-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Văn mẫu lớp 10: Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề văn hóa truyền thống Việt Nam
Văn mẫu lớp 10: Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề văn hóa truyền thống Việt Nam gồm 3 bài văn mẫu khác nhau cực hay. Qua đó giúp các em có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay sát với chương trình học.
Bài 5: Tích trò sân khấu dân gian (KNTT) 23 tài liệu
Ngữ Văn 10 1.2 K tài liệu
Văn mẫu lớp 10: Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề văn hóa truyền thống Việt Nam
Văn mẫu lớp 10: Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề văn hóa truyền thống Việt Nam gồm 3 bài văn mẫu khác nhau cực hay. Qua đó giúp các em có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay sát với chương trình học.
Chủ đề: Bài 5: Tích trò sân khấu dân gian (KNTT) 23 tài liệu
Môn: Ngữ Văn 10 1.2 K tài liệu
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Ngữ Văn 10
Preview text:
Viết báo cáo nghiên cứu - Mẫu 1 1. Mở đầu a. Lí do chọn đề tài:
"Anh có về Kinh Bắc quê em, mà nghe quan họ mà xem làng nghề
Con sông Cầu in bóng trăng thề người đi người ở người về với ai..."
Những câu ca ngọt ngào, đằm thắm ấy chính là dân ca quan họ Bắc Ninh. Làn điệu
dân ca quan họ từ lâu đã trở thành một nét đẹp văn hóa trong đời sống tinh thần của
người dân Bắc Ninh nói riêng và người Việt Nam nói chung. Tại kì họp lần thứ tư của
Ủy ban liên Chính phủ Công ước UNESCO bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể ngày 30
tháng 9 năm 2009, dân ca quan họ được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể chỉ
sau nhã nhạc cung đình Huế, không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên và ca trù.
Điều này chứng tỏ dân ca quan họ đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo tồn,
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Hiện nay, dân ca quan họ xuất hiện ở rất nhiều nơi trên cả nước nhưng nhiều nhất vẫn
là Bắc Ninh. Hầu hết các làng ở Bắc Ninh đều có những địa điểm sinh hoạt hát quan
họ. Tuy nhiên, cái nôi đầu tiên của quan họ bắt nguồn từ Làng Diềm hay còn gọi là
làng Viêm Xá, thuộc phường Hòa Long, thành phố Bắc Ninh. Đây là nơi bà Thủy tổ
của quan họ xuất hiện và truyền dạy lời ca cho mọi người. Qua năm tháng, quan họ
không những giữ được nguyên vẹn lối hát truyền thống mà còn xuất hiện thêm nhiều
lối hát mới phong phú và đa dạng.
Hiện tại, không ít những bài nghiên cứu, đánh giá của những nhà nghiên cứu đầu
ngành về dân ca quan họ. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu quan
họ trong không gian văn hóa đương đại tại làng Diềm.
b. Mục đích nghiên cứu đề tài:
Tìm hiểu dân ca quan họ tại làng Diềm, phường Hòa Long, thành phố Bắc Ninh để
thấy được nét độc đáo, đặc sắc và đặc biệt của quan họ trong không gian văn hóa làng Diềm.
c. Phương pháp nghiên cứu:
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp so sánh, phân tích - tổng hợp. 2. Nội dung:
a. Đôi nét về quan họ Bắc Ninh:
Khác với các loại hình diễn xướng khác, dân ca quan họ Bắc Ninh nổi tiếng với bạn
bè gần xa bởi âm điệu ngọt ngào, trong trẻo, mượt mà, tha thiết. Cho đến nay, vẫn
chưa có tài liệu nào ghi chép chính xác về thời gian ra đời của làn điệu này. Có người
cho rằng quan họ xuất hiện lần đầu tiên vào thế kỉ XI, ý kiến khác lại nói vào thế kỉ
XVII. Dù là thời gian nào thì quan họ vẫn được coi là phương tiện lưu giữ hồn cốt của
văn hóa xứ Kinh Bắc. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, quan họ cũng có sự thay đổi,
bổ sung. Chúng ta có thể chia thành quan họ truyền thống và quan họ mới.
Trước hết, quan họ truyền thống là lối hát quan họ ra đời đầu tiên. Nó chỉ tồn tại ở 49
làng quan họ gốc tại xứ Kinh Bắc. Quan họ truyền thống đòi hỏi người hát phải am
hiểu luật lệ, cách hát. Lúc bấy giờ, người ta không gọi là "hát quan họ" mà là "chơi
quan họ" bởi cho rằng quan họ là một thú vui tao nhã, thanh tao. Quan họ truyền
thống không có nhạc đệm, chủ yếu là sự đối đáp của các liền anh liền chị vào độ "xuân thu nhị kì".
Khác với quan họ truyền thống, quan họ mới ít nhiều đã có sự cải biên. Hình thức diễn
xướng cũng trở nên đa dạng hơn bao gồm hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa,...
Tính đến năm 2016, có tất cả 67 làng quan họ được xếp vào danh sách bảo tồn và phát
triển, trong đó có 44 làng quan họ thuộc tỉnh Bắc Ninh.
b. Mảnh đất và con người làng Diềm:
Làng Diềm thuộc địa phận phường Hòa Long, nơi đây lưu giữ rất nhiều nét đẹp văn
hóa của làng quê xứ Kinh Bắc. Lớn lên trên đất tổ của quan họ, người dân cũng rất
ngọt ngào, đằm thắm. Từ trong cách ứng xử, nói năng, đi lại, người dân làng Diềm
đều toát lên vẻ mộc mạc, nhẹ nhàng. Họ hiền lành, chất phác và đặc biệt hiếu khách
như những câu quan họ mà ta đã từng nghe:
"Khách đến nhà là hát
Khách uống trà là pha" hay
"Người ơi, người ở đừng về..."
Dường như người con của miền quê quan họ đều rất tình - một cái tình ngọt ngào như
những lời ca. Không chỉ các liền anh, liền chị khi hát mới duyên dáng mà cái duyên ấy
hiện hữu ngay cả trong đời sống hàng ngày. Đó là nét duyên được di truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Bởi vậy, quan họ mới trở nên đằm thắm, mượt mà đến như vậy.
c. Dân ca Quan họ trong không gian văn hóa làng Diềm - phường Hòa Long - Thành
phố Bắc Ninh - tỉnh Bắc Ninh:
Đặt dân ca quan họ trong không gian văn hóa làng Diềm, ta có thể thấy được nét độc
đáo, hấp dẫn của làn điệu quan họ nơi đây. Ngày xưa, do hạn chế khi di chuyển nên sự
giao lưu giữa Diềm và các làng khác gặp nhiều khó khăn. Bởi vậy, lối hát ở Diềm có
điểm khác biệt, "cổ" hơn so với những nơi khác. Các liền anh, liền chị thường sử dụng
lối hát chậm rãi, khoan thai, ít các bài lí có tiết tấu nhanh. Chính vì thế, những luyến
láy hay tiếng đệm trong lời ca như "Dôông ôi à tô ông tang" "Dôông tang tết, tết tang"
"tềnh tếnh"... cũng bị tiết chế. Một số bài "Bóc thư", "Tình thư", "Bóng giăng loan",
"Ăn ở trong rừng" không được chia thành trổ ở Diềm.
Khi nhắc đến quan họ làng Diềm, không thể không nhắc đến bốn trụ cột chính hay
bốn nghệ nhân kì cựu của quan họ làng Diềm. Đó là các cụ Ngô Thị Nhị, Trần Thị
Phụng, Nguyễn Thị Bản, Ngô Thị Lịch. Họ đều là những nghệ nhân lâu đời, thuộc cả
trăm ngàn làn quan họ cổ, đã được nhà nước phong danh nghệ nhân ưu tú.
Tại đây, cứ mỗi độ xuân về, ngày hội hay ngày rằm sẽ là ngày họp câu lạc bộ quan họ
của làng. Nhiều lúc, chẳng cần nhạc đệm, tự lời đối đáp đã mang nét nhạc du dương.
Từng làn điệu như rót vào tâm hồn người nghe nhờ các lời ngân: "Hừ la, hừ la a la..em
hỡi hà, ơi hội hừ...".
Đặc biệt, dân làng cũng như chính quyền và các cấp địa phương rất chú trọng giữ gìn,
bảo tồn dân ca quan họ. Ở trường Tiểu học Hòa Long, bên cạnh việc trau dồi, rèn
luyện kĩ năng, kiến thức, nhà trường đã đưa quan họ vào dạy như một môn học trong
các tiết học ngoại khóa. Đây là hoạt động thiết thực giúp bồi dưỡng tình yêu thương,
tấm lòng nhân hậu, thủy chung ở các em học sinh. Từ đó, giúp các em phát triển nhân
cách, đạo đức tốt đẹp và thêm yêu quê hương, đất nước.
Với mục đích giữ gìn, bảo tồn dân ca quan họ và phát triển du lịch, chính quyền đã
cho xây dựng nhà hát dân ca quan họ Bắc Ninh. Công trình có tổng diện tích là 19.400
mét vuông, với mức kinh phí hơn 178 tỉ đồng. Điều này cho thấy dân ca quan họ nhận
được sự quan tâm, sát sao của người dân và các cấp chính quyền. Nơi đây hứa hẹn sẽ
là điểm đến du lịch hấp dẫn. Đồng thời, tạo động lực cho mỗi nghệ sĩ không ngừng nỗ
lực sáng tạo, cống hiến cho nghệ thuật.
Mặc dù xã hội phát triển nhưng những giá trị văn hóa, tinh thần của quan họ làng
Diềm vẫn được gìn giữ, phát huy. Tiếng hát quan họ thiết tha, nghĩa tình của các liền
anh, liền chị vẫn làm say đắm biết bao du khách thập phương trong và ngoài nước.
Đây chính là sức hút, nét hấp dẫn của quê hương quan họ. 3. Kết luận:
Mỗi một làng quan họ đều mang những nét riêng nhưng nếu đã nghe quan họ thì
không thể bỏ qua làn điệu làng Diềm. Làn điệu dân ca mượt mà đằm thắm là một nét
đẹp văn hóa và có tầm ảnh hưởng to lớn đối với không gian văn hóa làng Diềm. Quan
họ không chỉ là niềm tự hào của người dân làng Diềm mà còn là toàn thể người dân
Việt Nam. Chúng ta cần phải cố gắng, nỗ lực để giữ gìn, phát huy những giá trị văn
hóa truyền thống như dân ca quan họ làng Diềm.
Viết báo cáo nghiên cứu - Mẫu 2 1. Đặt vấn đề
Sử thi Ê đê ra đời trong điều kiện xã hội loài người có những biến động lớn về những
cuộc di cư lịch sử, đặc biệt là những cuộc chiến tranh giữa các thị tộc, bộ lạc để giành
đất sống ở vùng rừng núi Tây Nguyên.
2. Giải quyết vấn đề
Đồng bào dân tộc Ê đê xếp thứ 12 trong cộng đồng 54 dân tộc anh em tại Việt Nam.
Ước tính có hơn 331.000 người Ê đê cư trú tập trung chủ yếu ở các tỉnh: Đắk Lắk,
phía Nam của tỉnh Gia Lai và miền Tây của hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên của Việt
Nam. Người Êđê gọi sử thi là klei khan. Klei nghĩa là lời, bài; khan nghĩa là hát kể.
Hát kể klei khan không phải là hát kể thông thường mà bao gồm ý nghĩa ngợi ca.
Thực chất đây là một hình thức kể chuyện tổng hợp được thông qua hát kể.
Các tác phẩm sử thi đều phản ánh quan niệm về vũ trụ với thế giới thần linh có ba
tầng rõ rệt: tầng trời, tầng mặt đất và tầng dưới mặt đất – thế giới mà con người và
thần linh gần gũi với nhau; phản ánh xã hội cổ đại của người Ê đê, cuộc sống sinh
hoạt của cộng đồng bình đẳng, giàu có; phản ánh quyền lực gia đình mẫu hệ, đề cao
vai trò của người phụ nữ trong quản lý và bảo vệ hạnh phúc gia đình.
3. Hình thức hát kể sử thi
Hát kể sử thi là loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian đã có từ lâu đời của cộng đồng
người Ê đê, được tồn tại bằng hình thức truyền miệng từ đời này qua đời khác.Nội
dung của hát kể sử thi chủ yếu ca ngợi các anh hùng dân tộc, tôn vinh những người có
công tạo lập buôn làng, những người anh hùng có công bảo vệ cộng đồng thoát khỏi
sự diệt vong, áp bức và sự xâm chiếm của các thế lực khác; đề cao sự sáng tạo, mưu
trí tài giỏi, tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau lúc khó khăn hoạn nạn, nêu cao
chính nghĩa, phản kháng những điều trái với đạo lý, luật tục; ca ngợi cái đẹp về sức
mạnh hình thể lẫn tâm hồn, tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình, mong muốn chinh
phục thiên nhiên để cuộc sống tốt đẹp hơn; miêu tả cuộc sống sinh hoạt, lao động bình
thường giản dị của buôn làng…
Ngôn ngữ hát kể của sử thi Êđê là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời và nhạc. Về phần
lời, sử thi Ê đê đều thể hiện một hình thức ngôn ngữ đặc biệt là lời nói vần (klei duê).
Trong khi diễn xướng người nghệ nhân còn vận dụng các làn điệu dân ca của dân tộc
mình, như: Ay ray, kưưt, mmuin… để tạo nên nhịp điệu vừa có chất thơ vừa có chất
nhạc. Trong hình thức ngôn ngữ đó, các câu chữ như một móc xích nối các câu vần
với nhau. Chính đây cũng là một yếu tố quan trọng khiến nghệ nhân có thể thuộc được
cả những tác phẩm dài hàng vạn câu.
Trong sử thi thường nhắc nhiều về những cánh rừng bạt ngàn, rõ nét nhất là cảnh buôn
làng giàu có của các tù trưởng, những người hùng nổi tiếng khắp vùng như Đăm Săn,
Khing Ju… Trong trí tưởng tượng của người kể, những cánh rừng đi săn bắn, nơi làm
rẫy và bến nước đều ở hướng đông. Đây là hướng mỗi buổi sáng thức dậy và đi lên
rẫy đều nhìn thấy mặt trời ló trên đỉnh núi, họ quan niệm đây là sự sống, sự sinh sôi,
nẩy nở khi tiếp nhận ánh sáng của nữ thần mặt trời mỗi ngày. Ánh mặt trời là sự báo
ứng của những điều tốt lành, là sự hy vọng trở thành hiện thực.
Ví dụ như trong sử thi Khing Ju có đoạn kể: “Đến sáng hôm sau, khi mặt trời lên khỏi
ngọn núi, Prong Mưng Dăng lấy nước trong bầu rửa mặt. Sau đó, vít cần rượu và tiếp
tục uống. Càng uống nước trong ché càng đầy, có lúc nước tràn ra ngoài”. Đây là điều
tốt lành báo ứng cho Prong Mưng Dăng dắt bà đỡ đẻ về gấp cho em gái mình H’Ling
kịp sinh con, trong khi Prong Mưng Dăng đang mải mê tỏ tình với H’Bia Ling Pang.
4. Ảnh hưởng của sử thi đối với dân tộc Ê đê.
Với bất cứ sử thi nào, khi một nhân vật đi tìm ai và hỏi người nào đó trong làng thì sẽ
có câu trả lời khéo léo. Đó là: “Nhìn cột nhà sàn nó dài hơn nhà khác, có nhiều cái
bành voi để ngoài hiên, cầu thang rộng bằng trải ba chiếc chiếu. Cầu thang rộng đến
nỗi những chàng trai xuống một lúc năm, các cô gái thì xuống được ba người, con
heo, con chó chạy đầy dưới sân”. Câu trả lời này làm cho người nghe tưởng tượng về
ngôi nhà đó đẹp, dài, rộng hơn hẳn những ngôi nhà trong buôn mình. Riêng nội thất
trong nhà, người kể luôn tạo ra những lời kể bằng ngôn từ tượng hình. Ví dụ: “Cột nhà
trong chạm trổ rất đẹp, sàn nhà láng bóng. Gian trong cột bằng chỉ đỏ, gian ngoài cột
bằng chỉ vàng”. Những hình ảnh gần như có thực với không gian hiện thực.
Ví dụ: “Từ trong bành voi, Mtao Grư đạp lên đầu voi nhảy xuống sàn hiên, từ sàn hiên
nhảy qua ngạch cửa, từ ghế Jhưng (ghế chủ nhà), nhảy đến chỗ ngồi đánh Jhar (chiêng
lớn tiếng ngân vang), từ chỗ đánh Jhar đến chỗ đánh chiêng (ghế kpan), từ chỗ đánh
chiêng nhảy đến chỗ đánh hgơr (trống cái)”. Hình ảnh này làm người nghe hình dung
ra những hành động nhẹ nhàng, nhanh nhẹn của Mtao Grư đi vào qua các vị trí đặt
chiêng, chỗ để của những vật dụng (như jhưng, kpan, thứ tự từ gian ngoài đi vào gian
trong). Qua tình tiết của câu chuyện, người nghe đã hình dung đây là một nhà giàu có nhất trong buôn làng
Tại không gian lễ hội bỏ mả của người Êđê M’Dhur, về khuya, sau khi mọi nghi lễ
tạm dừng lại, thì nghệ nhân kể khan bắt đầu kể những bài khan nổi tiếng của dân tộc
mình cho mọi người nghe. Đây là hình thức sinh hoạt kể sử thi vô cùng độc đáo. Bên
đống lửa bập bùng tại không gian nhà mồ rộng lớn, nghệ nhân hát kể sử thi cho hàng
nghìn người nghe. Dân làng, già trẻ gái trai và khách gần xa ngồi im lặng say sưa lắng
nghe kể sử thi suốt đêm thâu cho đến khi con gà trống gáy vang núi rừng, báo hiệu
ông mặt trời đã thức giấc thì nghệ nhân hát kể sử thi mới dừng câu chuyện lại để
chuẩn bị cho các nghi lễ tiếp theo của lễ hội bỏ mả. Ở đây, lễ hội bỏ mả được tổ chức
bao nhiêu ngày đêm, thì những người đến dự lễ được nghe kể sử thi bấy nhiêu đêm. 5. Kết luận.
Sử thi Ê đê, chính là một bức tranh rộng và hoàn chỉnh về đời sống nhân dân và về
những anh hùng, dũng sĩ đại diện cho cộng đồng. Người dân Ê đê hát kể sử thi như
một cách để bảo tồn và gìn giữ giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc đồng thời tuyên
truyền nét đẹp này đến với nhiều đồng bào dân tộc khác.
Viết báo cáo nghiên cứu - Mẫu 3
Chèo là nghệ thuật sân khấu dân gian truyền thống xuất hiện từ lâu đời và mang bản
sắc dân tộc đậm đà nhất của dân tộc Việt Nam. Chèo là một loại kịch hát dân gian có
tính chất tổng hợp, sản phẩm của sinh hoạt xã hội nông nghiệp cổ truyền vùng đồng
bằng Bắc Bộ Việt Nam. Trong quá trình ra đời, hình thành và phát triển, chèo đã
không ngừng kế thừa và biến đổi, tích hợp vào nó nhiều chất liệu và yếu tố văn hóa
mới để cho chèo ngày càng phong phú và hoàn thiện hơn.
Do hoàn cảnh lịch sử, cụ thể là về điều kiện kinh tế xã hội của nước ta thời thực dân
Pháp thống trị, nghệ thuật chèo ở đầu thế kỉ XX đã rơi vào tình trạng bế tắc và có
nguy cơ mai một. Nhiều làng quê nghèo đói đến mức chỉ có thể làm cúng bái tế Thành
hoàng làng mà thôi, còn về phần lễ hội thì hầu như không mở được. Đó là tình trạng
của các gánh hát chèo ngày càng không được đón mời như trước đó. Hoàn cảnh lịch
sử xã hội đưa đẩy khiến cho một số nghệ sĩ chèo dân gian đã mạnh dạn đưa phường
gánh ra chốn thành thị nhưng cũng không được đón chào bởi thị hiếu khán giả đô thị
không ưa chuộng lối hát và diễn của chèo sân đình. Mặt khác, lúc này văn hóa Pháp
cũng du nhập vào Việt Nam theo những người Pháp, cùng với chính sách đồng hóa
dưới chiêu bài “khai hóa văn minh” của thực dân Pháp khiến cho môi trường văn hóa
ở các đô thị biến đổi. Trong điều kiện mới của sự tiếp biến văn hóa mà trong đó có
mặt tiêu cực nhiều hơn mặt tích cực, chèo muốn tồn tại ở các đô thị nhất là ở Hà Nội -
nơi có đông khán giả xem diễn trò thì phải chấp nhận một cuộc cách tân.
Kịch bản chèo tân thời, nhất là những kịch bản tiêu biểu của Nguyễn Đình Nghị là
những cách tân so với những kịch bản chèo cổ truyền thống, chịu chi phối bởi nhu cầu
mới của khán giả đô thị và chịu ảnh hưởng khá lớn về mặt kịch nghệ của sân khấu
Pháp. Điều này được thể hiện trước hết ở những yếu tố liên quan tới yêu cầu đổi mới
kịch bản chèo và quan trọng hơn cả là những đổi mới ngay trong những thành tố tạo lên kịch bản chèo.
Nếu như trước đây trong chèo chèo chỉ giới hạn ở một số đề tài dân gian, lịch sử thì
trong giai đoạn chèo tân thời cụ thể là trong 60 kịch bản chèo của Nguyễn Đình Nghị
thì nội dung đề tài được ông sử dụng một cách đa dạng hơn từ các đề tài dã sử, lịch sử
dân gian cho đến những đề tài phản ánh hiện thực, phản ánh cuộc sống đương đại.
Bên cạnh, việc đa dạng hóa đề tài là sự thay đổi về nhân vật trung tâm của chèo tân
thời lại có sự đa dạng hơn về các loại người, các loại thành phần xã hội với các thân
phận khác nhau, và họ đã biết đấu tranh để giành lấy số phận của mình. Chèo tân thời
còn xây dựng và làm gia tăng hơn tính xung đột trong các mối quan hệ của nhân vật,
đồng thời còn sử dụng các làn điệu, “chèo hóa” các làn điệu dân ca, các yếu tố mỹ
thuật, múa....trên cơ sở tả ý, tả thần đã đem lại những hiệu quả rõ rệt. Chèo tân thời -
Nguyễn Đình Nghị đã đánh dấu một bước phát triển mới trong lịch 81 sử chèo, làm
cho sân khấu chèo chuyển từ sân khấu dân gian bước sang sân khấu chuyên nghiệp.
Thành công của chèo tân thời đã có những tác động hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp tới
các khuynh hướng sân khấu chèo Việt Nam. Lịch sử ngày hôm nay đã phần nào minh
chứng rằng: “Nguyễn Đình Nghị là chiếc cầu nối giữa chèo cổ và chèo hiện đại”.