Về chi viện Miền Bắc | Trường Đại học Kinh tế – Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Thực hiện Nghị quyết 15 của Đảng và sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, miền Bắc đã mở đường chi viện cách mạng miền Nam. Dương vận tải trên bộ mang tên đường 559, trên biển mang tên đường 759. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Lý luận nhà nước và pháp luật (llnnvpl)
Trường: Trường Đại học Kinh Tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45650915 3. Về chi viện:
Miền Bắc đã hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam:
Giai đoạn 1954 - 1965
Thực hiện Nghị quyết 15 của Đảng và sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
miền Bắc đã mở đường chi viện cách mạng miền Nam. Dương vận tải trên bộ mang
tên đường 559, trên biển mang tên đường 759. Đường vận tải Hồ Chí Minh trên bộ
hình thành từ ngày 19/5/1959 đường Hồ Chí Minh trên biển từ ngày 23/10/1961 kéo
dài hàng ngàn kilômét từ Bắc vào Nam cả trên bộ và trên biển. Các tỉnh miền Bắc
đã chủ động kết nghĩa với các tỉnh miền Nam để phối hợp đấu tranh cách mạng vì
mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Trong những năm thực hiện Kế hoạch nhà nước là năng lần thứ nhất (1961 –
1965), miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã không ngừng tăng cường chi viện cho cách
mạng miền Nam. Tuy đường hành quân và vận tải theo dãy Trường Sơn còn nhiều
khó khăn do địch đánh phủ và địa hình hiểm trở, nhưng đã trở thành tuyến đường
chiến lược huyết mạch nối hậu phương với chiến trưởng, liên tục có các đoàn cán
bộ, chiến sĩ cùng vũ khí đạn được chi viện cho cách mạng miền Nam. Đường vận tải
trên biển mặc dù bị sự ngăn chặn của quân thù và thời tiết hiểm nguy, song đã có
nhiều chuyển "tàu không xổ" chở hàng chục tấn vũ khí từ miền Bắc vào các căn cứ
ven biển Phú Yên. Bà Rịa. Cà Mau,... cung cấp cho bộ đội. du kích chiến đấu. Tính
chung, năm 1965, số bộ đôi từ miền Bắc được đưa vào miền Nam tăng 9 lần, số vật
chất tăng 10 lần so với năm 1961. Đây là một thành công lớn. có ý nghĩa chiến lược
của hậu phương miền Bắc với nhiều sự hy sinh anh dũng của cán bộ chiến sĩ Quân
đội nhân dân Việt Nam trên Biển Đông và dãy Trường Sơn huyền thoại góp phần lOMoAR cPSD| 45650915
vào chiến thắng của quân dân miền Nam đánh bại chiến tranh xâm lược thực dân
mới của đế quốc Mỹ và tay sai giai đoạn 1961 – 1965.
Sự chi viện của miền Bắc trong thời gian này là nhân tố quyết định đến thắng
lợi của nhân dân miền Nam đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ.
Giai đoạn 1965 – 1975
Mười năm (1965-1975) là thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước diễn
ra ác liệt. Cùng với đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam, đế quốc Mỹ đã
phát động chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc hòng
chặn đứng sự chi viện của miền Bắc. Trước tình hình đó, tại Hội nghị trung ương 12
khóa III (12/1965) tiếp tục khẳng định: “Miền Nam là tiền tuyến lớn, là chiến trường
chính hiện nay. Miền Bắc là hậu phương lớn của miền Nam… ”. Thực hiện chủ
trương của Đảng, mặc dù bị tàn phá của gần 8 triệu tấn bom của Mỹ, miền Bắc vẫn
vừa sản xuất vừa chiến đấu, sự tăng viện cho cách mạng miền Nam không hề giảm
sút mà còn bảo đảm cho tiền tuyến đánh thắng hai cuộc phản công mùa khô của Mỹ
và thực hiện cuộc tổng tiến công 1968.
Khắp nơi trên miền Bắc, các phong trào thi đua yêu nước được phát động rộng
rãi, sôi nổi và liên tục: phong trào “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”...
Hàng triệu thanh niên nam nữ tình nguyện gia nhập lực lượng vũ trang, hàng triệu
người đăng ký đi đầu trên các mặt trận sản xuất và chiến đấu. Cả miền Bắc hành
động theo tinh thần “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, ngày
đêm dồn sức cho miền Nam đánh Mỹ “Thời kỳ này, quá nửa lực lượng và gần 80%
vũ khí, đạn dược, phương tiện kỹ thuật sữ dụng trên chiến trường miền Nam do
Đảng, Nhà Nước ta động viên từ hậu phương miền Bắc đưa vào. Từ năm 1965 đến
năm 1968, có 888.641 thanh niên miền Bắc gia nhập lực lượng vũ trang trong đó có
khoảng 336.914 người hành quân vào Nam chiến đấu”. lOMoAR cPSD| 45650915
Sau tháng 11/ 1968, cuộc chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh” ngày càng đòi hỏi sự chi viện to lớn của miền Bắc. Tranh thủ thuận lợi không
còn chiến tranh phá hoại, miền Bắc tích cực khôi phục và phát triển tăng cường chi
viện cho cách mạng miền Nam.
Năm 1969, khối lượng hàng vận tải vào chiến trường qua tuyến 559 là 170.000
tấn. Cũng trong năm này, hơn 80.000 quân từ miền Bắc hành quân vượt Trường Sơn
vào bổ sung cho chiến trường toàn miền Nam. Trong năm 1970 và 1971, hậu phương
miền Bắc đã gởi vào chiến trường miền Nam 195.000 quân, trong đó, có nhiều cán
bộ chiến sĩ thuộc các binh chủng kỹ thuật được tăng cường nhằm góp một phần quyết
định làm xoay chuyển cục diện chiến tranh.
Hệ thống đường ống dẫn xăng dầu từ miền Bắc vào miền Nam năm 1970 là 500
km đến cuối năm 1971 đã phát triển lên gần 1000km. Nhờ có tuyến đường ống đó,
trong mùa khô 1970-1971, khối lượng xăng dầu vận chuyển vào Nam tăng gấp 10
lần mùa khô 1969-1970. Việc vận chuyển cơ giới cũng được đẩy mạnh, năm 1969 là
2 vạn tấn và năm 1971 đạt 6 vạn tấn. Lực lượng vật chất đó có ý nghĩa to lớn đối với
cuộc tiến công chiến lược năm 1972.
Từ ngày 6/4/1972, miền Bắc phải đối đầu với chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của
đế quốc Mỹ, đỉnh cao nhất là cuộc tập kích chiến lược 12 ngày đêm bằng B52 của
Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng. Trong thử thách nặng nề đó, miền Bắc vẫn không ngừng
đưa người và của vào miền Nam.
Sau khi hiệp định Pari được ký kết (27/1/1973), từ thực tế chiến trường, Hội
nghị trung ương 21 (tháng 7/1973) xác định con đường tất yếu vẫn là sử dụng bạo
lực cách mạng để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Để đi đến thắng lợi
hoàn toàn, yêu cầu chi viện cho các chiến trường ở miền Nam càng lớn. Theo Nghị
quyết 21, những năm 1973-1974, miền Bắc bước đầu đã khôi phục được kinh tế lOMoAR cPSD| 45650915
trong điều kiện chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, sự chi viện sức người, sức của
cho cách mạng miền Nam cũng gia tăng. Tính riêng 2 năm 1973-1974, có 253.691
quân miền Bắc tăng cường cho miền Nam; 15000 nhân viên kỹ thuật, thợ sữa chữa
được đưa vào chiến trường miền Nam để làm việc trong 200 trạm sữa chữa xe, máy.
Từ cuối năm 1973, hơn 30.000 cán bộ, chiến sĩ, công nhân thanh niên xung phong
được điều vào Trường Sơn tham gia mở đường. Hệ thống tuyến đường chiến lược
Trường Sơn cả phía Tây lẫn phía Đông không ngừng được nâng cấp và mở rộng với
tổng chiều dài lên tới 16.700 km. Hệ thống đường dẫn xăng dầu từ hậu phương miền
Bắc đã vươn tới tận miền Đông Nam Bộ dài 1.311 km. Đó là sức mạnh tổng hợp của
cả nước, của hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam.
Trong cuộc Tổng tiến công chiến lược làm nên Đại thắng mùa xuân năm 1975,
giải phóng hoàn toàn miền Nam, sự chi viện sức người sức của ở miền Bắc đã lên
mức cao nhất. Bộ Chính trị đã xác định: Để đảm bảo giành toàn thắng cho trận quyết
chiến lịch sử này, cần động viên lực lượng cả nước, đáp ứng mọi yêu cầu cho các
chiến trường trọng điểm. Trước sự nổ lực của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, chỉ
trong tháng 1/1975, miền Bắc đã huy động được 57.000 cán bộ, chiến sĩ, 26 vạn tấn
vật chất đưa vào chiến trường miền Nam. Sức người, sức của to lớn kể trên đã có ý
nghĩa quyết định trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Kết luận: Sức mạnh của miền Bắc chi viện sức người sức của đối với miền Nam
là sức mạnh của khát vọng độc lập, dân tộc và thống nhất Tổ quốc. Đó là khát vọng
thiêng liêng của mọi người Việt Nam, dù trực tiếp chiến đấu ở miền Nam hay vừa
sản xuất vừa chiến đấu xây dựng và bảo vệ miền Bắc. Cùng với nhân dân miền Nam,
nhân dân miền Bắc ghi nhớ và quyết tâm thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, không có gì quý hơn độc
lập, tự do. Vì thế mọi người dân miền Bắc đều ý thức đầy đủ trách nhiệm đối với lOMoAR cPSD| 45650915
tiền tuyến lớn miền Nam. Khẩu hiệu hành động là tất cả vì miền Nam ruột thịt, sẵn
sàng chi viện và chia lửa với miền Nam. Tình cảm đối với miền Nam là tình cảm cao
đẹp, thiêng liêng và đã trở thành sức mạnh vật chất to lớn, góp phần làm nên chiến
thắng vĩ đại của cả dân tộc.