lOMoARcPSD| 22014077
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG TRONG VẬN ĐỘNG KHỞI
NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN 1939-1945
PGS.TS. Hồ Khang,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam,
Bộ Quốc phòng
Cách mạng tháng Tám m 1945 nổ ra, giành thắng lợi là kết qutổng hợp của nhiều
yếu tố tạo nên; trong ó, xây dựng lực lượng, tập hợp, tập dượt, tổ chức, dẫn dắt
chuyển hóa lực lượng ó thành sức mạnh quật khởi quấn phăng mọi gông xiềng áp
bức là yếu tố cùng quan trọng, là nhiệm vụ trọng tâm, bao trùm mọi hoạt ộng của
những người cộng sản Việt Nam. Trong cuộc cách mạng mùa Thu năm 1945, người
ta nhìn thấy sự mặt của nhiều tầng lớp, giai cấp khác nhau ược gắn kết lại bởi một
mẫu số chung: Lòng yêu nước. Lực lượng cách mạng ấy ược hình thành không
ngừng nhân lên trong suốt tiến trình chông gai, gian khó vận ộng tiến tới giành chính
quyền phản ánh một cách chân thực, sinh ng nỗ lực âm thầm của bao lớp người
cách mạng. Đó là một câu chuyện dài không hề ơn giản, bền bỉ sáng tạo và không ít
hy sinh máu xương...
1- Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN)[1] ra ời là dấu mốc có
tính bước ngoặt và tính ột phá trong phong trào yêu nước Việt Nam. Vừa ược thành
lập, còn non trẻ, việc xây dựng lực lượng cách mạng, xây dựng một ội ngũ quần
chúng nhân dân hùng hậu, mạnh mẽ, giác ngộ mục tiêu tưởng cách mạng hết
sức cần thiết ối với ĐCSVN. Song, tại thời iểm ó, trong phong trào cộng sản công
nhân quốc tế xu hướng tả khuynh – một xu hướng ang thịnh hành ã ánh giá khắt khe
về khả năng, tinh thần cách mạng của giai cấp ịa chủ, sản dân tộc, các trí thức yêu
nước tiến bộ xuất thân từ tầng lớp trên ở các nước thuộc ịa. Vượt qua cái nhìn thiếu
khách quan, vượt qua những rào cản tư duy ể nhìn nhận cho úng sự phân hóa xã hội
Việt Nam, giải quyết thấu áo mối quan hệ dân tộc giai cấp òi hỏi một nhãn quan
chính trị tỉnh táo, nhạy bén. Cương lĩnh cách mạng u tiên của ĐCSVN ã ảm nhận
và hoàn thành trách nhiệm lịch sử ó.
Phân tích ặc iểm hội Việt Nam, ánh giá thái của từng giai tầng, Cương
lĩnh xác ịnh mục tiêu tập hợp lực lượng cách mạng, ưa ra nguyên tắc tập hợp và sắp
xếp lực lượng cách mạng. Trên tinh thần giải quyết hài htừng bước quyền lợi của
các giai cấp cách mạng, ĐCSVN chủ trương "thu phục cho ược ại bphận giai cấp
lOMoARcPSD| 22014077
mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh ạo ược dân chúng..."[2]; ồng thời, “phải thu
phục cho ược ại bộ phận dân cày phải da vào hạng dân cày nghèo làm thổ ịa
c.m ánh trúc bọn ại ịa chủ phong kiến”[3], ra sức liên minh với các giai cấp cách
mạng, các tầng lớp yêu nước khác, oàn kết họ, tổ chức họ ấu tranh giải phóng dân
tộc, tiến lên xây dựng xã hội không có người bóc lột người. Cương lĩnh nhấn mạnh:
"Giai cấp sản lãnh ạo cách mạng sản dân quyền Đông Dương mà không t
chức ược toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín, cuộc cách mạng cũng
khó thành
công"[4].
quan iểm nêu trên phù hợp với thực tiễn Việt Nam, song chưa tìm ngay
ược sự ồng thuận ủng hộ rộng rãi. Cuộc ấu tranh tưởng giữa một số lãnh o
Quốc tế cộng sản III, một bộ phận lãnh ạo ĐCSVN với Nguyễn Ái Quốc người
soạn thảo Cương lĩnh cách mạng ầu tiên diễn ra tuy không ồn ào nhưng hết sức gay
gắt. Nguyễn Ái Quốc bị lên án là "hữu khuynh", "nặng tinh thần dân tộc", "nhẹ về
ấu tranh giai cấp"... . Cuối cùng, thực tiễn cách mạng trong nước thế giới ã xác
nhận quan iểm tập hợp tối a lực lượng nêu ra trong Cương lĩnh là úng ắn.
Quán triệt tinh thần Cương lĩnh cách mạng ầu tiên, những người cộng sản Việt
Nam tiến hành vận ộng, giác ngộ nhân dân, xây dựng lực lượng cách mạng trên nền
tảng phát huy chủ nghĩa dân tộc chân chính, coi ó một ộng lực lớn của ất nước.
Chính ộng lực ấy “ ã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho người
culi biết phản ối, làm cho những người “nhà quê” phản ối ngầm trước thuế tạp
dịch và thuế muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc ã luôn thúc ẩy các nbuôn An Nam
cạnh tranh với người Pháp người Trung Quốc; ã thúc giục thanh niên bãi khoá,
làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản làm vua Duy Tân mưu tính
khởi nghĩa năm 1917”[5]. Phát ộng chủ nghĩa dân tộc bản xứ” một “chính sách
mang tính hiện thực tuyệt vời”, con ường ưa người dân bản xứ thoát khỏi những
u ám tối tăm của kiếp ọa ầy. Thật vậy, “người ta sẽ không thể làm gì ược cho người
An Nam nếu không dựa trên các ộng lực ại duy nhất của ời sống hội của
họ”[6].
Sớm nhận ra khát khao ộc lập, tự do như làn sóng ngầm dưới bề mặt xã hội bị
áp bức dịch, ĐCSVN hóa giải một cách khôn ngoan những ối kháng về quyền
lợi giữa các giai cấp, tầng lớp, phát huy tinh thần dân tộc lòng yêu nước, thực hiện
lOMoARcPSD| 22014077
ại kết toàn dân, tập trung toàn btinh thần, sức lực, ý chí cao nhất cho quyền lợi toàn
cục, cho ộc lập, tự do của dân tộc.
2-Năm 1939, bất chấp mọi nỗ lực chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình của nhân
loại tiến bộ, cuối cùng, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai vẫn nổ ra, cuốn không ít
quốc gia dân tộc vào vòng xoáy của nó với một viễn cảnh hết sức ảm ạm.
Đối với cách mạng Việt Nam, cuộc chiến tranh với mọi tầng chiều cạnh
của ã tác ộng mạnh mẽ và trực tiếp, ặt ra nhiều vấn mới về chiến lược sách
lược. Muốn ánh ổ ách áp bức và nô dịch dân tộc, lực lượng tiên phong lãnh ạo cách
mạng nhất thiết phải có chủ trương, chính sách nhạy bén, phù hợp, tập hợp cho ược
mọi lực lượng dân tộc, kcả những lực lượng tính nhất thời. Phân tích cuộc Chiến
tranh thế giới thứ hai, ĐCSĐD ã dự báo về một trào lưu cách mạng khi hết thảy dân
chúng bị áp bức sẽ thừa cơ nổi dậy bẻ xiềng nô lệ kéo dài ã hàng mấy chục thế kỷ.
ĐCSĐD nhận ịnh chiến tranh chính tác nhân thúc ẩy thời cách mạng nhanh
chóng chín muồi, cần phải chuyển từ tích luỹ lực lượng sang ấu tranh trực diện ánh
ổ cường quyền.
Xác ịnh bước ường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn con
ường nào khác hơn là con ường ánh ổ ế quốc
Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng ể giành lấy giải
phóng ộc lập”[7], ĐCSĐD coi việc làm cho mỗi người “có ý thức về sự tồn vong
của dân tộc và sự liên quan mật thiết của vận mạng dân tộc với lợi ích nhân
mình; ặt quyền lợi dân tộc lên trên các quyền lợi khác, thống nhất lực ợng dân
tộc”[8] iều kiện cốt yếu, con ường duy nhất ánh ế quốc Pháp, giành ộc lập
dân tộc.
Với ưu thế trên ài chính trị trong xứ, ảng thế lực nhất, s
vững vàng nhất trong quần chúng, chiến ấu cương quyết hơn hết ể bênh vực quyền
lợi cho dân chúng tranh ấu òi tự do, ộc lập cho dân tộc”[9], ĐCSĐD chủ trương
thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản ế Đông Dương tranh ấu chống ế quốc
chiến tranh, ánh ế quốc Pháp bọn phong kiến thối nát, giải phóng các dân tộc
Đông Dương làm cho Đông Dương hoàn toàn ộc lập”[10]. Để huy ộng và phát huy
nội lực dân tộc thông qua khối ại oàn kết toàn dân, khác với Mặt trận dân chủ trước
ây chưa ánh bại các xu hướng cải lương, thì Mặt trận thống nhất dân tộc phản ế “là
một mặt trận kịch liệt chống ối với các ảng phái, các xu hướng cải lương ề huề, làm
lOMoARcPSD| 22014077
liệt bại chúng nó hoàn toàn trong phong trào giải phóng n tộc”[11]. Để tập hợp lực
lượng rộng rãi hơn nữa phù hợp với bước chuyển của tình hình, Đảng chủ trương
thành lập Mặt trận Việt Nam ộc lập ồng minh (Mặt trận Việt Minh). Đây hình thức
tập hợp lực lượng hết sức linh hoạt, nhằm liên hiệp tất cả các dân tộc, oàn kết tất cả
các giai cấp, các ảng phái, các phần tử phản ế muốn giải phóng dân tộc, ng tranh
ấu chống ế quốc thực dân òi cơm áo, hoà bình, thực hiện nền ộc lập hoàn toàn
quyền dân tộc tự quyết cho các dân tộc Đông Dương.
Với chủ trương “liên hiệp hết thảy các giới ồng bào yêu nước, không phân biệt
giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo xu hướng chính trị”[12],
mặt trận Việt Minh nhanh chóng ược sự ủng hộ không chỉ của hai giai cấp công
nhân, nông dân, mà còn của tầng lớp trí thức, ịa chủ yêu nước tiến bộ, sản dân tộc,
tăng ni, giáo sĩ, phật tử.... Các nhà hữu sản góp nhiều tiền của, thóc go, mua công
phiếu Việt Minh, kín áo ủng hộ tiền vàng và mua súng giúp Việt Minh. Tầng lớp trí
thức tiến bộ ngả về phía Việt Minh, hoạt ộng trong các hội truyền bá chữ quốc ngữ.
Theo tiếng gọi của Việt Minh, nhiều tthức nổi tiếng "xếp bút nghiên" lên vùng
chiến khu tham gia cách mạng. Các vị giáo sĩ, tăng lữ, ồng bào theo ạo Thiên chúa
và các tôn giáo khác... giúp Việt Minh in tài liệu, giao thông liên lạc, ưa ón cán cán
bộ.... Từ miền núi ến miền xuôi, từ ngoài Bắc vào trong Nam, một cao trào cứu nước
phát triển mạnh mẽ, khối oàn kết dân tộc lớn mạnh chưa từng có. Từ ầu nguồn cách
mạng trên chiến khu rừng rậm ến ồng bằng cả nước, trong một thời gian ngắn ã nhanh
chóng xây dựng ược các cơ sở và lực lượng cách mạng ều khắp, tạo bước ột phá về
chất cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Nhằm xây dựng lực lượng liên minh chính trị rộng i trong mặt trận thực
hiện những nhiệm vcốt yếu của cách mạng, Đảng CSĐD chtrương: Công nhân
và nông dân phải gương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, vì lợi ích sống còn của dân
tộc không ngần ngại bắt tay với tiểu sản những tầng lớp bản bản xứ,
trung tiểu ịa chủ, là những thành phần ít nhiều có lòng căm thù ế quốc. Khi họ bước
vào hàng ngũ, ứng dưới ngọn cờ lãnh ạo của giai cấp sản, ấu tranh mục tiêu
lớn nhất giải phóng dân tộc thì lực lượng lãnh ạo phải làm cho họ hiểu rằng chỉ
thực hiện sản dân quyền cách mạng thổ ịa cách mạng mới thoát khỏi sự áp
bức, è nén mọi mặt của chính quyền ế quốc, chỉ ứng vào mặt trận, quyền lợi của
họ mới ược giải quyết. Trong khi bảo vệ lợi ích tối cao của dân tộc công nông,
lOMoARcPSD| 22014077
cách mạng không có gì khác hơn là phải giải quyết hài hoà quyền lợi kinh tế, chính
trị của các thành viên mặt trận.
Xác ịnh nhiệm vụ chính chuẩn bị khởi nghĩa tiến tới Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền, ĐCSĐD ra sức phát triển ảng viên mới. Đến cuối năm 1939,
Đảng 2.300 ảng viên với gần 300 chi bộ ược phân bố trong khắp cả nước. Đến
năm 1943, số ảng viên nghiệp, hầm máy, thành thị tăng rõ rệt; các chi bộ và ảng
viên c biệt tăng nhanh khu n cứ Cao Bắc –Lạng, chiếm 20% số tăng của cả
nước: Từ 2.850 ảng viên năm 1943, ến năm 1944 ã tăng lên 3.150, còn ến khi Cách
mạng tháng Tám thành công, Đảng ã 5000 ảng viên[13]; số chi bộ tăng từ 300
năm 1943 tới gần 400 vào năm 1944. Lực lượng lãnh ạo nòng cốt này là những hạt
giống ỏ cho thắng lợi của cách mạng sau này.
Trên quan iểm “cuộc cách mạng Đông Dương phải ược kết liễu bằng một cuộc
khởi nghĩa trang”[14], về xây dựng lực lượng trang cách mạng, Trung ương
Đảng quyết ịnh duy trì lực lượng trang Bắc Sơn chủ trương thành lập những
ội du kích hoạt ộng phân tán, dùng hình thức trang vừa chiến ấu bảo vệ nhân dân,
vừa phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ
Nhai làm trung tâm. Tháng 11-1941, tiểu ội du kích thoát ly ầu tiên Cao Bằng (gồm
13 người) ược thành lập. Cuối 1944, trước òi hỏi gấp rút của tình hình, khi ngày khởi
nghĩa ang ến gần, căn cứ o iều kiện thực tiễn, ĐCSĐD thành lập lực lượng trang
làm òn bẩy cho cao trào cách mạng toàn quốc bùng nổ. Chọn trong hàng ngũ những
ội du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ, i viên kiên quyết, hăng hái nhất, tập trung
một phần lớn vũ khí ể lập ra ội chủ lực, tháng 12-1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền
giải phóng quân ra ời. Vài ngày sau khi thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân ã lập hai chiến công vang dội hạ ồn Phai Khắt (ngày 25-12) n
Ngần (ngày 26-12).
Đi ôi với củng cố lực lượng chủ lực, ĐCSĐD chỉ thduy trì lực lượng trang
ở các ịa phương – hai lực lượng này cùng phối hợp hành ộng và giúp ỡ lẫn nhau v
mọi phương tiện. Đội quân chủ lực nhiệm vụ dìu dắt cán bộ trang của các ịa
phương, tương trợ huấn luyện, tương trợ khí, làm cho lực lượng trang ịa
phương nhanh chóng trưởng thành.
3- Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (1941) một bước ngoặt quan trọng cả về
nhận thức chỉ ạo hoạt ộng thực tiễn của ĐCSĐD. Trước những biến ổi nhanh
lOMoARcPSD| 22014077
chóng của tình hình trong nước thế giới, trên cơ sở phân tích các iều kiện khách
quan, chủ quan, Hội nghị quyết ịnh thay ổi chính sách, giương cao ngọn cờ giải
phóng dân tộc, giải quyết một cách nhuần nhuyễn quan hệ giữa cách mệnh phản ế
iền ịa[15]. Đặt nhiệm vụ thu góp toàn lực em tất cả ra quyết giành quyền ộc
lập, tự do cho dân tộc, ĐCSĐD tập trung “lực lượng cách mạng toàn i Đông
Dương, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, ịa chủ, bản bản xứ”[16],
với tiêu chí duy nhất: Yêu nước thương nòi. Đoàn kết sức mạnh, chia rẽ là yếu
trên quan iểm ó, một mặt, ĐCSĐD ra sức kêu gọi nhân dân oàn kết một lòng, muôn
người nmột cùng chung tay việc nghĩa; mặt khác, ánh giá úng thái của c
lực lượng chính trkhác nhau trong hội chủ trương oàn kết, tập hợp, thêm
bạn bớt thù”.
Luôn nhận thức rằng, “năm ngón tay cũng ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn
dài ều họp nhau lại giữa bàn tay. Trong mấy triệu người, cũng có người thế này thế
khác, nhưng thế này hay thế khác ều dòng dõi tổ tiên ta”[17], ĐCSĐD nhất quán
thực hiện chính sách hợp tác giữa các lực lượng cách mạng trong cuộc ấu tranh giải
phóng dân tộc. Đặt cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam vào phạm trù của
cuộc cách mạng sản thế giới, coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận hữu cơ của
cách mạng thế giới,ĐCSĐD nhận thức một thực tế khách quan quan trọng hết sức ặc
thù cho các xứ thuộc ịa và hoàn toàn không giống như ở châu Âu: Ách áp bức của ế
quốc è nặng lên ầu mỗi người dân; dù ở bất kể thành phần xã hội hoặc giai cấp nào,
người dân xthuộc ịa ều phải sống trong bầu không khí hết sức ngột ngạt của
dịch và bất công. Vì vậy, dù có ịa vị xã hội, quyền lợi kinh tế, chính trị khác nhau,
hội thuộc ịa Việt Nam không một giai cấp siêu hình ứng ngoài dân tộc. ế
quốc xâm lược câu kết với một bộ phận nhỏ giai cấp ịa chủ phong kiến tay sai, áp
bức bóc lột dân tộc, thì kẻ thù chính, kẻ thù chủ yếu và nguy hiểm nhất vẫn là ế quốc
xâm lược.
Từ tư duy khoa học ó, nhiệm vụ chiến lược của cuộc cách mạng dân tộc giải
phóng Việt Nam ặc iểm nổi bật: Tập trung mũi nhọn chủ yếu của cách mạng
vào ế quốc thực dân; nhiệm vụ phản phong phải luôn phục tùng nhiệm vụ phản ế.
Đó ồng thời cũng sở cho sách lược triệt lập ế quốc, triệt lập lực lượng
tay sai, phân hóa giai cấp bóc lột, trung lập các lực lượng chưa thể oàn kết. Điều
quan trọng ó, trong lịch sử phát triển của phong trào cộng sản thế giới, không ít tổ
lOMoARcPSD| 22014077
chức hoặc lãnh tụ ã mắc sai lầm, thậm chí là sai lầm nghiêm trọng khi giải quyết mối
quan hệ dân tộc giai cấp, rơi vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi hoặc làm cho cách
mạng lâm vào thế ơn ộc, cô lập. Kế thừa truyền thống oàn kết dân tộc, phát huy tinh
thần dân tộc chân chính, trong tập hợp lực lượng cho cuộc Tổng khởi nghĩa, ĐCSĐD
ã vượt qua ược tiền lệ ó, vượt qua ược thảm họa của sự chia rẽ. Cách mạng tháng
Tám thắng lợi là một minh chứng thuyết phục cho nhận ịnh nói trên.
* *
*
Soi vào lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam, thể dễ dàng nhận
thấy ngay rằng, tưởng chủ ạo, truyền thống nổi trội của dân tộc là chủ nghĩa yêu
nước chống xâm lăng, bảo vệ sự tồn vong của dân tộc, là tư tưởng “không có gì quý
hơn ộc lập, tự do”. Vốn một giá trị căn bản, phổ quát của cộng ồng dân tộc Việt
Nam, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc ấy trong những giây phút quyết ịnh vận mệnh
quốc gia ã tạo nên sức mạnh ịch, cuốn phăng mọi thành táp bức, làm lung lay
ến tận gốc rễ tòa lâu ài thuộc ịa mà thực dân Pháp ã dày công xây dựng. Trên nền
tảng ại n kết vững bền, lâu ời của cộng ồng n tộc Việt Nam, tinh thần dân tộc ấy
ã làm sâu sắc thêm sự gắn kết dân tộc, thổi bùng lên ngọn lửa cách mạng. Thắng lợi
của Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của tư tưởng tập hợp lực lượng toàn dân tộc,
thắng lợi của khối ại oàn kết toàn dân, thắng lợi của tinh thần dân tộc chân chính
những yếu tố ấy luôn là những giá trị trường tồn làm nên bản sắc dân tộc Việt Nam,
là vũ khí sắc bén của nhân dân Việt Nam trong cuộc ấu tranh vì ộc lập, tự do.
[1] Từ tháng 10-1930, ổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD)
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, tr.4.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, S d, tập 2, tr.4.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, S d, tập 2, tr.227.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.466. [6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, S d, 1995, S d, tập 1,
tr.467.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, S d, tập 6, tr.536.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, S d, tập 6, tr.544.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 6, tr.527.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, S d, tập 6, tr.537.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, S d, tập 6, tr.537-538.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: n kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Nội, 2000, tr.461. [13]
Nguyễn Hữu Tri - Nguyễn Thị Phương Hồng: Lịch sử công tác tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam (19302000),
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.94.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, S d, tập 6, tr.129. [15]Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, S d, tập 6, tr.538.
lOMoARcPSD| 22014077
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, S d, tập 7, tr.112.
[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, S d, 1995, S d, tập 4, tr.246-247.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 22014077
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG TRONG VẬN ĐỘNG KHỞI
NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN 1939-1945 PGS.TS. Hồ Khang,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Bộ Quốc phòng
Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra, giành thắng lợi là kết quả tổng hợp của nhiều
yếu tố tạo nên; trong ó, xây dựng lực lượng, tập hợp, tập dượt, tổ chức, dẫn dắt và
chuyển hóa lực lượng ó thành sức mạnh quật khởi quấn phăng mọi gông xiềng áp
bức là yếu tố vô cùng quan trọng, là nhiệm vụ trọng tâm, bao trùm mọi hoạt ộng của
những người cộng sản Việt Nam. Trong cuộc cách mạng mùa Thu năm 1945, người
ta nhìn thấy sự có mặt của nhiều tầng lớp, giai cấp khác nhau ược gắn kết lại bởi một
mẫu số chung: Lòng yêu nước. Lực lượng cách mạng ấy ược hình thành và không
ngừng nhân lên trong suốt tiến trình chông gai, gian khó vận ộng tiến tới giành chính
quyền phản ánh một cách chân thực, sinh ộng nỗ lực âm thầm của bao lớp người
cách mạng. Đó là một câu chuyện dài không hề ơn giản, bền bỉ sáng tạo và không ít hy sinh máu xương...
1- Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN)[1] ra ời là dấu mốc có
tính bước ngoặt và tính ột phá trong phong trào yêu nước Việt Nam. Vừa ược thành
lập, còn non trẻ, việc xây dựng lực lượng cách mạng, xây dựng một ội ngũ quần
chúng nhân dân hùng hậu, mạnh mẽ, giác ngộ mục tiêu lý tưởng cách mạng là hết
sức cần thiết ối với ĐCSVN. Song, tại thời iểm ó, trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế xu hướng tả khuynh – một xu hướng ang thịnh hành ã ánh giá khắt khe
về khả năng, tinh thần cách mạng của giai cấp ịa chủ, tư sản dân tộc, các trí thức yêu
nước tiến bộ xuất thân từ tầng lớp trên ở các nước thuộc ịa. Vượt qua cái nhìn thiếu
khách quan, vượt qua những rào cản tư duy ể nhìn nhận cho úng sự phân hóa xã hội
Việt Nam, giải quyết thấu áo mối quan hệ dân tộc – giai cấp òi hỏi một nhãn quan
chính trị tỉnh táo, nhạy bén. Cương lĩnh cách mạng ầu tiên của ĐCSVN ã ảm nhận
và hoàn thành trách nhiệm lịch sử ó.
Phân tích ặc iểm xã hội Việt Nam, ánh giá thái ộ của từng giai tầng, Cương
lĩnh xác ịnh mục tiêu tập hợp lực lượng cách mạng, ưa ra nguyên tắc tập hợp và sắp
xếp lực lượng cách mạng. Trên tinh thần giải quyết hài hoà từng bước quyền lợi của
các giai cấp cách mạng, ĐCSVN chủ trương "thu phục cho ược ại bộ phận giai cấp lOMoAR cPSD| 22014077
mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh ạo ược dân chúng..."[2]; ồng thời, “phải thu
phục cho ược ại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ ịa
c.m ánh trúc bọn ại ịa chủ và phong kiến”[3], ra sức liên minh với các giai cấp cách
mạng, các tầng lớp yêu nước khác, oàn kết họ, tổ chức họ ấu tranh giải phóng dân
tộc, tiến lên xây dựng xã hội không có người bóc lột người. Cương lĩnh nhấn mạnh:
"Giai cấp vô sản lãnh ạo cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ
chức ược toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín, cuộc cách mạng cũng khó thành công"[4].
Dù quan iểm nêu trên phù hợp với thực tiễn Việt Nam, song nó chưa tìm ngay
ược sự ồng thuận và ủng hộ rộng rãi. Cuộc ấu tranh tư tưởng giữa một số lãnh ạo
Quốc tế cộng sản III, một bộ phận lãnh ạo ĐCSVN với Nguyễn Ái Quốc – người
soạn thảo Cương lĩnh cách mạng ầu tiên diễn ra tuy không ồn ào nhưng hết sức gay
gắt. Nguyễn Ái Quốc bị lên án là "hữu khuynh", "nặng tinh thần dân tộc", "nhẹ về
ấu tranh giai cấp"... . Cuối cùng, thực tiễn cách mạng trong nước và thế giới ã xác
nhận quan iểm tập hợp tối a lực lượng nêu ra trong Cương lĩnh là úng ắn.
Quán triệt tinh thần Cương lĩnh cách mạng ầu tiên, những người cộng sản Việt
Nam tiến hành vận ộng, giác ngộ nhân dân, xây dựng lực lượng cách mạng trên nền
tảng phát huy chủ nghĩa dân tộc chân chính, coi ó là một ộng lực lớn của ất nước.
Chính ộng lực ấy “ ã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho người
culi biết phản ối, nó làm cho những người “nhà quê” phản ối ngầm trước thuế tạp
dịch và thuế muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc ã luôn thúc ẩy các nhà buôn An Nam
cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc; nó ã thúc giục thanh niên bãi khoá,
làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính
khởi nghĩa năm 1917”[5]. Phát ộng “chủ nghĩa dân tộc bản xứ” là một “chính sách
mang tính hiện thực tuyệt vời”, là con ường ưa người dân bản xứ thoát khỏi những
u ám tối tăm của kiếp ọa ầy. Thật vậy, “người ta sẽ không thể làm gì ược cho người
An Nam nếu không dựa trên các ộng lực vĩ ại và duy nhất của ời sống xã hội của họ”[6].
Sớm nhận ra khát khao ộc lập, tự do như làn sóng ngầm dưới bề mặt xã hội bị
áp bức và nô dịch, ĐCSVN hóa giải một cách khôn ngoan những ối kháng về quyền
lợi giữa các giai cấp, tầng lớp, phát huy tinh thần dân tộc và lòng yêu nước, thực hiện lOMoAR cPSD| 22014077
ại kết toàn dân, tập trung toàn bộ tinh thần, sức lực, ý chí cao nhất cho quyền lợi toàn
cục, cho ộc lập, tự do của dân tộc.
2-Năm 1939, bất chấp mọi nỗ lực chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình của nhân
loại tiến bộ, cuối cùng, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai vẫn nổ ra, cuốn không ít
quốc gia dân tộc vào vòng xoáy của nó với một viễn cảnh hết sức ảm ạm.
Đối với cách mạng Việt Nam, cuộc chiến tranh với mọi cơ tầng và chiều cạnh
của nó ã tác ộng mạnh mẽ và trực tiếp, ặt ra nhiều vấn ề mới về chiến lược và sách
lược. Muốn ánh ổ ách áp bức và nô dịch dân tộc, lực lượng tiên phong lãnh ạo cách
mạng nhất thiết phải có chủ trương, chính sách nhạy bén, phù hợp, tập hợp cho ược
mọi lực lượng dân tộc, kể cả những lực lượng có tính nhất thời. Phân tích cuộc Chiến
tranh thế giới thứ hai, ĐCSĐD ã dự báo về một trào lưu cách mạng khi hết thảy dân
chúng bị áp bức sẽ thừa cơ nổi dậy bẻ xiềng nô lệ kéo dài ã hàng mấy chục thế kỷ.
ĐCSĐD nhận ịnh chiến tranh chính là tác nhân thúc ẩy thời cơ cách mạng nhanh
chóng chín muồi, cần phải chuyển từ tích luỹ lực lượng sang ấu tranh trực diện ánh ổ cường quyền.
Xác ịnh “bước ường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con
ường nào khác hơn là con ường ánh ổ ế quốc
Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng ể giành lấy giải
phóng ộc lập”[7], ĐCSĐD coi việc làm cho mỗi người “có ý thức về sự tồn vong
của dân tộc và sự liên quan mật thiết của vận mạng dân tộc với lợi ích cá nhân
mình; ặt quyền lợi dân tộc lên trên các quyền lợi khác, thống nhất lực lượng dân
tộc”[8] là iều kiện cốt yếu, là con ường duy nhất ánh ổ ế quốc Pháp, giành ộc lập dân tộc.
Với ưu thế trên võ ài chính trị trong xứ, “là ảng có thế lực nhất, có cơ sở
vững vàng nhất trong quần chúng, chiến ấu cương quyết hơn hết ể bênh vực quyền
lợi cho dân chúng và tranh ấu òi tự do, ộc lập cho dân tộc”[9], ĐCSĐD chủ trương
thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản ế Đông Dương “ ể tranh ấu chống ế quốc
chiến tranh, ánh ổ ế quốc Pháp và bọn phong kiến thối nát, giải phóng các dân tộc
Đông Dương làm cho Đông Dương hoàn toàn ộc lập”[10]. Để huy ộng và phát huy
nội lực dân tộc thông qua khối ại oàn kết toàn dân, khác với Mặt trận dân chủ trước
ây chưa ánh bại các xu hướng cải lương, thì Mặt trận thống nhất dân tộc phản ế “là
một mặt trận kịch liệt chống ối với các ảng phái, các xu hướng cải lương ề huề, làm lOMoAR cPSD| 22014077
liệt bại chúng nó hoàn toàn trong phong trào giải phóng dân tộc”[11]. Để tập hợp lực
lượng rộng rãi hơn nữa phù hợp với bước chuyển của tình hình, Đảng chủ trương
thành lập Mặt trận Việt Nam ộc lập ồng minh (Mặt trận Việt Minh). Đây là hình thức
tập hợp lực lượng hết sức linh hoạt, nhằm liên hiệp tất cả các dân tộc, oàn kết tất cả
các giai cấp, các ảng phái, các phần tử phản ế muốn giải phóng dân tộc, ể cùng tranh
ấu chống ế quốc thực dân òi cơm áo, hoà bình, thực hiện nền ộc lập hoàn toàn và
quyền dân tộc tự quyết cho các dân tộc Đông Dương.
Với chủ trương “liên hiệp hết thảy các giới ồng bào yêu nước, không phân biệt
giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị”[12],
mặt trận Việt Minh nhanh chóng có ược sự ủng hộ không chỉ của hai giai cấp công
nhân, nông dân, mà còn của tầng lớp trí thức, ịa chủ yêu nước tiến bộ, tư sản dân tộc,
tăng ni, giáo sĩ, phật tử.... Các nhà hữu sản góp nhiều tiền của, thóc gạo, mua công
phiếu Việt Minh, kín áo ủng hộ tiền vàng và mua súng giúp Việt Minh. Tầng lớp trí
thức tiến bộ ngả về phía Việt Minh, hoạt ộng trong các hội truyền bá chữ quốc ngữ.
Theo tiếng gọi của Việt Minh, nhiều trí thức nổi tiếng "xếp bút nghiên" lên vùng
chiến khu tham gia cách mạng. Các vị giáo sĩ, tăng lữ, ồng bào theo ạo Thiên chúa
và các tôn giáo khác... giúp Việt Minh in tài liệu, giao thông liên lạc, ưa ón cán cán
bộ.... Từ miền núi ến miền xuôi, từ ngoài Bắc vào trong Nam, một cao trào cứu nước
phát triển mạnh mẽ, khối oàn kết dân tộc lớn mạnh chưa từng có. Từ ầu nguồn cách
mạng trên chiến khu rừng rậm ến ồng bằng cả nước, trong một thời gian ngắn ã nhanh
chóng xây dựng ược các cơ sở và lực lượng cách mạng ều khắp, tạo bước ột phá về
chất cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Nhằm xây dựng lực lượng liên minh chính trị rộng rãi trong mặt trận ể thực
hiện những nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng, Đảng CSĐD chủ trương: Công nhân
và nông dân phải gương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, vì lợi ích sống còn của dân
tộc mà không ngần ngại bắt tay với tiểu tư sản và những tầng lớp tư bản bản xứ,
trung tiểu ịa chủ, là những thành phần ít nhiều có lòng căm thù ế quốc. Khi họ bước
vào hàng ngũ, ứng dưới ngọn cờ lãnh ạo của giai cấp vô sản, ấu tranh vì mục tiêu
lớn nhất là giải phóng dân tộc thì lực lượng lãnh ạo phải làm cho họ hiểu rằng chỉ có
thực hiện tư sản dân quyền cách mạng và thổ ịa cách mạng mới thoát khỏi sự áp
bức, è nén mọi mặt của chính quyền ế quốc, chỉ có ứng vào mặt trận, quyền lợi của
họ mới ược giải quyết. Trong khi bảo vệ lợi ích tối cao của dân tộc và công nông, lOMoAR cPSD| 22014077
cách mạng không có gì khác hơn là phải giải quyết hài hoà quyền lợi kinh tế, chính
trị của các thành viên mặt trận.
Xác ịnh nhiệm vụ chính là chuẩn bị khởi nghĩa và tiến tới Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền, ĐCSĐD ra sức phát triển ảng viên mới. Đến cuối năm 1939,
Đảng có 2.300 ảng viên với gần 300 chi bộ ược phân bố trong khắp cả nước. Đến
năm 1943, số ảng viên ở xí nghiệp, hầm máy, thành thị tăng rõ rệt; các chi bộ và ảng
viên ặc biệt tăng nhanh ở khu căn cứ Cao – Bắc –Lạng, chiếm 20% số tăng của cả
nước: Từ 2.850 ảng viên năm 1943, ến năm 1944 ã tăng lên 3.150, còn ến khi Cách
mạng tháng Tám thành công, Đảng ã có 5000 ảng viên[13]; số chi bộ tăng từ 300
năm 1943 tới gần 400 vào năm 1944. Lực lượng lãnh ạo nòng cốt này là những hạt
giống ỏ cho thắng lợi của cách mạng sau này.
Trên quan iểm “cuộc cách mạng Đông Dương phải ược kết liễu bằng một cuộc
khởi nghĩa võ trang”[14], về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, Trung ương
Đảng quyết ịnh duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và chủ trương thành lập những
ội du kích hoạt ộng phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến ấu bảo vệ nhân dân,
vừa phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ
Nhai làm trung tâm. Tháng 11-1941, tiểu ội du kích thoát ly ầu tiên ở Cao Bằng (gồm
13 người) ược thành lập. Cuối 1944, trước òi hỏi gấp rút của tình hình, khi ngày khởi
nghĩa ang ến gần, căn cứ vào iều kiện thực tiễn, ĐCSĐD thành lập lực lượng vũ trang
làm òn bẩy cho cao trào cách mạng toàn quốc bùng nổ. Chọn trong hàng ngũ những
ội du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ, ội viên kiên quyết, hăng hái nhất, tập trung
một phần lớn vũ khí ể lập ra ội chủ lực, tháng 12-1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền
giải phóng quân ra ời. Vài ngày sau khi thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân ã lập hai chiến công vang dội hạ ồn Phai Khắt (ngày 25-12) và ồn Nà Ngần (ngày 26-12).
Đi ôi với củng cố lực lượng chủ lực, ĐCSĐD chỉ thị duy trì lực lượng vũ trang
ở các ịa phương – hai lực lượng này cùng phối hợp hành ộng và giúp ỡ lẫn nhau về
mọi phương tiện. Đội quân chủ lực có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của các ịa
phương, tương trợ huấn luyện, tương trợ vũ khí, làm cho lực lượng vũ trang ịa
phương nhanh chóng trưởng thành.
3- Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (1941) là một bước ngoặt quan trọng cả về
nhận thức và chỉ ạo hoạt ộng thực tiễn của ĐCSĐD. Trước những biến ổi nhanh lOMoAR cPSD| 22014077
chóng của tình hình trong nước và thế giới, trên cơ sở phân tích các iều kiện khách
quan, chủ quan, Hội nghị quyết ịnh thay ổi chính sách, giương cao ngọn cờ giải
phóng dân tộc, giải quyết một cách nhuần nhuyễn quan hệ giữa cách mệnh phản ế
và iền ịa[15]. Đặt nhiệm vụ thu góp toàn lực em tất cả ra quyết giành quyền ộc
lập, tự do cho dân tộc, ĐCSĐD tập trung “lực lượng cách mạng toàn cõi Đông
Dương, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, ịa chủ, tư bản bản xứ”[16],
với tiêu chí duy nhất: Yêu nước thương nòi. Đoàn kết là sức mạnh, chia rẽ là yếu –
trên quan iểm ó, một mặt, ĐCSĐD ra sức kêu gọi nhân dân oàn kết một lòng, muôn
người như một cùng chung tay vì việc nghĩa; mặt khác, ánh giá úng thái ộ của các
lực lượng chính trị khác nhau trong xã hội ể có chủ trương oàn kết, tập hợp, “thêm bạn bớt thù”.
Luôn nhận thức rằng, “năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn
dài ều họp nhau lại giữa bàn tay. Trong mấy triệu người, cũng có người thế này thế
khác, nhưng thế này hay thế khác ều dòng dõi tổ tiên ta”[17], ĐCSĐD nhất quán
thực hiện chính sách hợp tác giữa các lực lượng cách mạng trong cuộc ấu tranh giải
phóng dân tộc. Đặt cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam vào phạm trù của
cuộc cách mạng vô sản thế giới, coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận hữu cơ của
cách mạng thế giới,ĐCSĐD nhận thức một thực tế khách quan quan trọng hết sức ặc
thù cho các xứ thuộc ịa và hoàn toàn không giống như ở châu Âu: Ách áp bức của ế
quốc è nặng lên ầu mỗi người dân; dù ở bất kể thành phần xã hội hoặc giai cấp nào,
người dân xứ thuộc ịa ều phải sống trong bầu không khí hết sức ngột ngạt của nô
dịch và bất công. Vì vậy, dù có ịa vị xã hội, quyền lợi kinh tế, chính trị khác nhau, ở
xã hội thuộc ịa Việt Nam không có một giai cấp siêu hình ứng ngoài dân tộc. Dù ế
quốc xâm lược có câu kết với một bộ phận nhỏ giai cấp ịa chủ phong kiến tay sai, áp
bức bóc lột dân tộc, thì kẻ thù chính, kẻ thù chủ yếu và nguy hiểm nhất vẫn là ế quốc xâm lược.
Từ tư duy khoa học ó, nhiệm vụ chiến lược của cuộc cách mạng dân tộc giải
phóng ở Việt Nam có ặc iểm nổi bật: Tập trung mũi nhọn chủ yếu của cách mạng
vào ế quốc thực dân; nhiệm vụ phản phong phải luôn phục tùng nhiệm vụ phản ế.
Đó ồng thời cũng là cơ sở cho sách lược triệt ể cô lập ế quốc, triệt ể cô lập lực lượng
tay sai, phân hóa giai cấp bóc lột, trung lập các lực lượng chưa thể oàn kết. Điều
quan trọng ó, trong lịch sử phát triển của phong trào cộng sản thế giới, không ít tổ lOMoAR cPSD| 22014077
chức hoặc lãnh tụ ã mắc sai lầm, thậm chí là sai lầm nghiêm trọng khi giải quyết mối
quan hệ dân tộc và giai cấp, rơi vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi hoặc làm cho cách
mạng lâm vào thế ơn ộc, cô lập. Kế thừa truyền thống oàn kết dân tộc, phát huy tinh
thần dân tộc chân chính, trong tập hợp lực lượng cho cuộc Tổng khởi nghĩa, ĐCSĐD
ã vượt qua ược tiền lệ ó, vượt qua ược thảm họa của sự chia rẽ. Cách mạng tháng
Tám thắng lợi là một minh chứng thuyết phục cho nhận ịnh nói trên. * * *
Soi vào lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam, có thể dễ dàng nhận
thấy ngay rằng, tư tưởng chủ ạo, truyền thống nổi trội của dân tộc là chủ nghĩa yêu
nước chống xâm lăng, bảo vệ sự tồn vong của dân tộc, là tư tưởng “không có gì quý
hơn ộc lập, tự do”. Vốn là một giá trị căn bản, phổ quát của cộng ồng dân tộc Việt
Nam, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc ấy trong những giây phút quyết ịnh vận mệnh
quốc gia ã tạo nên sức mạnh vô ịch, cuốn phăng mọi thành trì áp bức, làm lung lay
ến tận gốc rễ tòa lâu ài thuộc ịa mà thực dân Pháp ã dày công xây dựng. Trên nền
tảng ại oàn kết vững bền, lâu ời của cộng ồng dân tộc Việt Nam, tinh thần dân tộc ấy
ã làm sâu sắc thêm sự gắn kết dân tộc, thổi bùng lên ngọn lửa cách mạng. Thắng lợi
của Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của tư tưởng tập hợp lực lượng toàn dân tộc,
thắng lợi của khối ại oàn kết toàn dân, thắng lợi của tinh thần dân tộc chân chính –
những yếu tố ấy luôn là những giá trị trường tồn làm nên bản sắc dân tộc Việt Nam,
là vũ khí sắc bén của nhân dân Việt Nam trong cuộc ấu tranh vì ộc lập, tự do.
[1] Từ tháng 10-1930, ổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD)
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, tr.4.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, S d, tập 2, tr.4.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, S d, tập 2, tr.227.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.466. [6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, S d, 1995, S d, tập 1, tr.467.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, S d, tập 6, tr.536.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, S d, tập 6, tr.544.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 6, tr.527.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, S d, tập 6, tr.537.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, S d, tập 6, tr.537-538.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.461. [13]
Nguyễn Hữu Tri - Nguyễn Thị Phương Hồng: Lịch sử công tác tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam (19302000),
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.94.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, S d, tập 6, tr.129. [15]Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, S d, tập 6, tr.538. lOMoAR cPSD| 22014077
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, S d, tập 7, tr.112.
[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, S d, 1995, S d, tập 4, tr.246-247.