



















Preview text:
lO M oARcPSD| 45467232 lO M oARcPSD| 45467232 2 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................................... 2
NỘI DUNG ............................................................................................................................................... 4
I. QUY MÔ VÀ PHẠM VI HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG .......... 4
II. MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG NGÀNH TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG ............................................ 8
1. Tăng cường quy định pháp lý ............................................................................................................. 8
2. Tăng cường phân cấp........................................................................................................................... 9
3. Tăng cường công nghiệp hóa ............................................................................................................. 9
III. VẤN ĐỀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG ......... 11
1. Thực trạng nguồn nhân lực ngành Ngân hàng Việt Nam ............................................................. 11
2. Đánh giá chung về các hạn chế, tồn tại đối với nhân lực ngành Tài chính - Ngân hàng .......... 12
3. Khuyến nghị chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành Ngân hàng tại Việt Nam ............... 15
IV. SẢN PHẨM, DỊCH VỤ CỦA NGÀNH TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG ................................. 17
1. Quá trình phát triển Fintech trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ................................................. 17
2. Một số sản phẩm Fintech phổ biến trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ..................................... 18
a. Thanh toán điện tử ............................................................................................................................. 18
b. Hoạt động cho vay tiêu dùng ............................................................................................................ 19
c. Dịch vụ tài chính cá nhân ................................................................................................................. 21
V. ỨNG DỤNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀO NGÀNH TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG ... 22
1. Trí tuệ nhân tạo .................................................................................................................................. 22
2. Công nghệ chuỗi khối........................................................................................................................ 25
KẾT LUẬN ............................................................................................................................................. 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................................... 29
LỜI MỞ ĐẦU
Tài chính - Ngân hàng có thể nói là huyết mạch của nền kinh tế, vai trò của nó bao phủ tất
cả mọi mặt trong đời sống, lĩnh vực này gắn chặt với quá trình phát triển của toàn nền kinh tế. 2 lO M oARcPSD| 45467232 3
Do đó có thể nói là lĩnh vực Tài chính - Ngân hàng đóng vai trò then chốt đối với quá trình duy
trì và tăng trưởng ổn định của nền kinh tế thị trường. Dù trong hoàn cảnh nào kinh tế phát triển
ra sao, đây cũng sẽ là ngành nghề quan trọng bởi ở lĩnh vực vi mô nó có ảnh hưởng trực tiếp đối
với mọi hoạt động lưu thông về tiền tệ của nền kinh tế và dài hạn hơn nữa ngành Tài chính - Ngân
hàng giữ vai trò hoạch định các chính sách về tiền tệ. Vị thế của Việt Nam đang ngày càng được
tăng cao trên trường quốc tế việc này mở ra thời cơ cho phát triển nhanh chóng cùng nền tảng
kinh tế vững chắc trong nước.
Đại dịch COVID như một chiếc gương kì diệu, nó không phản chiếu lại y hệt những gì
người ta cho thấy ở bên ngoài, mà nó chiếu vào và làm lộ ra những khuyết điểm cấp thiết phải
cải tạo, đồng thời cũng tôn nên những giá trị cần được bảo tồn và phát triển. Sau đại dịch là thời
điểm khó khăn, thách thức lớn đối với nền kinh tế nói chung cũng như ngành Tài chính -Ngân
hàng nói riêng, đòi hỏi cần có những hướng đi đúng đắn, linh hoạt, tận dụng các cơ hội có được.
Ngành Tài chính - Ngân hàng cũng đã có những xu hướng, thay đổi nhằm phù hợp với hoàn cảnh
hiện tại. Để làm rõ hơn về vấn đề này, nhóm chúng em sẽ phân tích đề tài: “Xu hướng phát triển
ngành Tài chính - Ngân hàng tại Việt Nam”. Với mục tiêu giúp mọi người hiểu được xu hướng
phát triển cũng như những tiềm năng của ngành Tài chính - Ngân hàng. 3 lO M oARcPSD| 45467232 4 NỘI DUNG
I. QUY MÔ VÀ PHẠM VI HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
Hình 1 thể hiện giá trị bình quân của tổng tài sản các ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2011
- 2021. Qua đó cho thấy, tổng tài sản của các ngân hàng Việt Nam có sự phân hóa quy mô rất
lớn, tách biệt rõ giữa hai nhóm ngân hàng: Nhóm NHTM Nhà nước và nhóm NHTM cổ phần.
Nhóm NHTM Nhà nước có tổng tài sản trung bình cao vượt trội, đó là Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), NHTM cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam
(BIDV), NHTM cổ phần Công thương Việt Nam (VietinBank), NHTM cổ phần Ngoại thương
Việt Nam (Vietcombank). So với NHTM cổ phần có tổng tài sản trung bình thấp nhất (NHTM
cổ phần Sài Gòn Công Thương - Saigonbank), tổng tài sản của Agribank cao gấp 52,5 lần
Saigonbank và cao gấp 3,3 lần so với NHTM cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank). Tổng
tài sản của 04 ngân hàng này đạt trên 5 triệu tỷ đồng, tăng gần 4 lần trong vòng 10 năm và chiếm
đến gần 45% tổng tài sản của cả hệ thống TCTD.
Các NHTM Nhà nước luôn dẫn đầu về quy mô tổng tài sản trong suốt thời gian nghiên
cứu và luôn có khoảng cách khá lớn giữa 04 ngân hàng này với các NHTM tư nhân. Các NHTM
Nhà nước mặc dù lãi suất tiền gửi thấp hơn so với các NHTM tư nhân nhưng 04 ngân hàng này
luôn dẫn đầu về việc thu hút tiền gửi, chẳng hạn năm 2021, số dư tiền gửi bình quân của các
NHTM tư nhân là 157.573 tỷ đồng, trong khi đó số dư tiền gửi bình quân của các NHTM Nhà
nước là 1.305.760 tỷ đồng, gấp 8,3 lần số dư tiền gửi của các NHTM tư nhân. Cụ thể, Agribank 4 lO M oARcPSD| 45467232 5
là ngân hàng dẫn đầu về số dư tiền gửi của khách hàng với hơn 1.545.474 tỷ đồng; vị trí thứ hai
thuộc về BIDV với 1.380.397 tỷ đồng; thứ ba là VietinBank với số dư 1.161.848 tỷ đồng; và thứ
tư là Vietcombank với 1.135.323 tỷ đồng. Agribank và BIDV vẫn giữ vị trí như năm 2020, vị trí
thứ ba và thứ tư hoán đổi giữa VietinBank và Vietcombank. Nếu xét về tỷ lệ tăng trưởng tiền gửi,
thì VietinBank đã có mức tăng trưởng mạnh trong năm 2021 là 17,32%, kế đến là 12,53% của
BIDV. Với lượng tiền gửi mạnh về số lượng lẫn giá cả, lãi suất cho vay từ các NHTM Nhà nước
cũng rẻ hơn các NHTM tư nhân và theo đó, lợi nhuận của các NHTM Nhà nước luôn đạt mức cao.
Thống kê ở Bảng 1 cũng thể hiện lợi nhuận của hệ thống NHTM Việt Nam trong năm
2021, theo đó, 04 NHTM Nhà nước cũng đứng trong top những ngân hàng có lợi nhuận cao, lợi
nhuận trước thuế bình quân là 18.256 tỷ đồng, cao gấp 3,5 lần lợi nhuận bình quân của nhóm các
NHTM tư nhân. Đặc biệt, Vietcombank luôn dẫn đầu về lợi nhuận trong nhiều năm liên tục. Qua
đây phần nào đã thể hiện lợi ích kinh tế theo quy mô và phạm vi mà các NHTM Nhà nước có
được trong hoạt động kinh doanh của mình. Sự hiện diện của lợi thế kinh tế theo quy mô cho
thấy việc tăng quy mô ngân hàng có thể làm tăng lợi nhuận và các ngân hàng lớn có lợi thế về
chi phí so với các ngân hàng nhỏ và có khả năng thu được nhiều lợi nhuận hơn.
Bảng 1: Tiền gửi của các NHTM Nhà nước Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn: Thống kê từ Báo cáo tài chính các ngân hàng
Ngoài ra, khi thống kê mối tương quan cặp giữa quy mô tổng tài sản và hiệu quả tài chính,
đại diện bởi ROA, Hình 2 cho thấy mối quan hệ giữa chúng chia làm hai giai đoạn rõ rệt: Giai
đoạn 2011 - 2015 tương quan là nghịch chiều và giai đoạn 2016 - 2021 thể hiện sự tương quan 5 lO M oARcPSD| 45467232 6
thuận chiều. Tổng tài sản của các NHTM Việt Nam tăng liên tục từ năm 2011 đến năm 2021 và
luôn được dẫn đầu bởi 04 NHTM Nhà nước.
Giai đoạn 2011 - 2015, mối quan hệ giữa quy mô và ROA là nghịch chiều cho thấy rằng
các NHTM Việt Nam gia tăng quy mô nhưng hiệu quả tài chính lại giảm. Hình 2 cho thấy tăng
trưởng ROA liên tục âm qua các năm, điều này hàm ý các ngân hàng nhỏ có hiệu quả tài chính
tốt hơn ngân hàng lớn, các ngân hàng lớn đã không nhận được lợi thế kinh tế theo quy mô, trong
khi các ngân hàng nhỏ đã nhờ vào lợi thế kinh tế theo phạm vi để có được hiệu quả tài chính tốt
hơn. Giai đoạn 2011 - 2015 là giai đoạn cơ cấu lại hệ thống các TCTD theo Quyết định số
254/QĐ-TTg. Một trong nhiều giải pháp thực hiện mục tiêu của Đề án đó là giải pháp tăng nhanh
quy mô và năng lực tài chính thông qua: “(i) Tăng vốn để đảm bảo đủ mức vốn tự có theo tiêu
chuẩn an toàn vốn của Basel II đến năm 2015 thông qua phát hành cổ phiếu bổ sung và nguồn
vốn từ Chính phủ; (ii) Mua lại, sáp nhập TCTD; (iii) Mở rộng nguồn vốn huy động”. Trên tinh
thần của Đề án, các NHTM Việt Nam gia tăng quy mô tổng tài sản, nhưng hiệu quả tài chính của
ngành Ngân hàng chưa được như mong đợi bởi vì những bất lợi sau đây có thể đã ảnh hưởng đến
lợi nhuận của ngân hàng mạnh hơn lợi ích tăng quy mô tổng tài sản: -
Hậu quả của một thời kỳ phát triển “bong bóng” bất động sản, chứng khoán và tín
dụng, cho vay vượt quá khả năng nguồn vốn trong những năm 2005 - 2007 đã tích lũy khó khăn
cho các NHTM giai đoạn sau. Có thể nhận thấy rõ qua tỷ lệ nợ xấu liên quan đến bất động sản
tăng nhanh, rủi ro tín dụng tiềm ẩn, đây chính là những nguyên nhân dẫn đến tổng lợi nhuận của
các ngân hàng sụt giảm mạnh. Giai đoạn này, Chính phủ đã phải đưa ra nhiều giải pháp can thiệp
nhằm hạ nhiệt tín dụng như giải pháp xử lý nợ xấu, nợ liên ngân hàng và tái cơ cấu nguồn vốn. -
Thêm một hậu quả để lại từ những năm trước đó là việc ồ ạt tuyển dụng nhân viên,
mở thêm chi nhánh, tăng cường cơ sở hạ tầng để đáp ứng sự tăng trưởng tài sản nhanh của các
ngân hàng. Vì vậy, khi Chính phủ có những biện pháp can thiệp hạ nhiệt thị trường tín dụng,
ngân hàng phải gánh chịu các chi phí này ở giai đoạn sau. Điều đó làm gia tăng chi phí hoạt động
đáng kể cho ngân hàng, thêm yếu tố cho việc giảm lợi nhuận của ngân hàng. -
Hệ thống doanh nghiệp hoạt động sa sút, phá sản hàng loạt, dẫn tới tổng cầu tín
dụng suy giảm theo và khả năng trả nợ của doanh nghiệp giảm thấp, khiến nợ xấu tăng cao, từ
đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng. 6 lO M oARcPSD| 45467232 7
Giai đoạn 2016 - 2021, mối quan hệ giữa quy mô và hiệu quả tài chính là thuận chiều cho
thấy sự gia tăng quy mô tổng tài sản đã tạo ra hiệu quả tài chính tích cực cho các ngân hàng. Tăng
trưởng ROA là số dương trong từng năm (Bảng dưới Hình 2); các ngân hàng càng có quy mô
lớn, hiệu quả tài chính đạt được càng cao. Kết quả này phản ánh một phần sự thành công của
Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD. Sau 05 năm thực hiện tái cơ cấu các TCTD, bắt đầu từ năm
2016, hệ thống ngân hàng đã có dấu hiệu khởi sắc về lợi nhuận, những năm sau đó, lợi nhuận
ngân hàng tiếp tục tăng trưởng mạnh cho đến năm 2021. Mặc dù năm 2020 và năm 2021, do ảnh
hưởng của đại dịch Covid-19, tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt mức thấp kỷ lục trong 15 năm
qua (năm 2020 là 2,9% và năm 2021 là 2,59%) nhưng lợi nhuận ngân hàng vẫn tăng trưởng và
quy mô tổng tài sản của các NHTM không ngừng được mở rộng. Qua đây có thể nhận thấy được
phần nào lợi ích kinh tế nhờ quy mô và phạm vi mà các NHTM Việt Nam đã tận dụng được trong
hoạt động kinh doanh của mình.
Hình 2: Mối quan hệ giữa tổng tài sản và ROA 7 lO M oARcPSD| 45467232 8
Nguồn: Thống kê từ Báo cáo tài chính các ngân hàng
II. MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG NGÀNH TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
Mô hình làm việc của nhiều ngân hàng tính đến giờ vẫn đang dựa trên sự tích hợp mạnh
theo chiều dọc của một số quy trình quản lý, ngân hàng lõi và hoạt động phụ trợ. Một sự phát
triển gần đây còn gọi là “siêu chuyên môn hoá” đã hình thành những chuỗi dịch vụ có tính phức
tạp cao trong tương lai cũng với nhiều phương thức kinh doanh mới , như hệ thống cung ứng
chung. Do sự phổ biến của CNTT (bao gồm công nghệ chuỗi khối (Blockchain) ) và tiêu chuẩn
hoá (thông qua giao diện lập trình ứng dụng (API) mở rộng) , các ngân hàng hiện nay có thể thuê
thêm nhiều dịch vụ dưới dạng những nhiệm vụ riêng lẻ (ví dụ như DNA App Store) . Việc phân
tích chuỗi giá trị này sẽ dẫn đến nhiều cấu trúc tổ chức phi tập trung hơn thứ chúng ta thấy hiện nay.
Tổng hợp lại, ba xu hướng sau đây đặc trưng cho sự phát triển đối với các mô hình hoạt
động mới cho các ngân hàng:
1. Tăng cường quy định pháp lý
Quy định pháp lý liên quan đế hầu hết mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng để đảm
bảo tính tương thích với thị trường trong nước và thế giới (vì những quy định trong nội bộ và
ngoài quốc gia là khác nhau ví dụ như FATCA hay Basel III) . Ví dụ, theo một kết quả nghiên
cứu của Liên minh châu Âu, ước tính chi phí liên quan đến quy định pháp lý là 8,6 tỷ EUR từ
năm 2010 đến năm 2015 (Pukropski cùng cộng sự, 2013) . Các hồ sơ dự án của nhiều ngân hàng
có trên 50% chi phí liên quan đến quy định. Các mảng chịu nhiều ảnh hưởng pháp lý nhất là kiểm
soát/quản trị rủi ro (56%) , tuân thủ (54%) , tài chính doanh nghiệp (52%) , sửa đổi nội bộ (32%)
và CNTT/tổ chức (27%) . Mặc dù CNTT/tổ chức chỉ chịu tác động 27%, nhưng tổng số vốn đầu 8 lO M oARcPSD| 45467232 9
tư tuyệt đối là cao nhất trong tất cả mọi lĩnh vực kể trên bởi vì quy trình và CNTT
là bộ phận của cả những ngành này.
Việc đáp ứng của họ với những đòi hỏi
của quy định mới được coi là ưu tiên hàng đầu của mỗi ngân hàng (Crosby et al. , 2013).
2. Tăng cường phân cấp
Nhiều ngân hàng vẫn chưa chuyển đổi mô hình hoạt động của mình từ chuỗi giá trị tích
hợp theo chiều dọc sang các mô hình phân rã, linh hoạt hơn như hiện nay, chẳng hạn như trong
ngành ô tô. Một thước đo chính để đánh giá mức độ chuyên môn hóa là mức độ sản xuất nội bộ
liên quan đến việc tạo ra giá trị tổng thể. Mặc dù không nhìn thấy năng lực cốt lõi trong các quy
trình hỗ trợ và giao dịch, các ngân hàng vẫn thể hiện mức độ sản xuất nội bộ cao trong các lĩnh
vực này. Ví dụ, các ngân hàng trực tiếp có mức sản xuất nội bộ trung bình là 50%, các ngân hàng
nhỏ là 80% và các ngân hàng lớn là 70%. Một xu hướng chính là các dịch vụ không chỉ bắt nguồn
từ các mối quan hệ cung ứng song phương, mà có xu hướng trở nên nhỏ hơn về độ chi tiết của
chúng (Malone và cộng sự, 2011). Xu hướng “siêu chuyên môn hóa” này dẫn đến các mô hình
tìm nguồn cung ứng hoàn toàn mới, chẳng hạn như nguồn cung ứng cộng đồng được kích hoạt
thông qua các thị trường dịch vụ điện tử. Công ty Local Motors, Hoa Kỳ, một nhà cung cấp cho
BMW, chỉ sử dụng 100 công nhân, trong khi có 40.000 nhà phát triển khác được sử dụng cung
cấp cho các nhiệm vụ khác nhau.
3. Tăng cường công nghiệp hóa
Thuật ngữ công nghiệp hóa bắt nguồn từ việc chuyển đổi xã hội từ nông nghiệp sang công
nghiệp và tiếp tục phát triển với chủ nghĩa Taylor. Nguyên tắc cơ bản là có thể đạt được hiệu quả
cao thông qua việc xác định các hoạt động nhỏ, được tiến hành tương tự như những hoạt động
mà Henry Ford (người sáng lập Công ty Ford Motor) đã giới thiệu với cách tiếp cận sản xuất
hàng loạt đối với dây chuyền lắp ráp ô tô. Theo thời gian, công nghiệp hóa được bổ sung với các
nguyên tắc khác, chẳng hạn như tiêu chuẩn hóa, tự động hóa và định hướng chất lượng. Việc áp
dụng các nguyên tắc đó vào các ngành dịch vụ đang ngày càng phát triển, vì việc tiêu chuẩn hóa
các dịch vụ, chẳng hạn như các sản phẩm ngân hàng, vẫn chưa chín muồi như những chiếc đinh
vít được sử dụng trong xe hơi. Tuy nhiên, ngành công nghiệp phần mềm trong những năm gần
đây đã có những bước phát triển vượt bậc trong việc áp dụng các cơ chế công nghiệp hóa vào
ngành Ngân hàng. Ví dụ, một cuộc khảo sát đã xác định được 700 quy trình đầu cuối (end - to - 9 lO M oARcPSD| 45467232 10
end) trong các ngân hàng, trong đó khoảng một nửa có thể được tự động hóa hoàn toàn (Hirt và
Willmott, 2014). Các dịch vụ như vậy đã được cung cấp thông qua các cửa hàng ứng dụng doanh
nghiệp với doanh nghiệp (B2B) như DNA App Store hoặc Yodlee ở Hoa Kỳ. Các công ty này
cung cấp thị trường dịch vụ điện tử cho các ngân hàng và là nhà cung cấp nơi các ngân hàng có
thể tùy chỉnh dịch vụ của họ.
Hiệu quả hoạt động sẽ trở thành nguồn lợi thế cạnh tranh quan trọng của các ngân hàng trong
tương lai. Điều này cuối cùng sẽ dẫn đến kết quả cao trong hoạt động và chứng minh sự bền vững
của các mô hình kinh doanh hoàn toàn mới lấy khách hàng làm trung tâm. Điều này đang đặt ra
những câu hỏi cho các nhà quản lý và điều hành về mô hình hoạt động của ngân hàng trong thời gian tới: -
Mức độ ứng dụng tối đa các thông lệ tốt nhất trong công nghiệp hóa tại các ngành
sản xuất hàng hóa vật chất vào trong lĩnh vực ngân hàng là bao nhiêu để áp dụng vào việc xây
dựng các mô hình hoạt động của ngân hàng trong tương lai dựa trên các quy trình và dịch vụ được công nghiệp hóa? -
Làm thế nào để các dịch vụ có thể được chia thành nhiều phần chi tiết hơn và những
mô hình tìm nguồn cung ứng mới nào có thể được áp dụng để các dịch vụ được tạo nguồn ở cấp
độ của các nhiệm vụ đơn lẻ (siêu chuyên môn hóa) cho phép các mô hình tìm nguồn cung ứng sáng tạo? -
Làm thế nào các quy trình ngân hàng và cấu trúc ứng dụng (ngân hàng lõi) của
nhiều nhà cung cấp có thể được chuẩn hóa để đáp ứng các yêu cầu công nghiệp hóa và cho phép
các mô hình tìm nguồn cung ứng linh hoạt?
Sự phát triển đó có thể dẫn đến việc tổ chức lại toàn bộ hệ thống ngân hàng các quốc gia
và toàn cầu hiện có. Các hệ quả đối với ngành Ngân hàng có thể được cấu trúc theo cấp độ đổi
mới (gia tăng so với đột phá) và các quy trình ngân hàng lõi (hỗ trợ so với kinh doanh trực tiếp)
và có khả năng dẫn đến những mô hình mới cho các ngân hàng.
Mặc dù sự chuyển đổi trong ngành Ngân hàng đặt ra những thách thức lớn đối với hiện
trạng, nhưng nó chứa đựng nhiều cơ hội cho những tổ chức phải đối mặt với sự chuyển đổi này.
Đến nay, vẫn có nhiều người xem Fintech chỉ như là “hệ thống chuyển động” mới, tương tự như
sự thay đổi từ video ghi âm sang video youtube. Nhưng như lịch sử đã chỉ ra, việc chuyển đổi 10 lO M oARcPSD| 45467232 11
sang cơ sở hạ tầng mới thường hay dẫn đến việc cơ cấu lại cơ bản hiện trạng. Không phụ thuộc
vào bất kỳ thành công hay thất bại nào của các ngân hàng đơn lẻ, sự chuyển đổi của Ngành đang
dẫn đến thay đổi về chất như một phần cốt lõi của nền kinh tế toàn cầu ngày nay. Do đó, việc
đầu tư nhiều hơn nữa vào việc nghiên cứu về hệ thống tài chính phát triển trong tương lai là rất cần thiết.
III. VẤN ĐỀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
1. Thực trạng nguồn nhân lực ngành Ngân hàng Việt Nam
Theo Báo cáo thống kê hàng năm do Vụ Tổ chức cán bộ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(NHNN) thực hiện, tính đến thời điểm 01/06/2019, toàn ngành Ngân hàng ước tính có 346.614
người, với cơ cấu trình độ như sau: Tiến sĩ: 569 người, chiếm 0,16%;Thạc sĩ: 20.286 người,
chiếm 5,85%; Đại học: 263.927 người, chiếm 76,16%; Cao đẳng: 23.453 người, chiếm 6,77%;
Trung cấp: 20.054 người, chiếm 5,79%; Số còn lại (sơ cấp hoặc chưa qua đào tạo): 18.325 người, chiếm 5,29%.
Số liệu trên cho thấy, nhân lực qua đào tạo chuyên môn có trình độ từ cao đẳng trở lên của
ngành Ngân hàng chiếm đa số; so với các ngành khác là khá cao. Với số lượng, cơ cấu, trình độ
như trên, nhân lực ngành Ngân hàng đã chủ động thực hiện các quy trình nghiệp vụ ngân hàng, 11 lO M oARcPSD| 45467232 12
phát triển dịch vụ ngân hàng thông qua ứng dụng công nghệ số, xây dựng mô hình chi nhánh hiện
đại dựa trên nền tảng công nghệ tự động hóa, kết nối đa chiều và thông minh hóa của Cách mạng công nghiệp 4.0.
Hình 2 cho thấy, về cơ cấu nhân lực theo các hệ thống, số nhân lực làm việc trong hệ thống
NHNN là 6.871 người, hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) là 339.723 người. So với năm
2012, số nhân lực làm việc tại khối ngân hàng thương mại (NHTM) cổ phần, ngân hàng liên
doanh, nước ngoài, công ty tài chính năm 2019 đã tăng lên đáng kể cả về số tuyệt đối và tỷ lệ
nhân lực trong ngành Ngân hàng; trong khi tỷ lệ nhân lực khối NHTM Nhà nước và hệ thống
Quỹ Tín dụng nhân dân giảm tương đối.
2. Đánh giá chung về các hạn chế, tồn tại đối với nhân lực ngành Tài chính - Ngân hàng
Có thể thấy trong những năm qua, nguồn nhân lực ngành Tài chính - Ngân hàng đã có
những bước phát triển đáng ghi nhận về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, dựa trên các kết quả
khảo sát, thống kê và báo cáo đánh giá hàng năm của Vụ Tổ chức cán bộ (TCCB) NHNN, tác giả
đưa ra một số tồn tại về nguồn nhân lực ngành Ngân hàng như sau:
Thứ nhất, đội ngũ nhân lực trình độ cao tại NHNN và các TCTD còn mỏng, đặc biệt là thiếu
những chuyên gia đầu ngành: -
NHNN thiếu đội ngũ cán bộ trình độ chuyên sâu trong các lĩnh vực chuyên môn,
nghiệp vụ then chốt, đặc biệt là thiếu chuyên gia giỏi về kinh tế, quản lý vĩ mô với yêu cầu sở 12 lO M oARcPSD| 45467232 13
hữu năng lực nghiên cứu, dự báo, xây dựng chiến lược, định hướng phát triển hệ thống ngân
hàng, tái cơ cấu ngân hàng, xây dựng chính sách vĩ mô về tiền tệ ngân hàng, thanh tra giám sát
an toàn hệ thống và thanh toán. -
Các TCTD thiếu đội ngũ cán bộ chuyên môn cao trong các lĩnh vực hoạt động then
chốt của NHTM, quyết định đến hiệu quả hoạt động và sự an toàn của tổ chức như quản trị ngân
hàng hiện đại, phân tích tài chính, kiểm soát và kiểm toán nội bộ, phân tích và thẩm định dự án
đầu tư, quản trị rủi ro....
Thứ hai, tính chuyên nghiệp của nhân lực ngân hàng trong các vị trí công việc ở nhiều
ngân hàng tuy có cải thiện nhưng vẫn chưa cao, khả năng đáp ứng, tinh thần, kỹ năng phục vụ
khách hàng vẫn có những bất cập. Mảng kiến thức về kinh tế, chuyên môn ngân hàng, ngoại ngữ,
kỹ năng làm việc (giao tiếp, quan hệ khách hàng…) của một bộ phận không nhỏ nhân lực ngân
hàng còn hạn chế, cần đào tạo, bồi dưỡng. Tại một số TCTD nổi lên vấn đề đạo đức nghề nghiệp,
gây tổn thất không nhỏ về vật chất và uy tín cho tổ chức.
Thứ ba, đối với các cơ sở đào tạo: Trong những năm gần đây, đội ngũ giảng viên đã có sự
chuyển biến về chất lượng, tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại. Tỷ lệ giảng viên có trình độ sau đại
học (đặc biệt là trình độ tiến sĩ) có tăng nhưng chậm và còn thấp so với yêu cầu về năng lực
nghiên cứu, sáng tạo theo tiêu chuẩn của một trường đại học khu vực (như chuẩn AUN- QA).
Các chế độ chính sách đối với giảng viên đã phần nào tạo được động lực phấn đấu vươn lên trong
hoạt động nghề nghiệp nhưng so với các cơ sở GDĐH đã tự chủ vẫn còn khó khăn. Các trường
bồi dưỡng, các trung tâm đào tạo thuộc NHNN và các TCTD rất thiếu đội ngũ giảng viên (cả cơ
hữu, thỉnh giảng) có chuyên môn cao, kỹ năng giảng dạy tốt và có kinh nghiệm thực tiễn.
Nội dung chương trình, phương pháp dạy và học, kiểm tra đánh giá từng bước được đổi
mới, tiệm cận theo chuẩn quốc tế. Các cơ sở GDĐH đã xây dựng chương trình đào tạo ngắn hạn
và dài hạn đã tương đối bám sát nhu cầu xã hội. Trong khi đó, các trường đào tạo tại các NHTM
cũng đã bắt đầu quan tâm các chương trình đào tạo, bồi dưỡng gắn với các chức danh vị trí việc
làm và theo yêu cầu của công việc. Tuy nhiên, các chương trình đào tạo ngắn hạn còn mang tính
lẻ tẻ, thiếu tính hệ thống; sự kế thừa đào tạo mang tính liên tục theo từng cấp cán bộ, từng lĩnh
vực chuyên môn, nghiệp vụ chưa thực sự rõ nét. Về trình độ công nghệ Các hệ thống dịch vụ sử
dụng CNTT trong ngành Ngân hàng đều phải thường xuyên được nâng cấp, cập nhật để đảm bảo 13 lO M oARcPSD| 45467232 14
các tiêu chuẩn quốc tế, kết nối thông suốt với các hệ thống ngân hàng- tài chính toàn cầu. Vì vậy,
vướng mắc chủ yếu và cũng là thách thức hiện nay là hạn chế về trình độ, năng lực, số lượng và
chất lượng đội ngũ cán bộ CNTT của ngành Ngân hàng. Tại NHNN, báo cáo khảo sát thống kê
của Vụ TCCB (NHNN,2019), trong tổng số 224 cán bộ chuyên trách về CNTT (chiếm 3,9% tổng
số cán bộ, công chức, viên chức), chỉ có 72 cán bộ (chiếm 32,4%) có chứng chỉ quốc tế nâng cao
về CNTT. Ngoài ra, với chủ trương tinh giản biên chế, việc tuyển dụng mới cán bộ chuyên trách
về CNTT chưa thể thực hiện nhanh chóng.
Hạn chế về nguồn kinh phí cho đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ CNTT. Hiện nay,
kinh phí đào tạo, bồi dưỡng phải dành phần lớn cho các nội dung: Đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu
chuẩn ngạch, chức danh nghề nghiệp, chức vụ lãnh đạo- quản lý, ngoại ngữ, hội nhập quốc tế,
các chuyên môn nghiệp vụ khác (ngoài CNTT). Do vậy, nguồn kinh phí cho đào tạo, bồi dưỡng
chuyên sâu về CNTT rất hạn chế, trong nhiều trường hợp dựa vào nguồn lực bên ngoài nên số
lượng đào tạo, bồi dưỡng hạn chế, chưa sát yêu cầu công việc. Trong lĩnh vực công nghệ cao,
các khóa đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu thường được thiết kế riêng biệt theo yêu cầu khách hàng,
số lượng học viên ít, chi phí cao. Các TCTD đều đang đứng trước khó khăn thiếu hụt về nhân lực
CNTT có trình độ cao. Một số đơn vị hiện chưa có bộ phận hoặc cán bộ chuyên trách về an ninh,
an toàn thông tin; các dịch vụ CNTT phức tạp phần lớn phải thuê ngoài.
Hạn chế về chuyên gia, cơ sở đào tạo đạt chuẩn quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng các lĩnh vực
công nghệ cao, CNTT sát với yêu cầu thực tiễn. Hiện tại, số lượng chuyên gia về các lĩnh vực
hẹp trong CNTT đều thiếu. Hầu hết các TCTD còn thiếu quy định về ưu tiên, đãi ngộ, tôn vinh
nhân lực trình độ cao về CNTT nên cán bộ chưa an tâm cống hiến, không có ý định gắn bó lâu dài.
Ngoài ra, số lượng, chất lượng nhân lực có trình độ chuyên môn sâu để nghiên cứu, hoàn
thiện khuôn khổ pháp lý tạo môi trường sinh thái tốt cho các TCTD phát triển các hoạt động, dịch
vụ và sản phẩm mới sử dụng CNTT; xây dựng cơ chế quản lý, giám sát phù hợp với bối cảnh
Việt Nam và các chuẩn mực chung, thông lệ tốt của thế giới cũng còn hạn chế, ảnh hưởng đến
tiến độ xây dựng chiến lược, định hướng chung về cách mạng công nghiệp 4.0. 14 lO M oARcPSD| 45467232 15
3. Khuyến nghị chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành Ngân hàng tại Việt Nam
Thúc đẩy mạnh mẽ, quyết liệt việc đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ có năng lực, có tiềm
năng phát triển để hình thành nhóm nhân lực trình độ cao, đội ngũ chuyên gia đóng vai trò nòng
cốt về chuyên môn, nghiệp vụ tại các đơn vị trong Ngành, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ số.
Khuyến nghị này được đưa ra dựa trên định hướng xuyên suốt, đồng thời là giải pháp cơ bản,
mang tính đột phá về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Ngân hàng đã được nêu rõ tại
Quyết định số 1537/QĐ-NHNN (ngày 17/7/2019) về việc Phê duyệt Ban hành Kế hoạch triển
khai chiến lược phát triển nguồn nhân lực ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 của NHNN.
Theo định hướng này, NHNN và các TCTD cần xây dựng những chương trình đào tạo,
bồi dưỡng chuyên biệt cho đội ngũ cán bộ quy hoạch chuyên môn sâu, chuyên gia để bảo đảm
cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu đúng với yêu cầu công việc; đồng thời xây dựng
chính sách sử dụng, đãi ngộ hợp lý nhằm tạo điều kiện cho cán bộ có điều kiện thể hiện năng lực,
gắn bó với Ngành; thường xuyên đánh giá, rà soát quy hoạch nhằm bổ sung những cán bộ thực
sự có năng lực, đồng thời đưa ra khỏi quy hoạch những cán bộ không đủ tiêu chuẩn, không
có đóng góp nổi trội cho công việc của đơn vị.
Nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo bồi dưỡng của cơ sở đào tạo trong Ngành (bao
gồm cả các cơ sở đào tạo trực thuộc NHNN trong hệ thống giáo dục quốc dân, các trường bồi
dưỡng, trung tâm đào tạo của các ngân hàng), cụ thể như sau: -
Với các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân: Hoàn thiện hệ thống cơ sở vật
chất phục vụ giảng dạy và học tập (phòng học, trang thiết bị, thư viện, hệ thống thông tin, cơ sở
thực hành,…) đạt chuẩn do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Với các trường bồi dưỡng, trung
tâm đào tạo bảo đảm có đủ cơ sở vật chất để học viên có điều kiện học tập, nghiên cứu, giao lưu,
tạo dựng các mối quan hệ công tác tốt. -
Xây dựng được đội ngũ giảng viên cơ hữu, giảng viên kiêm chức tham gia giảng
dạy và nghiên cứu đủ về số lượng, có trình độ chuyên môn cao và phương pháp giảng dạy tốt.
Điều chỉnh chính sách liên quan đến hoạt động phát triển đội ngũ giảng viên như ưu đãi trong
việc cử đi đào tạo ở nước ngoài, được tham dự các hội thảo khoa học có liên quan đến nội dung 15 lO M oARcPSD| 45467232 16
giảng dạy, được gửi tài liệu và các ấn phẩm nghiên cứu khoa học của Ngành, có chế độ về tài
chính hợp lý khi tham gia giảng dạy và nghiên cứu và các quyền lợi khác đối với giảng viên. -
Xây dựng hệ thống chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu của các đơn vị tuyển
dụng theo tiêu chí mở, cập nhật và linh hoạt, trong xu thế hội nhập và chuẩn hóa theo thông lệ
quốc tế phù hợp nhất. Ứng dụng CNTT và truyền thông, mở rộng các hình thức học tập, đáp ứng
nhu cầu đa dạng của học viên, giúp người học hoàn thiện nhân cách, đạo đức nghề nghiệp, hiểu
biết pháp lý, yêu cầu công việc và nâng cao chất lượng cuộc sống. Chương trình đào tạo, bồi
dưỡng phải sát với yêu cầu công việc thực tiễn; đặc biệt là chương trình đào tạo theo chức danh
nghề nghiệp, bồi dưỡng về các mảng chuyên môn, nghiệp vụ như thanh tra- giám sát, hoạch định
chính sách tiền tệ, nghiên cứu phát triển dịch vụ ngân hàng, quản lý rủi ro, kinh doanh vốn, tín
dụng, CNTT ngân hàng, quản lý quan hệ khách hàng... -
Xây dựng tiêu chuẩn chức danh các công việc ngân hàng, tiêu chuẩn nghề nghiệp
ngân hàng, tương đương với tiêu chuẩn của các nước tiên tiến trong khu vực. Trong đó, đặc biệt
lưu ý các yêu cầu về kiến thức chuyên môn và kỹ năng cần có để thực hiện công việc làm cơ sở
quản lý và sử dụng nhân lực theo vị trí việc làm. Đây là một công cụ quan trọng không thể thiếu
trong quản lý và nâng cao chất lượng nhân lực. -
Xây dựng các chính sách hợp lý như chính sách về tuyển dụng, chính sách sử dụng
nhân lực, chính sách tiền lương... theo vị trí việc làm, làm cơ sở khuyến khích tốt nhất năng lực
thực hiện công việc của đội ngũ nhân lực, gắn đào tạo với sử dụng, với nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng năng lực thực tiễn thông qua xây dựng và thực hiện cơ chế
luân chuyển nhân lực giữa các đơn vị, các hệ thống trong toàn Ngành. Trong thời gian tới, NHNN
làm đầu mối triển khai việc luân chuyển, biệt phái cán bộ (gồm cả cán bộ quản lý và cán bộ
chuyên môn, nghiệp vụ) giữa NHNN và các NHTM; giữa NHNN, NHTM và các cơ sở đào tạo.
Từng hệ thống TCTD cũng được khuyến khích xây dựng cơ chế luân chuyển nội bộ để cán bộ
hiểu biết về thực tiễn nhiều vị trí công việc, từ đó mở rộng tầm nhìn, nâng cao khả năng phối hợp
hiệu quả trong công việc. Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy đây là hình thức đào tạo, bồi dưỡng
hiệu quả để giải quyết sự thiết hụt kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn của đội ngũ nhân lực.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về đào tạo nhân lực 16 lO M oARcPSD| 45467232 17 -
Mở rộng hợp tác với các tổ chức tài chính- tiền tệ quốc tế, các cơ sở đào tạo nước
ngoài về đào tạo nhân lực trong Ngành. Trên cơ sở đa dạng hóa đối tượng hợp tác và hình thức
hợp tác, tranh thủ tối đa sự hỗ trợ về tài chính, chương trình, nội dung đào tạo, giảng viên và phương pháp giảng dạy. -
Khuyến khích các cơ sở đào tạo trong Ngành hợp tác với các cơ sở giáo dục nước
ngoài để nâng cao năng lực quản lý, đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, đào
tạo, bồi dưỡng giáo viên. -
Tăng nguồn ngân sách dành cho đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài như tăng xuất
học bổng đào tạo sau đại học, tăng số lượng cán bộ tham dự các khóa bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên
môn sâu, kiến thức mới mà các cơ sở đào tạo trong nước không đào tạo được.
IV. SẢN PHẨM, DỊCH VỤ CỦA NGÀNH TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
1. Quá trình phát triển Fintech trong lĩnh vực tài chính ngân hàng
Sự xuất hiện các công ty Fintech tham gia vào dịch vụ tài chính ngân hàng đã mở ra một
kỷ nguyên mới, làm thay đổi mô hình ngân hàng truyền thống sang ngân hàng kỹ thuật số. Trong
lĩnh vực tài chính ngân hàng, Fintech được sử dụng rộng rãi với nhiều dịch vụ như: cho vay, gọi
vốn, thanh toán, bảo hiểm, đầu tư, quản lý tài chính cá nhân... Với hướng tiếp cận về sự đổi mới
các dịch vụ ngân hàng trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, bài viết nêu một số vấn đề để
hoàn thiện các sản phẩm dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam.
Fintech (Financial Technology - công nghệ tài chính) là ứng dụng các sáng tạo công nghệ
trong hoạt động và dịch vụ tài chính. Khách hàng chiến lược, đối tác của Fintech rất đa dạng, có
thể là ngân hàng (NH), công ty bảo hiểm, tổ chức tài chính truyền thống và ngay cả người tiêu
dùng trực tiếp. Các doanh nghiệp Fintech được chia thành 2 nhóm. Nhóm 1 là các công ty cung
cấp các công cụ kỹ thuật số để tạo ra các sản phẩm tài chính mới cho người tiêu dùng nhằm cải
thiện cách các cá nhân vay mượn, quản lý tiền bạc, tài trợ vốn cho các doanh nghiệp mới thành
lập... Nhóm 2 là các công ty cung cấp các sản phẩm công nghệ nhằm hỗ trợ cho hoạt động của
các công ty và các định chế tài chính, ví dụ: công cụ bảo mật, nhận diện khách hàng, quản lý rủi
ro, quản lý và phân tích dữ liệu, quản lý quan hệ khách hàng…
Lĩnh vực Fintech ở Việt Nam xuất hiện vào năm 2008 với 9 đơn vị doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ trung gian thanh toán được Ngân hàng Nhà nước cấp phép và hiện nay số lượng các công ty 17 lO M oARcPSD| 45467232 18
Fintech đã tăng lên đến khoảng 150 công ty. Tuy chỉ mới xuất hiện hơn 10 năm qua nhưng các
sản phẩm Fintech đã thay đổi các phương thức giao dịch truyền thống. Những dịch vụ tài chính
dựa trên nền tảng công nghệ mang lại nhiều tiện ích, mở ra tiềm năng lớn trong việc nâng cao
khả năng tiếp cận tài chính. Khi tận dụng tốt Fintech, chất lượng dịch vụ cũng tăng lên rõ rệt, tạo
ra mô hình kinh doanh mới thay đổi kênh phân phối và các sản phẩm dịch vụ tài chính truyền
thống như: mobile banking, QR code, ví điện tử, ngân hàng số … bởi độ chính xác và nhanh nhạy
của những phần mềm thông minh thực sự vượt trội.
Qui trình đánh giá rủi ro trong các NH và các định chế tài chính vốn thường phức tạp, nhiều công
đoạn đã có thể được thay thế bởi chuỗi phân tích dữ liệu chính xác và nhanh gọn của Fintech với
sự ứng dụng các công nghệ mới như Big data, blockchain, hệ thống định dạng cá nhân sinh trắc
học, định danh khách hàng điện tử …. và đặc biệt các khâu kiểm soát dữ liệu, đảm bảo an ninh,
an toàn, bảo mật cho khách hàng và các tổ chức tài chính được nâng cấp vượt trội nhờ Fintech.
Với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp 4.0, các NH có nhiều cơ hội tiếp cận và
mở rộng cung ứng các sản phẩm dịch vụ phù hợp đến những người dân hiện chưa có tài khoản ở
vùng sâu, vùng xa với chi phí hợp lý, góp phần đẩy mạnh phổ cập tài chính quốc gia.
2. Một số sản phẩm Fintech phổ biến trong lĩnh vực tài chính ngân hàng
Tại Việt Nam hiện nay, ba lĩnh vực thuộc ngành tài chính ngân hàng ảnh hưởng nhiều nhất
của Fintech là thanh toán điện tử, cho vay tiêu dùng, quản lý tài chính cá nhân.
a. Thanh toán điện tử
Tác động mạnh mẽ và rõ nhất của những tiến bộ Fintech đang làm thay đổi cấu trúc,
phương thức hoạt động và cung cấp nhiều dịch vụ hiện đại của hệ thống NH. Fintech giúp phát
triển những dịch vụ tài chính như: Internet Banking, Mobile Banking, ví điện tử,… tạo thuận lợi
cho khách hàng trong việc sử dụng dịch vụ NH hiện đại và tiết kiệm được chi phí giao dịch.
Nhiều dịch vụ mới, theo hướng số hóa đã được các NH Việt Nam triển khai: NHTMCP Tiên
Phong (TPBank) với NH tự động LiveBank, dịch vụ này giúp mở tài khoản chỉ cần lấy dấu vân
tay với công nghệ sinh trắc học nhằm tăng cường tính bảo mật và quy trình vận hành tự động
cùng công nghệ OCR (nhận dạng ký tự quang học). NHTMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank)
với ứng dụng NH số Timo, NHTMCP Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank) với không gian 18 lO M oARcPSD| 45467232 19
NH số Digital Lab, NHTMCP Quân đội (MB) với ứng dụng trợ lý ảo ChatBot phục vụ 24x7 trên mạng xã hội …
Hiện nay, các NHTM đều theo xu thế ứng dụng Fintech trong thanh toán cụ thể là cổng
thanh toán trực tuyến, ví điện tử, thanh toán di động…
- Thanh toán trực tuyến
Để sử dụng thanh toán trực tuyến, người tiêu dùng cần có một tài khoản trên một dịch vụ
trung gian nào đó và liên kết tài khoản đó với NH, hiện nay có một số cổng thanh toán tốt như: OnePay, VTCPay…
- Thanh toán bằng ví điện tử
Với hình thức thanh toán này, người tiêu dùng phải sở hữu các ví điện tử như của Momo, VCash
… từ đó có thể thanh toán trực tuyến trên một số website đã chấp nhận ví điện tử này. Ví điện tử
có thể được gắn kết với tài khoản ngân hàng để chuyển tiền giữa ví điện tử và tài khoản. Ngoài
ra, người tiêu dùng có thể nạp tiền vào ví bằng cách nộp tiền mặt, chuyển khoản. Chi phí phải trả
cho hình thức này tương đối thấp, chi phí đăng ký dịch vụ thường được miễn phí.
LienVietPostbank cung cấp dịch vụ Ví Việt cho phép khách hàng gửi, rút tiền mặt, chuyển khoản,
thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ và sử dụng các dịch vụ khác do LienVietPostBank cung ứng
qua internet, điện thoại di động hoặc các thiết bị điện tử. - Thanh toán bằng thiết bị di động thông minh
Hệ thống thanh toán qua điện thoại được xây dựng trên mô hình liên kết giữa các nhà cung cấp
dịch vụ ngân hàng, các nhà cung cấp viễn thông, hệ thống tiêu dùng, người tiêu dùng. Với dịch
vụ này khi đi mua sắm, người tiêu dùng không cần phải mang theo tiền mặt mà thay vào đó là
thanh toán trực tuyến thông qua điện thoại di động thông minh với dịch vụ Mobile Banking.
b. Hoạt động cho vay tiêu dùng
Hiện nay, sự cạnh tranh trên lĩnh vực tài chính tiêu dùng cá nhân không chỉ của NH và
công ty tài chính mà còn có sự tham gia của các Fintech với sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ
thông tin. Các sản phẩm tài chính của nhóm công ty Fintech khá phong phú so với nhu cầu của
người tiêu dùng và các thủ tục được thực hiện trực tuyến. Mô hình P2P (Peer to Peer- kết nối trực
tiếp người đi vay và người cho vay trên internet) của các công ty Fintech với các gói vay đa dạng
và đáp ứng nhu cầu khách hàng. Fintech chấp nhận rủi ro ở dải rộng, mức độ cao hơn và thậm 19 lO M oARcPSD| 45467232 20
chí chấp nhận mạo hiểm, do đó họ dễ dàng tiếp cận với các khách hàng chưa từng là khách hàng
của NH và khách hàng dưới chuẩn của NH. Giao dịch trực tuyến giúp các công ty Fintech giải
ngân quỹ vay đến khách hàng nhanh chóng hơn, khách hàng nhận thấy vay vốn trực tuyến thuận
tiện hơn nhiều vì họ có thể nhận tiền ngay tức thì mà không phải chờ đợi. Với hình thức vay vốn
trực tuyến, các công ty sẽ không phải chịu nhiều các khoản chi phí về mặt bằng, điện nước, lương
nhân viên ... để duy trì hoạt động nên mức lãi suất của các dịch vụ cho vay trực tuyến trở nên hấp dẫn hơn.
Việc áp dụng công nghệ giúp đơn giản hóa các quy trình, thủ tục, giấy tờ. Nếu như trước
đây dùng quy trình giấy tờ truyền thống, có thể mất vài tuần, nhưng ứng dụng công nghệ số, việc
trao đổi thảo luận tức thời tốt hơn, công việc luân chuyển tốt hơn, giảm khâu thủ tục giấy tờ, đồng
thời tính minh bạch cũng đem lại hiệu quả cao hơn. Chính đột phá công nghệ trong bối cảnh công
nghệ 4.0 đã giúp rút ngắn khoảng cách của người vay, nhất là cho vay tiêu dùng với sản phẩm tài
chính. Với công nghệ kiểm tra chất lượng hình ảnh, nhân viên kinh doanh sẽ không còn phải chờ
đợi thời gian thẩm định mà có thể nhanh chóng nhận kết quả cũng như hoàn tất thủ tục đăng ký
một cách chính xác. Công nghệ ICR (Intelligence Character Recognition - Nhận diện ký tự thông
minh), OCR (Optical Character Recognition - Nhận diện kí tự quang học) giúp tự động hóa quy
trình đăng ký và tiết kiệm thời gian bằng cách tự động truy xuất các thông tin từ các giấy tờ do
khách hàng cung cấp. Sau đó, hệ thống sẽ tự động điền các thông tin này vào các trường thông
tin tương ứng trong đơn đăng ký của khách hàng. Trí tuệ nhân tạo giúp ghi nhớ và nhận diện ký
tự một cách nhanh chóng và chính xác, giúp giảm thiểu sai sót do con người và tiết kiệm được
thời gian cũng như chi phí vận hành ngay từ những bước đầu tiên.
Công nghệ cơ sở dữ liệu khổng lồ Big data và blockchain giúp quản lý kho dữ liệu thông
tin, tạo ra tri thức mới, hỗ trợ trong việc đưa ra quyết định nhanh và phù hợp hơn, giảm chi phí
và tạo lợi thế cạnh tranh, phân tích “hành vi khách hàng” và tiếp cận đúng đối tượng mục tiêu
vào đúng thời điểm một cách thành công và hiệu quả. Cách tiếp cận dữ liệu mới này mang lại
một số lợi ích cho khách hàng làm đơn giản quy trình đăng ký và xét duyệt hồ sơ cho vay. Bên
cạnh đó, việc phân tích dữ liệu giúp các công ty cho vay dễ dàng đưa ra chính sách giá đối với
khách hàng, giúp họ đưa ra các gói vay với lãi suất hấp dẫn. 20