









Preview text:
lOMoAR cPSD| 60888405
XÂY DỰNG CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH ĐỊA PHƯƠNG GẮN VỚI GIÁ TRỊ VĂN
HOÁ CỦA CÁC DÂN TỘC ÍT NGƯỜI KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC HIỆN NAY
(QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP HUYỆN MỘC CHÂU, SƠN LA)
TS. Đỗ Trần Phương
Khoa Du lịch, Trường Đại học Văn hoá Hà Nội
Văn hóa là một trong những nguồn tài nguyên quan trọng nhất để phát triển du lịch.
Muốn phát triển du lịch một cách bền vững thì cần phải biết cách bảo tồn, khai thác và
phát huy các giá trị văn hoá. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em, mỗi
dân tộc có một nét văn hóa đặc trưng được ví như một bông hoa đẹp đóng góp vào sự đa
thanh đa sắc của văn hóa Việt Nam. Trong đó miền núi phía Bắc với những nếp sinh hoạt
của đồng bào: H’mông, Thái, Giao, Tày…là một phần không thể thiếu trong kho tàng văn
hoá đặc sắc ấy. Du lịch được xác định là một ngành kinh tế mũi nhọn, chính vì vậy, việc
xây dựng sản phẩm du lịch đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển. Tuy có
nhiều tiềm năng và văn hoá đặc sắc nhưng sản phẩm du lịch ở nơi đây còn chưa thực sự
đáp ứng được nhu cầu du khách. Bài viết này sẽ nghiên cứu trường hợp điển hình huyện
Mộc Châu, Sơn La để thấy được thực trạng sản phẩm du lịch đồng thời gợi mở cho việc
xây dựng sản phẩm du lịch ở huyện Mộc Châu nói riêng và khu vực miền núi phía Bắc nói
chung để có thể đáp ứng được những nhu cầu đa dạng của khách du lịch đồng thời phát
huy hết được giá trị của các di sản văn hoá.
1. Sản phẩm du lịch
1.1. Các quan điểm, khái niệm về sản phẩm du lịch trên thế giới
Theo định nghĩa của Tổ chức du lịch thế giới (UNWTO): Sản phẩm du lịch là "sự kết
hợp giữa các yếu tố hữu hình và vô hình, như tài nguyên thiên nhiên, văn hóa và nhân tạo,
các điểm tham quan, cơ sở, dịch vụ và hoạt động xung quanh một điểm đến cụ thể; sản
phẩm du lịch là sự pha trộn của tiếp thị điểm đến và tạo ra trải nghiệm tổng thể bao gồm lOMoAR cPSD| 60888405
các khía cạnh cảm xúc cho khách hàng tiềm năng. Một sản phẩm du lịch được định giá và
bán thông qua các kênh phân phối và nó có vòng đời”1
Định nghĩa đã nêu được yếu tố cốt lõi trong sản phẩm du lịch đó là yếu tố tài nguyên.
Không có tài nguyên thì không thể có sản phẩm du lịch
Trong Từ điển thuật ngữ du hành và du lịch, S. Medlik đưa ra khái niệm: “Sản phẩm
du lịch, theo nghĩa hẹp, được hiểu là bất cứ thứ gì du khách mua. Theo nghĩa rộng hơn, đó
là sự kết hợp giữa những gì du khách làm và những cơ sở giải trí, tham quan, những phương
tiện và dịch vụ mà du khách sử dụng để làm cho nó thành hiện thực”2
Đây là khái niệm tiếp cận sản phẩm du lịch từ góc độ du khách. Tất cả những gì du khách
mua đều được quan niệm là sản phẩm du lịch. Đây là khái niệm đơn giản, dễ hiểu và dễ áp
dụng vào trong quá trình kinh doanh.
M.Coltman, trong cuốn Tiếp thị du lịch, cho rằng: “Sản phẩm du lịch là một tổng thể
bao gồm các thành phần không đồng nhất hữu hình và vô hình nhằm đáp ứng nhu cầu của
du khách trong một chuyến đi” 3. Tính hữu hình của nó được thể hiện cụ thể như thức ăn,
đồ uống, các sản phẩm lưu niệm... còn tính vô hình của nó được thể hiện đó là các loại hình
dịch vụ du lịch, các dịch vụ bổ trợ khác.
Theo cách tiếp cận này, sản phẩm du lịch được tiếp cận dưới góc độ hàng hoá và dịch vụ.
Trong du lịch thì sản phẩm về dịch vụ bao giờ cũng chiếm tỉ trọng cao hơn sản phẩm về
hàng hoá. Trong kinh doanh du lịch chủ yếu kinh doanh dịch vụ du lịch.
Đứng trên góc độ người kinh doanh du lịch, tác giả: Đồng Ngọc Minh và Vương Lôi
Đình cho rằng "Sản phẩm du lịch là toàn bộ dịch vụ của người kinh doanh du lịch dựa vào
vật thu hút du lịch và khởi sự du lịch, cung cấp cho du khách để thỏa mãn nhu cầu du lịch" 4
Đây là một quan điểm rất độc đáo. Để sản phẩm du lịch bán được tới du khách, sản phẩm
đó không bao giờ tồn tại độc lập mà nó phải được liên kết với một sản phẩm lõi đó là vật
1 https://www.unwto.org/tourism-development-products
2 S. Medlik (2004), Dictionary of Travel, Tourism and Hospitality, NXb Butter Heinemann, trg 168
3 Michael Mc Coltman (1991), Tiếp thị du lịch, CMIE & Trung tâm dịch vụ đầu tư và ứng dụng khoa học kinh tế, TP Hồ Chí Minh
4 Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (2001), Kinh tế du lịch và Du lịch học, NXB Trẻ, trg 234 lOMoAR cPSD| 60888405
thu hút du lịch. Vật thu hút du lịch ở đây có thể hiểu chính là những tài nguyên du lịch độc
đáo, đặc sắc, khác lạ tạo ra lực hút trong hành vi tiêu dùng của du khách.
1.2.Các quan điểm, khái niệm sản phẩm du lịch ở Việt Nam
Luật du lịch (2017) đã có sự điều chỉnh trong cách hiểu về sản phẩm du lịch như sau:
“Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ trên cơ sở khai thác giá trị tài nguyên du lịch để
thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch”5
Quan điểm của Luật du lịch tiếp cận sản phẩm du lịch như một tổng thể được cấu thành
bởi các dịch vụ đơn lẻ. Tuy nhiên quan điểm này về mặt khoa học còn nhiều tranh cãi bởi
sản phẩm theo cách phân chia của ngành kinh tế bản thân nó bao gồm 2 thành tố là hàng hoá và dịch vụ.
Qua phân tích quan điểm về sản phẩm du lịch của các học giả trong và ngoài nước, tác giả
đưa ra một định nghĩa về sản phẩm du lịch như sau: “Sản phẩm du lịch là tất cả những gì
có thể bán, thoả mãn nhu cầu của du khách, mang lại lợi nhuận cho nhà cung cấp đồng
thời đảm bảo đúng pháp luật và sự phát triển bền vững của du lịch”
2. Những giá trị văn hoá của các dân tộc ít người khu vực phía Bắc để phát
triển du lịch (qua nghiên cứu huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La)
Mộc Châu là huyện lới nhất của tỉnh Sơn La, được coi là cửa ngõ của Sơn La và
Tây Bắc. Nằm ở độ cao 1.050m so với mực nước biển, Mộc Châu là cao nguyên lớn trải
dài khoảng 80km, rộng 25km mang đặc trưng của huyện miền núi cao, địa hình bị chia cắt
mạnh, có nhiều núi cao hiểm trở và thung lũng rộng. Đường giao thông quanh co, uốn lượn
trên sườn núi, qua nhiều đèo dốc, đồng thời qua nhiều cảnh quan núi rừng, bản làng…Mộc
Châu được mệnh danh là Đà Lạt của miền Bắc bởi khí hậu mát mẻ, trong lành, đất đai màu
mỡ. Tài nguyên tự nhiên của Mộc Châu chủ yếu là đất đai và khí hậu, cảnh quan sinh thái,
Mộc Châu có khá nhiều danh lam, thắng cảnh sơn thủy hữu tình. Hang Dơi đã được bộ văn
hoá xếp hạng quốc gia, động Sơn Mộc Hương, đồi thông bản Áng, thác Dải Yếm, khu bảo
tồn thiên nhiên Quốc gia Xuân Nha rộng hơn 20.000 ha, đỉnh Phiêng Luông cao 1500m,
trên đỉnh có bãi bằng rộng hàng chục ha, suối nước nóng như Mường Khoa, Phu Mao, Bản
Bó, Hua Păng...Đây chính là điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch sinh thái, nghĩ dưỡng.
5 Luật số 09/2017/QH14, Luật Du lịch, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ban hành ngày 19/6/2017. lOMoAR cPSD| 60888405
Dân số ở Mộc Châu tính đến năm 2020 khoảng 20 vạn người chiếm 15% dân số toàn tỉnh
trong đó tập trung chủ yếu là 9 dân tộc: Thái 33%, Kinh 29%, Mường 16%, Mông 15%,
Dao 6%, Xinh Mun 0,4%, Khơ Mú 0,3%...và một số dân tộc ít người khác. Mỗi dân tộc có
một bản sắc văn hóa khác nhau, phong tục tập quán khác nhau tạo nên một bức tranh văn
hóa đầy sống động và đầy màu sắc. Tuy nhiên, nhiều trong số những giá trị văn hóa ở nơi
đây còn ở dạng tiềm ẩn cần được đánh thức và đưa vào khai thác. Trong bài viết này, chúng
tôi sẽ lựa chọn những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể đặc sắc nhất của các tộc người
Thái, Mường, Mông, Dao để phân tích để đưa vào để phục vụ phát triển du lịch.
Ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển, công nghệ đang len lỏi vào từng ngõ ngách
của cuộc sống thì việc có một nơi yên bình để tận hưởng, tìm hiểu những giá trị văn hóa
truyền thống là điều hết sức cần thiết. Nếu ai đã từng đặt chân đến Mộc Châu, Sơn La chắc
hẳn sẽ khó lòng có thể quên được những cảnh sắc tuyệt vời của vùng đất Cao nguyên này.
Nơi đây vẫn còn chứa đựng hầu như nguyên vẹn những giá trị văn hóa điển hình của các
tộc người: nhà ở, ẩm thực, lễ hội, sản phẩm thủ công...đây là những “nguyên liệu chính”
để tạo nên những sản phẩm du lịch mới lạ, khác biệt so với các điểm đến du lịch khác.
Trong nghiên cứu nhỏ này, dưới góc nhìn kinh doanh du lịch, chúng tôi chỉ tập trung khai
thác những giá trị văn hóa nổi bật tại các bản làng dân tộc huyện Mộc Châu để từ đó làm
cơ sở cho việc phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa nơi đây. 2.1.
Nhà ở truyền thống của đồng bào dân tộc
Nếu như đến với những thành phố lớn Hà Nội, Đà Nẵng, Nha Trang, Hồ Chí Minh
du khách luôn muốn được sống trong không gian sang trọng, khách sạn cao cấp để được
thỏa mãn nhu cầu “được thể hiện bản thân” của mình, ngược lại khi đến Mộc Châu với
“Những bản sương giăng, những đèo mây phủ” du khách sẽ tò mò, háo hức khi được ở
trong những ngôi nhà đơn sơ của đồng bào dân tộc Mông, Dao, Thái, Mường để có cơ hội
tiếp xúc sâu hơn với văn hóa bản địa và trải nghiệm cuộc sống của cộng đồng các dân tộc
nơi đây. Mỗi dân tộc có cách xây dựng ngôi nhà cổ truyền của mình theo một phong cách
rất riêng biệt và đặc trưng dựa vào phong tục tập quán của họ. Nhà của người Thái ở Mộc
Châu được chia thành 2 nhóm: Nhà của người Thái Đen và Thái Trắng. nhà Thái Đen là
nhà sàn có mái hình mai rùa, và hai đầu hồi có “khau cút”, không có hiên ở phía trước, còn lOMoAR cPSD| 60888405
nhà của người Thái Trắng là nhà sàn có mái hình chữ nhật, thường có hàng hiên ở phía
trước. Qua khảo sát chúng tôi thấy rằng, khác với nhà của người Thái, nhà ở của người Dao
là loại hình nhà đất, không được thoáng đãng, sạch sẽ như nhà của người Thái, người
Mường. Nhà của người Dao chủ yếu làm bằng nguyên liệu tranh tre, nứa lá. Còn đối với
người Mường thì nhà ở chủ yếu của họ là nhà sàn, đối với cộng đồng dân tộc ở nơi đây,
xây nhà là việc rất quan trọng cho nên nguyên liệu chính để cất nhà được chuẩn bị khá kĩ
lưỡng. Thời gian chuẩn bị gỗ để làm nhà có thể từ 1- 3 năm mới có đủ số gỗ cần thiết,
thông thường gỗ làm cột chính là loại gỗ to, thẳng, có lõi cứng để không bị mối mọt: như
cây thọ, táu, sến, chò chỉ...còn gỗ làm kèo thường là xoan, mỡ, ba soi. Tất cả các cây này
đều phải đáp ứng một số yêu cầu như cây không được cụt ngọn, không được sét đánh,
không được dây leo quấn quanh thân, cây bị đổ. Họ quan niệm rằng: nếu mà lấy những cây
như vậy về làm nhà thí sẽ đem những điều không may mắn đến với gia đình như người ốm
đau, tai nạm, mùa màng thất bát…Nhà cổ truyền của người H’mong có ít cửa sổ nên thường
trong nhà bi tối do đó khi thấy trong nhà tối thì chủ nhà dùng gậy đẩy nghiêng một tấm
ván lợp trên nóc để lấy ánh sáng vào trong nhà, khi tối đếm lại đậy lai. Còn hai bên chái
của nhà thì một bên để nước sinh hoạt của gia đình, còn chái bên kia dùng để làm chỗ để
cối đá để xay ngô, một số hộ gia đình thì cối xay ngô được để ở hiên trước của nhà.
2.2. Ẩm thực đặc sắc, đa dạng
Ăn uống là một trong những nhu cầu cơ bản nhất của con người, nhưng ăn uống khi
đi du lịch lại đòi hỏi phải khác với cuộc sống thường ngày. Ăn uống trong chuyến du lịch
không những yêu cầu an toàn, chất lượng mà còn đòi hỏi món ăn đó phải mang đậm bản
sắc văn hóa truyền thống của mỗi vùng miền. Ẩm thực của các dân tộc huyện Mộc Châu
rất phong phú, đa dạng gồm có những món đặc sắc sau: cá nướng, trâu bò nướng, thịt băm
gói nướng, thịt hun khói, thịt treo gác bếp, cơm Lam, xôi màu tím, bánh dày, mèn mén,
măng chua, các món nộm, các món chua. Về đồ uống, ngoài trà là đặc sản của vùng cao
nguyên Mộc Châu, qua khảo sát chúng tôi thấy rất ấn tượng với rượu hoãng - một loại rượu
truyền thống của đồng bào Dao. Rượu được chưng cất từ gạo nếp, hương vị rất thơm, nồng
độ vừa phải, uống rất ngon, không bị nhức đầu, đây là một loại đồ uống rất hợp đưa vào trong kinh doanh du lịch. lOMoAR cPSD| 60888405 2.3.
Sản phẩm thủ công truyền thống
Bất kỳ du khách nào, khi đặt chân đến một vùng đất mà mình tham quan đều muốn
lưu giữ những kỷ niệm. Đó có thể là phong cảnh hữu tình, những di tích lịch sử giàu giá trị
lịch sử văn hóa, những phong tục tập quán, những ứng xử giàu chất văn hóa của cư dân
bản địa hay chỉ đơn thuần là một làn điệu dân ca hoặc có thể là những món đồ lưu niệm
mà họ mua được tại các điểm du lịch. Đây là những món đồ thường có giá trị không quá
cao nhưng mang ý nghĩa tinh thần rất lớn, là những thứ hữu hình có thể lưu giữ lâu dài sau
khi kết thúc chuyến đi, có thể làm quà để tặng bạn bè, người thân…Tại huyện Mộc Châu
hiện vẫn còn một số nghề thủ công truyền thống như: Nghề dệt, nghề Mộc, nghề đan, nghề
làm giấy…Mỗi dân tộc lại có một nghề để làm kế sinh nhai. Người Thái và người Mông
thì nổi tiếng với nghề dệt, các dân tộc khác thì có các nghề mộc, rèn, đan…Tuy nhiên, hầu
hết đồng bào dân tộc nơi đây vẫn làm theo kiểu tự cung, tự cấp, chưa có những sản phẩm
đặc sắc đáp ứng được thị hiếu của khách du lịch.
2.4. Các lễ hội truyền thống
Đối với Mộc Châu, có 2 lễ hội đặc sắc cần quan tâm, phát triển đó chính là lễ hội Hoa
Ban của người Thái và Tết Độc Lập của người Mông.
Lễ hội hoa Ban thực chất là lễ hội cầu an cho bản mường của người Thái ở Mộc Châu,
là một sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng rất quan trọng đối với cộng đồng. Đây là lễ hội thường
được tổ chức vào cuối tháng Giêng, đầu tháng Hai âm lịch (đây là khoảng thời gian mà hoa
Ban nở rất đẹp). Trong lễ hội người ta thường giết trâu hiến sinh cầu và tạ thần linh, lễ hội
có liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần, tâm linh của cả bản mường, đến mùa màng,
sức khỏe và sự làm ăn của cộng đồng năm ấy, nên được tổ chức rất trọng thể, vui vẻ, thu
hút sự tham gia của đồng bào ở địa vực lớn (bản, mường).
Tết Độc Lập là ngày hội văn hóa của đồng bào dân tộc Mông ở Mộc Châu. Từ ngày
30/8 – 2/9 các cộng đồng dân tộc Mông từ khắp mọi miền đổ về Mộc Châu để giao lưu văn
hóa, gặp gỡ trao đổi tâm tình. Trong những ngày này, chính quyền của Tỉnh, Huyện hỗ trợ
cho ngày hội rất nhiều hoạt động như Ca Nhạc, Cắm trại, tổ chức các cuộc thi về văn hóa,
văn nghệ dân gian, hội chợ ẩm thực. Tất cả những hoạt động của Lễ hội diễn ra khá hoành
tráng và có sức hấp dẫn cao thu hút hàng vạn người tham gia. lOMoAR cPSD| 60888405
2.5.Dân vũ
Ngoài 2 lễ hội truyền thống kể trên, đến với Mộc Châu, du khách còn được hòa mình
vào những điệu múa, tiếng khèn hết sức độc đáo của đồng bào dân tộc nơi đây. Kho tàng
múa của các dân tộc huyện Mộc châu rất phong phú, mỗi điệu múa là sự kết tinh của truyền
thống văn hóa, quan niệm của đồng bào về cuộc sống xã hội, nhân sinh, tín ngưỡng, tôn
giáo nên có sức sống mãnh liệt. Có thể kể được những điệu múa như: Dân tộc Mông có
nhẩy khèn, múa khèn, múa ô, gậy tiền, se sợi; Dân tộc Dao có múa chuông, múa kiếm, múa
rùa, bắt ba ba; Dân tộc Thái có múa xoè vòng, xoè chá, xoè hoi, múa khăn, múa nhạc; Dân
tộc Mường có múa quạt mo, múa kiếm, múa sạp; Dân tộc Xinh Mun có múa tra hạt, múa
tăng bu, tăng bẳng; Dân tộc Kinh có múa lân, múa quạt. Đây là những món ăn tinh thần
hết sức cần thiết, không những có thể đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí của du khách khi
lưu trú tại đây mà còn góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc của các bản mường.
3. Một số gợi ý khi xây dựng sản phẩm du lịch gắn với giá trị văn hoá của các
dân tộc ít người khu vực miền núi phía Bắc hiện nay 3.1.Xác định hệ thống câu hỏi
về giá trị văn hoá trong xây dựng sản phẩm du lịch
Chúng ta có một kho tàng di sản văn hoá của các dân tộc ít người tại khu vực miền núi phía
Bắc. Điển hình có thể kể tới hệ thống di sản của đồng bào: Mông, Dao, Thái, Mường, Tày,
Nùng…Tuy nhiên không phải giá trị văn hoá nào cũng có thể áp dụng và khai thác nó dưới
dạng một sản phẩm du lịch. Có những giá trị văn hoá rất có ý nghĩa nhưng về cơ bản nó
chỉ phù hợp với đời sống sinh hoạt cộng đồng của bà con chứ không thể phát triển thành
một sản phẩm du lịch phục vụ du khách. Để xác định được, giá trị văn hoá nào có thể trở
thành một sản phẩm du lịch đích thực, phục vụ tốt nhu cầu của du khách, bà con làm du
lịch tại những khu du lịch cộng đồng hay những nhà đầu tư, kinh doanh du lịch cần phải
cân nhắc giá trị văn hoá theo những câu hỏi dưới đây để quyết định xem những di sản văn
hoá đó cả khả năng phát triển thành một sản phẩm du lịch hay không?
- Di sản này có cái gì? (thẩm mỹ, lịch sử, khoa học, xã hội, giáo dục...)
- Vị thế của di sản như thế nào? (quý hiếm hay phổ thông, nét độc đáo, có đại diện
cho cộng đồng hay không?) lOMoAR cPSD| 60888405
- Nếu làm du lịch sẽ ảnh hưởng như thế nào? (tích cực, tiêu cực: địa phương, vănhóa, tài nguyên...)
- Di sản được bảo vệ, bảo dưỡng, tu sửa không?
- Di sản liên quan tới ai? (các bên liên quan tới di sản)- Mức độ cạnh tranh của di
sản? Mức độ nổi tiếng của di sản?
- Di sản có thể tiếp cận nó hay không?
- Những câu chuyện xung quanh di sản có gì độc đáo?
- Nếu dựa vào di sản đó phát triển du lịch, cơ sở vật chất có đáp ứng nhu cầu haykhông?
- Du khách có được trải nghiệm di sản hay không?
- Du khách sẽ tiép nhận được những gì từ di sản? 3.2.
Áp dụng mô hình Business model Canvas trong xây dựng sản phẩm du lịch
Khi đã xác định một di sản văn hoá có tiềm năng để phát triển thành một sản phẩm du
lịch, chúng ta phải đặt sản phẩm trong một hệ thống các câu hỏi liên quan để xác định
tính khả thi khi phát triển sản phẩm. Có nhiều cách để có thể xác định được tính khả thi
của sản phẩm, tuy nhiên hiện nay, chúng ta có thể áp dụng bộ câu hỏi theo chuỗi logic
của mô hình kinh doanh Canvas
- Giá trị cam kết: Tạo ra giá trị gì? Sán phẩm, dịch vụ gì?
- Chất lượng sản phẩm ra sao?Có nét gì khác biệt?
- Phân khúc khách hàng: Nhóm khách hàng mục tiêu
- Kênh phân phối: Kênh bán: Online, trực tiếp - Quan hệ khách hàng: Có mối quan hệ chưa?
- Những dòng thu nhập: Thu nhập qua những dòng nào?
- Khả năng lõi: Có những khả năng gì?
- Nguồn lực/ khả năng chính: Cần phối hợp bao nhiêu nguồn lực - Hoạt động chính - Đối tác chính - Cơ cấu chi phí lOMoAR cPSD| 60888405 3.3.
Hình thành triết lý trong xây dựng sản phẩm du lịch a. 3 “giữ”
- Môi trường: Giá trị văn hoá của cộng đồng các dân tộc thiểu số luôn được đặt trong
một môi trường cụ thể. Vì vậy, việc bảo vệ môi trường sẽ là tiền đề để bảo vệ giá trị văn
hoá. Bên cạnh đó môi trường theo nghĩa rộng nó chính là vật hút du lịch để tạo ra những
giá trị lõi thu hút du khách đến với cộng đồng các dân tộc thiểu số.
- Văn hoá: Nếu mất đi bản sắc văn hoá, cộng động dân tộc thiểu số đó sẽ không còn
những yếu tố để nhận diện dân tộc mình và như vậy cũng sẽ mất đi lợi thế cạnh tranh và
khả năng xây dựng thương hiệu sản phẩm du lịch văn hoá.
- Nhân lực: Con người là nhân tố quyết định của mọi nhân tố. Phải chú trọng vào yếu
tố con người, nhân lực. Phải có một nguồn nhân lực làm du lịch yêu văn hoá, tôn trọng văn
hoá, có tư duy sáng tạo ra những giá trị văn hoá du lịch mới trên nền tảng bản sắc văn hoá
dân tộc. Bên cạnh đó, phải có một nguồn nhân lực đủ về kiến thức, kĩ năng, thái độ trong
quá trình phát triển du lịch địa phương b. 4 “trao”
- Giá trị văn hoá: Du khách đến với cộng động các dân tộc thiểu số để được thẩm
nhận các giá trị văn hoá, chính vì vậy, những người làm du lịch khi thiết kế sản phẩm phải
có những sản phẩm du lịch rất cụ thể về ăn, mặc, ở, đi lại, đồ lưu niệm, hoạt động sinh hoạt
cộng đồng để trao được những giá trị văn hoá cụ thể mang bản sắc dân tộc đến với du khách.
- Nụ cười: Đó chính là sự thân thiện của người làm du lịch. Du khách đi du lịch để
được hưởng những giá trị văn hoá, tìm hiểu nét đẹp văn hoá địa phương và đặc biệt là
những nét đẹp cua con người qua các vùng miền. Chính vì vậy, sự phục vụ tận tâm, sự
phục vụ từ trái tim thông qua những nụ cười sẽ góp phần làm cho sản phẩm du lịch được
cảm xúc hoá, mang lại sự trải nghiệm tuyệt vời cho du khách.
- Không gian hưởng thụ sản phẩm: Một sản phẩm du lịch khi muốn hưởng thụ một
cách trọn vẹn phải gắn với một không gian mà sản phẩm đó được tạo ra. Không chỉ chú
trọng đến chất lượng của từng sản phẩm cụ thể còn phải chú ý đến không gian mang tính
chất nghệ thuật, an toàn, vệ sinh để du khách được hưởng trọn vẹn một sản phẩm du lịch. lOMoAR cPSD| 60888405
- Ấn tượng: Du khách sau mỗi chuyến đi, không mang về nhà mình ngoài sự ấn tượng.
Hãy tạo ra khách sự ấn tượng ngay từ quá trình tiếp xúc ban đầu, sự ấn tượng trong các sản
phẩm mang hồn cốt văn hoá của dân tộc, sự ấn tượng trong cung cấp phục vụ, sự ấn tượng
trong cam chất về chất lượng dịch vụ. 4. Kết luận
Kinh tế du lịch là một ngành kinh tế năng động, luôn đòi hỏi sự trải nghiệm mới bởi
hành trình du lịch là hành trình của sự khám phá trải nghiệm. Để đáp ứng tốt nhu cầu của
du khách, việc sáng tạo những sản phẩm du lịch dựa trên giá trị văn hoá của các cộng đồng
dân tộc thiểu số là một công việc có ý nghĩa thực tiễn góp phần tạo nên sự phát triển bền
vững của du lịch Việt Nam. Tiềm năng phát triển sản phẩm du lịch từ các giá trị văn hoá
của cộng đồng dân tộc thiểu số còn rất nhiều. Hy vọng rằng, những phân tích và gợi ý của
bài viết sẽ góp phần định hướng trong xây dựng sản phẩm du lịch từ những giá trị văn hoá
của cộng đồng dân tộc thiểu số vùng núi phía bắc một cách hiệu quả, bền vững. TÀI LIỆU THAM KHẢO
S. Medlik (2004), Dictionary of Travel, Tourism and Hospitality, NXb Butter Heinemann, trg 168
Michael Mc Coltman (1991), Tiếp thị du lịch, CMIE & Trung tâm dịch vụ đầu tư và ứng
dụng khoa học kinh tế, TP Hồ Chí Minh
Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (2001), Kinh tế du lịch và Du lịch học, NXB Trẻ, trg 234
Luật số 09/2017/QH14, Luật Du lịch, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ban hành ngày 19/6/2017.