-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Văn mẫu lớp 11: Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên, xã hội
Văn mẫu lớp 11: Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên, xã hội mang đến bài văn mẫu cực hay, giúp cho các em học sinh tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng viết báo cáo nghiên cứu một vấn đề ngày một hay hơn.
Chủ đề: Bài 5: Nhân vật và xung đột trong bi kịch
Môn: Ngữ Văn 11
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Báo cáo kết quả nghiên cứu về kiến trúc Hoàng Thành Thăng Long
Kiến trúc kinh thành, cố đô phong kiến ở Việt Nam luôn mang theo cái gì đó rất
chung và rất riêng với văn hóa kiến trúc của Trung Hoa và nó luôn thể hiện nét đẹp
truyền thống, văn hóa lịch sử lâu đời của người Việt. Bên cạnh quần thể kiến trúc Cố
đô Huế từ xưa, người Việt vẫn luôn tự hào với kiến trúc thành Thăng Long – tòa thành
đã trải qua biết bao năm tháng của lịch sử.
Như chúng ta đã biết, kinh thành Thăng Long luôn được gắn với một sự kiện lịch sử
nổi tiếng đó là vào năm 1010, vua Lý Thái Tổ đã dời đô từ Hoa Lư đến Đại La và cho
xây dựng kinh thành Thăng Long. Cùng với đó là hàng loạt các cung điện, lăng tẩm
được xây dựng, nổi bật là công trình Điện Kính Thiên cao tới 2 tầng rộng hơn 2300
mét vuông. Thời Hậu Lê, thành Thăng Long vẫn được coi là kinh đô, trung tâm kinh
tế, chính trị của cả nước.
Về vị trí, kinh thành Thăng Long tọa lạc ở phía Bắc Việt Nam và được giảm dần về
diện tích qua các triều đại. Ở thời Hậu Lê, hầu như không xây dựng thêm các chùa
tháp mà chủ yếu là trùng tu. Thay vào đó, hàng loạt phủ đệ mới của giới quý tộc, quan
lại trung ương được xây dựng, tạo ra hình ảnh một kinh thành Thăng Long đầy quyền uy, thâm nghiêm.
Về kiến trúc, trải qua thời gian và những biến cố của lịch sử, thành Thăng Long đã có
nhiều thay đổi, biến dạng, nhưng đến nay vẫn còn thấy được cả di tích trên mặt đất,
dưới lòng đất, di tích lịch sử cách mạng, di tích khảo cổ, di tích kiến trúc nghệ
thuật,… tạo thành hệ thống các di tích được đánh giá là quan trọng bậc nhất trong hệ
thống các di tích đô thị cổ, trung, cận, hiện đại của nước ta. Hiện tại, trong khu vực
trung tâm Thành cổ Thăng Long - Hà Nội còn lại 5 điểm di tích nổi trên mặt đất phân
bố theo trục Bắc – Nam, còn gọi là “Trục chính tâm”, “Trục ngự đạo”, gồm có: Kỳ
Đài, Đoan Môn, nền điện Kính Thiên, Hậu Lâu, Bắc Môn, tường bao và kiến trúc
cổng hành cung thời Nguyễn, di tích nhà và hầm D67, các công trình kiến trúc Pháp…
Kinh thành Thăng Long từ thời Lý được xây dựng theo cấu trúc ba vòng thành, gọi là
“tam trùng thành quách”: vòng thành ngoài là La thành hay Đại La thành, vòng thành
giữa là Hoàng thành (thời Lý - Trần - Lê gọi là Thăng Long thành, thời Lê còn gọi là
Hoàng thành) và vòng thành trong cùng gọi là Cấm thành (hay Cung thành). Cấm
thành từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 18 hầu như không thay đổi và còn bảo tồn cho đến nay
hai vật chuẩn rất quan trọng: Thứ nhất là nền điện Kính Thiên xây dựng thời Lê sơ
(1428) trên nền điện Càn Nguyên (sau đổi tên là điện Thiên An) thời Lý, Trần. Đó vốn
là vị trí của núi Nùng (Long Đỗ - Rốn Rồng), được coi là tâm điểm của Cấm thành và
Hoàng thành, nơi chung đúc khí thiêng của non sông đất nước theo quan niệm phong
thuỷ cổ truyền, mà di tích hiện còn là nền điện với bậc thềm và lan can đá chạm rồng
thế kỷ 15. Thứ hai là cửa Đoan Môn, cửa Nam của Cấm thành thời Lý - Trần - Lê.
Trên vị trí này hiện nay vẫn còn di tích cửa Đoan Môn thời Lê.
Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (1799-1872), trong sách Đại Việt địa dư chí toàn biên
có đoạn mô tả khá rõ ràng về Hoàng thành Thăng Long thời Lê: “Ở giữa là Cung
thành, trong cửa Cung thành là Đoan Môn. Trong Đoan Môn là điện Thị Triều, trong
điện Thị Triều là điện Kính Thiên. Bên hữu Kính Thiên là điện Chí Kính, bên tả là
điện Vạn Thọ. Bên hữu Đoan Môn là Tây Trường An, bên tả là Đông Trường An, ở
giữa có Ngọc Giản. Trong Hoàng thành và ngoài Cung thành ở phía Đông là Thái
Miếu, sau là Đông Cung”.
Để giúp thế hệ sau và bạn bè quốc tế hiểu thêm về lịch sử Việt Nam cùng Hoàng
thành Thăng Long, đêm tour “Giải mã Hoàng thành Thăng Long” đã được tổ chức
thành công. Đây không chỉ là một sự kiện quảng bá văn hóa, du lịch mà nó còn là
cách để thế hệ sau tôn vinh, tự hào về lịch sử, văn hóa của dân tộc mình.
Trải qua thăng trầm của lịch sử, chiến tranh, thuộc địa… Kinh thành Thăng Long vẫn
nằm đó như một minh chứng trường tồn của lịch sử, về một thời huy hoàng đã qua đi
của dân tộc. Chúng ta – thế hệ con cháu phải biết bảo tồn, gìn giữ và phát huy vẻ đẹp
của Hoàng thành đến thế hệ tương lai và bạn bè quốc tế.
Dưới đây là một số nguồn tham khảo để em có thể hoàn thiện bản báo cáo của mình:
1. TTXVN (2010), Thăng Long thời Lê, thời Mạc-Lê, Trung Hưng (1428-1788), Ban Tuyên giáo Trung ương.
2. Sở Du lịch Hà Nội (2020), Khu di tích Hoàng thành Thăng Long, Cổng thông tin
điện tử Quận Ba Đình – Thành phố Hà Nội.
3. Quang Dương (2018), Hoàng thành Thăng Long – Dấu ấn văn hóa, kiến trúc độc đáo, Báo Xây dựng.
Trên đây là toàn bộ phần trình bày báo cáo của em, cảm ơn thầy, cô và các bạn đã chú ý lắng nghe.
Báo cáo kết quả nghiên cứu Lịch sử, văn hóa, xã hội và giáo dục người Chăm ở Việt Nam 1. Đặt vấn đề
Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, lịch sử vương quốc Champa đã thu hút nhiều nhà khoa
học trên thế giới nghiên cứu, công bố thành sách, tạp chí. Sau năm 1975, xuất hiện các
tác giả Việt Nam, không dừng lại ở việc tìm tòi, bổ sung thêm tư liệu mà còn khám
phá ra cái mới như lắp vào khoảng thiếu sót của các nhà nghiên cứu tiên phong chưa
làm được. Những công trình về sau đã đi vào từng mảng, lĩnh vực thuộc đời sống, văn
hóa, xã hội, lễ hội đến sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo.
2. Giải quyết vấn đề
Trước hết, là những ghi chép về Champa trong lịch sử Trung Quốc được tìm thấy
trong bộ sử Hán thư, Lương sử, Cựu Đường thư, Tân Đường thư, Tống sử… Các nhà
nghiên cứu đều dựa vào những nguồn sử liệu này để dựng lại lịch sử Lâm Ấp-Hoàn
Vương-Chiêm Thành. Những tư liệu của Trung Quốc viết về phong tục tập quán của
người Chăm xưa không có tính hệ thống, rời rạc và sơ sài, nhiều khi thiếu chính xác.
Kế đến là những nghiên cứu, khảo sát thực địa của người Pháp. Tư liệu cổ nhất của
người Châu Âu viết về người Chăm có lẽ là của một người gốc Italia tên là Marco
Polo. Ông làm quan dưới triều đại Mông-Nguyên của Hốt Tất Liệt. Năm 1298, sau
một lần được cử đi làm sứ giả ở một số nước Đông Nam Á, trong đó có Champa, ông
đã ghi chép khá tỉ mỉ về người Chăm và đời sống của họ trong cuốn Le Livre de
Marco Polo (cuốn sách của Marco Polo) (Phan Quốc Anh, 2006, tr.18). Vào thế kỉ
XIV, một số linh mục đi truyền giáo đã đến Champa. Linh mục Odoric de Pordenone
có ghi chép về phong tục, tập quán của người Chăm trong cuốn sách Những cuộc viễn
du sang châu Á xuất bản tại Paris.
Những tư liệu lịch sử của Việt Nam liên quan đến Chiêm Thành có thể tìm thấy trong
Đại Nam nhất thống chí, Đại Việt sử ký toàn thư và một số sử liệu của các triều đại
Việt Nam từ Lý-Trần đến triều Nguyễn. Nhưng những sử liệu nói trên chủ yếu nói về
việc triều cống, giao tranh, hòa hiếu (Phan Quốc Anh, 2006, tr.18). Mặc dù vậy, đó là
những ghi chép thành văn chính thống rất quan trọng để đối chiếu với ghi chép trên
văn bia của Champa. Trần Quốc Vượng chủ biên cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam (2008)
đã dành một phần nói về không gian vùng văn hóa Trung Bộ, chủ yếu đề cập về
không gian văn hóa Chăm ở khu vực này. Cuối cùng, là Trương Sỹ Hùng với tác
phẩm Tôn giáo trong đời sống văn hóa Đông Nam Á (2010), phân tích yếu tố Ấn Độ
giáo và Hồi giáo trong sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo Chăm. Từ đó, làm nổi bật lên
đặc điểm, vai trò trong sáng tác văn chương của người Chăm trong tác phẩm Deva
Mưnô, Inra Patra, Ariya Cam – Bini,… Trong tác phẩm Lịch sử Việt Nam (2004) tác
giả Huỳnh Công Bá đã dành hai chương để trình bày về quá trình giành độc lập của
Champa, phân tích những đặc điểm cơ bản về thể chế chính trị, đời sống văn hóa, xã
hội. Đặc biệt nhấn mạnh vào quá trình hội nhập của người Chăm vào cộng đồng các
dân tộc Việt Nam. Cuối cùng, Phan Thành Long chủ biên công trình Lí luận giáo dục
(2010), nội dung chính của cuốn sách trình bày về quá trình giáo dục, nguyên tắc giáo
dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và vai trò của giáo viên chủ nhiệm.
Đây là vấn đề có tính chất lí luận mà khi nghiên cứu về lĩnh vực giáo dục không thể bỏ qua. 3. Kết luận
Tóm lại, các công trình nghiên cứu về lịch sử và nền văn minh Champa được xuất bản
thành sách, báo và tạp chí rất đa dạng và phong phú, được các nhà khoa học trong và
ngoài nước nghiên cứu nhiều khía cạnh, lĩnh vực khác nhau. Nhưng chưa có công
trình khảo cứu nào đề cập đến vấn đề giáo dục của người Chăm trong lịch sử mang
tính chất hệ thống và đầy đủ. Ngay cả, hình thức học tập và sinh hoạt nội trú của học
sinh người Chăm nói riêng và các dân tộc thiểu số nói chung hiện nay cũng chưa có sự
quan tâm, chú ý nhiều từ các nhà khoa học và các nhà quản lý giáo dục. Việc tổng
luận các công trình nghiên cứu về người Chăm ở Việt Nam chưa phải là bảng thống
kê đầy đủ các tác giả cũng như tác phẩm, mà chỉ phản ánh một phần giúp độc giả có
cái nhìn tổng quát những hiểu biết về văn hóa Chăm.
Tài liệu tham khảo
1. Abd. Karim, Báo Thị Hoa (giới thiệu và trình bày). 2007. “Trường Pô Klong & Đặc
san Ước vọng”. Do International Office of Champa (IOC-Champa) xuất bản ở Paris – San Jose.
2. Đỗ Văn Tú. 1973. Vấn đề giáo dục sinh viên học sinh các sắc tộc. Sài Gòn: Bộ Phát
triển Sắc tộc ấn hành.