



















Preview text:
  lO M oARcPSD| 45467232         lO M oARcPSD| 45467232   2  MỤC LỤC  
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................................... 2 
NỘI DUNG ............................................................................................................................................... 4 
I. QUY MÔ VÀ PHẠM VI HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG .......... 4 
II. MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG NGÀNH TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG ............................................ 8 
1. Tăng cường quy định pháp lý ............................................................................................................. 8 
2. Tăng cường phân cấp........................................................................................................................... 9 
3. Tăng cường công nghiệp hóa ............................................................................................................. 9 
III. VẤN ĐỀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG ......... 11 
1. Thực trạng nguồn nhân lực ngành Ngân hàng Việt Nam ............................................................. 11 
2. Đánh giá chung về các hạn chế, tồn tại đối với nhân lực ngành Tài chính - Ngân hàng .......... 12 
3. Khuyến nghị chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành Ngân hàng tại Việt Nam ............... 15 
IV. SẢN PHẨM, DỊCH VỤ CỦA NGÀNH TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG ................................. 17 
1. Quá trình phát triển Fintech trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ................................................. 17 
2. Một số sản phẩm Fintech phổ biến trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ..................................... 18 
a. Thanh toán điện tử ............................................................................................................................. 18 
b. Hoạt động cho vay tiêu dùng ............................................................................................................ 19 
c. Dịch vụ tài chính cá nhân ................................................................................................................. 21 
V. ỨNG DỤNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀO NGÀNH TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG ... 22 
1. Trí tuệ nhân tạo .................................................................................................................................. 22 
2. Công nghệ chuỗi khối........................................................................................................................ 25 
KẾT LUẬN ............................................................................................................................................. 27 
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................................... 29          
LỜI MỞ ĐẦU  
Tài chính - Ngân hàng có thể nói là huyết mạch của nền kinh tế, vai trò của nó bao phủ tất 
cả mọi mặt trong đời sống, lĩnh vực này gắn chặt với quá trình phát triển của toàn nền kinh tế.    2      lO M oARcPSD| 45467232   3 
Do đó có thể nói là lĩnh vực Tài chính - Ngân hàng đóng vai trò then chốt đối với quá trình duy 
trì và tăng trưởng ổn định của nền kinh tế thị trường. Dù trong hoàn cảnh nào kinh tế phát triển 
ra sao, đây cũng sẽ là ngành nghề quan trọng bởi ở lĩnh vực vi mô nó có ảnh hưởng trực tiếp đối 
với mọi hoạt động lưu thông về tiền tệ của nền kinh tế và dài hạn hơn nữa ngành Tài chính - Ngân 
hàng giữ vai trò hoạch định các chính sách về tiền tệ. Vị thế của Việt Nam đang ngày càng được 
tăng cao trên trường quốc tế việc này mở ra thời cơ cho phát triển nhanh chóng cùng nền tảng 
kinh tế vững chắc trong nước. 
Đại dịch COVID như một chiếc gương kì diệu, nó không phản chiếu lại y hệt những gì 
người ta cho thấy ở bên ngoài, mà nó chiếu vào và làm lộ ra những khuyết điểm cấp thiết phải 
cải tạo, đồng thời cũng tôn nên những giá trị cần được bảo tồn và phát triển. Sau đại dịch là thời 
điểm khó khăn, thách thức lớn đối với nền kinh tế nói chung cũng như ngành Tài chính -Ngân 
hàng nói riêng, đòi hỏi cần có những hướng đi đúng đắn, linh hoạt, tận dụng các cơ hội có được. 
Ngành Tài chính - Ngân hàng cũng đã có những xu hướng, thay đổi nhằm phù hợp với hoàn cảnh 
hiện tại. Để làm rõ hơn về vấn đề này, nhóm chúng em sẽ phân tích đề tài: “Xu hướng phát triển 
ngành Tài chính - Ngân hàng tại Việt Nam”. Với mục tiêu giúp mọi người hiểu được xu hướng 
phát triển cũng như những tiềm năng của ngành Tài chính - Ngân hàng.         3      lO M oARcPSD| 45467232   4  NỘI DUNG  
I. QUY MÔ VÀ PHẠM VI HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG    
Hình 1 thể hiện giá trị bình quân của tổng tài sản các ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2011 
- 2021. Qua đó cho thấy, tổng tài sản của các ngân hàng Việt Nam có sự phân hóa quy mô rất 
lớn, tách biệt rõ giữa hai nhóm ngân hàng: Nhóm NHTM Nhà nước và nhóm NHTM cổ phần. 
Nhóm NHTM Nhà nước có tổng tài sản trung bình cao vượt trội, đó là Ngân hàng Nông nghiệp 
và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), NHTM cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam 
(BIDV), NHTM cổ phần Công thương Việt Nam (VietinBank), NHTM cổ phần Ngoại thương 
Việt Nam (Vietcombank). So với NHTM cổ phần có tổng tài sản trung bình thấp nhất (NHTM 
cổ phần Sài Gòn Công Thương - Saigonbank), tổng tài sản của Agribank cao gấp 52,5 lần 
Saigonbank và cao gấp 3,3 lần so với NHTM cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank). Tổng 
tài sản của 04 ngân hàng này đạt trên 5 triệu tỷ đồng, tăng gần 4 lần trong vòng 10 năm và chiếm 
đến gần 45% tổng tài sản của cả hệ thống TCTD. 
Các NHTM Nhà nước luôn dẫn đầu về quy mô tổng tài sản trong suốt thời gian nghiên 
cứu và luôn có khoảng cách khá lớn giữa 04 ngân hàng này với các NHTM tư nhân. Các NHTM 
Nhà nước mặc dù lãi suất tiền gửi thấp hơn so với các NHTM tư nhân nhưng 04 ngân hàng này 
luôn dẫn đầu về việc thu hút tiền gửi, chẳng hạn năm 2021, số dư tiền gửi bình quân của các 
NHTM tư nhân là 157.573 tỷ đồng, trong khi đó số dư tiền gửi bình quân của các NHTM Nhà 
nước là 1.305.760 tỷ đồng, gấp 8,3 lần số dư tiền gửi của các NHTM tư nhân. Cụ thể, Agribank    4      lO M oARcPSD| 45467232   5 
là ngân hàng dẫn đầu về số dư tiền gửi của khách hàng với hơn 1.545.474 tỷ đồng; vị trí thứ hai 
thuộc về BIDV với 1.380.397 tỷ đồng; thứ ba là VietinBank với số dư 1.161.848 tỷ đồng; và thứ 
tư là Vietcombank với 1.135.323 tỷ đồng. Agribank và BIDV vẫn giữ vị trí như năm 2020, vị trí 
thứ ba và thứ tư hoán đổi giữa VietinBank và Vietcombank. Nếu xét về tỷ lệ tăng trưởng tiền gửi, 
thì VietinBank đã có mức tăng trưởng mạnh trong năm 2021 là 17,32%, kế đến là 12,53% của 
BIDV. Với lượng tiền gửi mạnh về số lượng lẫn giá cả, lãi suất cho vay từ các NHTM Nhà nước 
cũng rẻ hơn các NHTM tư nhân và theo đó, lợi nhuận của các NHTM Nhà nước luôn đạt mức  cao. 
Thống kê ở Bảng 1 cũng thể hiện lợi nhuận của hệ thống NHTM Việt Nam trong năm 
2021, theo đó, 04 NHTM Nhà nước cũng đứng trong top những ngân hàng có lợi nhuận cao, lợi 
nhuận trước thuế bình quân là 18.256 tỷ đồng, cao gấp 3,5 lần lợi nhuận bình quân của nhóm các 
NHTM tư nhân. Đặc biệt, Vietcombank luôn dẫn đầu về lợi nhuận trong nhiều năm liên tục. Qua 
đây phần nào đã thể hiện lợi ích kinh tế theo quy mô và phạm vi mà các NHTM Nhà nước có 
được trong hoạt động kinh doanh của mình. Sự hiện diện của lợi thế kinh tế theo quy mô cho 
thấy việc tăng quy mô ngân hàng có thể làm tăng lợi nhuận và các ngân hàng lớn có lợi thế về 
chi phí so với các ngân hàng nhỏ và có khả năng thu được nhiều lợi nhuận hơn.  
Bảng 1: Tiền gửi của các NHTM Nhà nước   Đơn vị: Tỷ đồng   
Nguồn: Thống kê từ Báo cáo tài chính các ngân hàng 
Ngoài ra, khi thống kê mối tương quan cặp giữa quy mô tổng tài sản và hiệu quả tài chính, 
đại diện bởi ROA, Hình 2 cho thấy mối quan hệ giữa chúng chia làm hai giai đoạn rõ rệt: Giai 
đoạn 2011 - 2015 tương quan là nghịch chiều và giai đoạn 2016 - 2021 thể hiện sự tương quan    5      lO M oARcPSD| 45467232   6 
thuận chiều. Tổng tài sản của các NHTM Việt Nam tăng liên tục từ năm 2011 đến năm 2021 và 
luôn được dẫn đầu bởi 04 NHTM Nhà nước. 
Giai đoạn 2011 - 2015, mối quan hệ giữa quy mô và ROA là nghịch chiều cho thấy rằng 
các NHTM Việt Nam gia tăng quy mô nhưng hiệu quả tài chính lại giảm. Hình 2 cho thấy tăng 
trưởng ROA liên tục âm qua các năm, điều này hàm ý các ngân hàng nhỏ có hiệu quả tài chính 
tốt hơn ngân hàng lớn, các ngân hàng lớn đã không nhận được lợi thế kinh tế theo quy mô, trong 
khi các ngân hàng nhỏ đã nhờ vào lợi thế kinh tế theo phạm vi để có được hiệu quả tài chính tốt 
hơn. Giai đoạn 2011 - 2015 là giai đoạn cơ cấu lại hệ thống các TCTD theo Quyết định số 
254/QĐ-TTg. Một trong nhiều giải pháp thực hiện mục tiêu của Đề án đó là giải pháp tăng nhanh 
quy mô và năng lực tài chính thông qua: “(i) Tăng vốn để đảm bảo đủ mức vốn tự có theo tiêu 
chuẩn an toàn vốn của Basel II đến năm 2015 thông qua phát hành cổ phiếu bổ sung và nguồn 
vốn từ Chính phủ; (ii) Mua lại, sáp nhập TCTD; (iii) Mở rộng nguồn vốn huy động”. Trên tinh 
thần của Đề án, các NHTM Việt Nam gia tăng quy mô tổng tài sản, nhưng hiệu quả tài chính của 
ngành Ngân hàng chưa được như mong đợi bởi vì những bất lợi sau đây có thể đã ảnh hưởng đến 
lợi nhuận của ngân hàng mạnh hơn lợi ích tăng quy mô tổng tài sản:  - 
Hậu quả của một thời kỳ phát triển “bong bóng” bất động sản, chứng khoán và tín 
dụng, cho vay vượt quá khả năng nguồn vốn trong những năm 2005 - 2007 đã tích lũy khó khăn 
cho các NHTM giai đoạn sau. Có thể nhận thấy rõ qua tỷ lệ nợ xấu liên quan đến bất động sản 
tăng nhanh, rủi ro tín dụng tiềm ẩn, đây chính là những nguyên nhân dẫn đến tổng lợi nhuận của 
các ngân hàng sụt giảm mạnh. Giai đoạn này, Chính phủ đã phải đưa ra nhiều giải pháp can thiệp 
nhằm hạ nhiệt tín dụng như giải pháp xử lý nợ xấu, nợ liên ngân hàng và tái cơ cấu nguồn vốn.  - 
Thêm một hậu quả để lại từ những năm trước đó là việc ồ ạt tuyển dụng nhân viên, 
mở thêm chi nhánh, tăng cường cơ sở hạ tầng để đáp ứng sự tăng trưởng tài sản nhanh của các 
ngân hàng. Vì vậy, khi Chính phủ có những biện pháp can thiệp hạ nhiệt thị trường tín dụng, 
ngân hàng phải gánh chịu các chi phí này ở giai đoạn sau. Điều đó làm gia tăng chi phí hoạt động 
đáng kể cho ngân hàng, thêm yếu tố cho việc giảm lợi nhuận của ngân hàng.  - 
Hệ thống doanh nghiệp hoạt động sa sút, phá sản hàng loạt, dẫn tới tổng cầu tín 
dụng suy giảm theo và khả năng trả nợ của doanh nghiệp giảm thấp, khiến nợ xấu tăng cao, từ 
đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng.    6      lO M oARcPSD| 45467232   7 
Giai đoạn 2016 - 2021, mối quan hệ giữa quy mô và hiệu quả tài chính là thuận chiều cho 
thấy sự gia tăng quy mô tổng tài sản đã tạo ra hiệu quả tài chính tích cực cho các ngân hàng. Tăng 
trưởng ROA là số dương trong từng năm (Bảng dưới Hình 2); các ngân hàng càng có quy mô 
lớn, hiệu quả tài chính đạt được càng cao. Kết quả này phản ánh một phần sự thành công của 
Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD. Sau 05 năm thực hiện tái cơ cấu các TCTD, bắt đầu từ năm 
2016, hệ thống ngân hàng đã có dấu hiệu khởi sắc về lợi nhuận, những năm sau đó, lợi nhuận 
ngân hàng tiếp tục tăng trưởng mạnh cho đến năm 2021. Mặc dù năm 2020 và năm 2021, do ảnh 
hưởng của đại dịch Covid-19, tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt mức thấp kỷ lục trong 15 năm 
qua (năm 2020 là 2,9% và năm 2021 là 2,59%) nhưng lợi nhuận ngân hàng vẫn tăng trưởng và 
quy mô tổng tài sản của các NHTM không ngừng được mở rộng. Qua đây có thể nhận thấy được 
phần nào lợi ích kinh tế nhờ quy mô và phạm vi mà các NHTM Việt Nam đã tận dụng được trong 
hoạt động kinh doanh của mình.  
Hình 2: Mối quan hệ giữa tổng tài sản và ROA        7      lO M oARcPSD| 45467232   8   
Nguồn: Thống kê từ Báo cáo tài chính các ngân hàng  
II. MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG NGÀNH TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG  
Mô hình làm việc của nhiều ngân hàng tính đến giờ vẫn đang dựa trên sự tích hợp mạnh 
theo chiều dọc của một số quy trình quản lý, ngân hàng lõi và hoạt động phụ trợ. Một sự phát 
triển gần đây còn gọi là “siêu chuyên môn hoá” đã hình thành những chuỗi dịch vụ có tính phức 
tạp cao trong tương lai cũng với nhiều phương thức kinh doanh mới , như hệ thống cung ứng 
chung. Do sự phổ biến của CNTT (bao gồm công nghệ chuỗi khối (Blockchain) ) và tiêu chuẩn 
hoá (thông qua giao diện lập trình ứng dụng (API) mở rộng) , các ngân hàng hiện nay có thể thuê 
thêm nhiều dịch vụ dưới dạng những nhiệm vụ riêng lẻ (ví dụ như DNA App Store) . Việc phân 
tích chuỗi giá trị này sẽ dẫn đến nhiều cấu trúc tổ chức phi tập trung hơn thứ chúng ta thấy hiện  nay. 
Tổng hợp lại, ba xu hướng sau đây đặc trưng cho sự phát triển đối với các mô hình hoạt 
động mới cho các ngân hàng: 
1. Tăng cường quy định pháp lý  
Quy định pháp lý liên quan đế hầu hết mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng để đảm 
bảo tính tương thích với thị trường trong nước và thế giới (vì những quy định trong nội bộ và 
ngoài quốc gia là khác nhau ví dụ như FATCA hay Basel III) . Ví dụ, theo một kết quả nghiên 
cứu của Liên minh châu Âu, ước tính chi phí liên quan đến quy định pháp lý là 8,6 tỷ EUR từ 
năm 2010 đến năm 2015 (Pukropski cùng cộng sự, 2013) . Các hồ sơ dự án của nhiều ngân hàng 
có trên 50% chi phí liên quan đến quy định. Các mảng chịu nhiều ảnh hưởng pháp lý nhất là kiểm 
soát/quản trị rủi ro (56%) , tuân thủ (54%) , tài chính doanh nghiệp (52%) , sửa đổi nội bộ (32%) 
và CNTT/tổ chức (27%) . Mặc dù CNTT/tổ chức chỉ chịu tác động 27%, nhưng tổng số vốn đầu    8      lO M oARcPSD| 45467232   9 
tư tuyệt đối là cao nhất trong tất cả mọi lĩnh vực kể trên bởi vì quy  trình  và   CNTT 
là bộ phận của cả những ngành này. 
Việc đáp ứng của họ với những đòi hỏi 
của quy định mới được coi là ưu tiên hàng đầu của mỗi ngân hàng (Crosby et al. , 2013). 
2. Tăng cường phân cấp  
Nhiều ngân hàng vẫn chưa chuyển đổi mô hình hoạt động của mình từ chuỗi giá trị tích 
hợp theo chiều dọc sang các mô hình phân rã, linh hoạt hơn như hiện nay, chẳng hạn như trong 
ngành ô tô. Một thước đo chính để đánh giá mức độ chuyên môn hóa là mức độ sản xuất nội bộ 
liên quan đến việc tạo ra giá trị tổng thể. Mặc dù không nhìn thấy năng lực cốt lõi trong các quy 
trình hỗ trợ và giao dịch, các ngân hàng vẫn thể hiện mức độ sản xuất nội bộ cao trong các lĩnh 
vực này. Ví dụ, các ngân hàng trực tiếp có mức sản xuất nội bộ trung bình là 50%, các ngân hàng 
nhỏ là 80% và các ngân hàng lớn là 70%. Một xu hướng chính là các dịch vụ không chỉ bắt nguồn 
từ các mối quan hệ cung ứng song phương, mà có xu hướng trở nên nhỏ hơn về độ chi tiết của 
chúng (Malone và cộng sự, 2011). Xu hướng “siêu chuyên môn hóa” này dẫn đến các mô hình 
tìm nguồn cung ứng hoàn toàn mới, chẳng hạn như nguồn cung ứng cộng đồng được kích hoạt 
thông qua các thị trường dịch vụ điện tử. Công ty Local Motors, Hoa Kỳ, một nhà cung cấp cho 
BMW, chỉ sử dụng 100 công nhân, trong khi có 40.000 nhà phát triển khác được sử dụng cung 
cấp cho các nhiệm vụ khác nhau. 
3. Tăng cường công nghiệp hóa  
Thuật ngữ công nghiệp hóa bắt nguồn từ việc chuyển đổi xã hội từ nông nghiệp sang công 
nghiệp và tiếp tục phát triển với chủ nghĩa Taylor. Nguyên tắc cơ bản là có thể đạt được hiệu quả 
cao thông qua việc xác định các hoạt động nhỏ, được tiến hành tương tự như những hoạt động 
mà Henry Ford (người sáng lập Công ty Ford Motor) đã giới thiệu với cách tiếp cận sản xuất 
hàng loạt đối với dây chuyền lắp ráp ô tô. Theo thời gian, công nghiệp hóa được bổ sung với các 
nguyên tắc khác, chẳng hạn như tiêu chuẩn hóa, tự động hóa và định hướng chất lượng. Việc áp 
dụng các nguyên tắc đó vào các ngành dịch vụ đang ngày càng phát triển, vì việc tiêu chuẩn hóa 
các dịch vụ, chẳng hạn như các sản phẩm ngân hàng, vẫn chưa chín muồi như những chiếc đinh 
vít được sử dụng trong xe hơi. Tuy nhiên, ngành công nghiệp phần mềm trong những năm gần 
đây đã có những bước phát triển vượt bậc trong việc áp dụng các cơ chế công nghiệp hóa vào 
ngành Ngân hàng. Ví dụ, một cuộc khảo sát đã xác định được 700 quy trình đầu cuối (end - to -    9      lO M oARcPSD| 45467232   10 
end) trong các ngân hàng, trong đó khoảng một nửa có thể được tự động hóa hoàn toàn (Hirt và 
Willmott, 2014). Các dịch vụ như vậy đã được cung cấp thông qua các cửa hàng ứng dụng doanh 
nghiệp với doanh nghiệp (B2B) như DNA App Store hoặc Yodlee ở Hoa Kỳ. Các công ty này 
cung cấp thị trường dịch vụ điện tử cho các ngân hàng và là nhà cung cấp nơi các ngân hàng có 
thể tùy chỉnh dịch vụ của họ. 
Hiệu quả hoạt động sẽ trở thành nguồn lợi thế cạnh tranh quan trọng của các ngân hàng trong 
tương lai. Điều này cuối cùng sẽ dẫn đến kết quả cao trong hoạt động và chứng minh sự bền vững 
của các mô hình kinh doanh hoàn toàn mới lấy khách hàng làm trung tâm. Điều này đang đặt ra 
những câu hỏi cho các nhà quản lý và điều hành về mô hình hoạt động của ngân hàng trong thời  gian tới:  - 
Mức độ ứng dụng tối đa các thông lệ tốt nhất trong công nghiệp hóa tại các ngành 
sản xuất hàng hóa vật chất vào trong lĩnh vực ngân hàng là bao nhiêu để áp dụng vào việc xây 
dựng các mô hình hoạt động của ngân hàng trong tương lai dựa trên các quy trình và dịch vụ  được công nghiệp hóa?  - 
Làm thế nào để các dịch vụ có thể được chia thành nhiều phần chi tiết hơn và những 
mô hình tìm nguồn cung ứng mới nào có thể được áp dụng để các dịch vụ được tạo nguồn ở cấp 
độ của các nhiệm vụ đơn lẻ (siêu chuyên môn hóa) cho phép các mô hình tìm nguồn cung ứng  sáng tạo?  - 
Làm thế nào các quy trình ngân hàng và cấu trúc ứng dụng (ngân hàng lõi) của 
nhiều nhà cung cấp có thể được chuẩn hóa để đáp ứng các yêu cầu công nghiệp hóa và cho phép 
các mô hình tìm nguồn cung ứng linh hoạt? 
Sự phát triển đó có thể dẫn đến việc tổ chức lại toàn bộ hệ thống ngân hàng các quốc gia 
và toàn cầu hiện có. Các hệ quả đối với ngành Ngân hàng có thể được cấu trúc theo cấp độ đổi 
mới (gia tăng so với đột phá) và các quy trình ngân hàng lõi (hỗ trợ so với kinh doanh trực tiếp) 
và có khả năng dẫn đến những mô hình mới cho các ngân hàng. 
Mặc dù sự chuyển đổi trong ngành Ngân hàng đặt ra những thách thức lớn đối với hiện 
trạng, nhưng nó chứa đựng nhiều cơ hội cho những tổ chức phải đối mặt với sự chuyển đổi này. 
Đến nay, vẫn có nhiều người xem Fintech chỉ như là “hệ thống chuyển động” mới, tương tự như 
sự thay đổi từ video ghi âm sang video youtube. Nhưng như lịch sử đã chỉ ra, việc chuyển đổi    10      lO M oARcPSD| 45467232   11 
sang cơ sở hạ tầng mới thường hay dẫn đến việc cơ cấu lại cơ bản hiện trạng. Không phụ thuộc 
vào bất kỳ thành công hay thất bại nào của các ngân hàng đơn lẻ, sự chuyển đổi của Ngành đang 
dẫn đến thay đổi về chất như một phần cốt lõi của nền kinh tế toàn cầu ngày nay. Do đó, việc 
đầu tư nhiều hơn nữa vào việc nghiên cứu về hệ thống tài chính phát triển trong tương lai là rất  cần thiết.  
III. VẤN ĐỀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG  
1. Thực trạng nguồn nhân lực ngành Ngân hàng Việt Nam  
Theo Báo cáo thống kê hàng năm do Vụ Tổ chức cán bộ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 
(NHNN) thực hiện, tính đến thời điểm 01/06/2019, toàn ngành Ngân hàng ước tính có 346.614 
người, với cơ cấu trình độ như sau: Tiến sĩ: 569 người, chiếm 0,16%;Thạc sĩ: 20.286 người, 
chiếm 5,85%; Đại học: 263.927 người, chiếm 76,16%; Cao đẳng: 23.453 người, chiếm 6,77%; 
Trung cấp: 20.054 người, chiếm 5,79%; Số còn lại (sơ cấp hoặc chưa qua đào tạo): 18.325 người,  chiếm 5,29%.   
Số liệu trên cho thấy, nhân lực qua đào tạo chuyên môn có trình độ từ cao đẳng trở lên của 
ngành Ngân hàng chiếm đa số; so với các ngành khác là khá cao. Với số lượng, cơ cấu, trình độ 
như trên, nhân lực ngành Ngân hàng đã chủ động thực hiện các quy trình nghiệp vụ ngân hàng,    11      lO M oARcPSD| 45467232   12 
phát triển dịch vụ ngân hàng thông qua ứng dụng công nghệ số, xây dựng mô hình chi nhánh hiện 
đại dựa trên nền tảng công nghệ tự động hóa, kết nối đa chiều và thông minh hóa của Cách mạng  công nghiệp 4.0. 
Hình 2 cho thấy, về cơ cấu nhân lực theo các hệ thống, số nhân lực làm việc trong hệ thống 
NHNN là 6.871 người, hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) là 339.723 người. So với năm 
2012, số nhân lực làm việc tại khối ngân hàng thương mại (NHTM) cổ phần, ngân hàng liên 
doanh, nước ngoài, công ty tài chính năm 2019 đã tăng lên đáng kể cả về số tuyệt đối và tỷ lệ 
nhân lực trong ngành Ngân hàng; trong khi tỷ lệ nhân lực khối NHTM Nhà nước và hệ thống 
Quỹ Tín dụng nhân dân giảm tương đối.     
2. Đánh giá chung về các hạn chế, tồn tại đối với nhân lực ngành Tài chính - Ngân hàng  
Có thể thấy trong những năm qua, nguồn nhân lực ngành Tài chính - Ngân hàng đã có 
những bước phát triển đáng ghi nhận về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, dựa trên các kết quả 
khảo sát, thống kê và báo cáo đánh giá hàng năm của Vụ Tổ chức cán bộ (TCCB) NHNN, tác giả 
đưa ra một số tồn tại về nguồn nhân lực ngành Ngân hàng như sau: 
Thứ nhất, đội ngũ nhân lực trình độ cao tại NHNN và các TCTD còn mỏng, đặc biệt là thiếu 
những chuyên gia đầu ngành:  - 
NHNN thiếu đội ngũ cán bộ trình độ chuyên sâu trong các lĩnh vực chuyên môn, 
nghiệp vụ then chốt, đặc biệt là thiếu chuyên gia giỏi về kinh tế, quản lý vĩ mô với yêu cầu sở    12      lO M oARcPSD| 45467232   13 
hữu năng lực nghiên cứu, dự báo, xây dựng chiến lược, định hướng phát triển hệ thống ngân 
hàng, tái cơ cấu ngân hàng, xây dựng chính sách vĩ mô về tiền tệ ngân hàng, thanh tra giám sát 
an toàn hệ thống và thanh toán.  - 
Các TCTD thiếu đội ngũ cán bộ chuyên môn cao trong các lĩnh vực hoạt động then 
chốt của NHTM, quyết định đến hiệu quả hoạt động và sự an toàn của tổ chức như quản trị ngân 
hàng hiện đại, phân tích tài chính, kiểm soát và kiểm toán nội bộ, phân tích và thẩm định dự án 
đầu tư, quản trị rủi ro.... 
Thứ hai, tính chuyên nghiệp của nhân lực ngân hàng trong các vị trí công việc ở nhiều 
ngân hàng tuy có cải thiện nhưng vẫn chưa cao, khả năng đáp ứng, tinh thần, kỹ năng phục vụ 
khách hàng vẫn có những bất cập. Mảng kiến thức về kinh tế, chuyên môn ngân hàng, ngoại ngữ, 
kỹ năng làm việc (giao tiếp, quan hệ khách hàng…) của một bộ phận không nhỏ nhân lực ngân 
hàng còn hạn chế, cần đào tạo, bồi dưỡng. Tại một số TCTD nổi lên vấn đề đạo đức nghề nghiệp, 
gây tổn thất không nhỏ về vật chất và uy tín cho tổ chức. 
Thứ ba, đối với các cơ sở đào tạo: Trong những năm gần đây, đội ngũ giảng viên đã có sự 
chuyển biến về chất lượng, tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại. Tỷ lệ giảng viên có trình độ sau đại 
học (đặc biệt là trình độ tiến sĩ) có tăng nhưng chậm và còn thấp so với yêu cầu về năng lực 
nghiên cứu, sáng tạo theo tiêu chuẩn của một trường đại học khu vực (như chuẩn AUN- QA). 
Các chế độ chính sách đối với giảng viên đã phần nào tạo được động lực phấn đấu vươn lên trong 
hoạt động nghề nghiệp nhưng so với các cơ sở GDĐH đã tự chủ vẫn còn khó khăn. Các trường 
bồi dưỡng, các trung tâm đào tạo thuộc NHNN và các TCTD rất thiếu đội ngũ giảng viên (cả cơ 
hữu, thỉnh giảng) có chuyên môn cao, kỹ năng giảng dạy tốt và có kinh nghiệm thực tiễn. 
Nội dung chương trình, phương pháp dạy và học, kiểm tra đánh giá từng bước được đổi 
mới, tiệm cận theo chuẩn quốc tế. Các cơ sở GDĐH đã xây dựng chương trình đào tạo ngắn hạn 
và dài hạn đã tương đối bám sát nhu cầu xã hội. Trong khi đó, các trường đào tạo tại các NHTM 
cũng đã bắt đầu quan tâm các chương trình đào tạo, bồi dưỡng gắn với các chức danh vị trí việc 
làm và theo yêu cầu của công việc. Tuy nhiên, các chương trình đào tạo ngắn hạn còn mang tính 
lẻ tẻ, thiếu tính hệ thống; sự kế thừa đào tạo mang tính liên tục theo từng cấp cán bộ, từng lĩnh 
vực chuyên môn, nghiệp vụ chưa thực sự rõ nét. Về trình độ công nghệ Các hệ thống dịch vụ sử 
dụng CNTT trong ngành Ngân hàng đều phải thường xuyên được nâng cấp, cập nhật để đảm bảo    13      lO M oARcPSD| 45467232   14 
các tiêu chuẩn quốc tế, kết nối thông suốt với các hệ thống ngân hàng- tài chính toàn cầu. Vì vậy, 
vướng mắc chủ yếu và cũng là thách thức hiện nay là hạn chế về trình độ, năng lực, số lượng và 
chất lượng đội ngũ cán bộ CNTT của ngành Ngân hàng. Tại NHNN, báo cáo khảo sát thống kê 
của Vụ TCCB (NHNN,2019), trong tổng số 224 cán bộ chuyên trách về CNTT (chiếm 3,9% tổng 
số cán bộ, công chức, viên chức), chỉ có 72 cán bộ (chiếm 32,4%) có chứng chỉ quốc tế nâng cao 
về CNTT. Ngoài ra, với chủ trương tinh giản biên chế, việc tuyển dụng mới cán bộ chuyên trách 
về CNTT chưa thể thực hiện nhanh chóng. 
Hạn chế về nguồn kinh phí cho đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ CNTT. Hiện nay, 
kinh phí đào tạo, bồi dưỡng phải dành phần lớn cho các nội dung: Đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu 
chuẩn ngạch, chức danh nghề nghiệp, chức vụ lãnh đạo- quản lý, ngoại ngữ, hội nhập quốc tế, 
các chuyên môn nghiệp vụ khác (ngoài CNTT). Do vậy, nguồn kinh phí cho đào tạo, bồi dưỡng 
chuyên sâu về CNTT rất hạn chế, trong nhiều trường hợp dựa vào nguồn lực bên ngoài nên số 
lượng đào tạo, bồi dưỡng hạn chế, chưa sát yêu cầu công việc. Trong lĩnh vực công nghệ cao, 
các khóa đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu thường được thiết kế riêng biệt theo yêu cầu khách hàng, 
số lượng học viên ít, chi phí cao. Các TCTD đều đang đứng trước khó khăn thiếu hụt về nhân lực 
CNTT có trình độ cao. Một số đơn vị hiện chưa có bộ phận hoặc cán bộ chuyên trách về an ninh, 
an toàn thông tin; các dịch vụ CNTT phức tạp phần lớn phải thuê ngoài. 
Hạn chế về chuyên gia, cơ sở đào tạo đạt chuẩn quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng các lĩnh vực 
công nghệ cao, CNTT sát với yêu cầu thực tiễn. Hiện tại, số lượng chuyên gia về các lĩnh vực 
hẹp trong CNTT đều thiếu. Hầu hết các TCTD còn thiếu quy định về ưu tiên, đãi ngộ, tôn vinh 
nhân lực trình độ cao về CNTT nên cán bộ chưa an tâm cống hiến, không có ý định gắn bó lâu  dài. 
Ngoài ra, số lượng, chất lượng nhân lực có trình độ chuyên môn sâu để nghiên cứu, hoàn 
thiện khuôn khổ pháp lý tạo môi trường sinh thái tốt cho các TCTD phát triển các hoạt động, dịch 
vụ và sản phẩm mới sử dụng CNTT; xây dựng cơ chế quản lý, giám sát phù hợp với bối cảnh 
Việt Nam và các chuẩn mực chung, thông lệ tốt của thế giới cũng còn hạn chế, ảnh hưởng đến 
tiến độ xây dựng chiến lược, định hướng chung về cách mạng công nghiệp 4.0.    14      lO M oARcPSD| 45467232   15 
3. Khuyến nghị chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành Ngân hàng tại Việt Nam  
Thúc đẩy mạnh mẽ, quyết liệt việc đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ có năng lực, có tiềm 
năng phát triển để hình thành nhóm nhân lực trình độ cao, đội ngũ chuyên gia đóng vai trò nòng 
cốt về chuyên môn, nghiệp vụ tại các đơn vị trong Ngành, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ số. 
Khuyến nghị này được đưa ra dựa trên định hướng xuyên suốt, đồng thời là giải pháp cơ bản, 
mang tính đột phá về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Ngân hàng đã được nêu rõ tại 
Quyết định số 1537/QĐ-NHNN (ngày 17/7/2019) về việc Phê duyệt Ban hành Kế hoạch triển 
khai chiến lược phát triển nguồn nhân lực ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm  2030 của NHNN. 
Theo định hướng này, NHNN và các TCTD cần xây dựng những chương trình đào tạo, 
bồi dưỡng chuyên biệt cho đội ngũ cán bộ quy hoạch chuyên môn sâu, chuyên gia để bảo đảm 
cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu đúng với yêu cầu công việc; đồng thời xây dựng 
chính sách sử dụng, đãi ngộ hợp lý nhằm tạo điều kiện cho cán bộ có điều kiện thể hiện năng lực, 
gắn bó với Ngành; thường xuyên đánh giá, rà soát quy hoạch nhằm bổ sung những cán bộ thực 
sự có năng lực, đồng thời đưa ra khỏi quy hoạch những cán bộ không đủ tiêu chuẩn, không 
có đóng góp nổi trội cho công việc của đơn vị. 
Nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo bồi dưỡng của cơ sở đào tạo trong Ngành (bao 
gồm cả các cơ sở đào tạo trực thuộc NHNN trong hệ thống giáo dục quốc dân, các trường bồi 
dưỡng, trung tâm đào tạo của các ngân hàng), cụ thể như sau:  - 
Với các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân: Hoàn thiện hệ thống cơ sở vật 
chất phục vụ giảng dạy và học tập (phòng học, trang thiết bị, thư viện, hệ thống thông tin, cơ sở 
thực hành,…) đạt chuẩn do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Với các trường bồi dưỡng, trung 
tâm đào tạo bảo đảm có đủ cơ sở vật chất để học viên có điều kiện học tập, nghiên cứu, giao lưu, 
tạo dựng các mối quan hệ công tác tốt.  - 
Xây dựng được đội ngũ giảng viên cơ hữu, giảng viên kiêm chức tham gia giảng 
dạy và nghiên cứu đủ về số lượng, có trình độ chuyên môn cao và phương pháp giảng dạy tốt. 
Điều chỉnh chính sách liên quan đến hoạt động phát triển đội ngũ giảng viên như ưu đãi trong 
việc cử đi đào tạo ở nước ngoài, được tham dự các hội thảo khoa học có liên quan đến nội dung    15      lO M oARcPSD| 45467232   16 
giảng dạy, được gửi tài liệu và các ấn phẩm nghiên cứu khoa học của Ngành, có chế độ về tài 
chính hợp lý khi tham gia giảng dạy và nghiên cứu và các quyền lợi khác đối với giảng viên.  - 
Xây dựng hệ thống chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu của các đơn vị tuyển 
dụng theo tiêu chí mở, cập nhật và linh hoạt, trong xu thế hội nhập và chuẩn hóa theo thông lệ 
quốc tế phù hợp nhất. Ứng dụng CNTT và truyền thông, mở rộng các hình thức học tập, đáp ứng 
nhu cầu đa dạng của học viên, giúp người học hoàn thiện nhân cách, đạo đức nghề nghiệp, hiểu 
biết pháp lý, yêu cầu công việc và nâng cao chất lượng cuộc sống. Chương trình đào tạo, bồi 
dưỡng phải sát với yêu cầu công việc thực tiễn; đặc biệt là chương trình đào tạo theo chức danh 
nghề nghiệp, bồi dưỡng về các mảng chuyên môn, nghiệp vụ như thanh tra- giám sát, hoạch định 
chính sách tiền tệ, nghiên cứu phát triển dịch vụ ngân hàng, quản lý rủi ro, kinh doanh vốn, tín 
dụng, CNTT ngân hàng, quản lý quan hệ khách hàng...  - 
Xây dựng tiêu chuẩn chức danh các công việc ngân hàng, tiêu chuẩn nghề nghiệp 
ngân hàng, tương đương với tiêu chuẩn của các nước tiên tiến trong khu vực. Trong đó, đặc biệt 
lưu ý các yêu cầu về kiến thức chuyên môn và kỹ năng cần có để thực hiện công việc làm cơ sở 
quản lý và sử dụng nhân lực theo vị trí việc làm. Đây là một công cụ quan trọng không thể thiếu 
trong quản lý và nâng cao chất lượng nhân lực.  - 
Xây dựng các chính sách hợp lý như chính sách về tuyển dụng, chính sách sử dụng 
nhân lực, chính sách tiền lương... theo vị trí việc làm, làm cơ sở khuyến khích tốt nhất năng lực 
thực hiện công việc của đội ngũ nhân lực, gắn đào tạo với sử dụng, với nghiên cứu khoa học và  chuyển giao công nghệ. 
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng năng lực thực tiễn thông qua xây dựng và thực hiện cơ chế 
luân chuyển nhân lực giữa các đơn vị, các hệ thống trong toàn Ngành. Trong thời gian tới, NHNN 
làm đầu mối triển khai việc luân chuyển, biệt phái cán bộ (gồm cả cán bộ quản lý và cán bộ 
chuyên môn, nghiệp vụ) giữa NHNN và các NHTM; giữa NHNN, NHTM và các cơ sở đào tạo. 
Từng hệ thống TCTD cũng được khuyến khích xây dựng cơ chế luân chuyển nội bộ để cán bộ 
hiểu biết về thực tiễn nhiều vị trí công việc, từ đó mở rộng tầm nhìn, nâng cao khả năng phối hợp 
hiệu quả trong công việc. Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy đây là hình thức đào tạo, bồi dưỡng 
hiệu quả để giải quyết sự thiết hụt kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn của đội ngũ nhân lực. 
Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về đào tạo nhân lực    16      lO M oARcPSD| 45467232   17  - 
Mở rộng hợp tác với các tổ chức tài chính- tiền tệ quốc tế, các cơ sở đào tạo nước 
ngoài về đào tạo nhân lực trong Ngành. Trên cơ sở đa dạng hóa đối tượng hợp tác và hình thức 
hợp tác, tranh thủ tối đa sự hỗ trợ về tài chính, chương trình, nội dung đào tạo, giảng viên và  phương pháp giảng dạy.  - 
Khuyến khích các cơ sở đào tạo trong Ngành hợp tác với các cơ sở giáo dục nước 
ngoài để nâng cao năng lực quản lý, đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, đào 
tạo, bồi dưỡng giáo viên.  - 
Tăng nguồn ngân sách dành cho đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài như tăng xuất 
học bổng đào tạo sau đại học, tăng số lượng cán bộ tham dự các khóa bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên 
môn sâu, kiến thức mới mà các cơ sở đào tạo trong nước không đào tạo được. 
IV. SẢN PHẨM, DỊCH VỤ CỦA NGÀNH TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG  
1. Quá trình phát triển Fintech trong lĩnh vực tài chính ngân hàng  
Sự xuất hiện các công ty Fintech tham gia vào dịch vụ tài chính ngân hàng đã mở ra một 
kỷ nguyên mới, làm thay đổi mô hình ngân hàng truyền thống sang ngân hàng kỹ thuật số. Trong 
lĩnh vực tài chính ngân hàng, Fintech được sử dụng rộng rãi với nhiều dịch vụ như: cho vay, gọi 
vốn, thanh toán, bảo hiểm, đầu tư, quản lý tài chính cá nhân... Với hướng tiếp cận về sự đổi mới 
các dịch vụ ngân hàng trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, bài viết nêu một số vấn đề để 
hoàn thiện các sản phẩm dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam. 
Fintech (Financial Technology - công nghệ tài chính) là ứng dụng các sáng tạo công nghệ 
trong hoạt động và dịch vụ tài chính. Khách hàng chiến lược, đối tác của Fintech rất đa dạng, có 
thể là ngân hàng (NH), công ty bảo hiểm, tổ chức tài chính truyền thống và ngay cả người tiêu 
dùng trực tiếp. Các doanh nghiệp Fintech được chia thành 2 nhóm. Nhóm 1 là các công ty cung 
cấp các công cụ kỹ thuật số để tạo ra các sản phẩm tài chính mới cho người tiêu dùng nhằm cải 
thiện cách các cá nhân vay mượn, quản lý tiền bạc, tài trợ vốn cho các doanh nghiệp mới thành 
lập... Nhóm 2 là các công ty cung cấp các sản phẩm công nghệ nhằm hỗ trợ cho hoạt động của 
các công ty và các định chế tài chính, ví dụ: công cụ bảo mật, nhận diện khách hàng, quản lý rủi 
ro, quản lý và phân tích dữ liệu, quản lý quan hệ khách hàng… 
Lĩnh vực Fintech ở Việt Nam xuất hiện vào năm 2008 với 9 đơn vị doanh nghiệp cung cấp dịch 
vụ trung gian thanh toán được Ngân hàng Nhà nước cấp phép và hiện nay số lượng các công ty    17      lO M oARcPSD| 45467232   18 
Fintech đã tăng lên đến khoảng 150 công ty. Tuy chỉ mới xuất hiện hơn 10 năm qua nhưng các 
sản phẩm Fintech đã thay đổi các phương thức giao dịch truyền thống. Những dịch vụ tài chính 
dựa trên nền tảng công nghệ mang lại nhiều tiện ích, mở ra tiềm năng lớn trong việc nâng cao 
khả năng tiếp cận tài chính. Khi tận dụng tốt Fintech, chất lượng dịch vụ cũng tăng lên rõ rệt, tạo 
ra mô hình kinh doanh mới thay đổi kênh phân phối và các sản phẩm dịch vụ tài chính truyền 
thống như: mobile banking, QR code, ví điện tử, ngân hàng số … bởi độ chính xác và nhanh nhạy 
của những phần mềm thông minh thực sự vượt trội. 
Qui trình đánh giá rủi ro trong các NH và các định chế tài chính vốn thường phức tạp, nhiều công 
đoạn đã có thể được thay thế bởi chuỗi phân tích dữ liệu chính xác và nhanh gọn của Fintech với 
sự ứng dụng các công nghệ mới như Big data, blockchain, hệ thống định dạng cá nhân sinh trắc 
học, định danh khách hàng điện tử …. và đặc biệt các khâu kiểm soát dữ liệu, đảm bảo an ninh, 
an toàn, bảo mật cho khách hàng và các tổ chức tài chính được nâng cấp vượt trội nhờ Fintech. 
Với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp 4.0, các NH có nhiều cơ hội tiếp cận và 
mở rộng cung ứng các sản phẩm dịch vụ phù hợp đến những người dân hiện chưa có tài khoản ở 
vùng sâu, vùng xa với chi phí hợp lý, góp phần đẩy mạnh phổ cập tài chính quốc gia. 
2. Một số sản phẩm Fintech phổ biến trong lĩnh vực tài chính ngân hàng  
Tại Việt Nam hiện nay, ba lĩnh vực thuộc ngành tài chính ngân hàng ảnh hưởng nhiều nhất 
của Fintech là thanh toán điện tử, cho vay tiêu dùng, quản lý tài chính cá nhân. 
a. Thanh toán điện tử  
Tác động mạnh mẽ và rõ nhất của những tiến bộ Fintech đang làm thay đổi cấu trúc, 
phương thức hoạt động và cung cấp nhiều dịch vụ hiện đại của hệ thống NH. Fintech giúp phát 
triển những dịch vụ tài chính như: Internet Banking, Mobile Banking, ví điện tử,… tạo thuận lợi 
cho khách hàng trong việc sử dụng dịch vụ NH hiện đại và tiết kiệm được chi phí giao dịch. 
Nhiều dịch vụ mới, theo hướng số hóa đã được các NH Việt Nam triển khai: NHTMCP Tiên 
Phong (TPBank) với NH tự động LiveBank, dịch vụ này giúp mở tài khoản chỉ cần lấy dấu vân 
tay với công nghệ sinh trắc học nhằm tăng cường tính bảo mật và quy trình vận hành tự động 
cùng công nghệ OCR (nhận dạng ký tự quang học). NHTMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) 
với ứng dụng NH số Timo, NHTMCP Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank) với không gian    18      lO M oARcPSD| 45467232   19 
NH số Digital Lab, NHTMCP Quân đội (MB) với ứng dụng trợ lý ảo ChatBot phục vụ 24x7 trên  mạng xã hội … 
Hiện nay, các NHTM đều theo xu thế ứng dụng Fintech trong thanh toán cụ thể là cổng 
thanh toán trực tuyến, ví điện tử, thanh toán di động… 
- Thanh toán trực tuyến 
Để sử dụng thanh toán trực tuyến, người tiêu dùng cần có một tài khoản trên một dịch vụ 
trung gian nào đó và liên kết tài khoản đó với NH, hiện nay có một số cổng thanh toán tốt như:  OnePay, VTCPay… 
- Thanh toán bằng ví điện tử 
Với hình thức thanh toán này, người tiêu dùng phải sở hữu các ví điện tử như của Momo, VCash 
… từ đó có thể thanh toán trực tuyến trên một số website đã chấp nhận ví điện tử này. Ví điện tử 
có thể được gắn kết với tài khoản ngân hàng để chuyển tiền giữa ví điện tử và tài khoản. Ngoài 
ra, người tiêu dùng có thể nạp tiền vào ví bằng cách nộp tiền mặt, chuyển khoản. Chi phí phải trả 
cho hình thức này tương đối thấp, chi phí đăng ký dịch vụ thường được miễn phí. 
LienVietPostbank cung cấp dịch vụ Ví Việt cho phép khách hàng gửi, rút tiền mặt, chuyển khoản, 
thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ và sử dụng các dịch vụ khác do LienVietPostBank cung ứng 
qua internet, điện thoại di động hoặc các thiết bị điện tử. - Thanh toán bằng thiết bị di động thông  minh  
Hệ thống thanh toán qua điện thoại được xây dựng trên mô hình liên kết giữa các nhà cung cấp 
dịch vụ ngân hàng, các nhà cung cấp viễn thông, hệ thống tiêu dùng, người tiêu dùng. Với dịch 
vụ này khi đi mua sắm, người tiêu dùng không cần phải mang theo tiền mặt mà thay vào đó là 
thanh toán trực tuyến thông qua điện thoại di động thông minh với dịch vụ Mobile Banking. 
b. Hoạt động cho vay tiêu dùng 
Hiện nay, sự cạnh tranh trên lĩnh vực tài chính tiêu dùng cá nhân không chỉ của NH và 
công ty tài chính mà còn có sự tham gia của các Fintech với sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ 
thông tin. Các sản phẩm tài chính của nhóm công ty Fintech khá phong phú so với nhu cầu của 
người tiêu dùng và các thủ tục được thực hiện trực tuyến. Mô hình P2P (Peer to Peer- kết nối trực 
tiếp người đi vay và người cho vay trên internet) của các công ty Fintech với các gói vay đa dạng 
và đáp ứng nhu cầu khách hàng. Fintech chấp nhận rủi ro ở dải rộng, mức độ cao hơn và thậm    19      lO M oARcPSD| 45467232   20 
chí chấp nhận mạo hiểm, do đó họ dễ dàng tiếp cận với các khách hàng chưa từng là khách hàng 
của NH và khách hàng dưới chuẩn của NH. Giao dịch trực tuyến giúp các công ty Fintech giải 
ngân quỹ vay đến khách hàng nhanh chóng hơn, khách hàng nhận thấy vay vốn trực tuyến thuận 
tiện hơn nhiều vì họ có thể nhận tiền ngay tức thì mà không phải chờ đợi. Với hình thức vay vốn 
trực tuyến, các công ty sẽ không phải chịu nhiều các khoản chi phí về mặt bằng, điện nước, lương 
nhân viên ... để duy trì hoạt động nên mức lãi suất của các dịch vụ cho vay trực tuyến trở nên hấp  dẫn hơn. 
Việc áp dụng công nghệ giúp đơn giản hóa các quy trình, thủ tục, giấy tờ. Nếu như trước 
đây dùng quy trình giấy tờ truyền thống, có thể mất vài tuần, nhưng ứng dụng công nghệ số, việc 
trao đổi thảo luận tức thời tốt hơn, công việc luân chuyển tốt hơn, giảm khâu thủ tục giấy tờ, đồng 
thời tính minh bạch cũng đem lại hiệu quả cao hơn. Chính đột phá công nghệ trong bối cảnh công 
nghệ 4.0 đã giúp rút ngắn khoảng cách của người vay, nhất là cho vay tiêu dùng với sản phẩm tài 
chính. Với công nghệ kiểm tra chất lượng hình ảnh, nhân viên kinh doanh sẽ không còn phải chờ 
đợi thời gian thẩm định mà có thể nhanh chóng nhận kết quả cũng như hoàn tất thủ tục đăng ký 
một cách chính xác. Công nghệ ICR (Intelligence Character Recognition - Nhận diện ký tự thông 
minh), OCR (Optical Character Recognition - Nhận diện kí tự quang học) giúp tự động hóa quy 
trình đăng ký và tiết kiệm thời gian bằng cách tự động truy xuất các thông tin từ các giấy tờ do 
khách hàng cung cấp. Sau đó, hệ thống sẽ tự động điền các thông tin này vào các trường thông 
tin tương ứng trong đơn đăng ký của khách hàng. Trí tuệ nhân tạo giúp ghi nhớ và nhận diện ký 
tự một cách nhanh chóng và chính xác, giúp giảm thiểu sai sót do con người và tiết kiệm được 
thời gian cũng như chi phí vận hành ngay từ những bước đầu tiên. 
Công nghệ cơ sở dữ liệu khổng lồ Big data và blockchain giúp quản lý kho dữ liệu thông 
tin, tạo ra tri thức mới, hỗ trợ trong việc đưa ra quyết định nhanh và phù hợp hơn, giảm chi phí 
và tạo lợi thế cạnh tranh, phân tích “hành vi khách hàng” và tiếp cận đúng đối tượng mục tiêu 
vào đúng thời điểm một cách thành công và hiệu quả. Cách tiếp cận dữ liệu mới này mang lại 
một số lợi ích cho khách hàng làm đơn giản quy trình đăng ký và xét duyệt hồ sơ cho vay. Bên 
cạnh đó, việc phân tích dữ liệu giúp các công ty cho vay dễ dàng đưa ra chính sách giá đối với 
khách hàng, giúp họ đưa ra các gói vay với lãi suất hấp dẫn.    20