, tác giả đã đề cập tới tư
tưởng nhân nghĩa trên những khía cạnh khác nhau, tuy nhiên ở khía cạnh nào, tư
tưởng này vẫn hết sức đúng đắn và mang ý nghĩa sâu sắc.
Trước hết, nhân nghĩa được gắn với việc khẳng định chủ quyền, độc lập của dân tộc:
"Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác..."
Với những dẫn chứng đầy thuyết phục về chủ quyền dân tộc từ nền văn hiến, cương
vực lãnh thổ, phong tục tập quán và các triều đại lịch sử..., tác giả đã khẳng định nền
chủ quyền độc lập dân tộc là điều không thể chối cãi. Chỉ khi khẳng định chủ quyền
của dân tộc thì mọi hành động của ta mới có cơ sở và đúng với nhân nghĩa. Trên lập
trường tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã lên án tố cáo tội ác man rợ của quân xâm lược:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm."
Có thể nói, tội ác của giặc Minh là không còn tính người, vô nhân đạo, từ khủng bố,
bóc lột sức lao động, tàn sát người dân vô tội đến hách dịch đủ loại thuế khóa, vừa vơ
vét cạn kiệt nguồn tài nguyên lại ra tay phá hoại sản xuất, hủy hoại môi trường sống
của nhân dân ta. Tác giả không chỉ bộc lộ niềm phẫn uất và sự căm thù tận xương tủy
của nhân dân trước tội ác của giặc, mà còn bộc lộ niềm thương xót, đau đớn cùng với
nỗi đau của nhân dân. Chính nhân nghĩa đã gắn kết lòng dân, lòng dân chính là sức
mạnh lớn nhất để đánh thắng kẻ thù, không có sức mạnh nào có thể vượt qua được sự
đoàn kết đồng lòng và quyết tâm của một dân tộc:
"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo"
Mặc dù giai đoạn đầu của cuộc chiến ta gặp vô vàn khó khăn, thiếu thốn cả về lương
thực lẫn quân đội nhưng chính nhờ vào lòng dân, sức dân mà ta bước đầu giành thắng
lợi, sau đó nghĩa quân như được tiếp thêm sức mạnh nhờ sự khiếp vía của kẻ thù mà
đánh đâu thắng đấy. Đây chính là quả ngọt của việc hành động nhân nghĩa dựa trên tư
tưởng nhân nghĩa. Sau khi đã giành được thắng lợi hoàn toàn, tinh thần nhân nghĩa
của nhân dân ta còn được bộc lộ qua cách ứng xử với kẻ thù thua trận:
"Mã Kì, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
về đến nước mà vẫn tim đập chân run."
Cấp phát thuyền và ngựa cho tướng lĩnh cùng binh lính kẻ thù trở về chính là thể hiện
lòng nhân ái, chính sách nhân nghĩa của nhân dân ta, ta không đánh đuổi đến cùng mà
để lui cho họ con đường hiếu sinh, vừa để cho quân ta nghỉ ngơi lại vừa giữ được lòng
nhân đạo. Đường lối ấy một lần nữa đã khẳng định tính chính nghĩa trong cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn, tô đậm thêm truyền thống nhân đạo, yêu chuộng hòa bình của dân tộc ta. Bài làm mẫu 2
Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta khiến dân chúng khổ sở, cuộc sống đảo lộn.
Lê Lợi đã cùng 18 tướng lĩnh dấy cờ khởi nghĩa. Trong đó, Nguyễn Trãi là một tài
năng xuất chúng trong hàng ngũ dũng tướng. Năm 1427, cuộc khởi nghĩa thắng lợi.
Một năm sau đó, phụng sự Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại cáo”. Tác phẩm
đã đứng trên lập trường chính nghĩa để lấy làm tư tưởng xuyên suốt. Tư tưởng nhân
nghĩa là vấn đề được đề cập tới đầu tiên khi nhắc tới giá trị của tác phẩm.
Tư tưởng nhân nghĩa là một truyền thống đạo lý tốt đẹp của nhân dân ta. Trong quan
niệm truyền thống, tư tưởng nhân nghĩa được biểu hiện ở tình thương giữa con người
với con người, nhấn mạnh ở lòng trung thành với vua. Còn đối với Nguyễn Trãi, nhân
nghĩa là để yên dân, là bảo vệ hạnh phúc cho nhân dân. Hạnh phúc lớn nhất của dân là
được sống trong môi trường hòa bình, yên ổn làm ăn, không lâm vào cảnh chết chóc,
đau thương. Nhân nghĩa không phải là thương người một cách chung chung mà thông
qua hành động đó là “trừ bạo” để “an dân”.
Trong tác phẩm “Bình Ngô đại cáo”, tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện trước hết ở
việc Nguyễn Trãi gắn nhân nghĩa với bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ
quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc.
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.”
Đoạn thơ đã khẳng định niềm tự hào tự tôn dân tộc và ý thức về đất nước chủ quyền
dân tộc khi nhấn mạnh đất nước phải có lịch sử, có nền văn hiến, lãnh thổ, phong tục
riêng và có những cái tên hào kiệt riêng. Ngay khi thể hiện ý thức về nhân dân, ý thức
về đất nước đã cho thấy lòng yêu nước lòng tự hào dân tộc lớn lao của Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi quả là một nhà tư tưởng tiến bộ.
Truyền thống nhân nghĩa còn gắn với truyền thống yêu sự chính trực, ghét sự gian tà,
căm thù sâu sắc bọn bán nước và cướp nước.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”
Đoạn thơ này đã vạch bộ mặt gian tà, hiểm ác, xảo trá của giặc Minh, chỉ ra tội ác của
bọn chúng. Lòng căm thù giặc sâu sắc thể hiện trong việc tác giả vạch mặt tố cáo tội
ác “trời không dung đất không tha”
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Nguyễn Trãi sử dụng những từ ngữ biểu cảm, gợi hình gợi cảm như “nướng”, “vùi”,
“dân đen”, “con đỏ”… Nhân nghĩa còn là sự sẻ chia đồng cảm cảm thông với nỗi đau
của người dân mất nước:
“Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.”
Tư tưởng nhân nghĩa trong suy nghĩ của Nguyễn Trãi là tinh thần yêu chuộng hòa
bình, công lý, sự hiếu sinh, hiếu hòa, độ lượng bao dung. Dân tộc ta đã mở đường hiếu
sinh cho kẻ thù khi chúng bại vong
“Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay”
Tóm lại, tư tưởng nhân nghĩa là tư tưởng bao trùm và xuyên suốt trong tác phẩm
“Bình Ngô đại cáo”cũng là tinh thần của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Qua đó, Nguyễn
Trãi thể hiện tinh thần nhân bản và giá trị nhân văn sâu sắc. Tư tưởng nhân nghĩa cũng
chính là kim chỉ nam cho đường lối chính trị và quân sự của cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn. Từ tư tưởng đó, Lê Lợi giương cao ngọn cờ chính nghĩa hiệu triệu quần chúng
tham gia khởi nghĩa chống Minh, góp phần to lớn cho cuộc khởi nghĩa chiến thắng hoàn toàn. Bài làm mẫu 3
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của
nước Nam, sau bài “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt. Đọc những câu thơ hùng
hồn, hào sảng, chúng ta sẽ nhận ra tư tưởng nhân nghĩa là tư tưởng xuyên suốt bài cáo.
Nó làm nền cho những tư tưởng khác và làm nên sự thành công của bài cáo.
Tư tưởng nhân nghĩa không phải là tư tưởng quá lạ đối với nước Nam. Đây là tư
tưởng đã được Nho giáo nhắc đến rất nhiều. Tuy nhiên với nho giáo thì nhân nghĩa
chính là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người. Nhưng đến Nguyễn Trãi thì quan
điểm nhân nghĩa của ông không phải bao hàm nội dung rộng như vậy. Đối với ông –
nhà lãnh đạo tài ba thì nhân nghĩa chính là “yên dân”:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Với hai câu thơ trên đã khái quát được tư tưởng nhân nghĩa lớn lao của Nguyễn Trãi
đối với dân với nước. Ông không suy nghĩ sâu xa, không như Khổng Tử. Đối với ông
nhân nghĩa thực ra là khái niệm rất gần gũi với đời thường. Để có đất nước thống nhất
hòa thuận, trước hết cần phải “yên dân”. Khi dân được yên, được sống trong ấm no
hạnh phúc thì tất thảy đất nước đó sẽ phát triển như một quy luật. Đây là một tư tưởng
rất hiện đại, mà sau này Hồ Chí Minh đã thừa kế và phát huy “Lấy dân làm gốc”.
Có thể thấy Nguyễn Trãi đã coi "dân” chính là trụ cột của một quốc gia, người chèo
thuyền cũng là dân và người lật thuyền cũng là dân. Tư tưởng này giản dị nhưng lại có
ý nghĩa sâu sắc. Trong những cuộc kháng chiến thì nhân dân đóng vai trò quan trọng
đối với sự thắng bại của cuộc chiến đó. Nếu dân mạnh, lòng dân yên thì ắt hẳn sẽ đánh
bay hết sự tàn bạo của quân thù.
Nguyễn Trãi xem những hành động tàn bạo, man rợ của các nước chư hầu cuối cùng
sẽ bị trừng phạt thích đáng. Nguyễn Trãi không có tư tưởng cầu hòa, nhân nhượng hay
thỏa hiệp mà nhất định phải dùng lòng dân và sức dân:
Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo
Đối với ông thì việc nghĩa luôn chiến thắng việc gian ác và những kẻ xảo quyệt sẽ bị
đền tội. Với giọng văn hùng hồn, quyết liệt, ông đã thuyết phục được người đọc về
thuyết nhân nghĩa thời bấy giờ, còn có ảnh hưởng cho đến ngày nay.
Nếu như trước đây Lý Thường Kiệt nêu ra định nghĩa về độc lập là việc khẳng định
chủ quyền thì sang Nguyễn Trãi, ông đã hùng hồn:
"Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Từ Triệu Đinh Lý Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương"
“Văn hiến” của nước Nam là do nhân dân Việt Nam xây dựng, trải qua thăng trầm, sự
tàn khốc và mất mát của chiến tranh mới có được. Tư tưởng ấy rất thiết thực và phù
hợp đối với hoàn cảnh của đất nước ta.
Sức mạnh của nhân nghĩa đã tạo nên những chiến thắng vang dội núi sông:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Với những chiến thắng vang dội, oanh liệt đó chính là nhờ sự đoàn kết, lấy ít địch
nhiều của nhân dân ta. Không phải dân tộc nào cũng có thể làm được như vậy, dân tộc
ta là dân tộc lấy dân làm gốc, mọi việc do dân và làm vì dân.
Tư tưởng nhân nghĩa không chỉ được thể hiện ở ý chí cũng như sự đoàn kết của nhân
dân mà còn thể hiện thái độ đối với quân Trung Quốc khi thất thủ. Quân và dân ta
không giết hại mà còn dành cho “đường hiếu sinh”. Chỉ với những hành động đó đã
đủ thấy được tinh thần nhân nghĩa, không triệt đường của kẻ khác thật đáng ngưỡng mộ.
Chính tư tưởng nhân nghĩa mang đậm nhân đạo đó đã giúp cho đất nước ta được tự
do, độc lập, thoát khỏi ách nô lệ 4000 năm lịch sử:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Một lời khẳng định chắc nịch, như một hồi chuông vang lên để cho mọi người trên thế
giới này biết được rằng đất nước Việt Nam đã có chủ quyền, đã thực sự hòa bình và thống nhất.
Cho đến bây giờ, khi đã trải qua bao nhiêu thăng trầm và biến cố nhưng tư tưởng nhân
nghĩa của Nguyễn Trãi vẫn còn giữ nguyên giá trị. Nó giúp cho đất nước ta có được
nhiều thành tựu vang dội như hiện nay. Gấp trang sách lại nhưng còn vang vọng đâu
đây tư tưởng nhân nghĩa, nhân đạo của ông. Bài làm mẫu 4
Có thể thấy được “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi đó chính là một minh chứng
hào hùng cho chiến thắng chống giặc Minh của nhân dân ta. Thật dễ có thể nhận thấy
được rằng xuyên suốt tác phẩm là tư tưởng nhân nghĩa, chủ nghĩa yêu nước được tác
giả khai thác, đào sâu. Ta như có thể khẳng định được triết lý nhân nghĩa của Nguyễn
Trãi đúng là những quan niệm tiến bộ có giá trị và ý nghĩa trong mọi thời đại. Thực tế
cho thấy đã hơn 6 thế kỷ trôi qua, tư tưởng nhân nghĩa của người anh hùng ấy dường
như cứ vẫn sống mãi trong lòng dân tộc làm nên chiến công lừng lẫy.
“Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”.
Có lẽ chính cuộc đời ông là tấm gương về khí tiết thanh cao và hơn nữa nó cũng như
chính là lòng yêu nước thương dân nồng nàn mà khởi nguồn từ tư tưởng nhân nghĩa,
lấy dân làm gốc. Ta có thể khẳng định toàn bộ bài tư tưởng nhân nghĩa chính là một
sợi chỉ đỏ chạy dọc theo toàn bộ bài thơ, từ khi người anh hùng Lam Sơn dựng cờ
khởi nghĩa đến khi chiến thắng, biển trời thanh bình biết bao nhiêu.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Ta như nhận thấy được “nhân” và “nghĩa’ dường như cũng chính là đạo lí ở đời, và ta
như thấy được đạo lý giữa con người với con người và giữa con người với cuộc đời, là
tôn chỉ trong xã hội mọi thời đại. Trong tuyệt tác nổi tiếng “Bình Ngô đại cáo” thì
‘nhân” đã như thể hiện bằng hành động thực tế chăm lo cuộc sống nhân dân, nhân ở
đâu thật sâu rộng, tích cực. Và hơn nữa là còn nghĩa là việc trừ bạo ngược để nhân dân
xã tắc được bình yên.
Ta có thể hiểu rằng, trước sự xuất phát từ tư tưởng nhân đạo để yên dân thì phải trừ
bạo. Do đó mà có thể thấy được chính tư tưởng nhân nghĩa cốt nhằm mục đích là đem
lại hạnh phúc cho người dân. Có lẽ cũng chính vì thương nhân dân mà cần dựng cờ
khởi nghĩa để trừ hung bạo. Tư tưởng nhân nghĩa đặc sắc và sâu sắc trong “Bình Ngô
đại cáo” dường như đã quy cho cùng tất cả là vì dân, vì hạnh phúc ấm no của nhân
dân xuyên suốt tác phẩm.
Tư tưởng ấy dường như rõ ràng, không mơ hồ, mà được tác giả nâng lên thành tư
tưởng xã hội, gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước. Có lẽ chính vì nhân nghĩa nên ông
xem những hành động mang tính tội ác của giặc Minh như thiêu lửa đốt, và có những
hành động như đã đào hố chôn sống nhân dân vô tội là những việc vô nhân đạo. Hành
động thật nhân nghĩa không trừ tượng mà là những việc làm cụ thể đó chính là chống
quân xâm lăng, tiêu diệt thế lực thù địch.
Ta như thấy được triết lý nhân nghĩa xuất phát từ nền tảng của lòng yêu nước thương
dân, đó là nền tảng của bản anh hùng ca “Bình Ngô đại cáo’. Và hơn hết chính tác
phẩm là quan điểm về quyền dân tộc, từ đó ông định nghĩa về đất nước thật trang
trọng, tự hào biết bao nhiêu:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Nguyễn Trãi - Đại anh hùng của dân tộc dường như cũng đã chỉ ra rằng nhân nghĩa là
sức mạnh để chiến thắng, đây có lẽ cũng chính là nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo của
dân tộc Việt Nam bao đời để tạo dựng nền văn hiến mang truyền thống của con người
Việt Nam. Ta như thấy được chính tư tưởng ấy là nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ
thống tư tưởng triết học, chính trị của ông, vượt ra khỏi phạm vi chính trị thông
thường trở thành nền tảng, cũng đồng thời là nguyên tắc trong quản lý, lãnh đạo đất nước.
Trong tác phẩm, ta như thấy được Nguyễn Trãi đề cao nhân dân, ông luôn luôn coi
trọng sự hòa hảo giữa các dân tộc. Nhưng dường như không vì sự tàn ác của giặc mà
trả thù bằng thủ đoạn tàn nhẫn, man rợ. Đó có thể chính là tấm lòng, là trí tuệ Việt Nam sau chiến tranh.
“Bình Ngô đại cáo” chính là áng thiên cổ hùng văn của vị anh hùng dân tộc Nguyễn
Trãi. Và nó dường như cũng chính là văn bản tổng kết cuộc kháng chiến gian lao
nhưng đầy tự hào, anh hùng của dân tộc ta hơn một thập kỷ. Đó chính là việc toát lên
tác phẩm là tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng chủ đạo cho chính trị, ngoại giao cho xã tắc muôn đời sau. Bài làm mẫu 5
Nguyễn Trãi đã từng viết: “Bui có một lòng trung lẫn hiếu/ Mài chăng khuyết nhuộm
chăng đen”, câu thơ đã cho thấy khí tiết, tấm lòng suốt một đời vì dân vì nước của
ông. Nguồn gốc tạo nên tấm lòng đẹp đẽ ấy chính là tư tưởng nhân nghĩa. Tư tưởng
nhân nghĩa là kim chỉ nam, chi phối toàn bộ sáng tác của Nguyễn Trãi. Bình Ngô đại
cáo được viết cũng không phải nằm ngoài vòng ấy. Tư tưởng nhân nghĩa chi phối toàn
bộ tác phẩm này của ông.
Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trãi đã khẳng định:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Nhân là khái niệm trung tâm của tư tưởng nho gia, nhân tức là yêu thương con người;
nghĩa là những điều hợp lẽ phải, làm theo khuôn phép xử thế. Mạnh Tử đã kết hợp hai
khái niệm này tạo thành “nhân nghĩa” là nguyên tắc ứng xử cơ bản trong quan hệ giữa
con người với nhau, giữa con người phải yêu thương nhau. Đến Nguyễn Trãi, ông đã
nâng tư tưởng lên một tầm cao mới, nhân nghĩa với Nguyễn Trãi không chỉ dừng ở
hành xử yêu thương mà còn phải là làm cho nhân dân có cuộc sống yên ổn “yên dân”
và cách thức hành động chính là “trừ bạo”. Trừ bạo ở đây chính là tiêu diệt quân Minh
xâm lược, để đem lại cuộc sống an bình, hạnh phúc cho nhân dân. Cả đời ông luôn lo
nghĩ cho dân, luôn mong nhân dân sống trong an ấm, no đủ: “Dẽ có Ngu cầm đàn một
tiếng/ Dân giàu đủ khắp đòi phương”, ông lo cho dân bằng tất cả tấm lòng, tình yêu
thương bao la. Đây là tư tưởng vô cùng tiến bộ và cho đến ngày nay nó vẫn còn giữ
nguyên giá trị. Câu luận đề này chính là sợ dây đỏ để Nguyễn Trãi triển khai toàn bộ tác phẩm của mình.
Để làm nổi bật tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã lật mở những trang sử hào hùng
trong quá khứ của dân tộc để thấy được thất bại thảm hại của những kẻ luôn mang tư
tưởng xâm lược nước khác, giọng văn ở đây thật hào sảng:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Không chỉ ở quá khứ, mà ngay cả ở thời điểm hiện tại, quân Minh đã gây ra biết bao
tội ác cho nhân ta: “Người bị bắt xuống biển mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng
luồng/ Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng thiêng nước độc”.Tội ác của
chúng “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” khiến cho “Lẽ nào trời đất dung tha/ Ai bảo
thần dân chịu được?”. Đọc những câu thơ ta như cảm nhận được hết nỗi đau khổ, tủi
nhục mà nhân dân đã phải chịu đựng suốt bao năm qua và càng căm tức hơn những tội
ác của quân Minh đối với người dân vô tội.
Chính bởi tội ác khiến cả trời đất không dung tha như vậy nên Lê Lợi đã phất cờ,
đứng lên khởi nghĩa, giành lại độc lập cho dân tộc: “Trời thử lòng trao cho mệnh lớn/
Ta gắng chí khắc phục gian lao”. Chính Lê Lợi đã hiện thực hóa tư tưởng nhân nghĩa,
tiêu diệt kẻ cường bạo để đem lại cuộc sống bình yên cho muôn dân: “Đem đại nghĩa
để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Sau bao năm tháng nếm mật,
nằm gai, nghĩa quân trải qua biết bao thử thách, cuối cùng ngày một lớn mạnh, nhận
được sự ủng hộ của muôn dân: “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ
phấp phới/ Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”. Toàn dân
đoàn kết một lòng đem hết sức mạnh thể chất và tinh thần chống lại bọn cuồng Minh.
Bởi đây là cuộc kháng chiến chính nghĩa nên thế và lực của ta ngày một cải thiện, từ
thế bị động, yếu ớt ta chuyển sang thế chủ động, liên tục tấn công như vũ bão, giáng
những đòn mạnh mẽ làm kẻ thù không kịp trở tay: “Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà
mất vía/ Lí An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân”. Quân ta đi đến đâu chiến thắng
đến đó, uy lực và sức mạnh không gì có thể sánh nổi: “Gươm mài đá, đá núi cũng
mòn/…/Đánh hai trận tan tác chim muông”. Trái lại, kẻ thù lộ diện là những kẻ ham
sống sợ chết, khi thất bại kẻ đầu hàng, kẻ dày xéo lên nhau hòng thoát thân: “lê gối
dâng tờ tạ tội” “trói tay để tự xin hàng”. Nguyễn Trãi liệt kê hàng loạt thất bại thảm
hại của kẻ thù với câu văn giàu hình ảnh: thây chất đầy đường, máu trôi đỏ nước,
khiếp vía mà vỡ mật, xéo lên nhau chạy để thoát thân,… Biện pháp liệt kê đã tỏ ra vô
cùng đắc dụng, giọng văn hào hùng, sảng khoái, Nguyễn Trãi đã lên tiếng khẳng định
lại một lần nữa sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng ấy đã đem lại chiến thắng vẻ vang cho dân tộc ta.
Tư tưởng nhân nghĩa còn được thể hiện trong cách đối đãi với kẻ thù. Mặc dù giặc
Minh gây ra những tội ác tày trời với nhân dân ta, nhưng khi chúng bại trận, thua thảm
hại, cầu hòa, quân ta lập tức đồng ý: Họ đã tham sống sợ chết, mà hòa hiếu thực lòng/
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Đây là hành động đối xử hết sức nhân
văn, nhân bản với kẻ thù, cho chúng một con đường sống, cấp vài nghìn thuyền cho
chúng về nước. Cách làm này vừa khiến chúng thua trong tâm phục khẩu phục, vừa
tạo điều kiện cho nhân dân ta nghỉ ngơi, dưỡng sức sau những năm dài gian lao chiến
đấu, đồng thời đây cũng là cơ hội để triều đình mới xây dựng đất nước vững mạnh cả
về kinh tế và quân sự. Quả là “Chẳng những mưu kế kì diệu/ Cũng là chưa thấy xưa nay”.
Chiến công oanh liệt được kết thúc bằng lời tuyên bố đầy khí thế, hào hùng: “Xã tắc
từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới/ Kiền khôn bĩ rồi lại thái/ Nhật nguyệt hối
rồi lại minh”. Tư tưởng nhân nghĩa đã đem lại sức mạnh vô biên cho quân dân ta, giúp
dân ta giành được thắng lợi vẻ vang, không chỉ giành lại độc lập cho dân tộc mà còn
cho thấy tư thế, tầm vóc của một dân tộc luôn sống và đề cao đạo lý nhân nghĩa.
Với ngòi bút chính luận sắc sảo, lập luận sắc bén hùng hồn, dẫn chứng phong phú
thuyết phục, Nguyễn Trãi đã tạo nên một áng thiên cổ hùng văn cho muôn đời. Giá trị
của áng thiên cổ ấy chính là tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời cho đến mãi muôn đời sau. Bài làm mẫu 6
Năm 1428, đất nước ta sạch bóng quân Minh xâm lược, Nguyễn Trãi thay lời nhà vua
để viết nên Bình Ngô đại cáo đọc trong lễ tuyên bố kết thúc chiến tranh, nước Đại
Việt từ nay bước sang giai đoạn bốn phương biển cả thái bình.
Điều làm nên giá trị nội dung bất hủ của tác phẩm chính là tư tưởng nhân nghĩa truyền
thống đã được Nguyễn Trãi đúc kết như một chân lí ngay trong hai câu mở đầu.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Tư tưởng ấy, chân lí ấy là nền tảng của mọi suy nghĩ, hành động, chiến lược, chiến
thuật và quyết tâm chiến đấu, chiến thắng của quân dân ta trong cuộc kháng chiến
chống kẻ thù xâm lược phương Bắc. Hơn ai hết, Nguyễn Trãi thấm nhuần quan điểm
tiến bộ của Nho giáo, coi dân là gốc (dân vi bản), ý dân là ý Trời. Ông cho rằng, bất
cứ triều đại nào muốn tồn tại dài lâu và vững mạnh đều phải dựa vào dân, đặt mục
đích yên dân lên hàng đầu bởi dân có yên thì nước mới thịnh.
Từ triết lí nhân nghĩa thủy chung, Nguyễn Trãi đã cụ thế hóa nó một cách rõ ràng và
dễ hiểu. Yên dân là mọi đường chính sách của triều đình phải phù hợp với ý nguyện
của dân, không ngoài việc làm cho dân được sống trong cảnh thanh bình, ấm no, hạnh
phúc: để cho chốn hang cùng ngõ vắng không còn tiếng hờn khóc, oán sầu.
Muốn cho nhân dân có được cuộc sống tốt đẹp như vậy thì điều đương nhiên là phải
lo trừ bạo, có nghĩa là diệt trừ tất cả các thế lực tham lam, bạo ngược làm tổn hại đến
quyền lợi của dân lành. Yên dân, trừ bạo là hai vế có liên quan chặt chẽ với nhau, hỗ
trợ cho nhau để tạo nên tính hoàn chỉnh của tư tưởng nhân nghĩa bao trùm và xuyên
suốt cuộc kháng chiến giữ nước vĩ đại lúc bấy giờ.
Khi Lê Lợi phất cao cờ khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Minh thì tư tưởng nhân
nghĩa đã được biến thành hành động cụ thể và thiết thực là đánh đuổi giặc thù ra khỏi
bờ cõi để cứu dân khỏi cơn binh đao, tang tóc. Ông viện dẫn chứng cứ lịch sử để
khẳng định rằng những kẻ cố tình đi ngược lại đạo lí nhân nghĩa cuối cùng đều chuốc lấy tai họa:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Gần mười năm qua, quân cuồng Minh đáng khinh bỉ và ghê tởm đã gây ra biết bao tội
ác trời không dung, đất không tha trên đất nước này:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh, kết oán, trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi...
Có nghĩa là chúng đã ngu ngược xúc phạm đến đạo lí nhân nghĩa của đất trời và lòng
người. Tội ác của chúng tất sẽ bị trừng trị đích đáng và đương nhiên là chúng tự chuốc
lấy thảm họa vào thân.
Trước những tội ác chồng chất của giặc như vậy, chúng ta chỉ có một con đường là
đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi để trừ bạo, yên dân. Xót xa cho cảnh nước mất nhà
tan, Lê Lợi - người anh hùng áo vải đất Lam Sơn đã phất cờ khởi nghĩa:
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn,
Ta gắng chí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Sức mạnh của cuộc kháng chiến chống quân Minh được nhân lên gấp bội bởi tính chất
chính nghĩa và mục đích cao cả của nó: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí
nhân để thay cường bạo. Tinh thần đoàn kết son sắt tạo ra những chiến lược, chiến
thuật thần kì: lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều, xoay chuyển tình thế từ bị động
sang chủ động tiến công như vũ bão, giáng trả quân thù những đòn sấm vang chớp
giật, trúc chẻ tro bay, lập nên chiến công hiển hách:
Sĩ khí đã hăng, Quân thanh càng mạnh
Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Quân thù bị đẩy vào tình thế khốn đốn, cùng đường:
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp.
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giúp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng.
Liệt kê những chiến công vang dội liên tiếp của quân dân ta cũng như tô đậm tư thế đê
hèn của quân xâm lược lúc thảm bại bằng giọng văn hào hùng sảng khoái, Nguyễn
Trãi vẫn nhằm mục đích khẳng định hùng hồn sức mạnh vô địch của tư tưởng nhân
nghĩa và truyền thống nhân nghĩa tốt đẹp của dân tộc Việt. Thực tế đã chứng minh
điều đó bằng thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược.
Kết thúc bài cáo là khúc khải hoàn ca của tư tưởng Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo. Một lần nữa, dân tộc Việt :.ngẩng cao đầu chiến
thắng, rộng lòng tha chết cho những kẻ bạo nghịch đã: quỳ gối đầu hàng: Thần vũ
chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu linh. Lại chu cấp cho chúng nào thuyền,
nào ngựa để trở về cố quốc. Cái uy, cái dũng, cái nhân trong đạo lí truyền thống nhân
nghĩa Việt Nam một lần nữa khiến kẻ thù khiếp sợ, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách
lạc, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Lời tuyên cáo của vua Lê vẫn vang mãi ngàn năm trên đất nước này:
Xã tắc từ đây vững bền, ........ Ai nấy đều hay.
Chiến công oanh liệt của cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại chống quân xâm lược nhà
Minh đã tô đậm thêm lịch sử vẻ vang của dân tộc và cũng là dẫn chứng hùng hồn
chứng minh cho sức mạnh vô biên của tư tưởng nhân nghĩa Việt Nam.
Với ngòi bút chính luận sắc sảo tuyệt vời cùng tài năng sử dụng ngôn ngữ linh hoạt,
hình ảnh sinh động, giàu sức biểu cảm. Nguyễn Trãi đã viết nên một áng thiên cổ
hùng văn có một không hai trong lịch sử văn học nước nhà. Thông qua bài Bình Ngô
đại cáo. Nguyễn Trãi khẳng định chắc chắn rằng tư tưởng nhân nghĩa chính là cội
nguồn hiển hách trong lịch sử giữ nước suốt mấy ngàn năm. Bài làm mẫu 7
Nguyễn Trãi là điển hình của vị hiền tài suốt đời đem tài trí phục vụ nhân dân. Tư
tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi trong "Bình ngô đại cáo" nêu ước nguyện muốn cứu
dân khỏi vòng tai họa, mang đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho dân. "Bình ngô đại
cáo" gói trọn tấm lòng của Nguyễn Trãi, thể hiện tư tưởng nhân đạo của ông theo cách
hiểu sâu sắc, không dừng lại cụ thể ở một người nào, một giai cấp, tầng lớp nào mà
nhân rộng ra là muôn dân.
Đất nước đại thắng vào tháng 11/1428, Lê Lợi giao cho Nguyễn Trãi viết bài cáo để
tuyên bố quân ta đại thắng, nước ta bước vào kỉ nguyên mới, phục hưng dân tộc.
"Bình ngô đại cáo" là áng thiên cổ hùng văn được viết theo thể văn biền ngẫu, với
giọng văn hùng hồn đã tuyên bố nền độc lập chủ quyền của nước nhà.
Lời tuyên ngôn độc lập của "Bình ngô đại cáo" hoàn thiện hơn bản tuyên ngôn trước
đó là "Sông núi nước Nam" tương truyền của Lý Thường Kiệt, bởi Nguyễn Trãi đã
khẳng khái đặt các triều đại Việt Nam ngang hàng với các triều đại Trung Quốc và bổ
sung thêm các phương diện quan trọng khác để khẳng định độc lập, chủ quyền của một quốc gia.
Kèm theo đó, ông đã nêu tiền đề nhân nghĩa, lấy dân làm gốc. Từ một quan niệm
sống, cách cư xử tốt đẹp giữa người với người, "nhân nghĩa" theo Nguyễn Trãi là phải
biết hành động "yên dân", "trừ bạo". Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi bắt nguồn từ
tấm lòng yêu nước, thương dân, vì dân, bởi vua là thuyền, dân chúng là nước, nước
nâng thuyền, nước cũng có thể lật thuyền.
Khác với Nguyễn Du- một danh nhân văn hóa thế giới- đại thi hào dân tộc, tư tưởng
nhân đạo của Nguyễn Du là yêu thương con người, ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của họ,
lên án những chế độ, giai cấp chà đạp nhân phẩm của họ. Cái nhìn nhân đạo của
Nguyễn Du hướng về con người bé nhỏ trong xã hội, cụ thể là người phụ nữ dưới chế độ phong kiến.
Riêng Nguyễn Trãi-bậc hiền tài- một danh nhân văn hóa thế giới khác lại hướng tư
tưởng nhân đạo của mình rộng ra khắp muôn dân. Theo Nguyễn Trãi, nhân đạo là yêu
nước, thương dân, quan tâm đến khát vọng, ý nguyện của dân, vì dân trừ bạo, mang
đến cuộc sống ấm no cho dân.
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
Tư tưởng vì dân đã soi sáng, dẫn lối cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Chiến
thắng giặc Minh là việc làm chính nghĩa hợp với lòng dân. Khi đem quân xâm lược
nước ta, bọn chúng gây ra nhiều tội ác khiến lòng người căm phẫn: hủy hoại cuộc
sống con người, hủy hoại môi trường sống, đẩy người dân vào hoàn cảnh bi đát, cùng cực.
"Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi."
Nguyễn Trãi là người có tấm lòng yêu nước, thương dân nên ông không thể trơ mắt
nhìn muôn dân lầm than, cơ cực. Tư tưởng nhân đạo đã chi phối Nguyễn Trãi có
những hành động cụ thể: góp công sức vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đánh đuổi giặc
Minh. Ông vạch trần âm mưu xâm lược của chúng, nêu lên khối căm thù chất chứa
trong lòng người dân bằng giọng văn khi uất hận trào sôi, khi cảm thương tha thiết.
"Bình ngô đại cáo" là bản cáo trạng đanh thép đối với kẻ thù xâm lược đồng thời thể
hiện niềm tự hào về một dân tộc tự cường, không chịu khuất phục, dũng cảm tranh
đấu cho nền độc lập nước nhà. Cái nhìn nhân đạo hướng về nhân dân giúp Nguyễn
Trãi phát hiện ra bản chất tốt đẹp của dân ta, luôn kiên cường trong mọi hoàn cảnh.
Cảm thương cho họ, Nguyễn Trãi đã lên án, tố cáo tội ác của kẻ thù và khẳng định lòng căm thù sâu sắc.
"Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống"
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mang tính chất chính nghĩa, nhân đạo vì mục đích của cuộc
khởi nghĩa là hướng đến nền độc lập cho muôn dân an hưởng thái bình, ấm no. Kẻ thù
sau khi thua trận được tha tội và được tạo điều kiện để về nước là hành động thể hiện
tư tưởng nhân đạo của dân ta. Lời văn cô đọng, hàm súc, chứng cứ rõ ràng, lập luận
chặt chẽ đầy thuyết phục đã khẳng định được tài năng và tấm lòng của Nguyễn Trãi.
Ông tuyên bố độc lập và bày tỏ niềm tin vào thái bình vững chắc của đất nước.
"Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới"
Nguyễn Trãi luôn hướng đến một tương lai tươi sáng, trên dưới vua tôi đồng lòng góp
sức mang đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho muôn dân. Tư tưởng nhân đạo của
Nguyễn Trãi là tư tưởng lớn, nêu bật nhân cách cao cả của ông.Cao quý thay tấm lòng
trung quân, ái quốc, hết lòng phụng sự vì dân của Nguyễn Trãi! Ông là một nhân cách
lớn dành cả đời hành động theo lẽ sống lớn.
Tư tưởng nhân đạo đọng lại trong "Bình ngô đại cáo" như một lời kí gửi đến mai sau,
nhắc nhở nghĩa vụ của mỗi người đối với quê hương, đất nước. Hãy học tập và rèn
luyện không chỉ mang lại cuộc sống tốt đẹp cho bản thân mà còn cho mọi người trong xã hội. Bài làm mẫu 8
Nguyễn Trãi là một vị anh hùng của dân tộc, là danh nhân văn hóa của thế giới. Cuộc
đời ông trải qua nhiều biến cố và oan ức nhưng ông đã để lại rất nhiều những tác
phẩm có giá trị đồ sộ cho đời sau kể cả về chữ nôm và chữ hán. Trong đó “bình ngô
đại cáo” là một trong những tác phẩm kiệt xuất của ông .
Bình ngô đại cáo là một khúc tráng ca nhằm ca ngợi cuộc khởi nghĩa chống quân
Minh xâm lược của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn . Hơn thế nữa, tác phẩm này đã trở
thành một áng thiên cổ hùng văn bất hủ đời đời, là một bản tuyên ngôn độc lập đanh
thép ,hùng hồn về nền độc lập của dân tộc ta. Điểm cốt lõi của tác phẩm được thể hiện
cả hai tư cách đó là “nhân nghĩa” mà nhân dân ta ca ngợi mãi cho đến về sau.
Mở đầu cho tác phẩm thì Nguyễn Trãi đã nêu lên một nguyên lí nhân nghĩa đó là
“việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Tư tưởng nhân nghĩa đó xuyên suốt cả bài thơ, dùng
nhân dân với cái nhân nghĩa để đi chống giặc ngoại xâm mang lại sự bình yên,ấm no
và hạnh phúc cho muôn dân.
Nhân nghĩa là tinh thần chính nghĩa của nhân dân mang lại bản sắc riêng của dân tộc.
Nhân nghĩa ở đây chính là để trừ bạo cho dân, nó được biểu hiện bằng những việc làm
cụ thể hơn. Đó là chống quân xâm lược để giữ vững bờ cõi ,tiêu diệt các cuộc phản
nghịch chống lại triều đình.“quân điếu phạt trước lo trừ bạo” Nguyễn Trãi đã xem việc
an dân là mục tiêu của nhân nghĩa , đó là trừ bọn cướp nước . Dùng nhân nghĩa để đối
xử với những bọn bại trận xoa dịu hận thù để không gây hậu quả về sau cũng là việc làm nhân nghĩa
Tư tưởng nhân nghĩa ấy còn được nhắc tới đó là lòng thương dân, tin tưởng và biết ơn
nhân dân. Dan chúng luôn được ông nhắc tới trong chiến tranh và trong thời bình .
Nhân dân sản xuất ra của cải vật chất ,sống gần dân thương dân và lúc nào cũng chỉ
nghĩ đến nhân dân trước tiên. Chính vì vậy mà chúng ta thấy được rõ ngay từ đầu bài
cáo chúng ta thấy nhắc được tới nhân dân đầu tiên. Trong suốt cuộc đời của sống sống
gần dân và ở ngay cạnh dân cho nên ông hiểu được mong muốn của nhân dân.
Tư tưởng nhân nghĩa đó còn là sự bao dung đối với kẻ thù. Tư tưởng ấy đã được
Nguyễn Trãi thể hiện ở trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn . Có thể nói rằng chính tư
tưởng ấy cùng với tài mưu lược đã chiến thắng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Tư tưởng nhân nghĩa đó còn được thể hiện ở sự khoan dung cho kẻ thù khi chúng bại
trận. Nó thể hiện được đức hiếu sinh của dân tộc ta cũng như tấm lòng bao dung của
Nguyễn Trãi khi đối phó với địch trong cuộc khởi nghĩa. Chúng ta đánh giặc bằng ý
chí sức mạnh và sự căm thù nhưng khi chúng bại trận đầu rơi máu chảy thì chúng ta
có sự khoan dung. Ta chiến đấu cũng chỉ để lấy lại lãnh thổ, lấy lại sự bình yên cho
muôn dân, đó chính là mục tiêu cuối cùng.
Những việc làm của dân tộc ta đối với kẻ thù làm cho nước họ phải tôn trọng, biết ơn.
Và chính việc làm này cũng khiến cho quân minh e dè không dám quay đầu lại xâm
lược nước ta nữa. “nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn hùng binh. Gây lại
hòa hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh cho muôn đời”. Đây thật sự là một tư tưởng
lớn cho con người có tài “kinh bang tế thế” và là một tư tưởng có sức sống vang mãi cho tới muôn đời sau.
Ta cũng có thể hiểu được tài chiến lược của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở chỗ cầu
người hiền tài giúp ích cho nhân dân. Nguyễn Trãi đã quan niệm người hiền tài càng
nhiều thì lúc đấy xã tắc mới hưng thịnh được ,nhân dân mới ấm no hạnh phúc.
Qua tác phẩm bình ngô đại cáo cho chúng ta thấy rằng tư tưởng nhân đạo, là một minh
chứng cho cuộc chiến thắng hùng hồn của nhân dân ta.
Tư tưởng nhân nghĩa trong bình ngô đại cáo không chỉ là có ý nghĩa to lớn mà còn có
tầm ảnh hưởng rất nhiều đến tình hình chính trị của đất nước ở thời đại sau. Lí tưởng
nhân nghĩa này luôn trường tồn mãi mãi với dân tộc ta cho đến tận bây giờ. Bài làm mẫu 9 ãdcf
Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự kiệt xuất của dân tộc mà ông còn là nhà
thơ, nhà văn chính luận tài ba của nền văn học trung đại Việt Nam với nhiều tác phẩm
xuất sắc được viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Đặc biệt, nhắc tới những áng văn
chính luận của Nguyễn Trãi không thể nào chúng ta không nhắc tới "Bình Ngô đại
cáo" - một tác phẩm được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết ra sau cuộc kháng chiến
chống quân Minh. Tác phẩm đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc và
được xem là "Bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc".
Có thể xem Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, và Bình Ngô đại cáo là ba cái mốc đánh
dấu những chặng đường phát triển rực rỡ của chủ nghĩa yêu nước trong văn học trung
đại Việt Nam. Tuy nhiên, Nam quốc sơn hà và Hịch tướng sĩ là hai bước của giai đoạn
tiến hành những cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại nhằm khẳng định sự tồn tại và chủ
quyền của quốc gia Đại Việt. Bình Ngô đại cáo lại ở một giai đoạn khác, gian nan hơn,
vẻ vang hơn, giai đoạn đánh đuổi giặc ngoại xâm, giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ.
Nói cách khác, Bình Ngô đại cáo ra đời trong một giai đoạn lịch sử có nhiều đặc điểm
khác biệt so với thời Lí Trần.
Sự thất bại của hai cuộc khởi nghĩa do Giản Định và Trùng Quang lãnh đạo đã khẳng
định rằng sứ mệnh lịch sử của nhà Trần đã chấm dứt. Trong hoàn cảnh như vậy, vị
hào trưởng bình thường đất Lam Sơn nhận chân rất rõ sức mạnh hay là vai trò lịch sử
to lớn, có tính chất quyết định của yếu tố nhân dân trong công cuộc giải phóng dân tộc
khỏi ách đô hộ của giặc Minh. Được lòng dân, đoàn kết được toàn dân chính là đòi hỏi
lớn lao của thời đại đặt ra với những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Dựa
vào dân là dựa vào chính nghĩa. Có chính nghĩa thì nhất định thắng lợi. Đây chính là
tư tưởng lớn của thời đại chống Minh được Nguyễn Trãi nêu ở phần đầu bài Cáo:
"Nhân nghĩa chi cử yếu tại an dân" Suốt toàn bài, những từ ngữ, hình ảnh nói đến dân
chiếm một tỉ lệ khá cao so với các tác phẩm của những thời kì trước đó vốn tập. trung
tả hình ảnh người trai quý tộc yêu nước, khát khao lập chiến công. Dân trong bài cáo
là tập hợp những dân đen, con đỏ (thương sinh, xích tử), những phu phen, tạp dịch,
những người dòng lưng mà ngọc, đã cát tìm vàng trong những Kim Trường Cục Châu
Trường Dục, những người làm ruộng, những kẻ nô lệ (manh lệ). Đó là những tầng lớp
thấp nhất trong xã hội phong kiến nhưng lại chiếm đa số trên mảnh đất Đà Việt bao
đời tồn tại và phát triển bằng nền kinh tế nông nghiệp. Thơ văn Lí Trần ít chú ý đến
họ mà chỉ tập trung miêu tả hình ảnh những người anh hùng quý tộc. Nó chứng tỏ
rằng thực tiễn lịch sử của thời đại chống Minh đòi hỏi phải phá vỡ cách hiểu cũ bị chi
phối nghiêm ngặt bởi đẳng cấp, tôn ti trật tự phong kiến về vai trò của quần chúng
thời Lí Trần. Sau này, trong thơ của mình, Nguyễn Trãi cũng hay nhắc đến vai trò lịch
sử của dân mà ông đã nhận thức được ngày một sản sắc trước, trong và sau cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Phúc chu dĩ tín dân do thủy
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên
(Lật thuyền mới biết dân như nước
Cậy hiểm khôn xoay được mệnh trời) (Quan Hải) Hoặc
Ở yên thì nhớ lòng xung đột
Ăn lộc đền ơi kẻ cấy cày
(Báo kính cảnh giới - 19)
Tư tưởng yên dân là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, làm nền tảng cho sức mạnh của toàn bài
cáo. Có dân là có chính nghĩa. Nhân nghĩa thực sự là phải vì dân. Dân là người phẫn
nộ trước ách thống trị của ngoại bang và cũng chính dân, những người lấy gậy thay cờ
(Yết can vi kì manh lệ chi đồ tử tập) sẽ lớn mạnh, đoàn kết, hợp lực thành một cơn
bão dữ quét sạch xâm lược.
Khởi nguồn từ Khổng học, tư tưởng nhân nghĩa của Trung Quốc, thực chất, không
thực thi cho tầng lớp manh lệ hèn kém mà Nho giáo cho là những kẻ tiểu nhân mặc dù
về nghĩa của từ thì nhân nghĩa là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong một
xã hội, một cộng đồng. Theo Khổng học, tiểu nhân là những kẻ không đọc sách thánh
hiền nên học thuyết nhân nghĩa không thể dành cho họ. Trong Luận ngữ, Khổng Tử
nhấn mạnh nhiều lần sự khác biệt giữa người quân tử với kẻ tiểu nhân: "Quân tử có ý
thức làm tốt cho người mà không làm điều ác còn tiểu nhân thì ngược lại"; "Quân tử
lo về đạo đức, tiểu nhân lo về đất đai,... Quân tử lo về việc nghĩa, tiểu nhân lo việc lợi
Điều nghĩa là con đường, điều lễ là cánh cửa, chỉ có người quân tử mới biết đi con
đường đó, ra vào cánh cửa đó 4 Mạnh Tử phát biểu: "Dân vi quý xã tắc thứ chi, quân
vi khinh", thực chất là nói đến một thứ chính trị được lòng dân và chữ dân của ông
cũng giới hạn trong tầng lớp hằng sản. Ông khẳng định: "Nếu người dân không hằng
sản thì họ không có hằng tâm” và “không có người quân tử thì lấy ai cai trị kẻ thôn quê".
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là sự kế thừa đầy sáng tạo học thuyết Nho giáo
bởi lẽ, chữ dân trong bài cáo chủ yếu là để những tầng lớp thấp nhất trong xã hội
phong kiến, những manh lệ là dân đen, con đỏ... Điều này hoàn toàn phù hợp với thực
tế lịch sử và truyền thống nhân đạo tốt đẹp của dân tộc. Bình Ngô đại cáo cũng nhắc
đến quan điểm với Tổ quốc về những yếu tố cấu thành một dân tộc. Đây là quan điểm
tiên tiến của thời đại được phát biểu một cách hoàn chỉnh và đầy sức thuyết phục so
với các thời đại trước đó. Nam quốc sơn hà quan tâm đến 3 yếu tố:
Địa lí (sông núi nước Nam), Chính trị (vua Nam ở), Sách trời (thiên thư) hay thiên mệnh
Hịch tướng sĩ quan tâm nhiều đến yếu tố thái ấp do bị chi phổi nặng nề của chế độ đại
điền trang đang phát triển mạnh mẽ thời Trần, Nguyễn Trãi phát biểu đầy đủ, rõ ràng
hơn trên cơ sở thời Lí, Trần:
- Địa lí (núi sông bờ cõi đã chia)
- Nền văn hoá lâu đời (vốn xưng nền văn hiến đã lâu).
- Yếu tố tâm lí, phong tục, tập quán (phong tục Bắc – Nam cũng khác)
- Các triều đại chính trị (từ Triệu, Đinh, Lí, Trần. )
- Người tài (song hào kiệt đời nào cũng có).
- Truyền thống lịch sử vẻ vang (Lưu Cung tham công nên thất bại).
Đây là đoạn văn mang tính chất tổng kết những yếu tố cấu thành một cộng đồng dân
tộc. Nó thể hiện một cách hiểu mới mẻ, sâu sắc, toàn diện, hình thành, phát triển và
được kiểm nghiệm từ chính thực tiễn lịch sử. Stalin có một định nghĩa được xem là
khá hoàn chỉnh và dân tộc: Dân tộc là một khối cộng đồng ổn định thành lập trong lịch
sử dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng nói, lãnh thổ, về sinh hoạt kinh tế và tình hình
tâm lí thể hiện trong cộng đồng văn hóa. So với định nghĩa này, ta có thể thấy quan
điểm của Nguyễn Trãi tiến bộ như thế nào trong thời điểm đó.
"Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi không chỉ là một văn kiện lịch sử mà nó còn là
một áng văn chính luận sâu sắc với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố chính luận
và trữ tình. Trải qua bao nhiêu ngàn năm phát triển lịch sử dân tộc nhưng giá trị, ý
nghĩa to lớn của bài cáo này vẫn còn nguyên giá trị cho đến hôm nay. Phần đầu của
bài cáo nêu một cách rõ ràng mối quan hệ hữu cơ giữa 3 yếu tố: Nhân - Dân - Nước.
Chính mối quan hệ này mới là nền tảng cho toàn bộ luận đề chính nghĩa của áng thiên
cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo.