Viết bài văn kể về một sự việc có thật liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử | Văn mẫu lớp 7 Chân trời sáng tạo

Tài liệu Viết bài văn kể về một sự việc có thật liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử. Tài liệu bao gồm 3 dàn ý và 22 bài văn mẫu. Các bạn học sinh có thể tham khảo thêm Đóng vai nhạc sĩ Văn Cao kể lại sự ra đời của bài hát Tiến quân ca.

Văn mẫu lp 7
Viết bài văn kể v mt s vic có tht liên quan đến nhân vt hoc
s kin lch s
Dàn ý k v mt s vic có tht
Dàn ý s 1
1. M bài
Nếu được s vic có thật liên quan đến nhân vt hoc s kin lch s mà văn
bn s thut li.
Nêu lí do hay hoàn cnh người viết thu thập tư liệu liên quan.
2. Thân bài
a. Gi li bi cnh, câu chuyn, du tích liên quan đến nhân vt/s kin.
Câu chuyn, huyn thoi liên quan.
Du tích liên quan.
b. Thut li ni dung, din biến ca s vic có thật liên quan đến nhân vt/s kin
lch s.
Bắt đầu - din biến - kết thúc.
S dụng được mt s bng chứng (tư liệu, trích dẫn… ), kết hp k chuyn,
miêu t.
c. Ý nghĩa, tác động ca s việc đối với đời sng hoặc đối vi nhn thc v nhân
vt/s kin.
3. Kết bài
Khẳng định ý nghĩa của s vic hoc nêu cm nhn của người viết v s vic.
Dàn ý s 2
1. M bài
Nêu được s vic có thật liên quan đến nhân vt hoc s kin lch s mà em s
thut li trong bài viết.
Ch ra do hoc hoàn cảnh người viết thu thập liệu liên quan đến nhân vt
hoc s kin lch s đó.
2. Thân bài
a. Gi li bi cnh, câu chuyn, dấu tích liên quan đến nhân vt/s kiện được nhc
đến:
Không gian, thi gian xy ra câu chuyn.
Dấu tích liên quan đến nhân vt hoc s kin lch s đưc nói đến.
b. Thut li ni dung, din biến ca s vic thật liên quan đến nhân vt/s kin
lch s:
Bắt đầu - din biến - kết thúc.
S dụng được mt s bng chứng (tư liệu, trích dẫn… ), kết hp k chuyn,
miêu t.
c. Vai trò, ý nghĩa hoặc tm ảnh hưởng ca s việc đối với đời sng hoặc đối vi
nhn thc v nhân vt hoc s kin lch s.
3. Kết bài
Khẳng định ý nghĩa của s vic hoc nêu cm nhn của người viết v s vic hoc
nhân vt lch s.
Dàn ý s 3
1. M bài
Gii thiu nhân vt và s kiện liên quan đến nhân vt/s kin lch s.
2. Thân bài
Thut li quá trình din biến ca s vic, ch ra mi liên quan gia s vic vi
nhân vt/s kin lch s, kết hp k chuyn vi miêu t.
3. Kết bài
Khẳng định ý nghĩa của s vic, nêu cm nhn của người viết.
Viết bài văn kể li s vic có thật liên quan đến mt nhân vt lch s
Bài văn mẫu s 1
Ch tch H Chí Minh v nh t kính yêu ca n tc Vit Nam. Cuộc đời ca
ngưi mt tấm gương sáng ngi cho mỗi người dân Vit Nam noi theo.
nhng câu chuyn v Người cũng luôn để li bài hc giá tr cho chúng ta.
Truyn k rng trong những năm tháng sng Vit Bc, mi lần đi ng tác, Bác
đều có hai đồng cđi cùng. Sợ Bác mệt, hai đồng chí đã bày tỏ ý mun mang ba
lô giúp Bác. Nhưng Bác không đồng ý. Bác nói:
- Đi đường rng, leo núi ai mà chng mt, tập trung đồ vt cho một người mang đi
thì người đó càng chóng mt. C phân đều ra cho c ba người.
Hai đồng chí đành làm theo lời Bác, đem chia vật dng vào ba chiếc ba lô. Bác hi
li:
- Các chú đã chia đều ri ch?
Hai đồng chí tr li:
- Thưa Bác, rồi !
Sau đó, cả ba cùng lên đưng. Qua mt chng, lúc nghỉ, Bác đến ch các đồng chí
và xách chiếc ba lô lên. Bác hi:
- Ti sao ba lô ca các chú nng mà ca Bác li nh?
Bác lin m ra xem thì thy bên trong ba lô ca mình ch có chăn màn.
Bác t ra không hài lòng, ri nói:
- Ch có lao động tht s mới đem lại hạnh phúc cho con người.
Sau đó, Bác li yêu cầu hai đồng chí chia đều vt dng vào ba chiếc ba lô mi chu
tiếp tục lên đường.
Câu chuyn nh nhưng đ li bài hc ln. th thy, Bác là một người yêu lao
động. Bác suốt đời làm vic, sut ngày làm vic, t nhng vic lớn như cứu nước
đến vic nh như trồng cây trong vườn. Vic th t làm, Bác đều t mình
hoàn thành. Cách sng ca Bác giúp cho mỗi ngưi nhn ra giá tr ca lao động,
cũng như có ý thức t giác hc tp và làm việc hơn.
Qu tht, nhng câu chuyn v cuộc đời ca Ch tch H Chí Minh thật ý nghĩa.
T đó, chúng ta luôn nhận ra được nhiu bài hc b ích cho bn thân.
Bài văn mẫu s 2
By gi, gic Nguyên cho s thn sang gi v ợn đường để xâm chiếm nước ta.
Thy s giặc ngang ngược, Trn Quc Toản vô cùng căm giận.
Sáng nay, nhà vua hp bàn việc nước dưới thuyn rng. Quc Ton biết vy nên
quyết đợi gặp vua để nói hai tiếng “xin đánh”. Đợi t sáng đến trưa, cậu vn không
gặp được vua, bèn liu chết mấy người lính gác ngã chúi, xăm xăm xung bến.
Thy vy, quân lính p đến. Quc Toản đỏ bng mt, rút gươm và quát lớn:
- Ta xung din kiến b h, k nào dám ngăn cản.
Đúng lúc, cuộc họp dưới thuyn rng tm ngh, vua các quan ra ngoài mui
thuyn.
Quc Ton chạy đến, qu xung tâu:
- Cho giặc mượn đường là mất nước. Xin b h hãy cho đánh!
Nói ri, cậu đặt gươm lên gáy, xin chịu ti.
Nhà vua cho truyn Quc Toản đứng dy, ôn tn nói:
- Quc Toản làm trái phép nước, đáng lẽ phi tr tội. Nhưng xét nghĩ em còn nhỏ
tuổi mà đã biết lo vic nên, ta có li khen ngi.
Nói rồi, vua sai ngưi ban cho Quc Ton mt qu cam. Cu t ơn vua rồi lên b
m c. Cu thầm nghĩ: “Vua ban cho cam quý nhưng vn coi ta tr con,
không cho bàn việc nước”.
Quc Toản nghĩ đến quân giặc đang bóc lột nhân dân, mà lòng đầy căm giận. Cu
bóp nát trái cam trong tay lúc nào không hay. Đến khi mọi người ùa ti hi han.
Cu xòe tay ra mi biết trái cam đã nát.
Bài văn mẫu s 3
Ch tch H Chí Minh là v lãnh t kính yêu ca dân tc Vit Nam. Rt nhiu mu
chuyn k v cuộc đời của Người. Qua đó, chúng ta thấy được nhng đức tính tt
đẹp của người.
Vào giữa mùa thu năm 1954, Bác đến tham d “Hi ngh rút kinh nghim ci cách
ruộng đất” Hà Bc. Ti hi ngh, khi biết lnh của Trung ương rút bt mt s
cán b đi học lp tiếp qun th đô. Ai cũng háo hc muốn đi, đặc bit nhng
ngưi quê Ni. Sau nhiều năm xa cách quê hương, mọi người đều mong
muốn được cp trên chiếu c. Tư tưởng cán b d hi ngh nhiu phân tán. Ban
lãnh đạo ít nhiu thy khó x.
Trời đã vào thu nhưng vẫn còn khá nóng, m hôi ướt đm hai bên vai áo nâu ca
Bác. M đầu, Bác trò chuyn v tình hình thi sự. Khi nói đến nhim v ca toàn
Đảng, Bác bỗng rút trong túi áo giơ ra một chiếc đồng h qu quýt. Ri Bác hi
các đồng chí cán b v chức năng của tng b phn của đồng h. Thế ri, Bác mi
hi:
- Trong cái đồng h, b phn nào là quan trng?
Mọi người đều im lng, không ai tr li:
- Trong cái đồng h, b mt b phận đi có được không?
- Thưa, không được !- Các cán b li đồng thanh đáp.
Nghe mọi người tr lời, Bác bèn giơ cao chiếc đồng h lên và kết lun:
- Các chú , các b phn ca mt chiếc đồng h cũng như c quan ca mt
Nhà nước, như các nhim v ca cách mạng. Đã nhim v ca cách mng thì
đều là quan trng, điều cn phi làm. Các chú th nghĩ xem: Trong một chiếc đồng
h mà anh kim đòi làm anh chữ s, anh máy lại đòi ra ngoài làm cái mặt đồng h
c tranh nhau ch đứng như thế thì còn là cái đồng h đưc không?
Nghe xong, c hội trường tr nên im lng. Mỗi người đều những suy nghĩ riêng
v li nói ca Bác.
Vào mt dp cuối năm 1954, Bác đến thăm một đơn vị pháo binh đóng Bch Mai
đang luyện tập đ chun b cho cuc duyệt binh đón mừng chiến thắng Điện Biên
Phủ. Thăm nơi ăn, chốn ng ca các chiến sĩ bộ đội xong, Bác đã đã trò chuyện vi
h. Bác ly túi ra mt chiếc đng h qu quýt, ch vào tng chiếc kim, tng ch
s hi anh em v tác dng ca tng b phn. Mọi người đều tr lời đúng cả.
Song chưa ai hiểu ti sao Bác lại nói như vậy?
Bác vui v nói tiếp:
- Đã bao nhiêu năm nay, chiếc kim đồng h vn chạy để ch cho ta biết gi gic,
ch s trên mt vẫn đứng yên mt ch, b máy vn hoạt động đều đặn bên trong.
Tt c đều nhp nhàng làm vic theo s phân ng y. Nếu hoán đổi v trí tng b
phn cho nhau thì còn chiếc đồng h na không? Sau câu chuyn ca Bác,
anh ch em đều hiu ý Bác dy: Vic cách mng phân công phi yên tâm hoàn
thành.
Không ch vy, chiếc đồng h ququýt còn một hin vt giá th hin tình
cm Quc tế đối với Bác, đó chiếc đồng h do T chc Quc tế “Cu Tế đỏ
tng, Bác luôn gi trong mình, trong những năm tháng bị cm gian kh cho
đến ngày Việt Nam giành được độc lp.
Câu chuyn v chiếc đồng h đã cho thấy được nhng phm chất đẹp đẽ ca Bác
Hồ, cũng như bài học sâu sc mà bác mun dy cán b, chiến sĩ của mình.
i văn mẫu s 4
Trong những năm tháng chiến tranh, rt nhiều người con ca mảnh đt Vit Nam
đã hy sinh để bo v đấu tranh cho nền độc lp ca dân tc. Mt trong s đó
Võ Th Sáu - n anh hùng huyn thoại vùng Đất Đỏ.
Th Sáu sinh năm 1933, mất năm 1952. Nguyên quán đưc ghi trên bia m ch
ghi ti huyện Đất Đỏ, tnh Ra - Vũng Tàu. Ngay t khi còn nh, ch đã cùng
vi anh trai tham gia cách mng. Ch tham gia vào đội công an xung phong, hoàn
thành xut sc nhim v liên lc, tiếp tế. Trong thi gian này, ch tham gia nhiu
trn chiến đấu để bo v quê hương. Không chỉ vy, ch cũng nhiều ln phát hin
ra gian tế, tay sai Pháp, giúp đội công an thoát khi nguy him, ch động tn công
địch.
Mt ln n, ch nhn nhim v mang lựu đạn phc kích giết tên cai Tòng - mt tên
Việt gian bán nước ngay ti nhà. Lựu đn n, tên Tòng b thương nặng nhưng
không chết. Tuy nhiên, v tn công khiến bọn lính đn khiếp vía, không dám truy
lùng Vit Minh ráo riết như trước. Sau này, trong mt ln thc hin nhim v, ch
đã bị gic bt. Sau khi b bt, lần lượt b đưa đi thẩm vn giam gi ti các
nhà Đất Đỏ, khám đường Ra và khám Chí Hòa. Thực dân Pháp đã cho mở
phiên tòa, thời điểm này, ch vẫn chưa tròn mười tám tui. Lut biện h đã ly
đó làm căn cứ để giúp ch thoát khi án t hình, nhưng tòa án vẫn tuyên án t hình
ch. Chúng chuyn ch cùng mt s người cách mạng ra nhà Côn Đảo. đây,
thực dân Pháp đã lén lút đem chị đi tử hình.
Vào năm 1993, Nhà nước đã trân trọng truy tng ch Huân chương chiến công
hng Nht và danh hiu Anh hùng lực lượng trang. Chị Th Sáu chính
mt biểu tượng v lòng dũng cảm, kiên cường.
Bài văn mẫu s 5
Trn Quc Tun (1231? - 1300), tước Hưng Đạo Vương một danh tướng kit
xut ca dân tc thi Trn. Ông mt v anh hùng ca dân tc, ng ln trong
chiến thng chng quân Nguyên - Mông.
Ông con của An Sinh Vương. Lúc mới sinh ra, mt thầy tướng xem cho
bảo: “Người này ngày sau th giúp nước cứu đời”. Đến khi ln lên, dung mo
khôi ngô, thông minh hơn người, đọc rộng các sách, tài văn võ. Cha của ông
trước đây vốn có him khích với Chiêu Lăng, mang lòng hm hc, tìm khp nhng
ngưi i ngh để dy Quc Tun. Lúc sp mt, An Sinh cm tay Quc Tun dn
rng:
- Con không vì cha lấy được thiên h tcha dưới suối vàng cũng không nhm
mắt được.
Ông ghi nh trong lòng, nhưng không cho điều đó phải. Sau này, đến khi vn
c trong tay, quyn quân quyền nước đu do mình, ông đem li cha dn nói
với gia nô là Dã Tượng, Yết Kiêu. H đã can ngăn ông:
- Làm kế y tuy được phú qu mt thời để li tiếng xấu ngàn năm. Nay đi
vương chẳng phải đủ phú quý hay sao? Chúng tôi th xin chết già làm gia nô,
ch không mun làm quan mà không có trung hiếu.
Trn Quc Tun nghe vy, ly làm cm phc lm, lin khen ngợi hai người. Trong
hai năm, 1285 năm 1287, quân Nguyên - Mông xâm lược nước ta, ln nào ông
cũng được Trn Nhân Tông c làm Tiết chế thng lĩnh các đạo quân, c hai ln
đều thng li v vang. Sau này khi mt, nhân dân tôn th ông là Đức thánh Trn
lập đền th nhiu trên đất nước.
Qua s này, có th thấy được tấm lòng trung nghĩa vi vua, với nước, không tư lợi
ca Trn Quc Tun, ông là người thn trng và quyết đoán và cũng chân thành.
th khẳng định, Trần Hưng Đạo mt v anh hùng li lc ca dân tc. Cuc
đời của ông đã có những đóng góp to lớn cho nhân dân, đất nước.
Bài văn mẫu s 6
Mạc Đĩnh Chi (1272 - 1346), t Tiết Phu, người thôn ng Động, huyn Chí
Linh, tnh Hải Dương. Ông là một nhân vt lch s mà tôi cm thy rất ngưỡng m
và kính trng.
Mạc Đĩnh Chi vốn thông minh hơn người. văn hay chữ tốt, ông được Chiêu
Quốc vương Trần Ích Tc nhận làm môn đồ, chu cấp cho ăn học. Tháng 3, năm
Giáp Thìn (1304), vua Trần Anh Tông đã cho mở khoa thi Thái học sinh để tìm
kiếm nhân tài. K thi đó lấy đỗ đưc bốn mươi bốn người. Mạc Đĩnh Chi đỗ Trng
nguyên, được sung làm Nội tgia. vậy, Mạc Đĩnh Chi li hình dáng thp
bé, vua Trần Anh Tông thường chê ông xu. Mạc Đĩnh Chi đã làm bài phú Ngọc
tnh liên phú” nghĩa “Sen trong giếng Ngọc” để t nói mình. Vua Trn Anh
Tông xem xong, không ngt li khen ngi.
Khi đm nhn chc Nội thư gia, Mạc Đĩnh Chi phụng mệnh đi s sang Trung
Quốc. Nhà Nguyên ý xem thường ông ngoi hình. Mt hôm, quan T ng
cho mi ông vào ph. Trong ph treo mt bc tranh mng thêu con chim s
vàng đỗ cành trúc. Mạc Đĩnh Chi gi v nhn lm con chim y là tht, vi nhy ti
chp bt. C triu thần nhà Nguyên cùng cười cho ông quê mùa. Ông lin kéo
bc tranh xung và xé nát. Mọi người ly làm l, hỏi lý do. Ông đáp: “Theo chỗ tôi
biết, c nhân ch v tranh mai c, ch chưa bao giờ v tranh trúc c.
trúc là biểu tượng ca mẫu người quân t, chim s là biểu tượng ca bn tiu nhân.
Nay bc tranh này li thêu trúc c, tức là đã đem tiểu nhân đặt lên trên quân t.
Tôi s rằng làm như vy rồi đạo ca tiu nhân s mạnh, đạo ca quân t s b suy.
Bi vy tôi xin thánh triu tr kh đi”. Lúc này, tất c đều phi khâm phục tài năng
ca ông.
Mt ln n, vào tiến triều vua Nguyên, đến khi vào chu gặp người nước ngoài
dâng qut, vua Nguyên sai làm bài minh. Mạc Đĩnh Chi cm bút viết xong ngay
hoàng đế nhà Nguyên xem xong rt khen ngi. K t đó, triều Nguyên càng thêm
thán phc và Mạc Đĩnh Chi đã được xem là “Lưỡng quc trạng nguyên”.
th khẳng định rng, Mạc Đĩnh Chi một v Trng nguyên tài gii hơn người,
có công lao rt lớn đối với đất nước.
Bài văn mẫu s 7
Mt trong nhng v anh hùng ca dân tc Vit Nam Th Sáu. Ch chính
mt trong nhng biểu tượng cho lòng dũng cm, s gan d của người ph n Vit
Nam.
Võ Th Sáu sinh năm 1933, mất năm 1952. Về nguyên quán, trên bia m ch ghi ti
huyện Đất Đỏ, tnh Ra - Vũng Tàu. Chị tham gia hoạt động cách mng t khi
còn rt trẻ, đã hoàn thành xuất sc nhiu nhim v quan trng.
Ch đã tham gia nhiu trn chiến đấu đ bo v quê hương, dùng lựu đạn tiêu dit
hai tên ác ôn và làm b thương nhiều lính Pháp. Ch còn nhiu ln phát hin gian tế,
tay sai Pháp, giúp đội công an thoát khi nguy him, ch động trong vic tn công
địch…
Vào tháng 7 năm 1948, Công an Đất Đỏ đưc giao nhim v phá cuc mít tinh k
nim Quc khánh Pháp. Dù nguy hiểm, nhưng ch Sáu vn ch động xin được trc
tiếp đánh trận này. Ch đã nhận lựu đạn, giu vào góc ch gần khán đài t nửa đêm.
Sáng hôm đó, địch lùa người dân vào sân. Khi xe ca tỉnh trưởng ti, ch tung lu
đạn v phía khán đài, uy hiếp gii tán mít tinh.
Hai t công an xung phong gần đấy đồng lot n súng ym tr to áp lc gii tán
cuộc mít tinh, đồng thi h tr cho ch u rút an toàn. Người ca Việt Minh được
b ttrong đám đông to “Việt Minh tiến công” hướng dẫn người dân gii
tán. Sau chiến công này, ch Sáu được t chức tuyên dương khen ngợi được
giao nhim nhiu nhim v quan trng khác. Khi b gic bt giam ti nhà Côn
Đảo, chun b x t hình, ch vn gi đưc tinh thn của người chiến cách
mng.
Năm 1993, Nhà nước đã trân trọng truy tng ch Huân chương chiến công hng
Nht và danh hiu Anh hùng lực lượng vũ trang.
th khẳng định rng, ch Th Sáu mt tấm gương về lòng dũng cảm, s
gan dạ, đáng để chúng ta hc tp và noi theo.
Bài văn mẫu s 8
Đất nước Việt Nam đã sản sinh ra rt nhiu anh hùng. Trong s đó, Trần Quc
Ton là v anh hùng đáng ngưỡng m và cm phc.
Trn Quc Toản (không rõ năm sinh, năm mt), hiệu Hoài Văn hầu, mt tông
tht nhà Trn.
Vào năm 1282, vua Trn Nhân Tông cho t chc Hi ngh gồm các ơng hu và
ớng lĩnh ti bến Bình Than đ bàn kế sách chng gic Mông - Nguyên. Vì còn ít
tui nên Trn Quc Toản không được tham d. Quc Ton trong lòng h thn,
phn ut, tay cm qu cam mà bóp nát lúc nào không biết.
Không nn lòng, Trn Quc Ton lui v huy động n nghìn gia thân thuc
sắm vũ khí, đóng chiến thuyn viết lên c sáu ch “phá cường địch, báo hoàng ân”
(Phá gic mạnh, đền ơn vua). Tiếng vang ca Quc Ton vi c thêu sáu ch
vàng lan truyn khp mi nơi.
Đến năm 1285, quân Mông - Nguyên tràn vào xâm ợc nước ta. Lúc này, lá c
thêu sáu ch vàng của Hoài Văn hầu xut hin trên nhiu mt trận. Ông đã trc
tiếp ch huy quân đội sát cánh cùng quân ch lc ca triều đình góp phần làm nên
nhng chiến thng vang di Hàm T, Tây Kết, Chương Dương. Quân giặc phi
b Thăng Long, chạy v Kinh Bc (Bắc Ninh) để tìm đường v c. Sau này, khi
ông hy sinh, vua Trn hết sức thương tiếc, cho c hành tang l đích thân làm
văn tế và truy tng Trn Quc Toản tước Hoài Văn Vương.
Trn Quc Ton không ch tài năng còn mang những phm cht tốt đẹp như
dũng cảm, kiên cường và ngh lực. Ông đã trở thành tấm gương sáng ngời v ý chí
và lòng yêu nước để các thế h tr Vit Nam noi theo.
Bài văn mẫu s 9
Đại tướng Nguyên Giáp - người anh c của Quân đội Nhân dân Vit Nam.
Cuộc đời ca ông là mt tm gương tiêu biểu để mỗi người dân Vit Nam noi theo.
Tháng 11 năm 1983, Đại tướng có v quê ghé thăm trường cp 3 L Thy. Ông
nhận được s chào đón ca toàn th cán b, giáo viên và học sinh trong trường.
Lúc đó, Đại tướng đã rẽ đám đông đến trước mt ông già thấp đm, quắc thước,
râu tóc bc trng và ct tiếng hi:
- Tôi trông c quen quen? Có phi c là Choc không?
C già mới lúng túng đáp:
- Thưa ngài… đúng ạ!
Đại tướng lin nói:
- Xin c đừng gọi như vậy. Năm nay cụ bao nhiêu tui?
- D thưa, tôi đã bảy mươi mt tui.
Đại tướng tiếp li:
- Tôi bảy mươi ba, chúng ta là bạn đồng niên.
Đến khi Đại tướng rời đi, mọi người mi nghe k li. Ông Choc khi còn tr
thường đi cy, gặt thuê, trong đó nhà c Quang Nghiêm. Vào các dp ngh
hè, cu Giáp hc Huế thường v quê. đã nửa thế k trôi qua, trong đám đông,
Đại tướng vn nhận ra người quen cũ.
th thấy, Đại tướng một con người trọng tình nghĩa, tài đức vn toàn. Ông
chính là tấm gương sáng ngời cho thế h sau hc tp.
Bài văn mẫu s 10
Đất nước Việt Nam đã trải qua một nghìn năm Bắc thuc. Rt nhiu v anh hùng
đã đứng lên đấu tranh, bo v đất nước. Mt trong s đó phải k đến Hai Bà Trưng.
Hai Trưng gồm hai ch em ruột Trưng Trắc Trưng Nhị. H đã ghi
danh vào trang s hào hùng vi cuc chiến chống ách đô hộ nhà Đông Hán (40 -
43). Chng của Trưng Trắc b thái thú Định giết hi mt cách man. N
c, thù nhà nên quyết định nổi binh cùng em gái Trưng Nh chng li k
thù. Trước khi xuất binh, hai bà đã đc vang li th:
“Mt xin ra sạch nước thù
Hai xin ni li nghiệp xưa họ Hùng
Ba ko oan c lòng chng
Bn xin vn vn s công lênh này”
Trong cuc khởi nghĩa của hai bà, có rt nhiu n ng tham gia và h cùng nhau
lp nhng chiến công khiến cho quân gic khiếp hồn, thái thú Đnh phi b
chy v c. Sau khi làm ch đất Linh, Trưng Trc lên làm vua ly hiu là
Trưng Vương, hoàn thành s mnh ni nghip h Hùng. Năm 43, quân giặc tiến
quân xâm lược, Hai Trưng kiên ng chng trả, song quân địch quá đông
mạnh, nghĩa quân thua trận.
Hai Trưng nhng v ớng tài năng ca dân tc. Tuy ph nữ, nhưng lại
lòng dũng cảm, tài năng hơn người cùng vi ý chí quyết tâm đ lãnh đạo nhân dân
chng li k thù xâm lược.
th khẳng định rằng, Hai Trưng chính là nhng n anh hùng đầu tiên trong
lch s dân tc, là tấm gương đ mỗi người hc tp và noi theo.
Bài văn mẫu s 11
T xưa đến nay, dân tc Vit Nam vn t hào vi truyn thống yêu nước ca dân
tc. Trong bt c thời đại nào, đất nước cũng có những bậc anh hùng đứng lên lãnh
đạo nhân dân đánh bại k thù xâm lược, giành lại độc lp t do cho T quc. Mt
trong s đó phải k đến Hưng Đạo Đại Vương - Trn Quc Tun.
Trn Quc Tun (1231? - 1300), tước Hưng Đạo Đại Vương. Ông là con trai ca
thân vương An Sinh Vương - Trn Liu. Ông sinh ra trong mt thời “hỗn loạn”
ca nhà Trần. Năm 1285 và năm 1287, quân Nguyên - Mông xâm lược nước ta, ln
nào ông cũng được Trn Nhân Tông c m Tiết chế thống lĩnh các đạo quân, c
hai lần đều thng li v vang. Vào đời vua Trn Anh Tông, ông v trí Vn
Kiếp (nay Hưng Đạo, huyn Chí Linh, tnh Hải Dương) ri mt đấy. Nhân
dân tôn th ông là Đức thánh Trn và lập đền th nhiều trên đất nước.
Trn Quc Tuấn được biết đến một người thông minh, văn song toàn. Ông
chính mt danh tướng kit xut ca dân tc thi Trn, góp công ln trong cuc
kháng chiến chng quân Mông - Nguyên ca dân tc. Không ch vậy, ông cũng có
nhiu tác phm hay, ch yếu liên quan đến binh pháp. Các tác phm ca ông gm
D chư tỳ ng hch văn (Hịch tướng sĩ), Binh gia diệu yếu lược (Binh thư yếu
c), Vn Kiếp tông truyền thư (Sách truyền ca tông phái Vn Kiếp, đã bị
tht lc).
rt nhiu tích truyn k v Trn Quc Tuấn. Trong đó, chúng ta thể k đến
vic Trn Quc Tun viết “Hịch tướng sĩ”. Bài hịch được viết vào khoảng trước
cuc kháng chiến chng Mông - Nguyên ln th hai (1285). Mc đích ca Trn
Quc Tun nhm khích l ớng học tp cuốn Binh thư yếu lược (Sách tóm tt
những điều ct yếu v binh pháp) cũng do chính ông soạn.
Ni dung chính của “Hịch tướng sĩ” phản ánh tinh thần yêu nước nng nàn ca dân
tc ta trong cuc kháng chiến chng ngoại xâm. Điều đó được th hin qua lòng
căm tgiặc, ý chí quyết chiến quyết thng k thù xâm lược. đưa ra những tm
gương thể hin s trung thành ca các v ng thời trước. Sau đó ông nêu lên ti
ác ca quân gic, bc l ni lòng của mình trước hoàn cnh của đất nước. Ông ch
ra s sai trái trong hành động, suy nghĩ của các tướng sĩ. Cuối cùng li kêu gi
ớng sĩ học tập theo “Binh thư yếu lược”.
th thy rng, Trn Quc Tun không ch một người tài ba anh dũng n
mt v ng hết lòng vn mệnh đất nước. Ông mt v anh hùng kit xut,
đưc thế gii tôn vinh là mt trong nhng v ớng vĩ đại nht mi thời đại.
Bài văn mẫu s 12
Ch tch H Chí Minh là v lãnh t kính yêu ca dân tc Vit Nam. Cuc đời ca
Người đã cống hiến cho đất nước nhân dân. rt nhiu s việc liên quan đến
Bác đã được k li.
S việc dưới đây xảy ra trước khi Bác H quyết định ra đi tim đường cứu nước.
Hi y, i Gòn, Bác H có một người bn tên Lê. Mt hôm, Bác H hi bác
Lê:
- Anh có yêu nước không?
Bác Lê tr li:
- Có ch!
- Anh có th gi bí mt không?
- Có!
- Tôi muốn đi ra nước ngoài xem Pháp các nước khác h làm như thế o. Sau
đó, trở v giúp đồng bào chúng ta. Nhưng đi một mình cũng mạo him. Anh
muốn đi với tôi không?
Bác Lê sng st:
- Nhưng chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi?
- Đây, tiền đây!
Va nói. Bác H vừa giơ hai tay ra và tiếp:
- Chúng ta s làm bt c việc gì để sống và để đi. Anh đi với tôi ch?
sau đó, vào ngày 5 tháng 6 năm 1911, t Bến Nhà Rng, ch người thanh
niên n Nguyn Tất Thành (sau đổi thành Văn Ba ) lên đường sang Pháp. Bác đã
xin làm ngh ph bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville.
Ch tch H Chí Minh làm tấm gương của s dám nghĩ, dám làm. Bác đã p ý
định quyết tâm thc hiện, điều đó cũng xuất phát t chính tấm lòng yêu nước,
thương dân sâu nng.
Như vy, Bác chính tấm gương sáng người để mỗi người hc tp theo. Mi câu
chuyn v Bác đều ý nghĩa và đáng trân trọng.
Bài văn mẫu s 13
Mt trong nhng v anh hùng dân tộc đáng ngưỡng m phi k đến Đại tướng
Võ Nguyên Giáp. Ông được coi là người anh c của Quân đội nhân dân Vit Nam.
Nguyên Giáp, tên khai sinh Giáp, danh Văn. Ông sinh năm 1911,
mất năm 2013. Quê ti làng An Xá, nay Lc Thy, huyn L Thy, tnh
Qung Bình.
Có rt nhiu mu chuyn k v v ng huyn thoi ca nhân dân. Truyn k rng,
c Quang Nghiêm, thân sinh của Đại tướng liệt sĩ. Sau khi tìm đưc m c
đưa từ Huế v (1977), hài ct c được đưa vào nghĩa trang liệt huyện. Khi
thiết kế nghĩa trang, huyện đã chừa hai ô khu các anh hùng, có ý s an táng song
thân Đại tướng đó. Nhưng lúc biết chuyện, Đại tướng nói:
- Cm ơn thiện ý của lãnh đạo huyện, nhưng ông thân tôi liệt sĩ bình thưng nên
không th đt khu vc dành cho các anh hùng. Còn thân mẫu tôi người dân,
không th đặt vào nghĩa trang liệt sĩ
Vì vy, theo lời Đại tướng, c thân sinh được đt cnh khu vc các anh hùng lit
sĩ, còn thân mẫu được an táng phía ngoài nghĩa trang, cách khuôn viên vài chc
mét.
T câu chuyn nh này, th thy rằng Đại tướng đã nghiêm túc thc hin li
dy ca Bác Hồ: Người cách mng phải “dĩ công vi thượng”! Quả người hc trò
gương mu ca Bác.
Đại tướng Nguyên Giáp đã cống hiến c cuc đời cho s nghip cách mng.
Không ch vy, ông còn là tấm gương về mt nhân cách ln cho thế h sau noi theo.
Bài văn mẫu s 14
Hai Bà Trưng được biết đến là nhng v n anh hùng đầu tiên trong lch s dân tc
Vit Nam.
Vào đầu thế k I, nước ta b nhà Hán đô hộ. Thái thú qun Giao Ch là Tô Đnh ni
tiếng tham lam, tàn bo. Hai ch em Trưng Trắc, Trưng Nhị sinh ra và ln lên
trong cảnh nước mt nhà tan, nên sớm lòng căm thù giặc. By giờ, Trưng Trắc
cùng chng của mình Thi Sách đã liên kết vi các th lĩnh khác đ chun b cho
cùng ni dy. Ngay lúc này, Thi Sách li b Định bt giết hại. Hai Trưng
quyết tâm khởi nghĩa để đền n c, tr thù nhà.
Din biến cuc khởi nghĩa Hai Trưng gồm hai giai đon. Ln một vào năm
40, cuc khởi nghĩa thu hút đưc hào kit khắp nơi về gia nhập. Nghĩa quân đã
nhanh chóng đánh bại được quân nhà Hán, làm ch Mê Linh, ri tiến v C Loa và
Lụy Châu. Quan thái thú Định b thành, chy trn v Nam Hi (Qung Đông,
Trung Quc). Quân Hán các qun huyện khác cũng gặp tht bi. Cuc khởi nghĩa
thng li hoàn toàn.
Đến năm 42, nhà Hán tiếp tc tr lại xâm lược, c Mã Vin ch đạo cánh quân xâm
c này gm hai vn quân tinh nhu, hai nghìn xe thuyn nhiu dân phu.
Chúng tn công quân ta Hp Ph, nhân dân Hp Ph đã anh dũng chống tr
nhưng vẫn gp tht bi. Sau khi chiếm được Hp Ph, Mã Viện đã chia quân thành
hai đo thy b tiến Lục Đầu và gp nhau ti Lng Bc. Sau khi nhận được tin tc,
Hai Trưng kéo quân t Linh v nghênh chiến với địch ti Lãng Bc. Quân
ta gi vững được C Loa và Mê Linh nhưng Mã Viện tiếp tục đuổi theo buc quân
ta phi lùi v Cẩm Khê. Tháng 3 năm 43, Hai Trưng hy sinh Cm Khê. Cuc
kháng chiến vẫn kéo dài đến tháng 11 năm 43 sau đó mới b dp tt. tht bi,
nhưng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vẫn có ý nghĩa to lớn.
th khẳng đnh rằng, Hai Trưng chính tấm gương v s dũng cảm, tm
lòng yêu nước để thế h sau noi theo.
Bài văn mẫu s 15
Đất nước Vit Nam có rt nhiu v anh hùng. Trong đó, Võ Th Sáu chc hn là n
anh hùng vô cùng ni tiếng, được mọi người biết đến với lòng dũng cảm, gan d.
Võ Th Sáu sinh năm 1933, mất năm 1952. Về nguyên quán, trên bia m ch ghi ti
huyện Đất Đỏ, tnh Ra - Vũng Tàu. Nhng câu chuyn k v ch Th Sáu
vẫn còn được lưu truyn.
Ngay t khi còn nh, Th Sáu đã theo anh gia nhp Vit Minh. Ch gia nhp
vào đội công an xung phong, hoàn thành xut sc nhim v liên lc, tiếp tế. Trong
khong thi gian này, ch Sáu tham gia nhiu trn chiến đấu đ bo v qhương,
dùng lựu đạn tiêu dit hai tên ác ôn làm b thương nhiều lính Pháp. Ch còn
nhiu ln phát hin gian tế, tay sai Pháp, giúp đi công an thoát khi nguy him,
ch động tấn công địch.
Vào tháng 7 năm 1948, ng an Đất Đỏ đưc giao nhim v phá cuc mít tinh k
nim Quc khánh Pháp. nhim v gian nan, phn nguy hiểm nhưng chị u
vn ch động xin được trc tiếp đánh trận này. Ch nhn lựu đạn, giu vào góc ch
gần khán đài t nửa đêm. Sáng hôm đó, địch a người dân vào sân. Xe tnh ti,
ch tung lựu đạn v phía khán đài, uy hiếp gii tán mít tinh. Hai t công an xung
phong đồng lot n súng ym tr to áp lc gii tán cuộc mít tinh, đồng thi h tr
cho ch Sáu rút an toàn. Người ca Việt Minh được b trí trong đám đông to
“Việt Minh tiến công” và hướng dẫn người dân gii tán. Sau nhim v này, ch Sáu
được tuyên dương khen ngi và giao nhiu nhim v quan trng khác.
Sau này, ch b địch bắt, đày đến nhà Côn Đảo. ch b x t hình, nhưng
vn gi đưc khí tiết ca người cách mng. Ch Th Sáu được truy tng ch
Huân chương chiến công hng Nht và danh hiu Anh hùng lực lượng vũ trang vào
năm 1993.
Viết bài văn kể v mt s vic có thật liên quan đến s kin lch s
Bài văn mẫu s 1
Tôi nhạc Văn Cao - ngưi đã sáng tác ra bài hát “Tiến quân ca”. Bài hát này
được ra đời trong mt bi cnh lch s đặc bit. Còn với tôi, bài hát đã đánh dấu
một bước ngot ln ca cuộc đời, đánh dấu s kiện tôi tìm ra lí tưởng sng.
Tôi đã từng mất đi nhng khát vọng ước của tui tr. Cuc sng ch chìm
trong chán nn tuyt vng. Gia lúc i mun t b tt c, s xut hin ca anh
Ph. D. - một người bn rt thân thiết đã khiến cuộc đời của tôi thay đi.
Qua li gii thiu của anh Ph.D. tôi đã gặp được Quý - một người anh đã theo
dõi con đường hoạt động ngh thut ca tôi t lâu. Tôi đã một bui trò chuyn
với anh. sau đó, tôi tìm ra đưc một con đường mới cho mình, đi theo cách
mng.
Lúc đó, khóa quân chính kháng Nhật sp m, cn mt bài hát để khích l tinh thn
cho quân đi cách mạng. Nghĩ lại, tôi đã tng sáng tác rt nhiu bài hát v tinh
thần yêu nước như: Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng… nhưng lại
chưa từng viết v cách mạng. Nhưng vi lòng nhit huyết của mình, tôi đã viết nên
nhng ca t của bài “Tiến quân ca”.
Anh Ph.D. người đã chứng kiến toàn b quá trình sáng tác bài hát, anh Vũ Q
là người đầu tiên được biết đến bài hát và Nguyễn Đình Thi chính là người đầu tiên
ng âm ca khúc. H đã tỏ ra vô cùng xúc động.
Lúc đó, tôi cũng không ngờ rng, ch sau mt thi gian rt ngn, vào ngày 17 tháng
8 năm 1945, Tiến quân ca được hàng nghìn ngưi hòa nhp ct cao tiếng hát trước
quảng trường Nhà hát Ln. Cm xúc của tôi khi đó tht khó din t. Bài Tiến quân
ca n ra như mt trái bom. Trong mt lúc, nhng t truyền đơn in Tiến quân ca
đưc phát cho từng người trong hàng ngũ ng chc d mít tinh. Khi ấy, tôi đng
lẫn vào trong đám đông quần chúng trước ca Nhà hát Lớn. Tôi đã nghe thấy
ging hát quen thuc ca anh bn tôi - Ph. D. qua loa phóng thanh. Ln th hai
ngày 19 tháng 8, hàng ngàn người và các em thiếu nhi cùng hát tiến quân ca.
bài hát “Tiến quân ca” đã ra đời như thế, trong thời đại lch s đất nước được
đánh dấu bởi “một bui bình minh mới” của dân tộc. Điều đó khiến tôi không khi
t hào khi nh v.
Bài văn mẫu s 2
Mt trong nhng s kin lch s ý nghĩa cùng quan trng vi dân tc Vit
Nam là Chiến thắng Điện Biên Ph. Vi s kin này, cuc kháng chiến chng thc
dân pháp đã chính thức giành thng li.
Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
“Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên s vàng”
T đó, chúng ta mới thấy được ý nghĩa của chiến dịch này. Trước hết, chiến dch
Đin Biên Ph đỉnh cao ca cuc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954.
Ba đợt tiến công diễn ra trong năm mươi sáu ngày đêm. Đt 1 (t 13 đến 17 tháng
3), chúng ta tiêu diệt được hai c đim quan trọng là Him Lam và Đc Lp, m
toang cánh ca phía Bắc và Đông Bắc cho quân ta tiến xung lòng cho và khu
trung tâm. Đợt 2 (t 30 tháng 3 đến 30 tháng 4), ta đã kiểm soát các điểm cao, khu
trung tâm Đin Biên Ph nm trong tm bn các loi sng của ta. Còn quân đch
rơi vào thể b đng mt tinh thần cao độ. Đợt 3 (t 1 đến 7 tháng 5), quân ta tng
công kích tiêu dit toàn b tập đoàn c điểm Điện Biên Phủ. Đến ngày 7 tháng 5
năm 1954, chiến dch toàn thng.
Thng li ca chiến dịch Điện Biên Ph đã chấm dứt chín năm kháng chiến chng
Pháp trường k, gian kh ca nhân dân Vit Nam. T đó, thc dân Pháp buc phi
kết Hiệp định Giơ-ne-(7/1954) v chm dt chiến tranh lp li hòa bình
tại các nước Đông Dương. Chiến thng lch s Đin Biên Ph th hin nim t hào
dân tc, niềm tin tưởng tuyệt đối vào s lãnh đo của Đảng Cng sn Vit Nam và
c toàn Đảng, toàn dân mt lòng chiến đấu dưới c v vang của Đảng nn
độc lp, t do ca T quc. Đồng thi, chiến thắng này cũng cổ vũ mạnh m phong
trào gii phóng dân tc trên thế gii, đặc biệt là các nước châu Á, châu Phi và Mĩ
La-tinh.
th khẳng định rằng, Điện Biên Ph mt trong nhng chiến dch cùng
quan trng, góp phần đánh bại k thù xâm lược - thc dân Pháp.
Bài văn mẫu s 3
Tiến quân ca - bài t được chn làm quc ca của nước Vit Nam. tôi chính là
nhạc sĩ Văn Cao - người đã sáng tác bài hát này.
Bài hát được ra đời trong mt bi cnh lch s đặc biệt, có ý nghĩa trong đại với đất
c. Còn vi riêng tôi, nó là một đứa con tinh thần, đánh du một bước ngot ln
trong cuộc đời tôi.
Trước đó, i đã mất đi những khát vọng ước mơ của tui tr. Hng ngày, cuc
sng ch lp li trong vòng lun quẩn, chán chường. Gia lúc tôi mun t b tt c,
anh Ph. D. - mt người bn rt thân thiết đã xuất hin khiến cuộc đời tôi thay đi.
Qua anh Ph.D. tôi đã gặp được Quý. Anh đã theo dõi con đưng hoạt đng
ngh thut ca tôi t lâu. Sau cuc nói chuyn với anh, tôi đã tìm ra con đường mà
bn thân có th theo đuổi - con đường cách mng.
Thời điểm đó, khóa quân chính kháng Nhật sp m, cn một bài hát đ khích l
tinh thần cho quân đội cách mng. Tôi rt nhiu bài hát viết v lòng yêu nước
như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng… Nhưng chưa một bài
nào viết v cách mng. Vì l đó, tôi đã sáng tác ra Tiến quân ca.
Anh Ph.D. người đã chứng kiến toàn b quá trình sáng tác bài hát, anh Vũ Q
là người đầu tiên được biết đến bài hát và Nguyễn Đình Thi chính là người đầu tiên
ng âm ca khúc. Tt c đều chung mt cm xúc, t hào c động khi lng
nghe ca khúc này.
Điu khiến tôi không ng ti ch sau mt thi gian rt ngắn ra đời, vào ngày 17
tháng 8 năm 1945, Tiến quân ca được hàng nghìn người hòa nhp ct cao tiếng hát
trước quảng trường Nhà hát Ln. Bài hát tht s đã gây ra một hiu ng ln. Trong
mt lúc, nhng t truyền đơn in Tiến quân ca được phát cho từng người trong hàng
ngũ công chức d mít tinh. Khi ấy, tôi đứng lẫn vào trong đám đông qun chúng
trước ca Nhà hát Lớn. Tôi đã nghe thấy ging hát quen thuc ca anh bn tôi - Ph.
D. qua loa phóng thanh. Vào ngày 19 tháng 8, ngày cách mng tháng m thành
công Nội, tôi đã đưc nghe hàng ngàn người các em thiếu nhi cùng hát
Tiến quân ca.
Ca khúc Tiến quân ca đã ra đời như thế, trong thời đại lch s đất nước được đánh
du bởi “một bui bình minh mới” của dân tc. tác gi ca bài hát, tôi không
khỏi sung sướng và t hào.
Bài văn mẫu s 4
Quc ca Vit Nam - mt bài hát t lâu đã trở thành mt phần linh thiêng trong đi
sng tinh thn của người dân Việt Nam. Bài hát đã được sáng tác trong mt hoàn
cnh rất đặc bit.
Theo li k ca nhạc n Cao, khi còn trẻ, ông mt thanh niên kni. Bn
thưng khen ngi ông i hoa, am hiu c thơ ca hi họa. Nhưng ít ai biết
răng, ông cũng đã một khong thi gian khá dài chìm trong tuyt vng, không
tìm thy l sng cho cuộc đời mình. Cho đến khi đã gặp được anh Ph.D. Qua anh
Ph.D, ông li được anh Quý. Sau khi trò chuyện với Quý ông như đưc
giác ng, tìm thấy ý nghĩa cuộc đi mình. Không còn sa vào nhng bun chán, tht
vọng, ông khao khát được tham gia cách mng, mong mun vào chiến khu cùng
những người anh em đng lên cm súng giết quân thù. Nhưng nhiệm v ông nhn
đưc là sáng tác ngh thut.
Lúc mi bắt đầu sáng tác “Tiến quân ca”, nhạc Văn Cao chưa một ln cm súng
cũng chưa từng được gia nhập đội vũ trang nào, tôi chỉ biết đang làm một bài. Ông
chưa từng biết chiến khu, ch biết đến những con đường ga, đường Hàng Bông,
đưng B H theo thói quen tôi đi. Ông chưa gp các chiến trong khóa quân
chính đầu tiên đ biết h hát như thế nào. Nhưng bng nhit huyết tui trẻ, trên căn
gác nh ph Nguyễn Thượng Hin, ông đã hoàn thành bài hát “Tiến quân ca” trước
s chng kiến ca Ph.D - ngưi chng kiến s ra đời ca Tiến quân ca,anh Vũ Quý
- người đu tiên biết đến bài hát và ông Nguyễn Đình Thi - người xướng âm ca
khúc đã rất xúc đng.
Bài hát ra đời nhận được s ng h ca mi nời. Ngày 17 tháng 8 năm 1945,
bài hát lần đầu tiên được công b rng rãi trong mt cuc mít tinh ca công chc
Nội. Trước Quảng trường Nhà hát lớn, hàng ngàn ngưi ct cao tiếng hát, hòa
vang đầy khí thế hào hùng. Nhng t truyền đơn in Tiến quân ca được phát đến tay
mọi người trong hàng ncác công chc tham d bui mít tinh. Ln th hai Tiến
quân ca được xut hin trong mt cuc mít tinh din ra vào ngày 19 tháng 8.
Hôm đó, hàng ngàn ngưi cùng nhng em thiếu nhi ct cao li ca, tiếng hát; thét
lên tiếng căm hờn vào mặt đế quc tàn bo vi nim t hào v chiến thng
ca cách mng.
Tiến quân ca - Quc ca Việt Nam đã ra đời như vậy, trong thời đại lch s đánh
du bui bình minh mi của đất nước. Tác phm mang mt giá tr lch s to lớn đối
vi dân tc Vit Nam.
Bài văn mẫu s 5
Bản Tuyên ngôn Độc lập (1945) ý nghĩa cùng quan trọng đi vi dân tc
Vit Nam. Bản Tuyên ngôn được viết bi Ch tch H Chí Minh - v lãnh t kính
yêu ca dân tc.
Tng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Ngày 2 tháng 9
năm 1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Ch tch H Chí Minh đã thay mặt
Chính ph lâm thời nước Vit Nam dân ch cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lp,
khai sinh ra nước Vit Nam mi.
S ra đời ca bản Tuyên ngôn Độc lp ý nghĩa cùng quan trọng. Mc thi
gian đầu tiên phi k đến vào ngày 4 tháng 5 năm 1945, Bác H ri Pác v
Tân Trào. Giữa tháng năm, Người đã yêu cầu trung úy Giôn, báo v của OSS (Cơ
quan phc v chiến lược Mỹ) điện v Côn Minh, đề ngh th cho Người cun
Tuyên ngôn Độc lp ca Hoa Kì.
Đến ngày 22 tháng 8 năm 1945, Bác rời Tân Trào v Ni. Tối 25 tháng 8 năm
1945, Người vào ni thành, tng 2 tại căn nhà số 48 Hàng Ngang. Sáng 26 tháng
8 năm 1945, Bác đã cho triệu tp mt cuc họp Thường v Trung ương Đảng, đ
bàn v các vấn đề như chủ trương đối nội, đối ngoi trong tình hình mi; công b
danh sách các thành viên Chính ph lâm thi; chun b ra Tuyên ngôn Độc lp, t
chc mít tinh ln Hà Nội để Chính ph lâm thi ra mt toàn th nhân dân.
Vào ngày 27 tháng 8 năm 1945, Ngưi tiếp các b trưởng mi tham gia Chính ph
đưa ra đề ngh Chính ph ra mt quốc dân, đọc Tuyên ngôn Độc lập Người đã
chun b. Bác đưa ra bn thảo và đ ngh các thành viên phi xét duyệt kĩ không
ch đọc cho đồng o c ớc nghe còn độc cho Chính ph Pháp nhân dân
Pháp, các nước đng minh nghe.
Trong hai ngày 28 29 tháng 8 năm 1945, Bác đến làm vic ti 12 Ngô Quyn
(tr s chính ca Chính ph lâm thi) và dành phn ln thời gian đ son tho bn
Tuyên ngôn Độc lp. Bui ti tại n nhà số 48 Hàng Ngang, Bác đã tự đánh máy
bản Tuyên ngôn Độc lp trên mt cái bàn tròn.
Vào ngày 30 tháng 8 năm 1945, Bác cho mời các đồng chí đến để trao đổi, đóng
góp ý kiến cho bản Tuyên ngôn độc lập. Bác đọc cho mọi người nghe, hi ý kiến
ca từng người. Đến ngày 31 tháng 8, Bác đã bổ sung mt s ý vào bn Tuyên
ngôn. Bản Tuyên ngôn Độc lp chính thức được hoàn thin.
Đúng 14 giờ ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945, ti quảng trường Ba Đình lịch s,
Ch tch H Chí Minh đc bn Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Vit Nam
Dân ch Cng hòa.
th khẳng định rằng, Tuyên ngôn Độc lập văn kiện lch s tuyên b trước
quốc dân đồng bào thế gii v vic chm dt chế độ thc dân, phong kiến
ớc ta, đánh du k nguyên độc lp, t do của nước Vit Nam mi. Quá trình viết
Tuyên ngôn Độc lập đã cho thy s chun b lưỡng cũng như trí tuệ và tm nhìn
ca mt v lãnh t - Ch tch H Chí Minh.
Bài văn mẫu s 6
Tiến quân ca là mt trong những sáng tác tâm đc nht của tôi. Bài hát đưc ra đời
trong mt bi cnh lch s đc biệt, cũng như đánh du một bước ngot ln ca
cuộc đời ca tôi.
Trong mt khong thời gian khá dài, tôi đã đánh mất đi những khát vọng ước
ca tui trẻ. Khi đó, cuộc sng ch chìm trong nhng ngày tháng tuyt vng,
chán nn. Gia lúc tôi mun b cuộc, tôi đã gặp được anh Ph. D. - một người bn
rt thân thiết đã khiến cuộc đời của tôi thay đổi.
Anh Ph.D. đã giới thiu tôi quen biết với anh Quý, người đã theo dõi con
đưng hoạt động ngh thut của tôi lâu năm. Chúng tôi đã có một bui trò chuyn,
với tôi cùng quý giá, đ t đó, tôi đã tìm ra hướng đi mới cho bn thân - đi theo
cách mng. Khao khát của tôi là được cùng với đồng đội cm súng tiêu dit k thù,
nhưng nhiệm v ca tôi li là sáng tác ngh thut.
Thi điểm đó, khoa quân chính kháng Nht sp m, cn một bài hát đ khích l
tinh thần cho quân đội cách mạng. Tôi đã tng sáng tác khá nhiu bài hát v tinh
thần yêu nước như: Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng… tuy nhiên
tôi lại chưa từng viết v cách mng. Dù vy, tôi dùng hết tt c lòng nhiệt thành đ
sáng tác nên bài hát “Tiến quân ca”.
Anh Ph.D. người đã chứng kiến toàn b quá trình sáng tác bài hát. Còn anh Vũ
Quý là người đầu tiên đưc biết đến bài hát. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi chính
người đầu tiên xướng âm ca khúc. C ba đều vô cùng xúc động.
Tôi không ng rng, ch sau mt thi gian rt ngắn, vào ngày 17 tháng 8 năm 1945,
Tiến quân ca được hàng nghìn người hòa nhp ct cao tiếng hát trước quảng trường
Nhà hát Ln. Trong mt lúc, nhng t truyền đơn in Tiến quân ca đưc phát cho
từng người trong hàng ngũ công chc d mít tinh. Khi ấy, tôi đng ln vào trong
đám đông quần chúng trước ca Nhà hát Lớn. Tôi đã nghe thấy ging hát quen
thuc ca anh bn tôi - Ph. D. qua loa phóng thanh. Ln th hai là ngày 19 tháng 8,
hàng ngàn người các em thiếu nhi cùng hát tiến quân ca. Sau này, khi bài hát
“Tiến quân ca” được chn làm Quc ca chính thc của nước Vit Nam, tôi càng
ly làm vinh d và t hào.
Bài hát “Tiến quân ca” đã ra đời trong thời đại lch s đất nước được đánh dấu bi
“mt bui bình minh mới” của dân tc.
Bài văn mẫu s 7
Nhng s kin lch s ý nghĩa ln lao vi mt quc gia, dân tc. Và s kin
tôi ấn tượng nht chính là Cách mng tháng Tám (1945) ca dân tc Vit Nam.
Năm 1945, Đảng Cng Sn Việt Nam đã lãnh đo nhân dân Vit Nam tiến hành
cuc tng khởi nghĩa đ phá b xing xích nô l hơn tám mươi năm dưới ách thng
tr ca thc dân Pháp, m ra mt bước ngot mới cho đất nước Vit Nam.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, trong đêm Nht - Pháp bn nhau, Hi ngh Thường v
m rộng dưi s ch đo ca Tổng bí thư Trường Chinh. Đến ngày 12 tháng 3 năm
1945, Ban thường v trung ương Đảng đã họp hi ngh m rng, ra Ch th nêu
“Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
T ngày 13 đến ngày 15 tháng 8 năm 1945, Trung ương Đng và Tng b Vit
Minh thành lp y ban khởi nghĩa toàn quc, ra Quân lnh s 1. Ngày 16 tháng 8
năm 1945, Đại hi Quc dân hp Tân Trào (Tuyên Quang) thông qua Lnh Tng
khởi nghĩa. Đến chiu cùng ngày, một đơn v Quân giải phóng do đồng chí
Nguyên Giáp ch huy t Tân Trào tiến v gii phóng Thái Nguyên, m đầu cho
Cách mng tháng Tám.
Ngày 17 tháng 8 m 1945, y ban gii phóng n tc ra mt quc n làm l
tuyên th trước sân đình Tân Trào. Vào ngày 18 tháng 8 năm 1845, nhân dân bốn
tnh Bc Giang, Hải ơng, Tĩnh, Quảng Nam khởi nghĩa giành chính quyền.
Ngày 19 tháng 8 năm 1945, cuc khởi nghĩa giành thng li ti th đô Hà Nội. T
ngày 20 tháng 8, cuc tng khởi nghĩa lan rộng ra trên khp các tnh thành ph.
Ngày 30 tháng 8 năm 1945, Hoàng đế Bảo Đại - v vua cui cùng ca triều đình
nhà Nguyn thoái v. Cuc Tng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám toàn thng.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, ti Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), ch tch H Chí
Minh đã đc bn Tuyên ngôn đc lập, khai sinh ra nước Vit Nam dân ch cng
hòa.
Cuc Tng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám đã ý nghĩa lch s to lớn đi vi
đất nước và nhân dân Vit Nam.
| 1/27

Preview text:

Văn mẫu lớp 7
Viết bài văn kể về một sự việc có thật liên quan đến nhân vật hoặc
sự kiện lịch sử
Dàn ý kể về một sự việc có thật Dàn ý số 1 1. Mở bài
 Nếu được sự việc có thật liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử mà văn bản sẽ thuật lại.
 Nêu lí do hay hoàn cảnh người viết thu thập tư liệu liên quan. 2. Thân bài
a. Gợi lại bối cảnh, câu chuyện, dấu tích liên quan đến nhân vật/sự kiện.
 Câu chuyện, huyền thoại liên quan.  Dấu tích liên quan.
b. Thuật lại nội dung, diễn biến của sự việc có thật liên quan đến nhân vật/sự kiện lịch sử.
 Bắt đầu - diễn biến - kết thúc.
 Sử dụng được một số bằng chứng (tư liệu, trích dẫn… ), kết hợp kể chuyện, miêu tả.
c. Ý nghĩa, tác động của sự việc đối với đời sống hoặc đối với nhận thức về nhân vật/sự kiện. 3. Kết bài
Khẳng định ý nghĩa của sự việc hoặc nêu cảm nhận của người viết về sự việc. Dàn ý số 2 1. Mở bài
 Nêu được sự việc có thật liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử mà em sẽ
thuật lại trong bài viết.
 Chỉ ra lí do hoặc hoàn cảnh người viết thu thập tư liệu liên quan đến nhân vật
hoặc sự kiện lịch sử đó. 2. Thân bài
a. Gợi lại bối cảnh, câu chuyện, dấu tích liên quan đến nhân vật/sự kiện được nhắc đến:
 Không gian, thời gian xảy ra câu chuyện.
 Dấu tích liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử được nói đến.
b. Thuật lại nội dung, diễn biến của sự việc có thật liên quan đến nhân vật/sự kiện lịch sử:
 Bắt đầu - diễn biến - kết thúc.
 Sử dụng được một số bằng chứng (tư liệu, trích dẫn… ), kết hợp kể chuyện, miêu tả.
c. Vai trò, ý nghĩa hoặc tầm ảnh hưởng của sự việc đối với đời sống hoặc đối với
nhận thức về nhân vật hoặc sự kiện lịch sử. 3. Kết bài
Khẳng định ý nghĩa của sự việc hoặc nêu cảm nhận của người viết về sự việc hoặc nhân vật lịch sử. Dàn ý số 3 1. Mở bài
Giới thiệu nhân vật và sự kiện liên quan đến nhân vật/sự kiện lịch sử. 2. Thân bài
Thuật lại quá trình diễn biến của sự việc, chỉ ra mối liên quan giữa sự việc với
nhân vật/sự kiện lịch sử, kết hợp kể chuyện với miêu tả. 3. Kết bài
Khẳng định ý nghĩa của sự việc, nêu cảm nhận của người viết.
Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử Bài văn mẫu số 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời của
người là một tấm gương sáng ngời cho mỗi người dân Việt Nam noi theo. Và
những câu chuyện về Người cũng luôn để lại bài học giá trị cho chúng ta.
Truyện kể rằng trong những năm tháng sống ở Việt Bắc, mỗi lần đi công tác, Bác
đều có hai đồng chí đi cùng. Sợ Bác mệt, hai đồng chí đã bày tỏ ý muốn mang ba
lô giúp Bác. Nhưng Bác không đồng ý. Bác nói:
- Đi đường rừng, leo núi ai mà chẳng mệt, tập trung đồ vật cho một người mang đi
thì người đó càng chóng mệt. Cứ phân đều ra cho cả ba người.
Hai đồng chí đành làm theo lời Bác, đem chia vật dụng vào ba chiếc ba lô. Bác hỏi lại:
- Các chú đã chia đều rồi chứ? Hai đồng chí trả lời: - Thưa Bác, rồi ạ!
Sau đó, cả ba cùng lên đường. Qua một chặng, lúc nghỉ, Bác đến chỗ các đồng chí
và xách chiếc ba lô lên. Bác hỏi:
- Tại sao ba lô của các chú nặng mà của Bác lại nhẹ?
Bác liền mở ra xem thì thấy bên trong ba lô của mình chỉ có chăn màn.
Bác tỏ ra không hài lòng, rồi nói:
- Chỉ có lao động thật sự mới đem lại hạnh phúc cho con người.
Sau đó, Bác lại yêu cầu hai đồng chí chia đều vật dụng vào ba chiếc ba lô mới chịu tiếp tục lên đường.
Câu chuyện nhỏ nhưng để lại bài học lớn. Có thể thấy, Bác là một người yêu lao
động. Bác suốt đời làm việc, suốt ngày làm việc, từ những việc lớn như cứu nước
đến việc nhỏ như trồng cây trong vườn. Việc gì có thể tự làm, Bác đều tự mình
hoàn thành. Cách sống của Bác giúp cho mỗi người nhận ra giá trị của lao động,
cũng như có ý thức tự giác học tập và làm việc hơn.
Quả thật, những câu chuyện về cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh thật ý nghĩa.
Từ đó, chúng ta luôn nhận ra được nhiều bài học bổ ích cho bản thân. Bài văn mẫu số 2
Bấy giờ, giặc Nguyên cho sứ thần sang giả vờ mượn đường để xâm chiếm nước ta.
Thấy sứ giặc ngang ngược, Trần Quốc Toản vô cùng căm giận.
Sáng nay, nhà vua họp bàn việc nước dưới thuyền rồng. Quốc Toản biết vậy nên
quyết đợi gặp vua để nói hai tiếng “xin đánh”. Đợi từ sáng đến trưa, cậu vẫn không
gặp được vua, bèn liều chết xô mấy người lính gác ngã chúi, xăm xăm xuống bến.
Thấy vậy, quân lính ập đến. Quốc Toản đỏ bừng mặt, rút gươm và quát lớn:
- Ta xuống diện kiến bệ hạ, kẻ nào dám ngăn cản.
Đúng lúc, cuộc họp dưới thuyền rồng tạm nghỉ, vua và các quan ra ngoài mui thuyền.
Quốc Toản chạy đến, quỳ xuống tâu:
- Cho giặc mượn đường là mất nước. Xin bệ hạ hãy cho đánh!
Nói rồi, cậu đặt gươm lên gáy, xin chịu tội.
Nhà vua cho truyền Quốc Toản đứng dậy, ôn tồn nói:
- Quốc Toản làm trái phép nước, đáng lẽ phải trị tội. Nhưng xét nghĩ em còn nhỏ
tuổi mà đã biết lo việc nên, ta có lời khen ngợi.
Nói rồi, vua sai người ban cho Quốc Toản một quả cam. Cậu tạ ơn vua rồi lên bờ
mà ấm ức. Cậu thầm nghĩ: “Vua ban cho cam quý nhưng vẫn coi ta là trẻ con,
không cho bàn việc nước”.
Quốc Toản nghĩ đến quân giặc đang bóc lột nhân dân, mà lòng đầy căm giận. Cậu
bóp nát trái cam trong tay lúc nào không hay. Đến khi mọi người ùa tới hỏi han.
Cậu xòe tay ra mới biết trái cam đã nát. Bài văn mẫu số 3
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Rất nhiều mẩu
chuyện kể về cuộc đời của Người. Qua đó, chúng ta thấy được những đức tính tốt đẹp của người.
Vào giữa mùa thu năm 1954, Bác đến tham dự “Hội nghị rút kinh nghiệm cải cách
ruộng đất” ở Hà Bắc. Tại hội nghị, khi biết có lệnh của Trung ương rút bớt một số
cán bộ đi học lớp tiếp quản thủ đô. Ai cũng háo hức muốn đi, đặc biệt là những
người quê ở Hà Nội. Sau nhiều năm xa cách quê hương, mọi người đều mong
muốn được cấp trên chiếu cố. Tư tưởng cán bộ dự hội nghị có nhiều phân tán. Ban
lãnh đạo ít nhiều thấy khó xử.
Trời đã vào thu nhưng vẫn còn khá nóng, mồ hôi ướt đẫm hai bên vai áo nâu của
Bác. Mở đầu, Bác trò chuyện về tình hình thời sự. Khi nói đến nhiệm vụ của toàn
Đảng, Bác bỗng rút trong túi áo giơ ra một chiếc đồng hồ quả quýt. Rồi Bác hỏi
các đồng chí cán bộ về chức năng của từng bộ phận của đồng hồ. Thế rồi, Bác mới hỏi:
- Trong cái đồng hồ, bộ phận nào là quan trọng?
Mọi người đều im lặng, không ai trả lời:
- Trong cái đồng hồ, bỏ một bộ phận đi có được không?
- Thưa, không được ạ!- Các cán bộ lại đồng thanh đáp.
Nghe mọi người trả lời, Bác bèn giơ cao chiếc đồng hồ lên và kết luận:
- Các chú ạ, các bộ phận của một chiếc đồng hồ cũng ví như các cơ quan của một
Nhà nước, như các nhiệm vụ của cách mạng. Đã là nhiệm vụ của cách mạng thì
đều là quan trọng, điều cần phải làm. Các chú thử nghĩ xem: Trong một chiếc đồng
hồ mà anh kim đòi làm anh chữ số, anh máy lại đòi ra ngoài làm cái mặt đồng hồ…
cứ tranh nhau chỗ đứng như thế thì còn là cái đồng hồ được không?
Nghe xong, cả hội trường trở nên im lặng. Mỗi người đều có những suy nghĩ riêng về lời nói của Bác.
Vào một dịp cuối năm 1954, Bác đến thăm một đơn vị pháo binh đóng ở Bạch Mai
đang luyện tập để chuẩn bị cho cuộc duyệt binh đón mừng chiến thắng Điện Biên
Phủ. Thăm nơi ăn, chốn ngủ của các chiến sĩ bộ đội xong, Bác đã đã trò chuyện với
họ. Bác lấy ở túi ra một chiếc đồng hồ quả quýt, chỉ vào từng chiếc kim, từng chữ
số và hỏi anh em về tác dụng của từng bộ phận. Mọi người đều trả lời đúng cả.
Song chưa ai hiểu tại sao Bác lại nói như vậy? Bác vui vẻ nói tiếp:
- Đã bao nhiêu năm nay, chiếc kim đồng hồ vẫn chạy để chỉ cho ta biết giờ giấc,
chữ số trên mặt vẫn đứng yên một chỗ, bộ máy vẫn hoạt động đều đặn bên trong.
Tất cả đều nhịp nhàng làm việc theo sự phân công ấy. Nếu hoán đổi vị trí từng bộ
phận cho nhau thì có còn là chiếc đồng hồ nữa không? Sau câu chuyện của Bác,
anh chị em đều hiểu ý Bác dạy: Việc gì cách mạng phân công phải yên tâm hoàn thành.
Không chỉ vậy, chiếc đồng hồ quả quýt còn là một hiện vật vô giá thể hiện tình
cảm Quốc tế đối với Bác, đó là chiếc đồng hồ do Tổ chức Quốc tế “Cứu Tế đỏ”
tặng, Bác luôn giữ nó trong mình, trong những năm tháng bị cầm tù gian khổ cho
đến ngày Việt Nam giành được độc lập.
Câu chuyện về chiếc đồng hồ đã cho thấy được những phẩm chất đẹp đẽ của Bác
Hồ, cũng như bài học sâu sắc mà bác muốn dạy cán bộ, chiến sĩ của mình. Bài văn mẫu số 4
Trong những năm tháng chiến tranh, rất nhiều người con của mảnh đất Việt Nam
đã hy sinh để bảo vệ và đấu tranh cho nền độc lập của dân tộc. Một trong số đó là
Võ Thị Sáu - nữ anh hùng huyền thoại vùng Đất Đỏ.
Võ Thị Sáu sinh năm 1933, mất năm 1952. Nguyên quán được ghi trên bia mộ chỉ
ghi tại huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Ngay từ khi còn nhỏ, chị đã cùng
với anh trai tham gia cách mạng. Chị tham gia vào đội công an xung phong, hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ liên lạc, tiếp tế. Trong thời gian này, chị tham gia nhiều
trận chiến đấu để bảo vệ quê hương. Không chỉ vậy, chị cũng nhiều lần phát hiện
ra gian tế, tay sai Pháp, giúp đội công an thoát khỏi nguy hiểm, chủ động tấn công địch.
Một lần nọ, chị nhận nhiệm vụ mang lựu đạn phục kích giết tên cai Tòng - một tên
Việt gian bán nước ngay tại xã nhà. Lựu đạn nổ, tên Tòng bị thương nặng nhưng
không chết. Tuy nhiên, vụ tấn công khiến bọn lính đồn khiếp vía, không dám truy
lùng Việt Minh ráo riết như trước. Sau này, trong một lần thực hiện nhiệm vụ, chị
đã bị giặc bắt. Sau khi bị bắt, cô lần lượt bị đưa đi thẩm vấn và giam giữ tại các
nhà tù Đất Đỏ, khám đường Bà Rịa và khám Chí Hòa. Thực dân Pháp đã cho mở
phiên tòa, thời điểm này, chị vẫn chưa tròn mười tám tuổi. Luật sư biện hộ đã lấy
đó làm căn cứ để giúp chị thoát khỏi án tử hình, nhưng tòa án vẫn tuyên án tử hình
chị. Chúng chuyển chị cùng một số người tù cách mạng ra nhà tù Côn Đảo. Ở đây,
thực dân Pháp đã lén lút đem chị đi tử hình.
Vào năm 1993, Nhà nước đã trân trọng truy tặng chị Huân chương chiến công
hạng Nhất và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Chị Võ Thị Sáu chính là
một biểu tượng về lòng dũng cảm, kiên cường. Bài văn mẫu số 5
Trần Quốc Tuấn (1231? - 1300), tước Hưng Đạo Vương là một danh tướng kiệt
xuất của dân tộc thời Trần. Ông là một vị anh hùng của dân tộc, có công lớn trong
chiến thắng chống quân Nguyên - Mông.
Ông là con của An Sinh Vương. Lúc mới sinh ra, có một thầy tướng xem cho và
bảo: “Người này ngày sau có thể giúp nước cứu đời”. Đến khi lớn lên, dung mạo
khôi ngô, thông minh hơn người, đọc rộng các sách, có tài văn võ. Cha của ông
trước đây vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng, mang lòng hậm hực, tìm khắp những
người tài nghệ để dạy Quốc Tuấn. Lúc sắp mất, An Sinh cầm tay Quốc Tuấn dặn rằng:
- Con mà không vì cha lấy được thiên hạ thì cha dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được.
Ông ghi nhớ trong lòng, nhưng không cho điều đó là phải. Sau này, đến khi vận
nước ở trong tay, quyền quân quyền nước đều do ở mình, ông đem lời cha dặn nói
với gia nô là Dã Tượng, Yết Kiêu. Họ đã can ngăn ông:
- Làm kế ấy tuy được phú qu một thời mà để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay đại
vương chẳng phải đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô,
chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu.
Trần Quốc Tuấn nghe vậy, lấy làm cảm phục lắm, liền khen ngợi hai người. Trong
hai năm, 1285 và năm 1287, quân Nguyên - Mông xâm lược nước ta, lần nào ông
cũng được Trần Nhân Tông cử làm Tiết chế thống lĩnh các đạo quân, cả hai lần
đều thắng lợi vẻ vang. Sau này khi mất, nhân dân tôn thờ ông là Đức thánh Trần và
lập đền thờ ở nhiều trên đất nước.
Qua sự này, có thể thấy được tấm lòng trung nghĩa với vua, với nước, không tư lợi
của Trần Quốc Tuấn, ông là người thận trọng và quyết đoán và cũng chân thành.
Có thể khẳng định, Trần Hưng Đạo là một vị anh hùng lỗi lạc của dân tộc. Cuộc
đời của ông đã có những đóng góp to lớn cho nhân dân, đất nước. Bài văn mẫu số 6
Mạc Đĩnh Chi (1272 - 1346), tự là Tiết Phu, người ở thôn Lũng Động, huyện Chí
Linh, tỉnh Hải Dương. Ông là một nhân vật lịch sử mà tôi cảm thấy rất ngưỡng mộ và kính trọng.
Mạc Đĩnh Chi vốn thông minh hơn người. Vì văn hay chữ tốt, ông được Chiêu
Quốc vương Trần Ích Tắc nhận làm môn đồ, chu cấp cho ăn học. Tháng 3, năm
Giáp Thìn (1304), vua Trần Anh Tông đã cho mở khoa thi Thái học sinh để tìm
kiếm nhân tài. Kỳ thi đó lấy đỗ được bốn mươi bốn người. Mạc Đĩnh Chi đỗ Trạng
nguyên, được sung làm Nội thư gia. Dù vậy, Mạc Đĩnh Chi lại có hình dáng thấp
bé, vua Trần Anh Tông thường chê ông xấu. Mạc Đĩnh Chi đã làm bài phú “Ngọc
tỉnh liên phú” có nghĩa là “Sen trong giếng Ngọc” để tự nói mình. Vua Trần Anh
Tông xem xong, không ngớt lời khen ngợi.
Khi đảm nhận chức Nội thư gia, Mạc Đĩnh Chi phụng mệnh đi sứ sang Trung
Quốc. Nhà Nguyên có ý xem thường ông vì ngoại hình. Một hôm, quan Tể tướng
cho mời ông vào phủ. Trong phủ có treo một bức tranh mỏng thêu con chim sẻ
vàng đỗ cành trúc. Mạc Đĩnh Chi giả vờ nhận lầm con chim ấy là thật, vội nhảy tới
chụp bắt. Cả triều thần nhà Nguyên cùng cười ồ cho ông là quê mùa. Ông liền kéo
bức tranh xuống và xé nát. Mọi người lấy làm lạ, hỏi lý do. Ông đáp: “Theo chỗ tôi
biết, cố nhân chỉ vẽ tranh mai – tước, chớ chưa bao giờ vẽ tranh trúc – tước. Vì
trúc là biểu tượng của mẫu người quân tử, chim sẻ là biểu tượng của bọn tiểu nhân.
Nay bức tranh này lại thêu trúc – tước, tức là đã đem tiểu nhân đặt lên trên quân tử.
Tôi sợ rằng làm như vậy rồi đạo của tiểu nhân sẽ mạnh, đạo của quân tử sẽ bị suy.
Bởi vậy tôi xin thánh triều trừ khử đi”. Lúc này, tất cả đều phải khâm phục tài năng của ông.
Một lần nọ, vào tiến triều vua Nguyên, đến khi vào chầu gặp người nước ngoài
dâng quạt, vua Nguyên sai làm bài minh. Mạc Đĩnh Chi cầm bút viết xong ngay
hoàng đế nhà Nguyên xem xong rất khen ngợi. Kể từ đó, triều Nguyên càng thêm
thán phục và Mạc Đĩnh Chi đã được xem là “Lưỡng quốc trạng nguyên”.
Có thể khẳng định rằng, Mạc Đĩnh Chi là một vị Trạng nguyên tài giỏi hơn người,
có công lao rất lớn đối với đất nước. Bài văn mẫu số 7
Một trong những vị anh hùng của dân tộc Việt Nam là Võ Thị Sáu. Chị chính là
một trong những biểu tượng cho lòng dũng cảm, sự gan dạ của người phụ nữ Việt Nam.
Võ Thị Sáu sinh năm 1933, mất năm 1952. Về nguyên quán, trên bia mộ chỉ ghi tại
huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Chị tham gia hoạt động cách mạng từ khi
còn rất trẻ, đã hoàn thành xuất sắc nhiều nhiệm vụ quan trọng.
Chị đã tham gia nhiều trận chiến đấu để bảo vệ quê hương, dùng lựu đạn tiêu diệt
hai tên ác ôn và làm bị thương nhiều lính Pháp. Chị còn nhiều lần phát hiện gian tế,
tay sai Pháp, giúp đội công an thoát khỏi nguy hiểm, chủ động trong việc tấn công địch…
Vào tháng 7 năm 1948, Công an Đất Đỏ được giao nhiệm vụ phá cuộc mít tinh kỷ
niệm Quốc khánh Pháp. Dù nguy hiểm, nhưng chị Sáu vẫn chủ động xin được trực
tiếp đánh trận này. Chị đã nhận lựu đạn, giấu vào góc chợ gần khán đài từ nửa đêm.
Sáng hôm đó, địch lùa người dân vào sân. Khi xe của tỉnh trưởng tới, chị tung lựu
đạn về phía khán đài, uy hiếp giải tán mít tinh.
Hai tổ công an xung phong ở gần đấy đồng loạt nổ súng yểm trợ tạo áp lực giải tán
cuộc mít tinh, đồng thời hỗ trợ cho chị Sáu rút an toàn. Người của Việt Minh được
bố trí trong đám đông hô to “Việt Minh tiến công” và hướng dẫn người dân giải
tán. Sau chiến công này, chị Sáu được tổ chức tuyên dương khen ngợi và được
giao nhiệm nhiều nhiệm vụ quan trọng khác. Khi bị giặc bắt giam tại nhà tù Côn
Đảo, chuẩn bị xử tử hình, chị vẫn giữ được tinh thần của người chiến sĩ cách mạng.
Năm 1993, Nhà nước đã trân trọng truy tặng chị Huân chương chiến công hạng
Nhất và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.
Có thể khẳng định rằng, chị Võ Thị Sáu là một tấm gương về lòng dũng cảm, sự
gan dạ, đáng để chúng ta học tập và noi theo. Bài văn mẫu số 8
Đất nước Việt Nam đã sản sinh ra rất nhiều anh hùng. Trong số đó, Trần Quốc
Toản là vị anh hùng đáng ngưỡng mộ và cảm phục.
Trần Quốc Toản (không rõ năm sinh, năm mất), hiệu là Hoài Văn hầu, là một tông thất nhà Trần.
Vào năm 1282, vua Trần Nhân Tông cho tổ chức Hội nghị gồm các Vương hầu và
tướng lĩnh tại bến Bình Than để bàn kế sách chống giặc Mông - Nguyên. Vì còn ít
tuổi nên Trần Quốc Toản không được tham dự. Quốc Toản trong lòng hổ thẹn,
phẫn uất, tay cầm quả cam mà bóp nát lúc nào không biết.
Không nản lòng, Trần Quốc Toản lui về huy động hơn nghìn gia nô và thân thuộc
sắm vũ khí, đóng chiến thuyền viết lên cờ sáu chữ “phá cường địch, báo hoàng ân”
(Phá giặc mạnh, đền ơn vua). Tiếng vang của Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ
vàng lan truyền khắp mọi nơi.
Đến năm 1285, quân Mông - Nguyên tràn vào xâm lược nước ta. Lúc này, lá cờ
thêu sáu chữ vàng của Hoài Văn hầu xuất hiện trên nhiều mặt trận. Ông đã trực
tiếp chỉ huy quân đội sát cánh cùng quân chủ lực của triều đình góp phần làm nên
những chiến thắng vang dội ở Hàm Tử, Tây Kết, Chương Dương. Quân giặc phải
bỏ Thăng Long, chạy về Kinh Bắc (Bắc Ninh) để tìm đường về nước. Sau này, khi
ông hy sinh, vua Trần hết sức thương tiếc, cho cử hành tang lễ và đích thân làm
văn tế và truy tặng Trần Quốc Toản tước Hoài Văn Vương.
Trần Quốc Toản không chỉ có tài năng mà còn mang những phẩm chất tốt đẹp như
dũng cảm, kiên cường và nghị lực. Ông đã trở thành tấm gương sáng ngời về ý chí
và lòng yêu nước để các thế hệ trẻ Việt Nam noi theo. Bài văn mẫu số 9
Đại tướng Võ Nguyên Giáp - người anh cả của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Cuộc đời của ông là một tấm gương tiêu biểu để mỗi người dân Việt Nam noi theo.
Tháng 11 năm 1983, Đại tướng có về quê và ghé thăm trường cấp 3 Lệ Thủy. Ông
nhận được sự chào đón của toàn thể cán bộ, giáo viên và học sinh trong trường.
Lúc đó, Đại tướng đã rẽ đám đông đến trước một ông già thấp đậm, quắc thước,
râu tóc bạc trắng và cất tiếng hỏi:
- Tôi trông cụ quen quen? Có phải cụ là Choạc không?
Cụ già mới lúng túng đáp: - Thưa ngài… đúng ạ! Đại tướng liền nói:
- Xin cụ đừng gọi như vậy. Năm nay cụ bao nhiêu tuổi?
- Dạ thưa, tôi đã bảy mươi mốt tuổi. Đại tướng tiếp lời:
- Tôi bảy mươi ba, chúng ta là bạn đồng niên.
Đến khi Đại tướng rời đi, mọi người mới nghe kể lại. Ông Lê Choạc khi còn trẻ
thường đi cấy, gặt thuê, trong đó có nhà cụ Võ Quang Nghiêm. Vào các dịp nghỉ
hè, cậu Giáp học ở Huế thường về quê. Dù đã nửa thế kỉ trôi qua, trong đám đông,
Đại tướng vẫn nhận ra người quen cũ.
Có thể thấy, Đại tướng là một con người trọng tình nghĩa, tài đức vẹn toàn. Ông
chính là tấm gương sáng ngời cho thế hệ sau học tập.
Bài văn mẫu số 10
Đất nước Việt Nam đã trải qua một nghìn năm Bắc thuộc. Rất nhiều vị anh hùng
đã đứng lên đấu tranh, bảo vệ đất nước. Một trong số đó phải kể đến Hai Bà Trưng.
Hai Bà Trưng gồm hai chị em ruột là bà Trưng Trắc và bà Trưng Nhị. Họ đã ghi
danh vào trang sử hào hùng với cuộc chiến chống ách đô hộ nhà Đông Hán (40 -
43). Chồng của bà Trưng Trắc bị thái thú Tô Định giết hại một cách dã man. Nợ
nước, thù nhà nên bà quyết định nổi binh cùng em gái là Trưng Nhị chống lại kẻ
thù. Trước khi xuất binh, hai bà đã đọc vang lời thề:
“Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin nối lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này”
Trong cuộc khởi nghĩa của hai bà, có rất nhiều nữ tướng tham gia và họ cùng nhau
lập những chiến công khiến cho quân giặc khiếp hồn, thái thú Tô Định phải bỏ
chạy về nước. Sau khi làm chủ đất Mê Linh, Trưng Trắc lên làm vua lấy hiệu là
Trưng Vương, hoàn thành sứ mệnh nối nghiệp họ Hùng. Năm 43, quân giặc tiến
quân xâm lược, Hai Bà Trưng kiên cường chống trả, song quân địch quá đông và
mạnh, nghĩa quân thua trận.
Hai Bà Trưng là những vị tướng tài năng của dân tộc. Tuy là phụ nữ, nhưng lại có
lòng dũng cảm, tài năng hơn người cùng với ý chí quyết tâm để lãnh đạo nhân dân
chống lại kẻ thù xâm lược.
Có thể khẳng định rằng, Hai Bà Trưng chính là những nữ anh hùng đầu tiên trong
lịch sử dân tộc, là tấm gương để mỗi người học tập và noi theo.
Bài văn mẫu số 11
Từ xưa đến nay, dân tộc Việt Nam vốn tự hào với truyền thống yêu nước của dân
tộc. Trong bất cứ thời đại nào, đất nước cũng có những bậc anh hùng đứng lên lãnh
đạo nhân dân đánh bại kẻ thù xâm lược, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Một
trong số đó phải kể đến Hưng Đạo Đại Vương - Trần Quốc Tuấn.
Trần Quốc Tuấn (1231? - 1300), tước Hưng Đạo Đại Vương. Ông là con trai của
thân vương An Sinh Vương - Trần Liễu. Ông sinh ra trong một thời kì “hỗn loạn”
của nhà Trần. Năm 1285 và năm 1287, quân Nguyên - Mông xâm lược nước ta, lần
nào ông cũng được Trần Nhân Tông cử làm Tiết chế thống lĩnh các đạo quân, cả
hai lần đều thắng lợi vẻ vang. Vào đời vua Trần Anh Tông, ông về trí sĩ ở Vạn
Kiếp (nay là xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) rồi mất ở đấy. Nhân
dân tôn thờ ông là Đức thánh Trần và lập đền thờ ở nhiều trên đất nước.
Trần Quốc Tuấn được biết đến là một người thông minh, văn võ song toàn. Ông
chính là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc thời Trần, góp công lớn trong cuộc
kháng chiến chống quân Mông - Nguyên của dân tộc. Không chỉ vậy, ông cũng có
nhiều tác phẩm hay, chủ yếu liên quan đến binh pháp. Các tác phẩm của ông gồm
Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Hịch tướng sĩ), Binh gia diệu lý yếu lược (Binh thư yếu
lược), Vạn Kiếp tông bí truyền thư (Sách bí truyền của tông phái Vạn Kiếp, đã bị thất lạc).
Có rất nhiều tích truyện kể về Trần Quốc Tuấn. Trong đó, chúng ta có thể kể đến
việc Trần Quốc Tuấn viết “Hịch tướng sĩ”. Bài hịch được viết vào khoảng trước
cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần thứ hai (1285). Mục đích của Trần
Quốc Tuấn nhằm khích lệ tướng sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược (Sách tóm tắt
những điều cốt yếu về binh pháp) cũng do chính ông soạn.
Nội dung chính của “Hịch tướng sĩ” phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân
tộc ta trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Điều đó được thể hiện qua lòng
căm thù giặc, ý chí quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược. đưa ra những tấm
gương thể hiện sự trung thành của các vị tướng thời trước. Sau đó ông nêu lên tội
ác của quân giặc, bộc lộ nỗi lòng của mình trước hoàn cảnh của đất nước. Ông chỉ
ra sự sai trái trong hành động, suy nghĩ của các tướng sĩ. Cuối cùng là lời kêu gọi
tướng sĩ học tập theo “Binh thư yếu lược”.
Có thể thấy rằng, Trần Quốc Tuấn không chỉ là một người tài ba anh dũng còn là
một vị tướng hết lòng vì vận mệnh đất nước. Ông là một vị anh hùng kiệt xuất,
được thế giới tôn vinh là một trong những vị tướng vĩ đại nhất mọi thời đại.
Bài văn mẫu số 12
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời của
Người đã cống hiến cho đất nước và nhân dân. Có rất nhiều sự việc liên quan đến
Bác đã được kể lại.
Sự việc dưới đây xảy ra trước khi Bác Hồ quyết định ra đi tim đường cứu nước.
Hồi ấy, ở Sài Gòn, Bác Hồ có một người bạn tên là Lê. Một hôm, Bác Hồ hỏi bác Lê:
- Anh có yêu nước không? Bác Lê trả lời: - Có chứ!
- Anh có thể giữ bí mật không? - Có!
- Tôi muốn đi ra nước ngoài xem Pháp và các nước khác họ làm như thế nào. Sau
đó, trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng đi một mình cũng mạo hiểm. Anh có muốn đi với tôi không? Bác Lê sửng sốt:
- Nhưng chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi? - Đây, tiền đây!
Vừa nói. Bác Hồ vừa giơ hai tay ra và tiếp:
- Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. Anh đi với tôi chứ? …
Và sau đó, vào ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, chỉ có người thanh
niên tên Nguyễn Tất Thành (sau đổi thành Văn Ba ) lên đường sang Pháp. Bác đã
xin làm nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville.
Chủ tịch Hồ Chí Minh làm tấm gương của sự dám nghĩ, dám làm. Bác đã ấp ủ ý
định và quyết tâm thực hiện, điều đó cũng xuất phát từ chính tấm lòng yêu nước, thương dân sâu nặng.
Như vậy, Bác chính là tấm gương sáng người để mỗi người học tập theo. Mỗi câu
chuyện về Bác đều ý nghĩa và đáng trân trọng.
Bài văn mẫu số 13
Một trong những vị anh hùng dân tộc đáng ngưỡng mộ phải kể đến là Đại tướng
Võ Nguyên Giáp. Ông được coi là người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Võ Nguyên Giáp, tên khai sinh là Võ Giáp, bí danh là Văn. Ông sinh năm 1911,
mất năm 2013. Quê tại làng An Xá, nay là xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
Có rất nhiều mẩu chuyện kể về vị tướng huyền thoại của nhân dân. Truyện kể rằng,
cụ Võ Quang Nghiêm, thân sinh của Đại tướng là liệt sĩ. Sau khi tìm được mộ cụ
và đưa từ Huế về (1977), hài cốt cụ được đưa vào nghĩa trang liệt sĩ huyện. Khi
thiết kế nghĩa trang, huyện đã chừa hai ô ở khu các anh hùng, có ý sẽ an táng song
thân Đại tướng ở đó. Nhưng lúc biết chuyện, Đại tướng nói:
- Cảm ơn thiện ý của lãnh đạo huyện, nhưng ông thân tôi là liệt sĩ bình thường nên
không thể đặt ở khu vực dành cho các anh hùng. Còn thân mẫu tôi là người dân,
không thể đặt vào nghĩa trang liệt sĩ
Vì vậy, theo lời Đại tướng, cụ thân sinh được đặt ở cạnh khu vực các anh hùng liệt
sĩ, còn thân mẫu được an táng phía ngoài nghĩa trang, cách khuôn viên vài chục mét.
Từ câu chuyện nhỏ này, có thể thấy rằng Đại tướng đã nghiêm túc thực hiện lời
dạy của Bác Hồ: Người cách mạng phải “dĩ công vi thượng”! Quả là người học trò gương mẫu của Bác.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng.
Không chỉ vậy, ông còn là tấm gương về một nhân cách lớn cho thế hệ sau noi theo.
Bài văn mẫu số 14
Hai Bà Trưng được biết đến là những vị nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Vào đầu thế kỉ I, nước ta bị nhà Hán đô hộ. Thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định nổi
tiếng tham lam, tàn bạo. Hai chị em là Trưng Trắc, Trưng Nhị sinh ra và lớn lên
trong cảnh nước mất nhà tan, nên sớm có lòng căm thù giặc. Bấy giờ, Trưng Trắc
cùng chồng của mình là Thi Sách đã liên kết với các thủ lĩnh khác để chuẩn bị cho
cùng nổi dậy. Ngay lúc này, Thi Sách lại bị Tô Định bắt và giết hại. Hai Bà Trưng
quyết tâm khởi nghĩa để đền nợ nước, trả thù nhà.
Diễn biến cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng gồm có hai giai đoạn. Lần một vào năm
40, cuộc khởi nghĩa thu hút được hào kiệt khắp nơi về gia nhập. Nghĩa quân đã
nhanh chóng đánh bại được quân nhà Hán, làm chủ Mê Linh, rồi tiến về Cổ Loa và
Lụy Châu. Quan thái thú Tô Định bỏ thành, chạy trốn về Nam Hải (Quảng Đông,
Trung Quốc). Quân Hán ở các quận huyện khác cũng gặp thất bại. Cuộc khởi nghĩa thắng lợi hoàn toàn.
Đến năm 42, nhà Hán tiếp tục trở lại xâm lược, cử Mã Viện chỉ đạo cánh quân xâm
lược này gồm có hai vạn quân tinh nhuệ, hai nghìn xe thuyền và nhiều dân phu.
Chúng tấn công quân ta ở Hợp Phố, nhân dân ở Hợp Phố đã anh dũng chống trả
nhưng vẫn gặp thất bại. Sau khi chiếm được Hợp Phố, Mã Viện đã chia quân thành
hai đạo thủy bộ tiến Lục Đầu và gặp nhau tại Lẵng Bạc. Sau khi nhận được tin tức,
Hai Bà Trưng kéo quân từ Mê Linh về nghênh chiến với địch tại Lãng Bạc. Quân
ta giữ vững được Cổ Loa và Mê Linh nhưng Mã Viện tiếp tục đuổi theo buộc quân
ta phải lùi về Cẩm Khê. Tháng 3 năm 43, Hai Bà Trưng hy sinh ở Cẩm Khê. Cuộc
kháng chiến vẫn kéo dài đến tháng 11 năm 43 sau đó mới bị dập tắt. Dù thất bại,
nhưng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vẫn có ý nghĩa to lớn.
Có thể khẳng định rằng, Hai Bà Trưng chính là tấm gương về sự dũng cảm, tấm
lòng yêu nước để thế hệ sau noi theo.
Bài văn mẫu số 15
Đất nước Việt Nam có rất nhiều vị anh hùng. Trong đó, Võ Thị Sáu chắc hẳn là nữ
anh hùng vô cùng nổi tiếng, được mọi người biết đến với lòng dũng cảm, gan dạ.
Võ Thị Sáu sinh năm 1933, mất năm 1952. Về nguyên quán, trên bia mộ chỉ ghi tại
huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Những câu chuyện kể về chị Võ Thị Sáu
vẫn còn được lưu truyền.
Ngay từ khi còn nhỏ, Võ Thị Sáu đã theo anh gia nhập Việt Minh. Chị gia nhập
vào đội công an xung phong, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ liên lạc, tiếp tế. Trong
khoảng thời gian này, chị Sáu tham gia nhiều trận chiến đấu để bảo vệ quê hương,
dùng lựu đạn tiêu diệt hai tên ác ôn và làm bị thương nhiều lính Pháp. Chị còn
nhiều lần phát hiện gian tế, tay sai Pháp, giúp đội công an thoát khỏi nguy hiểm,
chủ động tấn công địch.
Vào tháng 7 năm 1948, Công an Đất Đỏ được giao nhiệm vụ phá cuộc mít tinh kỷ
niệm Quốc khánh Pháp. Dù nhiệm vụ gian nan, có phần nguy hiểm nhưng chị Sáu
vẫn chủ động xin được trực tiếp đánh trận này. Chị nhận lựu đạn, giấu vào góc chợ
gần khán đài từ nửa đêm. Sáng hôm đó, địch lùa người dân vào sân. Xe tỉnh tới,
chị tung lựu đạn về phía khán đài, uy hiếp giải tán mít tinh. Hai tổ công an xung
phong đồng loạt nổ súng yểm trợ tạo áp lực giải tán cuộc mít tinh, đồng thời hỗ trợ
cho chị Sáu rút an toàn. Người của Việt Minh được bố trí trong đám đông hô to
“Việt Minh tiến công” và hướng dẫn người dân giải tán. Sau nhiệm vụ này, chị Sáu
được tuyên dương khen ngợi và giao nhiều nhiệm vụ quan trọng khác.
Sau này, chị bị địch bắt, đày đến nhà tù ở Côn Đảo. Dù chị bị xử tử hình, nhưng
vẫn giữ được khí tiết của người cách mạng. Chị Võ Thị Sáu được truy tặng chị
Huân chương chiến công hạng Nhất và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang vào năm 1993.
Viết bài văn kể về một sự việc có thật liên quan đến sự kiện lịch sử Bài văn mẫu số 1
Tôi là nhạc sĩ Văn Cao - người đã sáng tác ra bài hát “Tiến quân ca”. Bài hát này
được ra đời trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt. Còn với tôi, bài hát đã đánh dấu
một bước ngoặt lớn của cuộc đời, đánh dấu sự kiện tôi tìm ra lí tưởng sống.
Tôi đã từng mất đi những khát vọng và ước mơ của tuổi trẻ. Cuộc sống chỉ chìm
trong chán nản và tuyệt vọng. Giữa lúc tôi muốn từ bỏ tất cả, sự xuất hiện của anh
Ph. D. - một người bạn rất thân thiết đã khiến cuộc đời của tôi thay đổi.
Qua lời giới thiệu của anh Ph.D. tôi đã gặp được Vũ Quý - một người anh đã theo
dõi con đường hoạt động nghệ thuật của tôi từ lâu. Tôi đã có một buổi trò chuyện
với anh. Và sau đó, tôi tìm ra được một con đường mới cho mình, đi theo cách mạng.
Lúc đó, khóa quân chính kháng Nhật sắp mở, cần một bài hát để khích lệ tinh thần
cho quân đội cách mạng. Nghĩ lại, tôi đã từng sáng tác rất nhiều bài hát về tinh
thần yêu nước như: Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng… nhưng lại
chưa từng viết về cách mạng. Nhưng với lòng nhiệt huyết của mình, tôi đã viết nên
những ca từ của bài “Tiến quân ca”.
Anh Ph.D. là người đã chứng kiến toàn bộ quá trình sáng tác bài hát, anh Vũ Quý
là người đầu tiên được biết đến bài hát và Nguyễn Đình Thi chính là người đầu tiên
xướng âm ca khúc. Họ đã tỏ ra vô cùng xúc động.
Lúc đó, tôi cũng không ngờ rằng, chỉ sau một thời gian rất ngắn, vào ngày 17 tháng
8 năm 1945, Tiến quân ca được hàng nghìn người hòa nhịp cất cao tiếng hát trước
quảng trường Nhà hát Lớn. Cảm xúc của tôi khi đó thật khó diễn tả. Bài Tiến quân
ca nổ ra như một trái bom. Trong một lúc, những tờ truyền đơn in Tiến quân ca
được phát cho từng người trong hàng ngũ công chức dự mít tinh. Khi ấy, tôi đứng
lẫn vào trong đám đông quần chúng trước cửa Nhà hát Lớn. Tôi đã nghe thấy
giọng hát quen thuộc của anh bạn tôi - Ph. D. qua loa phóng thanh. Lần thứ hai là
ngày 19 tháng 8, hàng ngàn người và các em thiếu nhi cùng hát tiến quân ca.
Và bài hát “Tiến quân ca” đã ra đời như thế, trong thời đại lịch sử đất nước được
đánh dấu bởi “một buổi bình minh mới” của dân tộc. Điều đó khiến tôi không khỏi tự hào khi nhớ về. Bài văn mẫu số 2
Một trong những sự kiện lịch sử có ý nghĩa vô cùng quan trọng với dân tộc Việt
Nam là Chiến thắng Điện Biên Phủ. Với sự kiện này, cuộc kháng chiến chống thực
dân pháp đã chính thức giành thắng lợi.
Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
“Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”
Từ đó, chúng ta mới thấy được ý nghĩa của chiến dịch này. Trước hết, chiến dịch
Điện Biên Phủ là đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954.
Ba đợt tiến công diễn ra trong năm mươi sáu ngày đêm. Đợt 1 (từ 13 đến 17 tháng
3), chúng ta tiêu diệt được hai cứ điểm quan trọng là Him Lam và Độc Lập, mở
toang cánh cửa phía Bắc và Đông Bắc cho quân ta tiến xuống lòng chảo và khu
trung tâm. Đợt 2 (từ 30 tháng 3 đến 30 tháng 4), ta đã kiểm soát các điểm cao, khu
trung tâm Điện Biên Phủ nằm trong tầm bắn các loại sống của ta. Còn quân địch
rơi vào thể bị động mất tinh thần cao độ. Đợt 3 (từ 1 đến 7 tháng 5), quân ta tổng
công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đến ngày 7 tháng 5
năm 1954, chiến dịch toàn thắng.
Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ đã chấm dứt chín năm kháng chiến chống
Pháp trường kỳ, gian khổ của nhân dân Việt Nam. Từ đó, thực dân Pháp buộc phải
ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ (7/1954) về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình
tại các nước Đông Dương. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ thể hiện niềm tự hào
dân tộc, niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và
cổ vũ toàn Đảng, toàn dân một lòng chiến đấu dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì nền
độc lập, tự do của Tổ quốc. Đồng thời, chiến thắng này cũng cổ vũ mạnh mẽ phong
trào giải phóng dân tộc trên thế giới, đặc biệt là các nước ở châu Á, châu Phi và Mĩ La-tinh.
Có thể khẳng định rằng, Điện Biên Phủ là một trong những chiến dịch vô cùng
quan trọng, góp phần đánh bại kẻ thù xâm lược - thực dân Pháp. Bài văn mẫu số 3
Tiến quân ca - bài hát được chọn làm quốc ca của nước Việt Nam. Và tôi chính là
nhạc sĩ Văn Cao - người đã sáng tác bài hát này.
Bài hát được ra đời trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt, có ý nghĩa trong đại với đất
nước. Còn với riêng tôi, nó là một đứa con tinh thần, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời tôi.
Trước đó, tôi đã mất đi những khát vọng và ước mơ của tuổi trẻ. Hằng ngày, cuộc
sống chỉ lặp lại trong vòng luẩn quẩn, chán chường. Giữa lúc tôi muốn từ bỏ tất cả,
anh Ph. D. - một người bạn rất thân thiết đã xuất hiện khiến cuộc đời tôi thay đổi.
Qua anh Ph.D. tôi đã gặp được Vũ Quý. Anh đã theo dõi con đường hoạt động
nghệ thuật của tôi từ lâu. Sau cuộc nói chuyện với anh, tôi đã tìm ra con đường mà
bản thân có thể theo đuổi - con đường cách mạng.
Thời điểm đó, khóa quân chính kháng Nhật sắp mở, cần một bài hát để khích lệ
tinh thần cho quân đội cách mạng. Tôi có rất nhiều bài hát viết về lòng yêu nước
như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng… Nhưng chưa có một bài
nào viết về cách mạng. Vì lẽ đó, tôi đã sáng tác ra Tiến quân ca.
Anh Ph.D. là người đã chứng kiến toàn bộ quá trình sáng tác bài hát, anh Vũ Quý
là người đầu tiên được biết đến bài hát và Nguyễn Đình Thi chính là người đầu tiên
xướng âm ca khúc. Tất cả đều chung một cảm xúc, tự hào và xúc động khi lắng nghe ca khúc này.
Điều khiến tôi không ngờ tới là chỉ sau một thời gian rất ngắn ra đời, vào ngày 17
tháng 8 năm 1945, Tiến quân ca được hàng nghìn người hòa nhịp cất cao tiếng hát
trước quảng trường Nhà hát Lớn. Bài hát thật sự đã gây ra một hiệu ứng lớn. Trong
một lúc, những tờ truyền đơn in Tiến quân ca được phát cho từng người trong hàng
ngũ công chức dự mít tinh. Khi ấy, tôi đứng lẫn vào trong đám đông quần chúng
trước cửa Nhà hát Lớn. Tôi đã nghe thấy giọng hát quen thuộc của anh bạn tôi - Ph.
D. qua loa phóng thanh. Vào ngày 19 tháng 8, ngày cách mạng tháng Tám thành
công ở Hà Nội, tôi đã được nghe hàng ngàn người và các em thiếu nhi cùng hát Tiến quân ca.
Ca khúc Tiến quân ca đã ra đời như thế, trong thời đại lịch sử đất nước được đánh
dấu bởi “một buổi bình minh mới” của dân tộc. Là tác giả của bài hát, tôi không
khỏi sung sướng và tự hào. Bài văn mẫu số 4
Quốc ca Việt Nam - một bài hát từ lâu đã trở thành một phần linh thiêng trong đời
sống tinh thần của người dân Việt Nam. Bài hát đã được sáng tác trong một hoàn cảnh rất đặc biệt.
Theo lời kể của nhạc sĩ Văn Cao, khi còn trẻ, ông là một thanh niên khá nổi. Bạn
bè thường khen ngợi ông là tài hoa, am hiểu cả thơ ca và hội họa. Nhưng ít ai biết
răng, ông cũng đã có một khoảng thời gian khá dài chìm trong tuyệt vọng, không
tìm thấy lẽ sống cho cuộc đời mình. Cho đến khi đã gặp được anh Ph.D. Qua anh
Ph.D, ông lại được anh Vũ Quý. Sau khi trò chuyện với Vũ Quý ông như được
giác ngộ, tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình. Không còn sa vào những buồn chán, thất
vọng, ông khao khát được tham gia cách mạng, mong muốn vào chiến khu cùng
những người anh em đứng lên cầm súng giết quân thù. Nhưng nhiệm vụ ông nhận
được là sáng tác nghệ thuật.
Lúc mới bắt đầu sáng tác “Tiến quân ca”, nhạc sĩ Văn Cao chưa một lần cầm súng
cũng chưa từng được gia nhập đội vũ trang nào, tôi chỉ biết đang làm một bài. Ông
chưa từng biết chiến khu, chỉ biết đến những con đường ga, đường Hàng Bông,
đường Bờ Hồ theo thói quen tôi đi. Ông chưa gặp các chiến sĩ trong khóa quân
chính đầu tiên để biết họ hát như thế nào. Nhưng bằng nhiệt huyết tuổi trẻ, trên căn
gác nhỏ phố Nguyễn Thượng Hiền, ông đã hoàn thành bài hát “Tiến quân ca” trước
sự chứng kiến của Ph.D - người chứng kiến sự ra đời của Tiến quân ca,anh Vũ Quý
- người đầu tiên biết đến bài hát và ông Nguyễn Đình Thi - người xướng âm ca
khúc đã rất xúc động.
Bài hát ra đời và nhận được sự ủng hộ của mọi người. Ngày 17 tháng 8 năm 1945,
bài hát lần đầu tiên được công bố rộng rãi trong một cuộc mít tinh của công chức
Hà Nội. Trước Quảng trường Nhà hát lớn, hàng ngàn người cất cao tiếng hát, hòa
vang đầy khí thế hào hùng. Những tờ truyền đơn in Tiến quân ca được phát đến tay
mọi người trong hàng ngũ các công chức tham dự buổi mít tinh. Lần thứ hai Tiến
quân ca được xuất hiện là trong một cuộc mít tinh diễn ra vào ngày 19 tháng 8.
Hôm đó, hàng ngàn người cùng những em thiếu nhi cất cao lời ca, tiếng hát; thét
lên tiếng căm hờn bè vào mặt lũ đế quốc tàn bạo với niềm tự hào về chiến thắng của cách mạng.
Tiến quân ca - Quốc ca Việt Nam đã ra đời như vậy, trong thời đại lịch sử đánh
dấu buổi bình minh mới của đất nước. Tác phẩm mang một giá trị lịch sử to lớn đối với dân tộc Việt Nam. Bài văn mẫu số 5
Bản Tuyên ngôn Độc lập (1945) có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với dân tộc
Việt Nam. Bản Tuyên ngôn được viết bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.
Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Ngày 2 tháng 9
năm 1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt
Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lập,
khai sinh ra nước Việt Nam mới.
Sự ra đời của bản Tuyên ngôn Độc lập có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Mốc thời
gian đầu tiên phải kể đến là vào ngày 4 tháng 5 năm 1945, Bác Hồ rời Pác Bó về
Tân Trào. Giữa tháng năm, Người đã yêu cầu trung úy Giôn, báo vụ của OSS (Cơ
quan phục vụ chiến lược Mỹ) điện về Côn Minh, đề nghị thả dù cho Người cuốn
Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kì.
Đến ngày 22 tháng 8 năm 1945, Bác rời Tân Trào về Hà Nội. Tối 25 tháng 8 năm
1945, Người vào nội thành, ở tầng 2 tại căn nhà số 48 Hàng Ngang. Sáng 26 tháng
8 năm 1945, Bác đã cho triệu tập một cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng, để
bàn về các vấn đề như chủ trương đối nội, đối ngoại trong tình hình mới; công bố
danh sách các thành viên Chính phủ lâm thời; chuẩn bị ra Tuyên ngôn Độc lập, tổ
chức mít tinh lớn ở Hà Nội để Chính phủ lâm thời ra mắt toàn thể nhân dân.
Vào ngày 27 tháng 8 năm 1945, Người tiếp các bộ trưởng mới tham gia Chính phủ
đưa ra đề nghị Chính phủ ra mắt quốc dân, đọc Tuyên ngôn Độc lập mà Người đã
chuẩn bị. Bác đưa ra bản thảo và đề nghị các thành viên phải xét duyệt kĩ vì không
chỉ đọc cho đồng bào cả nước nghe mà còn độc cho Chính phủ Pháp và nhân dân
Pháp, các nước đồng minh nghe.
Trong hai ngày 28 và 29 tháng 8 năm 1945, Bác đến làm việc tại 12 Ngô Quyền
(trụ sở chính của Chính phủ lâm thời) và dành phần lớn thời gian để soạn thảo bản
Tuyên ngôn Độc lập. Buổi tối tại căn nhà số 48 Hàng Ngang, Bác đã tự đánh máy
bản Tuyên ngôn Độc lập trên một cái bàn tròn.
Vào ngày 30 tháng 8 năm 1945, Bác cho mời các đồng chí đến để trao đổi, đóng
góp ý kiến cho bản Tuyên ngôn độc lập. Bác đọc cho mọi người nghe, hỏi ý kiến
của từng người. Đến ngày 31 tháng 8, Bác đã bổ sung một số ý vào bản Tuyên
ngôn. Bản Tuyên ngôn Độc lập chính thức được hoàn thiện.
Đúng 14 giờ ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Có thể khẳng định rằng, Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử tuyên bố trước
quốc dân đồng bào và thế giới về việc chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở
nước ta, đánh dấu kỉ nguyên độc lập, tự do của nước Việt Nam mới. Quá trình viết
Tuyên ngôn Độc lập đã cho thấy sự chuẩn bị kĩ lưỡng cũng như trí tuệ và tầm nhìn
của một vị lãnh tụ - Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài văn mẫu số 6
Tiến quân ca là một trong những sáng tác tâm đắc nhất của tôi. Bài hát được ra đời
trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt, cũng như đánh dấu một bước ngoặt lớn của cuộc đời của tôi.
Trong một khoảng thời gian khá dài, tôi đã đánh mất đi những khát vọng và ước
mơ của tuổi trẻ. Khi đó, cuộc sống chỉ chìm trong những ngày tháng tuyệt vọng,
chán nản. Giữa lúc tôi muốn bỏ cuộc, tôi đã gặp được anh Ph. D. - một người bạn
rất thân thiết đã khiến cuộc đời của tôi thay đổi.
Anh Ph.D. đã giới thiệu tôi quen biết với anh Vũ Quý, người đã theo dõi con
đường hoạt động nghệ thuật của tôi lâu năm. Chúng tôi đã có một buổi trò chuyện,
với tôi vô cùng quý giá, để từ đó, tôi đã tìm ra hướng đi mới cho bản thân - đi theo
cách mạng. Khao khát của tôi là được cùng với đồng đội cầm súng tiêu diệt kẻ thù,
nhưng nhiệm vụ của tôi lại là sáng tác nghệ thuật.
Thời điểm đó, khoa quân chính kháng Nhật sắp mở, cần một bài hát để khích lệ
tinh thần cho quân đội cách mạng. Tôi đã từng sáng tác khá nhiều bài hát về tinh
thần yêu nước như: Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng… tuy nhiên
tôi lại chưa từng viết về cách mạng. Dù vậy, tôi dùng hết tất cả lòng nhiệt thành để
sáng tác nên bài hát “Tiến quân ca”.
Anh Ph.D. là người đã chứng kiến toàn bộ quá trình sáng tác bài hát. Còn anh Vũ
Quý là người đầu tiên được biết đến bài hát. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi chính là
người đầu tiên xướng âm ca khúc. Cả ba đều vô cùng xúc động.
Tôi không ngờ rằng, chỉ sau một thời gian rất ngắn, vào ngày 17 tháng 8 năm 1945,
Tiến quân ca được hàng nghìn người hòa nhịp cất cao tiếng hát trước quảng trường
Nhà hát Lớn. Trong một lúc, những tờ truyền đơn in Tiến quân ca được phát cho
từng người trong hàng ngũ công chức dự mít tinh. Khi ấy, tôi đứng lẫn vào trong
đám đông quần chúng trước cửa Nhà hát Lớn. Tôi đã nghe thấy giọng hát quen
thuộc của anh bạn tôi - Ph. D. qua loa phóng thanh. Lần thứ hai là ngày 19 tháng 8,
hàng ngàn người và các em thiếu nhi cùng hát tiến quân ca. Sau này, khi bài hát
“Tiến quân ca” được chọn làm Quốc ca chính thức của nước Việt Nam, tôi càng
lấy làm vinh dự và tự hào.
Bài hát “Tiến quân ca” đã ra đời trong thời đại lịch sử đất nước được đánh dấu bởi
“một buổi bình minh mới” của dân tộc. Bài văn mẫu số 7
Những sự kiện lịch sử có ý nghĩa lớn lao với một quốc gia, dân tộc. Và sự kiện mà
tôi ấn tượng nhất chính là Cách mạng tháng Tám (1945) của dân tộc Việt Nam.
Năm 1945, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành
cuộc tổng khởi nghĩa để phá bỏ xiềng xích nô lệ hơn tám mươi năm dưới ách thống
trị của thực dân Pháp, mở ra một bước ngoặt mới cho đất nước Việt Nam.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, trong đêm Nhật - Pháp bắn nhau, Hội nghị Thường vụ
mở rộng dưới sự chỉ đạo của Tổng bí thư Trường Chinh. Đến ngày 12 tháng 3 năm
1945, Ban thường vụ trung ương Đảng đã họp hội nghị mở rộng, ra Chỉ thị nêu rõ
“Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 8 năm 1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt
Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, ra Quân lệnh số 1. Ngày 16 tháng 8
năm 1945, Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) thông qua Lệnh Tổng
khởi nghĩa. Đến chiều cùng ngày, một đơn vị Quân giải phóng do đồng chí Võ
Nguyên Giáp chỉ huy từ Tân Trào tiến về giải phóng Thái Nguyên, mở đầu cho Cách mạng tháng Tám.
Ngày 17 tháng 8 năm 1945, Ủy ban giải phóng dân tộc ra mắt quốc dân và làm lễ
tuyên thệ trước sân đình Tân Trào. Vào ngày 18 tháng 8 năm 1845, nhân dân bốn
tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam khởi nghĩa giành chính quyền.
Ngày 19 tháng 8 năm 1945, cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi tại thủ đô Hà Nội. Từ
ngày 20 tháng 8, cuộc tổng khởi nghĩa lan rộng ra trên khắp các tỉnh thành phố.
Ngày 30 tháng 8 năm 1945, Hoàng đế Bảo Đại - vị vua cuối cùng của triều đình
nhà Nguyễn thoái vị. Cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám toàn thắng.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám đã có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với
đất nước và nhân dân Việt Nam.