-
Thông tin
-
Quiz
Vành đai con đường và ảnh hưởng địa chính trị lên Trung Á sau năm 2012 | Tiểu luận Địa chính trị thế giới
Sự trỗi dậy của Trung Quốc ngày càng khiến Mỹ và các đồng minh phương Tây nhận thấy có nhiều mối đe dọa nghiêm trọng. Trong đó, vấn đề đầu tư và phát triển thương mại, cơ sở hạ tầng, được cho là nhân tố quyết định vị trí thống trị của các cường quốc trên quy mô địa chính trị toàn cầu trong thế kỷ 21. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Địa chính trị thế giới 4 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.6 K tài liệu
Vành đai con đường và ảnh hưởng địa chính trị lên Trung Á sau năm 2012 | Tiểu luận Địa chính trị thế giới
Sự trỗi dậy của Trung Quốc ngày càng khiến Mỹ và các đồng minh phương Tây nhận thấy có nhiều mối đe dọa nghiêm trọng. Trong đó, vấn đề đầu tư và phát triển thương mại, cơ sở hạ tầng, được cho là nhân tố quyết định vị trí thống trị của các cường quốc trên quy mô địa chính trị toàn cầu trong thế kỷ 21. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Địa chính trị thế giới 4 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.6 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
`
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
------------------------- TIỂU LUẬN MÔN
ĐỊA CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI
Vành đai con đường và ảnh hưởng địa chính trị
lên Trung Á sau năm 2012
Sinh viên: ĐẶNG NGỌC ANH
Mã số sinh viên: 2156050005
Lớp: K41 BÁO TRUYỀN HÌNH
Hà Nội, tháng 6 năm 2022 MỤC LỤC GIỚI THIỆU Lý do chọn đề tài NỘI DUNG
PHẦN 1: Đặc điểm Địa chính trị khu vực Trung Á 1. Khu vực Trung Á
2. Con đường tơ lụa trong quá khứ
PHẦN 2: Vành đai con đường và sự trỗi dậy của Trung Quốc
1. Vành đai con đường BRI (Belt and Road Initiative)
2. Mục tiêu của Vành đai và Con đường
3. Sự trỗi dậy của Trung Quốc 3.1. Đánh giá chung
3.2. Vấn đề nhân quyền 3.3. Ngoại giao bẫy nợ 4. Rủi ro của dự án
4.1, Các nước Trung Á phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc
4.2. Gia tăng căng thẳng Mỹ - Trung
4.3. Rủi ro với Trung Quốc
PHẦN 3: Mở rộng - Trạng thái của Việt Nam với dự án BRI KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO GIỚI THIỆU Lý do chọn đề tài
Sự trỗi dậy của Trung Quốc ngày càng khiến Mỹ và các đồng minh phương
Tây nhận thấy có nhiều mối đe dọa nghiêm trọng. Trong đó, vấn đề đầu tư và
phát triển thương mại, cơ sở hạ tầng, được cho là nhân tố quyết định vị trí thống
trị của các cường quốc trên quy mô địa chính trị toàn cầu trong thế kỷ 21.
Với tiềm lực nền kinh tế có được sau chặng đường mở cửa, đổi mới, Trung
Quốc không chỉ biến đất nước mình thành công xưởng của thế giới, hội tụ hầu
hết các nhà máy chuyên sản xuất những công cụ, sản phẩm, mà còn nhanh
chóng vươn ra các nước để chiếm lĩnh thị trường vốn được cho là thành trì kiên
cố của các cường quốc. Một trong những siêu dự án của Trung Quốc là sáng
kiến “Vành đai và con đường” (Belt and Road - BRI), được Bắc Kinh khởi động
vào 2013 - phiên bản hiện đại của “Con đường tơ lụa” xưa nối Trung Quốc với
châu Á, châu Âu (và hơn thế nữa). BRI đã thu hút hơn 100 quốc gia tham gia.
Tính đến giữa năm 2020, thông qua BRI, Trung Quốc có 2.600 dự án đầu tư với
tổng vốn khoảng 3.700 tỷ USD.
Sự trỗi dậy này là vấn đề quan trọng trong bối cảnh hiện đại, khi các nước lớn
cố kéo cán cân về phía mình nhiều hơn, quy luật quyền lực thế giới đa cực khó
còn giữ vững như trước. Ta cần xem xét và đánh giá hướng đi của một nước lớn
như Trung Quốc đối với một bước đi to lớn như dự án BRI này.
Hơn nữa, khu vực Trung Á thường ít được nói đến khi nhắc về chiến trường của
chiến tranh lạnh thời kỳ mới. Nên đây là một đề tài thú vị, thu hút chúng ta phải
dành thời gian nghiên cứu về nó. NỘI DUNG
PHẦN 1: Đặc điểm Địa chính trị khu vực Trung Á 1. Khu vực Trung Á
Trong lịch sử, Trung Á là nơi giao thoa của những con đường thương mại và
các nền văn minh lớn trên thế giới. Nơi đây với nguồn tài nguyên thiên nhiên và
vị trí địa lý đặc biệt vẫn luôn là địa bàn chiến lược để các cường quốc tranh thủ
thêm sự ủng hộ. Thực tế, trong vài thập kỷ qua, Trung Á đã trở thành khu vực
cạnh tranh địa chiến lược và địa chính trị giữa các cường quốc cũ và mới như
Nga, Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ và cả các nước châu Âu.
Lịch sử Trung Á chịu sự tác động chủ yếu của khí hậu và địa lý khu vực. Tính
chất khô cằn của khu vực này gây khó khăn cho nông nghiệp trong khi việc
không giáp biển đã hạn chế các tuyến thương mại. Vì vậy, khu vực này rất cần
sự đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng, đường sá. Một đất nước mạnh về xây dựng
như Trung Quốc sẽ bị thu hút bởi tiềm năng khu vực này. Những khó khăn kinh
tế của các nước cộng hòa Trung Á và vị trí địa lý biệt lập khiến họ dễ tiếp nhận
một cách bất thường - hoặc dễ bị tổn thương - trước các điều kiện có sẵn của Trung Quốc.
Nằm ngay giữa trung tâm châu Á, khu vực Trung Á có vị trí địa chiến lược về
kinh tế và quân sự; đồng thời là vùng đất có nguồn tài nguyên dồi dào, nhất là
dầu mỏ và khí đốt. Trung Á gồm 5 quốc gia: Turkmenistan, Kazakhstan,
Uzbekistan, Tajikistan và Kyrgyzstan trở thành một trung tâm mới diễn ra nhiều
sự kiện quan trọng với quy mô toàn cầu. Đây cũng là khu vực cạnh tranh ảnh
hưởng gay gắt giữa các nước lớn
Bản đồ địa lý khu vực Trung Á
2. Con đường tơ lụa trong quá khứ
Trong lịch sử đã từng có một Con đường tơ lụa to lớn bắt đầu từ Phúc Châu,
Hàng Châu, Bắc Kinh, Trường An (Trung Quốc) qua Mông Cổ, Ấn Độ,
Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, xung quanh vùng
Địa Trung Hải và đến tận toàn châu Âu. Con đường cũng đi đến cả Triều Tiên
và Nhật Bản (Và thậm chí là ở 2 miền Bắc-Nam Việt Nam). Nó có chiều dài
khoảng 4.000 dặm, hay là 6.437 km.
Con đường tơ lụa là một mạng lưới các tuyến đường thương mại nối Trung
Quốc và Viễn Đông với Trung Đông và châu Âu. Được thành lập khi nhà Hán ở
Trung Quốc chính thức mở cửa giao thương với phương Tây vào năm 130 trước
Công nguyên, các tuyến đường của Con đường Tơ lụa vẫn được sử dụng cho
đến năm 1453 sau Công nguyên, khi Đế chế Ottoman tẩy chay thương mại với
Trung Quốc và đóng cửa chúng. Mặc dù đã trải qua thời gian rất dài kể từ khi
Con đường Tơ lụa được sử dụng cho thương mại quốc tế, nhưng các tuyến
đường này đã có tác động lâu dài đến thương mại, văn hóa và lịch sử còn vang
dội cho đến tận ngày nay.
Không chỉ nổi tiếng với vai trò là con đường thương mại thời cổ đại, con đường
tơ lụa còn là con đường ghi dấu sự giao lưu về mặt văn hóa giữa các quốc gia
với nhau. Các giáo sĩ phương Tây cũng thông qua con đường này để có thể di
chuyển tới các quốc gia khác và truyền bá về tôn giáo của mình.
Con đường tơ lụa trong quá khứ
PHẦN 2: Vành đai con đường và sự trỗi dậy của Trung Quốc
1. Vành đai con đường BRI (Belt and Road Initiative)
Bản đồ Vành đai và con đường
Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) của Trung Quốc là một chiến lược do
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa khởi xướng nhằm kết nối châu Á với châu Phi
và châu Âu thông qua mạng lưới đường bộ và hàng hải với mục đích cải thiện
hội nhập khu vực, tăng cường thương mại và kích thích tăng trưởng kinh tế .
Cái tên này được đặt ra vào năm 2013 bởi Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình,
người lấy cảm hứng từ khái niệm Con đường Tơ lụa được thiết lập từ thời nhà
Hán cách đây 2.000 năm - một mạng lưới các tuyến thương mại cổ xưa kết nối
Trung Quốc với Địa Trung Hải qua Âu-Á trong nhiều thế kỷ. Trước đây, BRI
cũng được gọi là 'Một vành đai, một con đường'.
BRI bao gồm Vành đai Kinh tế Con đường Tơ lụa - một con đường xuyên lục
địa nối Trung Quốc với Đông Nam Á, Nam Á, Trung Á, Nga và Châu Âu bằng
đường bộ - và Con đường Tơ lụa trên biển thế kỷ 21, một tuyến đường biển nối
các vùng duyên hải của Trung Quốc với Đông Nam và Nam Á, Nam Thái Bình
Dương, Trung Đông và Đông Phi, đến tận Châu Âu.
2. Mục tiêu của Vành đai và con đường
Paulo Duarte (Đại học Autonoma de Lisboa, Lisbon) lập luận rằng BRI thể hiện
mong muốn của Trung Quốc trong việc bảo đảm hóa quyền tiếp cận năng lượng
và tài nguyên khoáng sản. Ngoài ra, BRI nhằm đạt được các mục tiêu quân sự,
chính trị và văn hóa bằng cách tăng cường năng lực của Trung Quốc trong việc
tạo ra ảnh hưởng trong khu vực và toàn cầu. Đó là một quá trình chứng khoán
hóa toàn diện, vì các tỉnh khác nhau của Trung Quốc (theo cách nói ẩn dụ là
“các bộ phận cấu thành của tổng thể”) được kêu gọi đóng góp, theo những cách
riêng lẻ, để đạt được mục tiêu cao hơn. Mục tiêu cao hơn này là một dự án bắt
đầu từ nội bộ, mở rộng ra ngoại vi của Trung Quốc, và dần dần mở rộng ra các
góc khác trên thế giới. Do đó, sự hồi sinh của các hành lang Đông-Tây nhằm
mục đích đạt được nhiều chứng khoán hóa trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
sức mạnh quân sự và quyền lực mềm.
Các mục tiêu đã nêu là "xây dựng một thị trường lớn thống nhất và tận dụng
hiệu quả cả thị trường quốc tế và thị trường trong nước, thông qua trao đổi và
hội nhập văn hóa , để tăng cường hiểu biết và tin cậy lẫn nhau của các quốc gia
thành viên, dẫn đến một mô hình đổi mới về dòng vốn, nguồn nhân tài, và cơ sở
dữ liệu công nghệ. " Sáng kiến Vành đai và Con đường giải quyết "khoảng cách
cơ sở hạ tầng" và do đó có tiềm năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trên khắp
Châu Á Thái Bình Dương , Châu Phi và Trung và Đông Âu. Một báo cáo từ Hội
đồng lương hưu thế giới (WPC)ước tính rằng châu Á, ngoại trừ Trung Quốc,
cần tới 900 tỷ USD đầu tư vào cơ sở hạ tầng mỗi năm trong thập kỷ tới, chủ yếu
vào các công cụ nợ, cao hơn 50% so với tỷ lệ chi tiêu cho cơ sở hạ tầng hiện tại.
Sự thiếu hụt về nhu cầu vốn dài hạn giải thích tại sao nhiều nguyên thủ quốc gia
châu Á và Đông Âu "vui mừng bày tỏ mong muốn được tham gia tổ chức tài
chính quốc tế mới này, chỉ tập trung vào" tài sản thực "và tăng trưởng kinh tế
dựa trên cơ sở hạ tầng".
BRI có liên quan đến một chương trình đầu tư rất lớn vào phát triển cơ sở hạ
tầng cho cảng, đường bộ, đường sắt và sân bay, cũng như các nhà máy điện và
mạng viễn thông. Sáng kiến Vành đai và Con đường hiện đề cập đến toàn bộ
khu vực địa lý của tuyến đường thương mại " Con đường Tơ lụa " lịch sử , được
sử dụng liên tục trong thời cổ đại. Phát triển đồng Nhân dân tệ như một loại tiền
tệ của giao dịch quốc tế, phát triển cơ sở hạ tầng của các nước châu Á, tăng
cường quan hệ ngoại giao trong khi giảm sự phụ thuộc vào Mỹ và tạo ra thị
trường mới cho các sản phẩm của Trung Quốc, xuất khẩu năng lực công nghiệp
dư thừa và hội nhập các nước giàu hàng hóa. thâm nhập sâu hơn vào nền kinh tế
Trung Quốc là tất cả các mục tiêu của BRI.
3. Sự trỗi dậy của Trung Quốc
Marlene Laruelle (Giám đốc, Chương trình Trung Á của GW, Washington, DC)
viết trong phần giới thiệu rằng BRI không chỉ đơn giản là tổng hợp các dự án
riêng lẻ xoay quanh ý tưởng kết nối Trung Quốc với phần còn lại của thế giới
thông qua cơ sở hạ tầng hàng hải và lục địa mới. Đúng hơn, nó là một siêu diễn
đàn trên Con đường Tơ lụa và là một biểu hiện mới của sức mạnh mềm của
Trung Quốc, về sự trỗi dậy “hòa bình” và “đa phương” của nước này.
Thông qua BRI, Trung Quốc đang và chắc chắn sẽ vẫn là nhà đầu tư lớn nhất ở
Trung Á. Đây là quốc gia duy nhất có thể huy động vốn đầu tư khổng lồ trong
khu vực, vượt xa những gì các nước phương Tây và Nga có thể cung cấp. Tuy
nhiên, sự thành công của kết nối này là tương đối: trên thực tế, một số tiền cam
kết bị thất thoát do tham nhũng và rối loạn chức năng hành chính, trong khi các
dự án không được tuân theo các tiêu chuẩn bền vững cao hơn và chủ yếu được
đánh giá dựa trên khả năng sinh lời của chúng. Ngoài ra - và đây là một vấn đề
quan trọng - có vẻ như các dự án của Trung Quốc gặp khó khăn trong việc đạt
được loại tác động kinh tế cao hơn có thể chuyển thành nhiều việc làm tại địa
phương hơn và chuyển giao kiến thức. Tuy nhiên, bất kể kết quả của nó,
Sáng kiến Vành đai và Con đường là một cách để mở rộng ảnh hưởng kinh tế và
chính trị của Trung Quốc. 3.1 Đánh giá chung
BRI về tiềm năng thúc đẩy GDP toàn cầu, đặc biệt là ở các nước đang phát
triển. Tuy nhiên, cũng có những chỉ trích về vi phạm nhân quyền và tác động
môi trường, cũng như lo ngại về ngoại giao bẫy nợ dẫn đến chủ nghĩa thực dân
mới và chủ nghĩa đế quốc kinh tế.
Người Trung Quốc tiếp tục phân biệt mình bằng cách tiếp xúc trực tiếp giữa nhà
nước với nhà nước, họ tránh hợp tác với các nhà tài trợ khác có mặt trên thực
địa, và họ có thể yên tâm rằng sự mở rộng kinh tế của họ sẽ tiếp tục không bị
xáo trộn miễn là không có nguồn tài trợ liên quan nào khác hoặc hình thức phát
triển nổi lên trong khu vực. và việc Kyrgyzstan hội nhập vào Liên minh Kinh tế
Á-Âu đã làm cho mối quan hệ của nước này với Trung Quốc và tiềm năng đầu
tư của Trung Quốc trở nên phức tạp hơn nhiều. Cuối cùng, gạt tất cả sự khác
biệt về tác nhân và diễn biến, thực tiễn đầu tư của Trung Quốc không thay đổi
kể từ khi Tập Cận Bình công bố sáng kiến Một vành đai, Một con đường.
3.2, Vấn đề nhân quyền
Theo một báo cáo của tổ chức phi chính phủ Hoa Kỳ China Labour Watch, có
những vi phạm nhân quyền trên diện rộng liên quan đến những người lao động
nhập cư Trung Quốc được đưa ra nước ngoài. Các công ty Trung Quốc bị cáo
buộc "lao động cưỡng bức" và thường tịch thu hộ chiếu của người lao động khi
họ đến nước khác, bắt họ xin thị thực kinh doanh bất hợp pháp và đe dọa sẽ báo
cáo tình trạng bất hợp pháp của họ nếu họ từ chối tuân thủ, từ chối chăm sóc y
tế đầy đủ và nghỉ ngơi, hạn chế quyền tự do cá nhân và quyền tự do ngôn luận
của người lao động, buộc người lao động làm việc quá sức, hủy bỏ kỳ nghỉ,
chậm trả lương, đăng quảng cáo và hứa hẹn lừa dối, người lao động cam kết với
số tiền thiệt hại cao nếu họ có ý định nghỉ việc, làm việc và sinh hoạt tồi tệ điều
kiện, trừng phạt những người lao động dẫn đầu các cuộc biểu tình,
3.3, Ngoại giao bẫy nợ
Những cáo buộc của chủ nghĩa tân đế quốc và chính sách ngoại giao bẫy nợ
Trung Quốc cho rằng sáng kiến này đã cung cấp thị trường cho hàng hóa, cải
thiện giá cả tài nguyên và do đó giảm bất bình đẳng trong trao đổi, cải thiện cơ
sở hạ tầng, tạo việc làm, kích thích công nghiệp hóa và mở rộng chuyển giao
công nghệ , do đó mang lại lợi ích cho các nước sở tại.
Đã có lo ngại về dự án là một hình thức của chủ nghĩa thực dân mới . Một số
chính phủ đã cáo buộc Sáng kiến Vành đai và Con đường là mang tính chất thực
dân mới do những gì họ cáo buộc là hoạt động ngoại giao bẫy nợ của Trung
Quốc để tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng của sáng kiến
Trung Quốc cho rằng sáng kiến này đã cung cấp thị trường cho hàng hóa, cải
thiện giá cả tài nguyên và do đó giảm bất bình đẳng trong trao đổi, cải thiện cơ
sở hạ tầng, tạo việc làm, kích thích công nghiệp hóa và mở rộng chuyển giao
công nghệ , do đó mang lại lợi ích cho các nước sở tại.
Tổng thống Tanzania John Magufuli nói rằng các thỏa thuận cho vay của các dự
án BRI ở nước ông là "bóc lột và khó xử." Ông cho biết các nhà tài chính Trung
Quốc đặt ra "những điều kiện khó khăn mà chỉ những người điên mới có thể
chấp nhận", bởi vì chính phủ của ông đã được yêu cầu cung cấp cho họ bảo lãnh
33 năm và hợp đồng thuê dài hạn 99 năm đối với việc xây dựng cảng. Magufuli
cho biết các nhà thầu Trung Quốc muốn lấy đất làm của riêng họ nhưng chính
phủ của ông phải bồi thường cho họ vì đã khoan xây dựng dự án.
Chiến thuật cắt giảm chủ quyền của Trung Quốc làm loãng chủ quyền của các
quốc gia mục tiêu chủ yếu sử dụng bẫy nợ. Một ví dụ được đưa ra là Bắc Kinh
gây sức ép buộc Tajikistan phải bàn giao 1.158 km2 lãnh thổ, quốc gia vẫn còn
nợ Trung Quốc 1,2 tỷ USD trong tổng số 2,9 tỷ USD nợ. Các quốc gia khác có
nguy cơ bị chia cắt chủ quyền tương tự là Pakistan, Madagascar, Mông Cổ,
Maldives, Kyrgyzstan, Montenegro, Sri Lanka và Lào đã vay một khoản tiền lớn từ Trung Quốc.
“Ngoại giao bẫy nợ” là một thuật ngữ trong tài chính quốc tế mô tả một quốc
gia hoặc tổ chức chủ nợ mở rộng khoản nợ cho một quốc gia đi vay một phần
hoặc chỉ để tăng đòn bẩy chính trị của bên cho vay.
Chính sách phát triển ở nước ngoài của chính phủ Trung Quốc được gọi là ngoại
giao bẫy nợ vì nếu một quốc gia mắc nợ không thực hiện được các khoản vay
của mình, thì quốc gia đó sẽ dễ bị áp lực từ Trung Quốc để hỗ trợ các lợi ích địa
chiến lược của mình. Theo Brahma Chellaney, "Đó rõ ràng là một phần trong
tầm nhìn địa chiến lược của Trung Quốc".
Các hãng truyền thông phương Tây, Ấn Độ ,và châu Phi đã chỉ trích các điều
khoản của các khoản vay nhà nước Trung Quốc và lãi suất cao của họ.
Theo một số nhà phân tích, những cách làm như vậy làm nổi bật ý đồ bá quyền
của Trung Quốc và những thách thức của nó đối với chủ quyền quốc gia.
4. Rủi ro của dự án
Một phát ngôn viên của Bộ Thương mại Trung Quốc vào tháng 4 năm 2017 đã
lưu ý rằng kể từ năm 2013, năm mà Chủ tịch Tập Cận Bình công bố Vành đai
Kinh tế Con đường Tơ lụa trên bộ (SREB) tại Đại học Nazarbayev, các hợp
đồng trị giá 304,9 tỷ USD đã được ký kết giữa Trung Quốc và các nền kinh tế dọc theo tuyến đường.
Sarah Lain (Royal United Services Institute, London) viết rằng “kết nối” là từ
thông dụng của BRI. Ban lãnh đạo Trung Quốc liên kết rõ ràng kết nối với phát
triển kinh tế và mở rộng, an ninh và ổn định.
Nhưng cũng có những rủi ro do kết nối quá mức với Trung Quốc?
4.1, Các nước Trung Á phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc
Để BRI thành công theo cách mà Trung Quốc đề xuất, nó phải vừa kích thích
ngành công nghiệp chuyển giao thương mại sang Trung Quốc nhiều hơn vừa
cho phép đa dạng hóa thương mại ra khỏi Trung Quốc. Việc phụ thuộc quá
nhiều vào Trung Quốc với tư cách là một thị trường và nhà đầu tư nước ngoài
tạo ra những rủi ro đáng kể mà các quốc gia Trung Á đã nhận thức được, một số
quốc gia này nhiều hơn những quốc gia khác.
Ví dụ: Việc phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc với tư cách là người mua hàng
hóa là một rủi ro đặc biệt. Turkmenistan hiện đang cảm thấy áp lực: Trung Quốc
là nhà nhập khẩu khí đốt nước ngoài duy nhất của Turkmen kể từ khi Nga
ngừng nhập khẩu khí đốt từ Turkmenistan vào năm 2016.
Viện trợ của Trung Quốc thường nằm giữa các khoản cho vay phát triển và đầu
tư nước ngoài, đặc biệt khi viện trợ cung cấp khả năng tiếp cận các nguồn tài
nguyên thiên nhiên hoặc các gói hợp đồng ở các nước nhận viện trợ. Do đó,
viện trợ của Trung Quốc khác với các viện trợ tương đương của phương Tây về
cả nội dung và tiêu chuẩn thực hiện viện trợ.
Sự trợ giúp của Trung Quốc thường bao gồm các gói kết hợp viện trợ, các
khoản vay ưu đãi, các hiệp định thương mại và các thỏa thuận đầu tư; những gói
này thường bao gồm một số loại yêu cầu của Trung Quốc hoặc điều kiện ngầm
định. Các điều kiện hoặc được đưa vào các yêu cầu tài trợ dự án của Trung
Quốc hoặc được thể hiện dưới dạng “điểm mấu chốt” chính trị rộng rãi cho các
mối quan hệ ngoại giao, chẳng hạn như toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc và
các lĩnh vực khác mà Bắc Kinh coi là “lợi ích cốt lõi”. Trước hết, các nước tiếp
nhận dự kiến sẽ ủng hộ chính sách Một Trung Quốc và khẳng định rằng Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa là chính phủ hợp pháp của tất cả Trung Quốc.
Nhìn chung, mối quan hệ Trung Quốc - Trung Á hiện tại tương đồng với hệ
thống kinh tế của Liên Xô, nơi các nước cộng hòa phía Nam chủ yếu cung cấp
nguồn năng lượng và nguyên liệu thô cho các khu vực công nghiệp hóa hơn của
Liên Xô. Ngày nay, Trung Quốc, giống như Liên Xô, chủ yếu quan tâm đến việc
nhập khẩu nguyên liệu thô, năng lượng và tài nguyên khai thác từ khu vực và
xuất khẩu thành phẩm của mình sang Trung Á. Do đó, chính sách cho vay của
Trung Quốc phù hợp với định nghĩa về “viện trợ săn mồi” được đưa ra trong
phần mở đầu của chương.
Sự thành công của dự án SREB (Silk Road Economic Belt) của Trung Quốc
cũng có thể đặt ra một thách thức nữa đối với khả năng cạnh tranh của hàng
xuất khẩu Trung Á. Nếu phát triển kinh tế ở Tân Cương thành công, các quốc
gia Trung Á có thể thấy mình phải cạnh tranh với Tân Cương để bán sản phẩm
của họ sang miền đông Trung Quốc. Mối đe dọa này đặc biệt nghiêm trọng vì
Tân Cương đang tìm cách phát triển các ngành công nghiệp khoáng sản, năng
lượng, thực phẩm và dệt may, tất cả đều là những ngành then chốt của các quốc gia Trung Á.
Hơn nữa, bản thân khu vực này đã có mối đe dọa tiềm tàng về chính trị, quân
sự,.. nên khi xuất hiện một nhân tố mới với những ảnh hưởng và lập trường theo
các nước lớn như Trung, Nga, Mỹ,.. sẽ càng làm tình hình chính trị ở đây thêm
rắc rối và bất ổn. Ví dụ, những bất ổn chính trị gần đây hiện có hàng loạt cuộc
biểu tình ở Kazakhstan hay Tranh chấp chủ quyền giữa Uzbekistan, Kyrgyzstan, Tajikistan
4.2. Gia tăng căng thẳng Mỹ - Trung
Trái tim Á-Âu có thể xuất hiện, từng chút một, từ sự cô lập của nó, ảnh hưởng
đến vị thế tương lai của Hoa Kỳ trong một thế giới nơi nhiều người sẽ đi qua
Âu-Á bằng đường sắt hơn là bay qua Đại Tây Dương đến Mỹ.
Mỹ rõ ràng đã nhận ra thách thức lớn từ BRI cũng như nhu cầu cấp bách phải
chống lại siêu dự án thế kỷ của Trung Quốc. Sau hơn 100 ngày nắm quyền lãnh
đạo nước Mỹ, Tổng thống Joe Biden đã có hàng loạt biện pháp cụ thể nhằm vào
Bắc Kinh từ an ninh - quân sự, đến ngoại giao, kinh tế... Nhà Trắng đã trình và
được Quốc hội thông qua các gói tài chính quy mô lớn lên đến hàng chục ngàn
tỷ USD vừa phòng, chống Covid-19, cải thiện đời sống người dân, vừa gia tăng
xây dựng cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật, tiềm lực quân sự cũng như nâng tầm
ảnh hưởng tại nhiều quốc gia... Đồng thời, ông Biden cũng gia tăng hợp tác với
các đồng minh chủ chốt, nhất là quan hệ chiến lược giữa hai bờ Đại Tây Dương
để chống lại tầm ảnh hưởng của BRI.
Điển hình, hội nghị thượng đỉnh nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng
đầu thế giới (G7) vừa diễn ra tại Anh từ ngày 11 đến 13-6 đã đưa ra sáng kiến
“Xây dựng lại thế giới tốt đẹp hơn” (B3W) nhằm giúp các nước nghèo và phát
triển trung bình dễ dàng tiếp cận nguồn vốn để đầu tư xây dựng hạ tầng, phát
triển kinh tế - xã hội. G7 muốn chứng tỏ với thế giới rằng họ có thể thay thế cho
ảnh hưởng của Trung Quốc. B3W được kỳ vọng sẽ tạo ra sự tương phản với Bắc
Kinh, đồng thời phản ánh các giá trị, tiêu chuẩn và cách thức kinh doanh của
phương Tây. “Đây không chỉ là đối đầu hay cạnh tranh với Trung Quốc”, một
quan chức Mỹ nói với Reuters.
Hao Tian (Đại học Georgetown, Washington, DC) xem xét các cơ chế phân bổ
và nhận viện trợ nước ngoài của Trung Quốc.
Alexander Wolters (Học viện OSCE, Bishkek) lưu ý rằng trong khi một số nhà
phân tích cho rằng BRI được thiết kế như một cách để các bên liên quan đưa ra
yêu sách và xây dựng tính hợp pháp, tầm nhìn này đã bị đảo lộn trên thực tế.
Trung Quốc đang tiến tới không bị cản trở về vị trí bá chủ kinh tế và chính trị như có thể mong đợi.
Trường hợp của Tajikistan và Kyrgyzstan cung cấp các ví dụ khác nhau về cách
thức mà sáng kiến BRI của Trung Quốc đang được nhà nước và xã hội trình bày
và thảo luận. Họ cũng thể hiện sự khác biệt trong cách các quan chức đưa ra yêu
cầu với BRI để kêu gọi hoặc hợp pháp hóa hành động. Ở Tajikistan, nhà nước
chỉ đơn giản áp đặt một câu chuyện gần như hoan nghênh sự phụ thuộc đang nổi
lên vào đầu tư của Trung Quốc. Trong khi đó, tại Kyrgyzstan, thương lượng
không chính thức dẫn đến những nỗ lực không có kết quả nhằm đạt được nhiều
đầu tư hơn, khiến các chuyên gia kêu gọi hành động phối hợp hơn đối với các
cơ hội của Trung Quốc. Và trong khi Tajikistan nhận thấy dòng vốn đầu tư lớn
của Trung Quốc vào tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, đến mức tiền của Trung
Quốc có vẻ được tài trợ cho việc xây dựng toàn bộ các thành phố, thì sự phụ
thuộc của Kyrgyzstan ít rõ rệt hơn và nhiều tranh cãi hơn. Tập hợp các diễn viên
tham gia, những tranh cãi công khai liên quan đến đầu tư của Trung Quốc và
việc Kyrgyzstan hội nhập vào Liên minh Kinh tế Á-Âu đã khiến mối quan hệ
của nước này với Trung Quốc và tiềm năng đầu tư của Trung Quốc trở nên phức
tạp hơn nhiều. Cuối cùng, gạt tất cả sự khác biệt về tác nhân và diễn biến, thực
tiễn đầu tư của Trung Quốc không thay đổi kể từ khi Tập Cận Bình công bố
sáng kiến Một vành đai, Một con đường.
Madina Bizhanova (Đại học Georgetown, Washington, DC) lưu ý rằng trong khi
bang Kazakhstan đang trông đợi vào dòng phí quá cảnh, những đóng góp của
Trung Quốc trong việc cải thiện cơ sở hạ tầng giao thông và dòng vốn đầu tư
chung của Trung Quốc vào nền kinh tế quốc gia, thì chính phủ dường như
không có một chiến lược rõ ràng về việc sử dụng SREB để phát triển các lĩnh
vực phi năng lượng của mình. Bà đề xuất một cách tiếp cận khả thi: tập trung
vào xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp theo các tuyến đường do SREB phát
triển và đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông ở các vùng nông thôn xung quanh
các thành phố lớn của Kazakhstan.
Kể từ giữa những năm 2000, Kazakhstan đã trở thành nước nhập khẩu ròng các
sản phẩm nông sản, ngay cả những mặt hàng cơ bản nhất, dẫn đến lo ngại rằng
Kazakhstan ngày càng không có khả năng đảm bảo an ninh lương thực của chính mình.
Vào tháng 5/2016, Gulmira Isayeva, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Kazakhstan,
thông báo rằng các công ty Trung Quốc đang đàm phán để đầu tư 1,9 tỷ USD
vào 19 dự án nông nghiệp như một phần của BRI, mặc dù thông báo nhấn mạnh
rằng các công ty Trung Quốc sẽ không được phép sở hữu đất của Kazakhstan.
Gần đây hơn, vào ngày 11 tháng 7 năm 2017, Kazakhstan và Trung Quốc đã ký
bảy thỏa thuận với tổng trị giá 160 triệu USD tại Diễn đàn Đầu tư Nông nghiệp
Kazakhstan-Trung Quốc ở Astana.
Những khó khăn kinh tế của các nước cộng hòa Trung Á và vị trí địa lý biệt lập
khiến họ dễ tiếp nhận một cách bất thường — hoặc dễ bị tổn thương — trước
các điều kiện có sẵn của Trung Quốc. Năm 2006, Trung Quốc đề xuất cung cấp
cho Kyrgyzstan 1,2 tỷ USD tín dụng ưu đãi để xây dựng một tuyến đường sắt
nhằm đổi lại khả năng tiếp cận các nguồn tài nguyên khoáng sản. Và vào năm
2009, Trung Quốc đã cung cấp 4 tỷ USD cho Turkmenistan để đổi lấy quyền
khai thác Nam Yolotan, một trong những mỏ khí đốt tự nhiên lớn nhất thế giới,
nằm gần biên giới với Afghanistan. Khoản vay, một phần của thỏa thuận 30
năm, cung cấp cho Trung Quốc khoảng 40 tỷ mét khối khí đốt mỗi năm.
4.3, Rủi ro với Trung Quốc
Rất khó để Trung Quốc được hoàn trả khoản cho vay vì các nước Trung Á vốn
dĩ có nhiều bất ổn, rủi ro là rất cao, nếu các nước vay nợ không đủ khả năng
gồng gánh khoản nợ đó, cũng như những vùng đất thuế chấp không có nhiều
giá trị nếu như tranh chấp xảy ra tại khu vực.
PHẦN 3: Mở rộng - Trạng thái của Việt Nam với dự án BRI
Việt Nam nổi tiếng tránh né Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI), nhưng lại
nhận hơn 16,3 tỷ USD tiền tài trợ dự án của Trung Quốc từ năm 2000-2017.
Một báo cáo mới về các chương trình hỗ trợ kinh tế của Trung Quốc cho thấy
gánh nặng tới từ những khoản nợ mà Việt Nam đã vay từ Trung Quốc gia tăng
và vượt xa những gì mà người ta thường nghĩ. Điều này tạo ra rủi ro chính trị và
tác động đến chính sách tiềm năng của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc,
vốn đã dễ bị bắt nạt và đe dọa.
Số tiền các nước nợ Trung Quốc là rất lớn. Tình hình của Việt Nam đặc biệt
nghiêm trọng vì nước này đứng thứ 8 trong số các quốc gia nhận nhiều Dòng
Tín dụng Chính thức khác (Official Other Flows – OOF) của Trung Quốc nhất
trong giai đoạn năm 2000-20017. Mặc dù vậy, Việt Nam từ lâu đã nghi ngờ về
BRI nên cho đến nay Việt Nam chưa có dự án cơ sở hạ tầng mới nào chính thức nằm trong khuôn khổ BRI.
BRI có tiềm năng giúp Việt Nam giải tỏa cơn khát vốn, và Hà Nội đã công khai
tán thành. Tháng 11/2015, hai bên đã đồng ý mở rộng trao đổi thương mại song
phương, đặc biệt là thương mại xuyên biên giới, khi miền Bắc Việt Nam trở
thành một phần trong chuỗi cung ứng của Trung Quốc. Hai nước đã đồng ý thúc
đẩy các thiết chế như BRI của Trung Quốc và chiến lược phát triển Hai Hành
lang và Một Vành đai Kinh tế năm 2004 của Việt Nam, nhưng không liên kết
hai thiết chế này với nhau. Vào tháng 11/2017, Việt Nam và Trung Quốc đã ký
Biên bản Ghi nhớ (MOU) về việc đồng thực hiện đại dự án BRI của Trung
Quốc và Hai hành lang – Một Vành đai Kinh tế của Việt Nam, bên cạnh đó là
việc thành lập nhóm công tác về hợp tác cơ sở hạ tầng và nhóm công tác về hợp
tác tài chính tiền tệ. Lãnh đạo cao nhất của Việt Nam đã tham dự cả hai diễn đàn BRI vào năm 2017 và 2019.
Theo báo cáo của AidData, Việt Nam là quốc gia chậm đứng thứ 5 trong việc
hoàn thành các dự án do Trung Quốc tài trợ, với trung bình 1783 ngày (4,9 năm)
cho mỗi dự án. Trong số 10 quốc gia có các dự án cơ sở hạ tầng BRI được công
khai liên quan đến “các vụ bê bối, tranh cãi hoặc cáo buộc vi phạm”, Việt Nam
đứng thứ 4, với 5 dự án trị giá 2,75 tỷ USD. Điều này rất đáng báo động.
Vậy tại sao Hà Nội tiếp tục tìm kiếm các khoản vay của Trung Quốc? Một phần
đó là sự tính toán chính trị, hy vọng rằng mối quan hệ chặt chẽ hơn với Trung
Quốc sẽ hạn chế sự uy hiếp và gây hấn của Bắc Kinh.
Chính quyền Hà Nội không bày tỏ bất kỳ sự lo lắng nào về việc bị mắc vào
“bẫy nợ” với Trung Quốc. Những gánh nợ vẫn có thể kiểm soát được cộng với
nền kinh tế đang phát triển đủ mạnh để trả các khoản nợ. Không giống như Lào,
Việt Nam có rất nhiều nguồn vốn.
Nhưng các mối bận tâm của Việt Nam được chứng thực rõ ràng. Hà Nội đã hạn
chế các khoản nợ có chủ quyền của mình đối với Trung Quốc. Hà Nội khuyến
khích các cam kết không có chủ quyền, thông qua các ngân hàng thương mại,
doanh nghiệp nhà nước, và thậm chí các công ty tư nhân nhằm giảm thiểu rủi ro chính trị.
Chừng nào Việt nam còn trả được các khoản vay cho Trung Quốc, dù là với lãi
suất cực cao, thì khi ấy người cho vay sẽ chưa đến gõ cửa. Nhưng nếu và khi
điều đó mà đến, thì giới lãnh đạo Hà Nội sẽ phải đối mặt với phản ứng dữ dội từ
những công dân mang nặng chủ nghĩa dân tộc, những người có mức độ nghi
ngờ Trung Quốc rất cao. Đó mới chính là rủi ro chính trị thật sự của Hà Nội nói
chung và Việt Nam nói riêng.