-
Thông tin
-
Quiz
Xây dựng tiến trình công tác xã hội với trẻ em khuyết tật tại trung tâm trẻ em khuyết tật Phúc Tuệ | Tiểu luận Công tác xã hội
Công tác xã hội hướng tới sự thay đi tích cực trong xã hội, nhăm nâng cao chất lượng cuộc sống cho tất cả mọi người đặc biệt là nhóm yếu thế. Công tác xã hội thúc đây sự thay đổi xã hội và nâng cao năng lực cho các mối quan hệ giữa các cá nhân, gia đình, tổ chức, nhóm, cộng đồng trong xã hội đề tiến tới sự công bằng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Công tác xã hội 12 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.5 K tài liệu
Xây dựng tiến trình công tác xã hội với trẻ em khuyết tật tại trung tâm trẻ em khuyết tật Phúc Tuệ | Tiểu luận Công tác xã hội
Công tác xã hội hướng tới sự thay đi tích cực trong xã hội, nhăm nâng cao chất lượng cuộc sống cho tất cả mọi người đặc biệt là nhóm yếu thế. Công tác xã hội thúc đây sự thay đổi xã hội và nâng cao năng lực cho các mối quan hệ giữa các cá nhân, gia đình, tổ chức, nhóm, cộng đồng trong xã hội đề tiến tới sự công bằng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Công tác xã hội 12 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
HỌC VIÊN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA XÃ HỘI HỌC VÀ PHÁT TRIỂN
-------------------------------- TIỂU LUẬN
MÔN CÔNG TÁC XÃ HỘI
CHỦ ĐỀ: XÂY DỰNG TIẾN TRÌNH CÔNG TÁC XÃ HỘI
VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI TRUNG TÂM TRẺ EM KHUYẾT TẬT PHÚC TUỆ SINH VIÊN : BÙI TUẤN MINH MÃ SINH VIÊN : 2151010042 LỚP : CÔNG TÁC XÃ HỘI
Hà Nội, tháng 06 năm 2022 A.MỞ ĐẦU
Công tác xã hội hướng tới sự thay đi tích cực trong xã hội, nhăm nâng cao
chất lượng cuộc sống cho tất cả mọi người đặc biệt là nhóm yếu thế. Công tác
xã hội thúc đây sự thay đổi xã hội và nâng cao năng lực cho các mối quan hệ
giữa các cá nhân, gia đình, tổ chức, nhóm, cộng đồng trong xã hội đề tiến tới sự
công bằng. Với hai vai trò chính là năng cao năng lực cho các nhóm đối tượng
như cá nhân, gia đình và cộng đồng có hoán cảnh khó khăn và cái thiện môi
trường xã hội để hỗ trợ cá nhân, gia đình, thực hiện chức năng, vai trò hiệu quả.
Công tác xã hội cá nhân có thể được coi là một phương pháp dựa trên nền
tâng kiến thức khoa học tâm lý học xã hội, xã hội học. NVCTXH dựa trên kiến
thức, kỳ năng và thái độ nghề nghiệp được đào tạo tương tác với Trẻ em khuyết
tật thiết lập mối quan hệ tích cực, dựa trên cách tiếp cận khoa học để tìm hiểu
vấn đề xoay quanh đối tượng từ đó tìm ra biện pháp can thiệp hỗ trợ phù hợp
NVCTXH sẽ luôn là người sát cánh bên đối tượng, giúp đối tượng tăng năng lực
cá nhân và chủ động giải quyết vấn đề của mình. B.THÂN BÀI
PHẦN I: XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ
1.Tính cấp thiết của đề tài ( Lí do chọn đề tài)
Theo thống kê của tổng cục điều tra Dân số và Nhà ở thì trong số 78,5
triệu người Việt Nam từ 5 tuổi trở lên ( số liệu thống kê năm 2009) có 6,1 triệu
người , tương ứng với 7,8% dân số từ 5 tuổi trở lên là người khuyết tật. Trong đó
có khoảng 385 nghìn người khuyết tật nặng. Số lượng này tuy thấp hơn nhưng
cũng rất gần với con số thống kê về số người khuyết tật nặng được nhận trợ cấp
thường xuyên từ Bộ Lao Động, Thương binh và Xã hội. Có thể thấy một cách rõ
rệt : Người khuyết tật là một bộ phận không nhỏ cần nhiều sự quan tâm từ cả xã
hội. Người khuyết tật luôn là mối quan tâm của cộng đồng Quốc tế và của Đảng,
Nhà nước Việt nam. Suốt mấy thập kỷ qua xã hội đã có những chuyển biến tích
cực trong nhận thức, thái độ và hành động vì người khuyết tật. Người khuyết tật
không còn bị coi là gánh nặng của xã hội. Mọi vấn đề có liên quan đến người
khuyết tật đang được xem xét dưới góc độ quyền con người( Trên hết là các
quyền bình đăng, quyền được sống một cuộc sống đầy đủ và được tôn trọng
phẩm giá). Người khuyết tật cũng mong muốn được tham gia đóng góp cho sự
phát triển xã hội trong khả năng vốn có của mình. Tham gia ký kết Công ước
Quốc tế về quyền của người khuyết tật, cùng với quá trình đổi mới kinh tế, Việt
nam đã ban hành nhiều chính sách, chương trình trợ giúp người khuyết tật và gia
đình người khuyết tật nhằm tạo mọi cơ hội cho người khuyết tật tham gia, hoà
nhập vào cộng đồng và có thêm cơ hội phát triển khả năng của bản thân.
Tuy vậy, người khuyết tật ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn và bất bình
đẳng trong cuộc sống hàng ngày. Một trong những khó khăn mà họ phải đối mặt
chính là sự phân biệt đối xử. Sự phân biệt đối xử đối với người khuyết tật ở nước
ta vẫn còn tồn tại ở nhiều phương diện trong cuộc sống như : trong học tập, việc
làm, trong tiếp cận với các dịch vụ công cộng ... Vẫn còn nhiều người khuyết tật
chưa được tạo điều kiện để học văn hóa, học nghề. Các công trình công chưa
được xây dựng không phù hợp , thiếu đường đi cho xe lăn.Trong tình yêu và hôn
nhân, người khuyết tật vẫn còn bị kỳ thị và phân biệt đối xử.
Xuất phát từ chính những khó khăn mà những người khuyết tật gặp phải
đòi hỏi toàn thể cộng động cần phải chung tay góp sức giúp đỡ họ, hỗ trợ họ cả
về vất chất lẫn tinh thần, giúp họ bỏ qua mặc cảm, hòa nhập với xã hội, có thể tự
mình xây dựng, phát triển được cuộc sống. Vì mục đích nhân văn ấy mà có rất
nhiều văn bản pháp luật, đạo luật của Nhà nước được ban hành đề bảo vệ người
khuyết tật; các trung tâm hỗ trợ, phục hồi chức năng cho người khuyết tật được
xây dựng và trở thành địa chỉ tin cậy của họ. Có rất nhiều các trung tâm tổ chức
các hoạt động, dịch vụ hỗ trợ đa dạng cho người khuyết tật như hỗ trợ về tâm lý,
hỗ trợ về sức khỏe, thể chất...
Nhiều trẻ em khi sinh ra đã chịu nhiều thiệt thòi khi mang những khuyết
tật bẩm sinh hay do tai nạn khiến các em mặc cảm, tự tỉ với cuộc sống. Hiện nay,
trẻ em khuyết tật vận động gặp rất nhiều khó khăn, nhất là các cơ hội tiếp cận
các hoạt động dịch vụ nhằm nâng cao năng lực, tạo thuận lợi cho việc hội nhập
đời sống của cộng đồng. Bản thân trẻ em khuyết tật vận động không thể hội
nhập vào cuộc sống cộng đồng nếu đó chỉ là sự nỗ lực của bản thân mà còn cần
được sự quan tâm chia sẻ, tạo thuận lợi từ gia định, cộng đồng và xã hội. Những
em may mắn được nuôi dạy và ở lại các trung tâm dành cho trẻ khuyết tật nhưng
với dạng tật khác nhau và ít được tiếp cận với môi trường sống bên ngoài các em
cũng gặp những khó khăn và cản trở riêng.
Chính vì vậy, nhân viên công tác xã hội đóng vai trò như là cấu nối của trẻ
khuyết tật vận động để các em có thể dễ dàng hòa nhập với cộng đồng và xã hội
từ đó phát huy được khả năng của mình.
Công tác xã hội cá nhân với trẻ em khuyết tật có ý nghĩa rất quan trọng và
có giá trị với nhân viên công tác xã hội và trẻ, cho phép trẻ quyền kiểm soát, lựa
chọn và thực hiện các hành động quan trọng trong cuộc sống của họ. Công tác
xã hội cá nhân sẽ giúp làm rõ trách nhiệm và những hành động mà gia đình, nhà
trường, tổ chức xã hội cũng như nhân viên công tác xã hội cần làm để đáp ứng
những nhu cầu cụ thể dựa trên khả năng riêng biệt của trẻ. Một kế hoạch hỗ trợ
cá nhân toàn diện và thích hợp phải thể hiện những mục tiêu cụ thể và các biện
pháp quan trọng để các hoạt động hỗ trợ đạt được mục tiêu tổng thể cho mọi kế
hoạch hỗ trợ trẻ khuyết tật vận động hòa nhập cộng đồng. Ngoài ra, công tác xã
hội cá nhân cũng giúp cho nhân viên xã hội quản lý và định hướng công việc của
họ ở cơ sở, trên cơ sở đó đánh giá chất lượng hỗ trợ của đội ngũ nhân viên công tác xã hội.
Tại trung tâm hồi phục chức năng cho trẻ em khuyết tật Phúc Tuệ, Tây
Hồ, Hà Nội đã có rất nhiều hoạt đọng Công tác xã hội tại đây và đang hoạt động
tốt. Tuy nhiên do số lượng trẻ khá đông nên hoạt động CTXH chưa được đi sâu
và hiệu quả nhất. Và để khắc phục nên em đã quyết định chọn đề tài “XÂY
DỰNG TIẾN TRÌNH CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT
TẠI TRUNG TÂM TRẺ EM KHUYẾT TẬT PHÚC TUỆ”
2.Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1 Một số nghiên cứu trên thế giới
Trên Thế giới, giáo dục trẻ em khuyết tật thực sự bắt đầu vào TK thứ XVI,
nhưng quan điểm giáo dục trẻ khuyết tật dựa vào bản kế hoạch giáo dục cá nhân
chỉ được đề cập vào cuối TK XVII đầu TK XVIII do nhà vật lí đồng thời là nhà
giáo dục người Pháp, Jean Marc Gaspard Itard(1774-1838)Định hướng giáo dục
hòa nhập đã được Liên hiệp quốc đề xuất từnhững năm 70 của thế kỷ trước. Sau
hơn ba thập kỷ, Công ước quốc tế về "Quyền của người khuyết tật" đã được
thông qua vảo tháng 12 năm 2006.
Từ nhiều năm qua, các quốc gia trên thế giới đã tìm kiếm các giải pháp đâm bảo
chất lượng giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật. Tùy theo đặc điểm của hệ thống
giáo dục, đặc biệt là nguồn lực và điều kiện kinh tế xã hội, các quốc gia đã xây
dựng hệ thống riêng của mình.
Năm 1973, một số bang của Mỹ đã có những quy định trong luật giáo dục của
bang: “Phải lập kế hoạch giáo dục cá nhân để giáo dục và huấn luyện trẻ khuyết
tật”. Đến năm 1975, Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật giáo dục người khuyết tật
(IDEA) và một trong những điều khoản của luật này là: Những người khuyết tật
có Quyền được hưởng một nền giáo dục phù hợp nhằm đáp ứng những nhu cầu
riêng biệt của họ. Ngay sau đó, hàng loạt các công trình nghiên cứu của rất nhiều
tác giá về kế hoạch giáo đục cá nhân cho trẻ khuyết tật được công bồ trong nước
Mỹ và một số nước tiên tiền khác.
Tại Hoa Kỳ, học sinh được giáo dục đặc biệt bởi các trường hợp: tự kỷ; rối loạn
giao tiếp; điếc mù; rối loạn cảm xúc; khiếm thính, bao gồm cả điếc; thiểu năng
trí tuệ; khiếm khuyết chỉnh hình; suy giảm sức khỏe khác; khuyết tật học tập cụ
thể; chấn thương sọ não; hoặc khiếm thị, bao gồm mù.
Tại Anh, Italia, Tây Ban Nha việc hỗ trợ cho học sinh khuyết tật, giáo viên dạy
học hòa nhập và phụ huynh do Trung tâm nguồn giáo viên cấp vùng (Teacher
Regional Resource Center) đảm nhận. Tại các trung tâm này, các giáo viên có
trình độ chuyên môn đã được đào tạo được phân công hỗ trợ một số trẻ khuyết
tật có nhu cầu cao học hòa nhập. Nhiệm vụ của giáo viên này là cùng với phụ
huynh, giáo viên đứng lớp và các cán bộ xã hội, y tế và tâm lý, xã hội xây dựng
kế hoạch giáo dục cá nhân cho trẻ khuyết tật, hỗ trợ giáo viên điều chỉnh chương
trình, thiết kế và thực hiện các bài học hòa nhập; trực tiếp rèn luyện các kỹ năng
đặc thù cho trẻ khuyết tật như: Dạy ngôn ngữ ký hiệu, dạy đọc và viết chữ nỗi,
đạy các kỹ năng sống...; hướng dẫn phụ huynh hỗ trợ con em ở nhà, tư vấn về
hướng nghiệp dạy nghề và các vấn đề tâm lý, xã hội đối với trẻ và thanh, thiếu
niên khuyết tật. Những công việc này được thực hiện tại trường, tại trung tâm và tại gia đình trẻ.
Tại Thái Lan, các trung tâm hỗ trợ giáo dục trẻ khuyết tật có nhiệm vụ xác định
khả năng và nhu cầu của trẻ từ đó có xác định hỗ trợ cần thiết; xây dựng kế
hoạch giáo dục cá nhân cho trẻ khuyết tật; bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý
giáo dục, giáo viên các cấp từ mầm non đến trung học; bồi dưỡng chuyên môn
cho phụ huynh; trực tiếp tiến hành can thiệp sớm theo cách trẻ khuyết tật cùng
phụ huynh đến trung tâm trong thời gian ngắn khoảng 1 tuần, sau đó trẻ về gia
đình, tiếp tục học tập, tùy theo nhu cầu mà trẻ có thể đến thường xuyên hoặc
theo định kỳ tại trung tâm; tư vấn về các vấn đề có liên quan đến trẻ và thanh
thiếu niên khuyết tật; biên soạn các công cụ xác định mức độ phát triển của trẻ
và các mẫu cho công tác quản lý; xây dựng các tải liệu dạy các kỹ năng đặc thù...
2.2 Một số nghiên cứu tại Việt Nam
Cho đến nay ở Việt Nam, có rất nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận văn tốt
nghiệp đã đề cập đến vấn đề Trẻ khuyết tật như:
Theo “Báo cáo Trẻ em ngoài nhà trường: nghiên cứu của Việt Nam”, được Bộ
Giáo dục và Đảo tạo và UNICEF công bố ngày 11 tháng 9 năm 2014, tỉ lệ trẻ em
khuyết tật chưa từng đi học hoặc thôi học - trẻ em ngoài nhà trường - luôn có tỉ
lệ cao hơn 80% ở mọi độ tuổi, đặc biệt tỷ lệ này lên tới 91,4% ở trẻ em khuyết tật từ 11-14 tuổi.
Nghiên cứu “Bảo đảm quyên của trẻ em khuyêt tật ở Việt Nam hiện nay” của
Trần Thị Huyền Trang, Đại học Quốc gia Hà Nội đã nêu ra: Nghiên cứu tông
quan về tình hình trẻ em khuyết tật ở Việt Nam. Đánh giá được thực trạng đám
bảo quyền của trẻ em khuyết tật ở nước ta hiện nay trong các khía cạnh xây dựng
pháp luật, thực thi pháp luật, từ phía cộng đồng... Từ đó rút ra được các quyền
mà trẻ em khuyết tật đễ bị xâm phạm và bị bỏ qua trên thực tế. Đề xuất các giải
pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa chính sách về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết
tật ở Việt nam hiện nay, hướng đến phù hợp với pháp luật quốc tế.
Nghiên cứu “Công tác xã hội cá nhân đối với trẻ em khuyết tật vận động từ thực
tiễn trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa”
của Vũ Văn Khánh, chuyên ngành Công tác xã hội đưa ra mặt hạn chế và kết
quả đạt được của các hoạt động tham vấn, quản lý ca, can thiệp khủng hoảng và
các hoạt động công tác xã hội cá nhân khác, tuy nhiên, chưa có sư gắn kết giữa
cơ sở lý luận và thực trạng.
Nghiên cứu “Công tác xã hội cá nhân đối với trẻ em khuyết tật vận động từ thực
tiễn tỉnh Thanh Hóa” của Lê Thị Sâm, chuyên ngành Công tác xã hội thao tác
hóa các khái niệm ở phần lý luận và phân tích đặc điểm chung của tỉnh Thanh
Hóa, đưa ra định hướng và giải pháp làm nâng cao hiệu quả công tác xã hội cá
nhân với trẻ khuyết tật.[22]
Qua các nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam cho chúng ta thấy được
thực trạng về trẻ khuyết tật, một số hoạt động và chính sách trợ giúp đối với trẻ
khuyết tật, các kiến nghị và đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động công
tác xã hội đối với trẻ khuyết tật. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên đều tập trung
vào tầm vĩ mô hoặc chỉ nói tới một vài khía cạnh cụ thể của việc trợ giúp đối với
trẻ khuyết tật mà chưa đề cập một cách toàn diện các hoạt động công tác xã hội
đồi với trẻ khuyết tật và chưa đề cập tới việc nghiên cứu cụ thể, đầy đủ ở trung
tâm phục hồi chức năng người khuyết tật Phúc Tuệ, Tây Hồ, Hà Nội. Chính Vì
vậy, đề tài “XÂY DỰNG TIẾN TRÌNH CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI TRẺ EM
KHUYẾT TẬT TẠI TRUNG TÂM TRẺ EM KHUYẾT TẬT PHÚC TUỆ”
sẽ là một nghiên cứu thực địa bổ sung cho kết quả của các nghiên cứu trước và
có ý nghĩa thực tiễn cao.
3.Các lí thuyết áp dụng
PHẦN II: TIẾN TRÌNH CTXH
1. Thực trạng và nhu cầu của trẻ khuyết tật ở Việt Nam , tiếp cận đối tượng
trẻ khuyết tật tên N
Theo số liệu thống kê của Cục Bảo trợ xã hội Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội năm 2009, cả nước có hơn 5,3 triệu người khuyết tật, chiếm khoảng 6,4%
dân số cả nước, trong đó từ 16 - 55 tuổi chiếm 60%, trên 55 tuổi chiếm 24%,
dưới 16 tuổi chiếm 16%. Kết quả điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009
cho thấy tỷ lệ người khuyết tật ở độ tuổi từ 5 tuổi trở lên chiếm 7,8% dân số
tương đương với 6,7 triệu người (con số này thay đổi tùy thuộc vào việc thay đổi
quan niệm về khuyết tật). Tỷ lệ nam giới bị khuyết tật cao hơn nữ giới, 63,5% so
với 36,5%. Khoảng 16% người khuyết tật dưới 16 tuổi, 61% từ 15- 55 tuổi và
23% trên 55 tuổi. Trong đó, về dạng tật: Khuyết tật vận động chiếm 29,41%, tâm
thần chiếm 16,82%, khuyết tật thị giác chiếm 181 13,84%, khuyết tật thính giác
chiếm 9,33%, khuyết tật ngôn ngữ chiếm 7,08%, khuyết tật trí tuệ chiếm 6,32%
và các dạng tật khác chiếm khoảng 17%. Các dạng tật đó có rất nhiều nguyên
nhân khác nhau: Có 35,8% người khuyết tật là do nguyên nhân bẩm sinh,
32,34% do bệnh tật, nguyên nhân do tai nạn chiến tranh chiếm 25,56%, 3,4% do
tai nạn lao động, các nguyên nhân khác chiếm khoảng 1,57%, đặc biệt là khuyết
tật do hậu quả nhiễm chất độc dioxin chiếm khá lớn. Dự kiến trong tương lai số
lượng khuyết tật do tai nạn chiến tranh sẽ giảm, tuy nhiên khuyết tật có nguyên
nhân từ tai nạn giao thông có xu hướng gia tăng. Về trình độ văn hóa: có khoảng
35,83% người khuyết tật không biết chữ, 12,58% biết đọc, biết viết, 20,74% có
trình độ trung học cơ sở, 24,13% có trình độ trung học phổ thông. Trên 90%
người khuyết tật chưa qua dạy nghề, khoảng 58% người khuyết tật tham gia làm
việc, 30% người khuyết tật chưa có việc làm. Những người khuyết tật đã có việc
làm thì thường là những công việc có thu nhập thấp. Về hoàn cảnh, môi trường
sống: Có khoảng 70 - 80% người khuyết tật sống ở nông thôn, khoảng 70%
người khuyết tật sống dựa vào gia đình, người thân và trợ cấp xã hội. Nhìn
chung đời sống vật chất và tinh thần của người khuyết tật gặp nhiều khó khăn.
Người khuyết tật khó khăn trong việc học tập tại các trường học hòa nhập và tiếp
cận các dịch vụ cộng đồng, khó khăn trong kết hôn, sinh con, tổ chức cuộc
sống… Vì vậy, đối với người khuyết tật, ngoài những qui định chung về quyền,
nghĩa vụ như mọi công dân, cần có hành lang pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích
chính đáng và đảm bảo việc thực hiện tốt các chính sách dành riêng cho người
khuyết tật. Nhu cầu của người khuyết tật là những đòi hỏi cần được đáp ứng để
tồn tại và phát triển. Người khuyết tật cũng có những nhu cầu cơ bản như mọi
người trong xã hội, và nhu cầu là nguồn gốc thúc đẩy người khuyết tật hoạt động
vươn tới những mục tiêu cho sự phát triển của bản thân. Theo quan điểm của nhà
tâm lý học A. Maslow, con người có 5 loại nhu cầu cơ bản được sắp xếp theo bậc
thang từ thấp tới cao: Nhu cầu về sinh lý: Đây là các nhu cầu cần thiết để con
người sống và tồn tại như ăn, uống, mặc, ở, đi lại, không khí sạch… khi các nhu
cầu này được thoả mãn thì con người có xu hướng tìm kiếm cách đáp ứng nhu
cầu bậc cao hơn. Nhu cầu về an toàn: Đây là những nhu cầu giúp con người có
cuộc sống an toàn, bình yên, ổn định, được sống trong sự bình ổn về kinh tế, về
pháp luật, về trật tự xã hội, không bị đe dọa…, khi nhu cầu sinh lý được thoả
mãn mà nhu cầu an toàn chưa được đáp ứng thì các nhu cầu an toàn sẽ là động
lực điều khiển hành động của con người. 182 Nhu cầu được yêu thương, được
giao tiếp: Đây là những nhu cầu giúp con người có cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc,
con người thấy được giá trị của mình qua tương tác với những người khác và họ
cũng học được qua người khác, hiểu và biết cách sống chung cùng người khác,
biết hoà nhập với mọi người, với cộng đồng, xã hội. Nhu cầu được tôn trọng:
Đây là nhu cầu giúp con người sống bình đẳng, tự tin vào khả năng, nhu cầu về
vị thế, uy tín, tôn trọng phẩm giá, không bị coi thường, định kiến hoặc chối bỏ…
Nhu cầu về lao động, thăng tiến, phát triển: Đây là nhu cầu giúp con người phấn
đấu, vươn lên, hoàn thiện bản thân, tìm kiếm sự hoàn hảo. Các nhu cầu có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Trước tiên người khuyết tật cần được đáp ứng các
nhu cầu ở mức độ thấp. Sau đó mới tìm đến sự đáp ứng các nhu cầu ở bậc thang
cao hơn. Các nhu cầu không tồn tại độc lập mà luôn nằm trong mối quan hệ gắn
kết, phụ thuộc và ảnh hưởng lẫn nhau, các nhu cầu được sắp xếp theo thứ bậc từ
thấp tới cao. Người khuyết tật có tất cả các nhu cầu như người bình thường
nhưng việc đáp ứng các nhu cầu đó thường gặp khó khăn nhất định. Người bình
thường khi đói có thể tự tìm thức ăn để đáp ứng, khi khát tự tìm nước uống. Còn
người khuyết tật, đặc biệt người khuyết tật nặng, khi đói, muốn ăn họ phải trông
chờ vào sự trợ giúp của người khác. Tuy nhiên họ có thể phát tín hiệu như: nhìn
vào bát, nhìn vào cốc nước, mấp máy môi, phát ra tiếng kêu… Chỉ những người
chăm sóc thường xuyên, có kinh nghiệm quan sát mới dễ dàng nhận biết thông
tin đó để đáp ứng. Thực tế cho thấy, hiện nay một số nhu cầu bậc cao của người
khuyết tật ít có cơ hội để hiện thực hóa như: việc học tập, tìm kiếm việc làm,
tiếp cận dịch vụ xã hội... Người khuyết tật rất cần sự trợ giúp phù hợp từ phía gia
đình, cộng đồng, xã hội để có thêm cơ hội đáp ứng các nhu cầu, giúp họ có cuộc
sống bình thường được phát triển và hòa nhập.
*Tiếp cận đối tượng: Trẻ khuyết tật Thông tin về trẻ: Họ và tên: Nguyễn Thành N Tuổi: 10 Giới tinh: Nam Ngày sinh: 21/03/2012 Nơi sinh: Hà Nội Nơi ở:
Trung tâm trẻ khuyết tật Phúc Tuệ Cha: Nguyễn Thành Bắc Mẹ: Lê Thị Hoa Căn bệnh: Bại não do sinh non
-Đặc điểm khuyết tật: cơ trên trái kém phát triển, 2 gối bị trùng dẫn đến khó khăn trong đi lại.
-Phương pháp tiếp cận: Nói chuyện trực tiếp qua vài lần gặp mặt trong trung tâm
-Đặc điểm tâm lí: Ý thức được, tỉnh táo, nhận diện được vấn đề, có sự tập trung
chú ý, đôi khi biết đùa.
-Nhu cầu của trẻ khuyết tật: được rèn luyện học tập và thể chất, tập để chân đi vững hơn
Kỹ năng CTXH với TKT:
- Kỹ năng giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ: Giao tiếp bằng ánh mắt giúp trẻ
hiểu sự quan tâm, tôn trọng và thấu cảm với trẻ; Cử chỉ tạo sự thân thiện: nắm
tay hay khoác vai khi cùng chơi với trẻ, luôn mim cười và tư thế ngôi thoải mái,
tự nhiên, không xa cách; Âm điệu, nhịp điệu giọng nói vừa phải, không nói quá
nhanh không nói to hay nói quá nhỏ; Trang phục đơn giản, không quá ngắn, không lòe loẹt.
- Kỹ năng nghe tích cực: Chú ý, tập trung đến vấn đề mà trẻ nói, không chen
ngang và đề trẻ chia sẻ nhiều hơn là nghe; Nghe có phản hồi và tạo bầu không
khí thoải mái, thân thiện.
- Kỹ năng quan sát: biểu hiện qua nét mặt thê hiện sự lo lắng, bồn chồn hay
trông ngóng một điều gì đó; Tư thế, đáng điệu và cách em phản ứng lại.Như khi
em ngồi 1 mình, cúi gằm mặt không nói chuyện với ai thì khi lại gần để bắt
chuyện em không trả lời và sẽ tỏ ra kháng cự khi NVCTXH tiếp cận hỏi chuyện em. -Kỹ năng thấu cảm
-Kĩ thuật: Kể chuyện và vẽ tranh: thông qua hoạt động này có thể biết mong
muốn của em và cách em tiếp cận thông tin, độ tập trung của em có cao hay không.
2.Thu thập thông tin
Sơ đồ phả hệ của em N
Gia đình em N có 3 người, không có bất kì một xung đột nào. Em thân thiết với
bên nội nhiều hơn do tiếp xúc nhiều hơn.
Sơ đồ sinh thái của em N Gia đình Trung Y tếế tầm N B n ạ Cộng bè đồồng Thầồy cồ
Trong các hoạt động của trung tâm, n khá thân thiết và có mối quan hệ tốt với
thầy cô, bạn bè. Em được bạn bè và thầy cô trong trung tâm rất yêu quý.Tuy một
số lúc em hay nói bậy nhưng khi nói chuyện với thầy cô và những người lớn thì em rất lễ phép.
3. Đánh giá và xác định vấn đề Ưu và nhược điểm Ưu điểm Nhược điểm
-Quan tâm và hòa đồng với mọi người -Đôi lúc không nghe lời xung quanh
-Lườihọc và tập luyện
-Vui tính và hay biết nói đùa
-Dễ học thói hư tật xấu -Hiểu chuyện -Hay nói bậy
-Nhận thức vấn đề tốt *Về học tập
Trên lớp N học trung bình khá.Đôi lúc hơi mất tập trung và hay chạy ra người
nhưng em vẫn tiếp thu được bài khoảng 80%.Nhưng thi thoảng em hay làm sai
những bài toán do không chịu đọc kĩ đề bài và không tập trung.Và em cũng chưa
chăm làm bài tập mà thầy cô giao.
*Về luyện tập thể lực
N mắc bệnh về tật vận động:Cơ chân chậm phát triển. Tuy đã trải qua 2 lần mổ
chân để có thể dễ dàng đi lại nhưng em vẫn gặp khó khăn. Vì vậy nên em phải
bỏ phần lớn thời gian chop việc tập luyện phục hồi chức năng đi lại. Ở phòng
tập, các giáo viên phụ trách quản lí rất sát xao nên nếu em lơ là không chú ý thì
sẽ bị nhắc nhở ngay lập tức. *Về lối sống
Em rất dễ học theo những thói xấu, và nhìn người lớn để bắt chước những tật
xấu đó.Em thường xuyên chửi bậy và đó là cách thể hiện cảm xúc của em rất đáng quan ngại.
4. Lập kế hoạch can thiệp và trợ giúp Người thực hiện: Em N
Nhân viên công tác xã hội: Bùi Tuấn Minh Ngày thực hiện:16/06/2022 Nội dung kế hoạch: STT Mục Hoạt động Nguồn lực Thời gian Kết quả tiêu mong Hiện Bên Bắt Kết cụ thể đợi có ngoài đầu thúc 1 Tránh Nói với kiểm NVC Kiểm 16/06 16/07 Tất cả học huấn viên, phụ TXH huấn mọi hỏi trách khu nhà ở viên, người các của em về việc người trong hành nói tục trong phụ trung vi xấu trung tâm. trách tâm sẽ Nói chuyện trực không tiếp với tất cả bao giờ mọi người hãy nói bậy dừng việc nói nữa và từ tục trong trung đó N và tâm nhất là nói các bạn bậy trước mặt khác sẽ trẻ em. không học theo và từ đó bỏ được tật xấu nói bậy. 2 Tìm Giúp em tìm ra NVC Thầy 16/06 16/07 N sẽ chiụ hiểu nguyên nhân TXH cô, khó, và tìm không thích học. bạn bè chăm chỉ ra giải Cùng em tìm ra của N tập trung pháp giải pháp, nguồn trong khắc cảm hứng giúp việc học phục em học tập chăm tập và có vấn đề chỉ. kết quả không Giúp đỡ em tốt. thích trong việc làm học, bài tập. mất tập trung khi học của N 3 Tạo
Tìm nguồn cảm NVC Nguof 16/06 16/07 N sẽ chịu động
hứng cho N đến TXH i phụ khó tập lực phòng tập. trách luyện và cho N Động viên và phòng có thể đi đến đưa lời khuyên tập lại tốt phòng để em tập luyện hơn. tập trị liệu vật lí chân
5.Thực hiện kế hoạch
Ở giai đoạn này, NVCTXH cùng với thân chủ thực hiện theo kế hoạch đã lập ra,
trong quá trình thực hiện có đan xen lượng giá để thay đổi kế hoạch khi phù hợp.
Bước 1: NVCTXH chuẩn bị và liên hệ kết nối với các nguồn lực ở mỗi hoạt
động trong từng mục tiêu cụ thể. Đồng thời, NVCTXH chuẩn bị tâm lý cho thân
chủ và những khó khăn có thể nảy sinh trong quá trình thực hiện kế hoạch.
Bước 2: Thực hiện kế hoạch theo các hoạt động đề ra. Ở bước này, NVCTXH
làm nhiệm vụ theo dõi và hỗ trợ thân chủ khi cần thiết, không tham gia làm thay
hay làm hộ thân chủ; NVCTXH đưa ra hướng dẫn và các bước thực hiện để cho thân chủ tự lựa chọn.
Bước 3: Giám sát từng hoạt động trong quá trình thực hiện cùng với thân chủ đề
có sự thay đổi cho phù hợp.
6. Kết thúc và lượng giá vấn đề
Lượng giá là công việc đo lường và thâm định các thay đổi tiến bộ của đối
tượng, nhằm xác định xem sự can thiệp của nhân viên xã hội hay trị liệu đó đem
lại kết quả mong muốn không, xem mức độ đạt được để kịp thời bổ sung và điều
chỉnh. Lượng giá là quá trình giúp đỡ đem lại nhiều lợi ích cho việc nâng cao
chất lượng hoạt động chuyên môn, nâng cao năng lực của nhân viên xã hội và
phát triển nghề nghiệp. Thông qua lượng giá, nhân viên xã hội có được những
gợi mở, ý tưởng cho sự phát triển mô hình trợ giúp cá nhân. *Mặt đạt được: -Đối với tác giả:
+ Nắm bắt được những thông tin và nhu cầu cơ bản của thân chủ cần được đáp ứng.
+ Vận dụng được các kỹ năng trong quá trình học lý thuyết vào thực tiễn đặc
biệt là: Kỹ năng quan sát, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng đặt câu hỏi, kỹ năng thấu hiểu...
+ Tác giả tuân thủ đúng nguyên tắc nghề nghiệp trong quá trình hỗ trợ thân chủ
(như: chấp nhận đối tượng, tính bảo mật...).
+ Xác định được vẫn đề mà thân chủ gặp phải và các nguồn lực có thể trợ giúp
cho V thông qua hệ thống sơ đồ phả hệ, cây vấn đề, biểu đồ sinh thái... -Đối với thân chủ:
+ Thân chủ đã tuân thủ đúng thời gian và lịch học, lịch tập luyện tại trung tâm.
+ Thân chủ đã đáp ứng được nhu cầu của mình là được rèn luyện thêm về việc tập viết và học toán.
+ Tâm trạng và sức khỏe của thân chủ được cải thiện hơn trước. *Mặt hạn chế: -Đối với tác giả:
+ Chưa có kinh nghiệm làm việc với người khuyết tật, còn lúng túng trong những ngày đầu.
+ Vận dụng linh hoạt được các kỹ năng trong quá trình làm việc với thân chủ còn nhiều hạn chế. -Đối với thân chủ
+Đôi lúc còn chưa nghe lời, cãi lại và không hợp tác.