



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61685031
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
DANH MỤC BÀI TẬP TUẦN DÀNH CHO K46
1. Phân tích khái niệm nhà nước.
2. Phân tích các đặc trưng của nhà nước, trên cơ sở đó hãy làm sáng tỏ một đặc trưng của Nhà
nước Việt Nam hiện nay.
Định nghĩa nhà nước: Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội, bao gồm một lớp người
được tách ra từ xã hội để chuyên thực thi quyền lực, nhằm tổ chức và quản lý xã hội, phục vụ lợi
ích chung của toàn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền.
Đặc trưng của Nhà nước:
1. Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội (quyền lực nhà nước): -
Quyền lực nói chung được xem là khả năng của cá nhân, tổ chức có thể buộc các cá nhân
tổchức khác phải phục tùng theo ý chí của mình, thể hiện ở sự áp đặt ý chí của chủ thể có quyền
đối với chủ thể dưới quyền. Trong xã hội có tồn tại nhiều loại quyền lực khác nhau như quyền lực
thị tộc, quyền lực của các tổ chức, quyền lực nhà nước,… Mỗi chủ thể nằm trong các mối quan hệ
khác nhau sẽ nắm giữ một loại quyền lực khác nhau nhưng quyền lực nhà nước thường chỉ được
nắm giữ bởi Nhà nước -
Nhà nước là tổ chức đại diện chính thức cho toàn thể xã hội (hoặc các tổ chức, cá nhân
đượcNhà nước trao quyền) còn các tổ chức, cá nhân trong xã hội là đối tượng của quyền lực ấy.
Có thể thấy quyền lực nhà nước gắn liền với Nhà nước. Quyền lực nhà nước được coi là loại quyền
lực đặc biệt bởi các khía cạnh sau:
• Nguồn gốc: Quyền lực nhà nước phụ thuộc vào sức mạnh bạo lực, sức mạnh vật chất và
uy tín của Nhà nước đối với xã hội.
• Phạm vi: Quyền lực nhà nước tồn tại trong mối quan hệ giữa Nhà nước với các cá nhân, tổ
chức trong xã hội và giữa Nhà nước với các thành viên cũng như cơ quan nhà nước. Quyền
lực nhà nước có tác động bao trùm lên toàn xã hội, tới mọi cá nhân, tổ chức thuộc mọi khu
vực, lãnh thổ về hầu hết các lĩnh vực cơ bản của đời sống: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục…
• Cách thức thực hiện: Được tổ chức thực hiện một cách chặt chẽ bởi một lớp người tách ra
khỏi hoạt động sản xuất trực tiếp. Lớp người này tổ chức thành các cơ quan khác nhau,
mỗi cơ quan chuyên đảm nhiệm những công việc nhất định, hợp thành bộ máy nhà nước
từ trung ương tới địa phương.
• Mục đích: Nhà nước sử dụng quyền lực nhà nước để điều hành và quản lý xã hội, thiết lập
và giữ gìn trật tự xã hội, phục vụ và bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội cũng như lợi ích
của lực lượng cầm quyền.
VD1: Quyền lực nhà nước được CSGT - cá nhân được phân công nhiệm vụ, sử dụng để yêu
cầu người điều khiển xe máy phải dừng xe, xuất trình giấy tờ và người điều khiển buộc phải
thực hiện theo. Đây cũng là một biểu hiện của hoạt động quản lý xã hội của nhà nước. VD2:
Đợt dịch Covid tháng 2/2020 vừa qua, Thủ tướng yêu cầu cả nước thực hiện giãn cách xã hội
và việc giãn cách đã được thực hiện trên toàn bộ 63 tỉnh thành đối với hầu hết các hoạt động lOMoAR cPSD| 61685031
kinh tế - văn hóa - xã hội. Việc giãn cách này nhằm hạn chế sự lây lan của dịch bệnh và đảm
bảo an toàn cộng đồng.
2.Nhà nước thực hiện việc quản lý dân cư theo lãnh thổ: Đối tượng hướng tới của hoạt động quản
lý của Nhà nước là dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định. Đây là điểm đặc trưng của Nhà nước
với việc dân cư được quản lý phụ thuộc vào khu vực lãnh thổ nơi họ sinh sống chứ không phụ
thuộc vào các đặc điểm về giới tính, dân tộc, huyết thống, độ tuổi, nghề nghiệp, lý tưởng,… như
các tổ chức khác. Qua đây có thể thấy phạm vi tác động rộng lớn nhất trong quốc gia. Người dân
cứ sống trên một khu vực lãnh thổ nhất định thì sẽ chịu sự quản lý của một nhà nước nhất định, và
do vậy họ thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhà nước ở nơi họ sinh sống, không phân biệt huyết
thống, giới tính, dân tộc…
VD: Hội phụ nữ quản lý đối tượng phụ thuộc vào đặc điểm giới tính (phụ nữ); hội câu cá quản lý
các thành viên của tổ chức - những người có cùng đam mê, sở thích câu cá; Ủy ban nhân dân
phường quản lý tất cả cư dân sinh sống trên địa bàn phường.
3. Nhà nước nắm giữ và thực thi chủ quyền quốc gia: -
Chủ quyền quốc gia là khái niệm chỉ quyền quyết định tối cao của quốc gia trong quan hệ
đốinội và quyền độc lập tự quyết của quốc gia trong quan hệ đối ngoại. Nhà nước có quyền lực
bao trùm mọi cá nhân, tổ chức trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, vì vậy nhà nước là tổ chức duy
nhất có đủ tư cách và khả năng đại diện chính thức và hợp pháp cho quốc gia trong các quan hệ
đối nội và đối ngoại. -
Trong các quan hệ đối nội, quy định nhà nước có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực
hiệnđối với các tổ chức, cá nhân có liên quan; nhà nước có thể cho phép các tổ chức khác được
thành lập và hoạt động (doanh nghiệp) hoặc có thể công nhận sự tồn tại và hoạt động hợp pháp
của các tổ chức khác (hội câu cá). -
Trong quan hệ đối ngoại, nhà nước có toàn quyền xác định và thực hiện các đường lối,
chínhsách đối ngoại của mình. Các tổ chức khác chỉ được tham gia vào quan hệ đối ngoại khi nhà nước cho phép.
VD1: Trong đợt dịch Covid, Nhà nước đã ra quyết định về việc giảm mức trần lãi suất cho vay
nhằm trợ giúp các doanh nghiệp, quyết định này buộc các ngân hàng phải thực hiện theo theo.
VD2: Nhà nước cân nhắc và quyết định việc ký kết các hiệp định quốc tế với các Nhà nước khác.
4. Nhà nước ban hành pháp luật và dùng pháp luật làm công cụ quản lý xã hội: -
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực
hiện đối với các tổ chức và cá nhân. Với phạm vi quản lý rộng cùng với quyền lực đặc biệt được
trao, nhà nước là tổ chức duy nhất có thể đại diện cho xã hội ban hành pháp luật làm công cụ quản
lý xã hội => pháp luật được triển khai rộng rãi trên toàn xã hội. -
Nhà nước đảm bảo cho pháp luật được thực hiện bằng nhiều biện pháp: tuyên truyền, phổ
biến,giáo dục, thuyết phục, tổ chức thực hiện, động viên, khen thưởng, áp dụng các biện pháp
cưỡng chế nhà nước => Mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội có nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện pháp
luật một cách nghiêm chỉnh => Pháp luật là một trong những công cụ hiệu quả nhất để nhà nước
quản lý xã hội, điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích, định hướng nhất định. lOMoAR cPSD| 61685031 -
VD: Bộ luật hình sự được Nhà nước ban hành nhằm trừng phạt các hành vi phạm tội đồng
thờirăn đe để hạn chế những hành vi đó diễn ra trên thực tế. Bộ luật có các quy định công khai để
mọi người dân đều biết đến và tuân theo, đồng thời được đảm bảo thực hiện bởi những biện pháp cưỡng chế nhà nước.
5. Nhà nước quy định và thực hiện việc thu thuế (giáo trình có thêm phát hành tiền): Thuế là khoản
tiền hay hiện vật mà người dân buộc phải nộp cho Nhà nước theo quy định của pháp luật. Chỉ có
Nhà nước mới được quyền quy định và thực hiện việc thu thuế bởi các lý do sau:
− Nhà nước là tổ chức đại diện cho toàn xã hội, quyết định và thực hiện các công việc chung, quan trọng cho toàn xã hội.
− Khác với các tổ chức khác, Nhà nước là một bộ máy được tách khỏi hoạt động lao động sản xuất
trực tiếp để chuyên thực hiện chức năng quản lý xã hội nên nó không thể tự tạo ra nguồn thu được
mà được nuôi dưỡng bởi nguồn thuế. Mặt khác, với một bộ máy hoạt động nhằm thực hiện các
nhiệm vụ, chức năng của một tổ chức, đặc biệt nó còn là một tổ chức đặc biệt lớn đồng thời thực
hiện công việc cũng đặc biệt quan trọng đối với xã hội, chính vì vậy, Nhà nước cần có khoản thu
lớn để duy trì cho các hoạt động của mình - đó là thuế.
− Vai trò quản lý XH của NN là đặc biệt quan trọng và không thể thay thế.
− Chỉ có Nhà nước mới có đủ quyền lực và khả năng để đảm bảo việc thu thuế và phát hành tiền.
VD: Trong khi các tổ chức kinh tế thực hiện các hoạt động kinh tế, tạo ra nguồn thu cho mình thì
Nhà nước cần phải thực hiện nhiệm vụ quản lý xã hội nhằm đảm bảo môi trường kinh doanh, đầu
tư an toàn nhất, tuy nhiên hoạt động này không tạo ra thặng dư, không giúp tăng thu ngân sách
nhà nước, vì vậy, các tổ chức kinh tế phải trích một phần lãi nhằm đảm bảo duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước.
Liên hệ với Nhà nước Việt Nam hiện nay 1.
Nhà nước có quyền lực đặc biệt: -
Nhà nước Việt Nam hiện nay theo Hiến pháp năm 2013 là Nhà nước pháp quyền xã hội
chủnghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. -
Quyền lập pháp là quyền đặt ra Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, đặt ra luật và sửa đổi luật.
Cácvăn bản quy phạm pháp luật này được Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội
thuộc hầu hết các lĩnh vực trong cuộc sống (văn hóa, kinh tế, xã hội) và phát sinh trên toàn bộ
phạm vi lãnh thổ của quốc gia, yêu cầu mọi người dân phải tuân theo. -
Quyền hành pháp là quyền tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống xã hội,
gồmquyền tổ chức quản lý các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội trên cơ sở pháp luật, quyền ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật của hệ thống hành chính nhà nước. -
Quyền tư pháp là quyền phán quyết về những tranh chấp dân sự, tranh chấp hành chính
bằngcon đường tố tụng của Tòa án; quyền phán quyết những hành vi nào là tội phạm và áp dụng
hình phạt tương ứng trong các vụ án hình sự.
Qua trên, có thể thấy Nhà nước Việt Nam hiện nay có khả năng áp đặt ý chí lên các chủ thể
trong xã hội thông qua các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền lực này cũng có
phạm vi bao trùm trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam về hầu hết các lĩnh vực khác nhau.
2. Nhà nước thực hiện việc quản lý dân cư theo lãnh thổ: lOMoAR cPSD| 61685031
- Mọi cá nhân, tổ chức sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam đều phải tuân thủ theo các quy định
củapháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tôn giáo, chính trị,... (theo khoản 1 Điều 16 Hiến
pháp 2013: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”).
- Nhà nước Việt Nam phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính theo Điều 110 Hiến pháp
2013 gồm: cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (63 tỉnh thành); quận huyện, thị xã, thành
phố trực thuộc tỉnh; xã, phường, thị trấn và các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt khác nhằm
quản lý toàn bộ dân cư một cách hiệu quả nhất. 3. Nhà nước nắm giữ và thực thi chủ quyền quốc gia:
- Ngay tại Điều 1 Hiến pháp Việt Nam 2013 đã khẳng định chủ quyền quốc gia của Nhà nướcViệt
Nam hiện nay “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời.” Hơn nữa, tại
các Điều 11, 12 lại càng khẳng định chủ quyền quốc gia là bất khả xâm phạm, mọi hoạt động
hợp tác quốc tế đều phải giữa trên cơ sở tôn trọng chủ quyền và không can thiệp vào các công việc nội bộ của nhau.
- Đồng thời, các hoạt động liên quan đến chủ quyền quốc gia chỉ được thực hiện bởi Nhà nước,cụ
thể là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 12). 4. Nhà nước ban hành pháp luật và
dùng pháp luật làm công cụ quản lý xã hội: Việc ban hành pháp luật ở Việt Nam được thực hiện
bởi các cơ quan lập pháp - quốc hội (hiến pháp, luật, nghị quyết), cơ quan hành pháp - chính phủ,
các bộ, ủy ban nhân dân các cấp (Nghị định, thông tư, quyết định) và thậm chí là cơ quan tư pháp
- Tòa án, Viện kiểm sát (Nghị quyết, thông tư, quyết định).
- Những văn bản trên được ban hành và đảm bảo thực thi trên thực tế thông qua các biện pháp:
tuyên truyền phổ biến pháp luật thông qua các phương tiện truyền thông và thông qua các cơ
quan, đoàn thể từ trung ương tới địa phương; biện pháp giáo dục từ bậc mẫu giáo, tiểu học, trung
học (các chiến sĩ cảnh sát đến các trường để hướng dẫn việc tuân thủ đúng pháp luật, đặc biệt là
pháp luật giao thông, pháp luật hình sự) đến bậc cao đẳng, đại học (môn pháp luật đại cương);
biện pháp cưỡng chế (các hành vi trái pháp luật sẽ bị xử phạt tương ứng và buộc thi hành đúng
bởi các cơ quan nhà nước).
5. Nhà nước quy định và thực hiện việc thu thuế: -
Hiện nay, nguồn thu chính của ngân sách nhà nước Việt Nam phụ thuộc vào thu thuế, cụ
thểtheo dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2021, số tiền thu từ thuế vào khoảng 994,367 tỷ VNĐ
trên tổng thu ngân sách nhà nước là 1,343,330 tỷ VNĐ (chiếm khoảng 75%)0F 1 . Có thể thấy tầm
quan trọng của nguồn thu này đối với hoạt động của Nhà nước Việt Nam, vì vậy, việc thực hiện
thu thuế được quy định cụ thể trong nhiều văn bản luật và văn bản dưới luật liên quan (Luật quản
lý thuế, Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, …). -
Đồng thời, việc thu thuế chỉ được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước (ủy ban nhân dân
cáccấp, các cơ quan quản lý thuế: Tổng cục thuế, cục thuế, tổng cục hải quan,...). Các ngân hàng
thương mại chỉ được tham gia phối hợp với các cơ quan nhà nước để đảm bảo việc thu thuế được
diễn ra thuận tiện, dễ dàng nhất. (Căn cứ Luật Quản lý thuế 2019 - Điều 2,3,20,27,..).
3. Phân biệt nhà nước với tổ chức xã hội khác. Nhà nước
Các tổ chức xã hội khác lOMoAR cPSD| 61685031 Về quyền
- Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội
- Các tổ chức xã hội khác lực
Nhà nước là tổ chức quyền lực chung của toàn xã hội, quyền lực cũng có quyền lực chung
của nhà nước có tác động bao trùm lên toàn xã hội, tới mọi tổ song quyền lực đó chỉ có tác
chức, cá nhân, mọi khu vực lãnh thổ quốc gia và các lĩnh vực cơ động tới các hội viên trong tổ
bản của đời sống: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục... Mọi cá chức đó và không một tổ
nhân và tổ chức đang sống và hoạt động trong phạm vi lãnh thổ chức nào có bộ máy riêng để
quốc gia đều phải phục tùng quyền lực và ý chí của nhà nước. chuyên thực thi quyền lực
Do đó, nhà nước là tổ chức có cơ sở xã hội và phạm vi tác động
rộng lớn nhất trong quốc gia.
như nhà nước. Cơ sở xã hội
- Nhà nước có một lớp người tách ra khỏi lao động sản xuất để
và phạm vi tác động của các
tổ chức xã hội khác đều
chuyên thực thi quyền lực nhà nước, họ tham gia vào bộ máy nhà hẹp hơn nhà nước, chỉ tới
nước để làm hình thành nên một hệ thống các cơ quan nhà nước một bộ phận của dân cư.
từ trung ương tới địa phương, trong đó có các cơ quan bạo lực,
cưỡng chế như quân đội, cảnh sát, tòa án...
- Nhờ có quyền lực và bộ máy chuyên thực thi quyền lực đó mà
nhà nước có thể điều hành và quản lý xã hội, thiết lập và giữ gìn
trật tự xã hội, phục vụ và bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội
cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền.
Về quản lí Nhà nước thực hiện việc quản lý dân cư theo lãnh thổ
- Các tổ chức xã hội khác dân
Nhà nước luôn lấy việc quản lý dân cư theo lãnh thổ làm điểm thường tập hợp và quản lý cư/thành
xuất phát. Người dân không phân biệt huyết thống, dân tộc, giới dân cư theo mục đích, chính viên
tính... cứ sống trên một khu vực lãnh thổ nhất định thì chịu sự kiến, lý tưởng, nghề nghiệp,
quản lý của một nhà nước nhất định và do vậy, họ thực hiện độ tuổi hoặc giới tính..
quyền và nghĩa vụ đối với nhà nước ở nơi mà họ cư trú. - Nhà
nước thực hiện việc quản lý dân cư trong phạm vi lãnh thổ quốc
gia của mình cũng theo địa bàn cư trú của họ hay theo các đơn
vị hành chính - lãnh thổ. Nó phân chia lãnh thổ thành các đơn vị
hành chính và quản lý dân cư theo các đơn vị đó.
Về tham - Nhà nước nắm giữ và thực thi chủ quyền quốc gia
- Các tổ chức xã hội khác chỉ gia
đối Chủ quyền quốc gia là khái niệm chỉ quyền quyết định tối cao được thành lập, tồn tại và nội,
đối của quốc gia trong quan hệ đối nội và quyền độc lập tự quyết hoạt động một cách hợp ngoại
trong quan hệ đối ngoại. Nhà nước là đại diện chính thức cho pháp khi được nhà nước cho
toàn quốc gia, dân tộc trong các quan hệ đối nội và đối ngoại. - phép hoặc công nhận, đồng
Trong quan hệ đối nội, quy định của nhà nước có giá trị bắt buộc thời chỉ có thể nhân danh
phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với các tổ chức và cá nhân có chính tổ chức đó khi tham
liên quan; nhà nước có thể cho phép các tổ chức xã hội khác được gia vào các quan hệ đối nội,
thành lập và hoạt động hoặc nhà nước công nhận sự tồn tại và đối ngoại và chỉ dược tham
hoạt động hợp pháp của các tổ chức xã hội khác. - Trong quan gia vào quan hệ đối ngoại
hệ đối ngoại, nhà nước có toàn quyền xác định và thực hiện các nào mà nhà nước cho phép.
đường lối, chính sách đối ngoại của mình. lOMoAR cPSD| 61685031 Về ban -
Nhà nước ban hành pháp luật và dùng pháp luật làm công - Các tổ chức xã hội khác chỉ
hành các cụquản lý xã hội
có quyền ban hành các quy văn bản -
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung có giá trị định dưới dạng điều lệ, chỉ pháp lí
bắtbuộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với các tổ chức và cá thị, nghị quyết có giá trị bắt
nhân có liên quan trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Nhà nước bảo buộc phải tôn trọng và thực
đảm cho pháp luật được thực hiện bằng nhiều biện pháp: tuyên hiện với các hội viên trong tổ
truyền, phổ biến, giáo dục, thuyết phục, tổ chức thực hiện, động
viên, khen thưởng, áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. chức; đồng thời bảo đảm cho -
Nhà nước sử dụng pháp luật đế quản lý xã hội, điều chỉnh các quy định đó được thực
cácquan hệ xã hội theo mục đích của nhà nước và pháp luật là hiện bằng sự tự giác của các
một trong những công cụ quản lý có hiệu quả nhất của nhà nước hội viên và bằng các hình
thức kỷ luật của tổ chức.
Về thu - Nhà nước quy định và thực hiện việc thu thuế
Các tổ chức xã hội khác hoạt thuế
Thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân buộc phải nộp cho động trên cơ sở nguồn kinh
nhà nước theo quy định của pháp luật. Nhà nước là một bộ máy phí do các hội viên đóng góp
được tách ra khỏi lao động sản xuất trực tiếp để chuyên
thực hiện chức năng quản lý xã hội nên nó phải được nuôi dưỡng
từ nguồn của cải do dân cư đóng góp, không có thuế bộ máy nhà
nước không thể tồn tại được và thuế luôn là quốc sách của mọi
nhà nước. Thuế còn là nguồn của cải quan trọng phục vụ cho việc
phát triển các mặt của đời sống. Ngoài thuế, nhà nước còn có
quyền phát hành tiền, công trái, vì thế, nhà nước có lực lượng vật
chất to lớn, không chỉ có thể trang trải cho các hoạt động của nó,
những hoạt động cơ bản của xã hội, mà còn có thể hỗ trợ một
phần kinh phí hoạt động cho một số tổ chức khác.
4. Trình bày sự hiểu biết của anh (chị) về nhà nước “của nhân dân, do nhân dân, vì nhândân”.
Nhà nước của dân là nhà nước có những tính chất sau: 1.
Dân là chủ, dân làm chủ, nhân dân là chủ thể có quyền quyết định những vấn đề cơ bản,
quan trọng của đất nước: “Nhà nước của dân” là khái niệm thể hiện quyền sở hữu của nhân dân
đối với nhà nước, nhân dân có quyền của một chủ sở hữu. Nhân dân có quyền tham gia, quyết
định những vấn đề cơ bản, quan trọng của đất nước, ví dụ: tham gia quá trình ban hành Hiến pháp,
tham gia đóng góp cho các dự thảo Luật… 2.
Nhân dân là chủ thể của QLNN: Quyền lực của nhà nước không tự nhiên phát sinh, quyền
lực đó được người dân trao cho. Người dân tin tưởng chủ thể nào thì người dân trao quyền cho
chủ thể đó thay mặt họ để thực hiện nhiệm vụ quản lý xã hội. Chính vì vậy, người dân hoàn toàn
có khả năng tước đi quyền lực mà nhà nước có khi nhà nước không cho người dân thấy sự nỗ lực,
tận tâm hết mình thực hiện nhiệm vụ. Biểu hiện của khả năng tước đi quyền lực là việc người dân
có thể nổi dậy chống lại nhà nước. Khi người dân đã nổi dậy chống lại nhà nước, dù nhà nước có
kháng cự hay không thì việc nhà nước đó sụp đổ chỉ còn là vấn đề thời gian.
Nhà nước do dân là một nhà nước: 1.
Do nhân dân đấu tranh cách mạng để mở đường cho việc hình thành: Nhà nước muốn
được thành lập thì bao giờ cũng phải trải qua đấu tranh, đây là quy luật tất yếu của lịch sử. Việc
nhân dân đấu tranh cách mạng thể hiện sự khao khát có được một chính quyền nhà nước do chính
tay họ lập nên để thay mặt họ bảo vệ quyền lợi cho xã hội, quản lý xã hội. lOMoAR cPSD| 61685031 2.
Do nhân dân bầu ra: Khi nhân dân tin tưởng vào nhà nước, người dân sẽ đồng lòng ủng hộ cho chính quyền đó; 3.
Do nhân dân kiểm tra, giám sát, đóng góp ý kiến: Nhà nước được thành lập do nhân dân
nên nhân dân phải có quyền kiểm tra, giám sát, đóng góp ý kiến vào hoạt động của nhà nước. Đây
là cách để người dân kiểm soát quyền lực mà họ trao cho nhà nước; 4.
Do nhân dân đóng góp trí tuệ, sức người, sức của: Nhà nước là của dân, do dân lập nên,
vì vậy, nhân dân có quyền đóng góp trí tuệ, công sức, của cải vật chất vào việc xây dựng, phát
triển nhà nước ngày một tốt hơn. Bởi vì nhà nước càng tiến bộ, phát triển thì khả năng quản lý,
bảo đảm quyền lợi cho nhân dân sẽ càng tốt hơn.
Nhân dân cũng có thể tham gia vào bộ máy nhà nước bằng con đường bầu cử, tuyển dụng, bổ
nhiệm..., pháp luật thừa nhận quyền tham gia vào bộ máy nhà nước cho mọi công dân có đủ điều kiện.
Nhà nước vì dân là nhà nước: 1.
Có mọi (đa số, phần nhiều) chính sách, pháp luật, hoạt động hướng tới đảm bảo quyền lợi
chonhân dân: Nhân dân trao quyền cho nhà nước vì nhân dân tin rằng nhà nước sẽ đảm bảo quyền
lợi cho họ. Việc đảm bảo quyền lợi trước tiên thể hiện ở cơ chế ban hành những chính sách tiến
bộ, ban hành hệ thống pháp luật đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người dân. Từ đó, tăng niềm
tin của nhân dân với nhà nước, tăng động lực đóng góp của nhân dân cho nhà nước; 2.
Biết kết hợp, điều chỉnh các lợi ích khác nhau, giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội:
Trongxã hội bao giờ cũng tồn tại những giai cấp, tầng lớp và những nhóm lợi ích khác nhau. Việc
của nhà nước là phải làm sao kết hợp, dung hoà được những nhóm lợi ích khác nhau, từ đó đảm
bảo quyền lợi chung cho đa số người dân;
5. Phân tích khái niệm chức năng của nhà nước. Phân loại chức năng của nhà nước. Trình
bày hình thức và phương pháp thực hiện chức năng của nhà nước.
Chức năng nhà nước là những mặt hoạt động cơ bản, phù hợp với bản chất, mục đích, nhiệm vụ
của nhà nước và được xác định bởi điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong những giai đoạn
phát triển của nó. Hiểu một cách đơn giản hơn, chức năng nhà nước là những việc nhà nước phải
làm và nhà nước có thể làm được, những công việc đó gắn liền với tính chất vốn có, sự tồn tại và
phát triển của nhà nước. Như vậy, chức năng của nhà nước là mặt hoạt động cơ bản, thường xuyên
và ổn định của nó. Phân loại chức năng nhà nước
* Căn cứ vào phạm vỉ hoạt động của nhà nước, chức năng của nhà nước được phân thành các chức
năng đối nội và các chức năng đối ngoại: -
Các chức năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong quan hệ với
các cánhân, tổ chức trong nước, chẳng hạn chức năng kinh tế, chức năng xã hội, chức năng trấn
áp, chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. -
Các chức năng đối ngoại là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong quan hệ với
cácquốc gia, dân tộc khác, chẳng hạn chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược, chức năng phòng
thủ, bảo vệ đất nước, chức năng thiết lập quan hệ ngoại giao, hợp tác quốc tế.
* Căn cứ vào hoạt động của nhà nước trong các lĩnh vực xã hội, chức năng của nhà nước được
phân theo từng lĩnh vực cụ thể. Theo đó, tương ứng mỗi lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội là một
chức năng của nhà nước. Chẳng hạn: -
Chức năng kinh tế: Đây là chức năng của mọi nhà nước. Nhà nước thực hiện chức năng
nàynhằm củng cố và bảo vệ cơ sở tồn tại của nhà nước, ổn định và phát triển kinh tế. lOMoAR cPSD| 61685031 -
Chức năng xã hội: Đó là toàn bộ hoạt động của nhà nước trong việc tổ chức và quản lí các
vấnđề xã hội của đời sống như vấn đề về môi trường, giáo dục, y tế, lao động, việc làm, thu nhập
của người dân, phòng chống thiên tai... Đây là các hoạt động góp phần củng cố và bảo vệ lợi ích
chung của toàn xã hội, bảo đảm sự ổn định, phát triển an toàn và hài hoà của toàn xã hội. - Chức
năng trấn áp: Trong điều kiện có đấu tranh giai cấp, chức năng trấn áp sự phản kháng của giai cấp
bị trị là rất cần thiết nhằm bảo vệ sự tồn tại vững chắc của nhà nước, bảo vệ lợi ích về mọi mặt
của giai cấp thống trị. -
Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược: Đây là chức năng đặc trưng của các nhà nước
chủnô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản giai đoạn chủ nghĩa đế quốc trở về trước. Các nhà
nước đó thực hiện chức năng này nhằm xâm chiếm và mở rộng lãnh thổ, bóc lột nhân dân cũng
như áp đặt sự nô dịch đối với các dân tộc khác. -
Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chứctrong xã hội: Đây là chức năng của các nhà nước nói chung. Thực hiện chức năng này, nhà
nước phải sử dụng nhiều biện pháp, nhất là các biện pháp pháp lí nhằm phòng, chống tội phạm và
các vi phạm pháp luật khác, đảm bảo ổn định, trật tự xã hội, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp
của các chủ thể trong xã hội. -
Chức năng bảo vệ đất nước: Đây là chức năng của mọi nhà nước. Trước đây, nhiều nhà
nướcthường phát động chiến tranh xâm lược nước khác, ngày nay, nhiều nhà nước vẫn tìm cách
áp đặt ý chí của mình đối với nước khác. Trong điều kiện đó, các nhà nước phải thực hiện các hoạt
động nhằm bảo vệ đất nước, chống lại các cuộc chiến nanh xâm lược cũng như các ảnh hưởng tiêu cực khác từ bên ngoài. -
Chức năng quan hệ với các nước khác: Các nhà nước thực hiện chức năng này nhằm thiết
lậpcác quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá... với các quốc gia khác để trước hết phát triển kinh tế,
văn hoá, giáo dục... trong nước, qua đó có thể cùng nhau giải quyết những vấn đề có tính chất quốc tế.
Ngoài các cách phân loại nêu trên, chức năng nhà nước còn có thể được phân loại theo những căn
cứ khác. Chẳng hạn, dựa vào bản chất của nhà nưóc, chức năng của nhà nước được phân chia
thành các chức năng thể hiện tính giai cấp và các chức năng thể hiện tính xã hội; dựa vào mục đích
thực hiện, chức năng của nhà nước được chia thành chức năng cai trị và chức năng phục vụ; dựa
vào hình thức thực hiện, chức năng của nhà nước được chia thành chức năng lập pháp, chức năng
hành pháp, chức năng tư pháp...
Về phương thức thực hiện chức năng nhà nước, bao gồm hình thức thực hiện và phương pháp
(biện pháp) thực hiện. Hình thức thực hiện chức năng nhà nước bao gồm: xây dựng pháp luật, tổ
chức thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật. Ba hoạt động này phải được tách bạch rõ ràng để tạo
nên sự phân định rõ thẩm quyền của các CQNN trong việc thực hiện chức năng nhà nước. Việc
phân chia rõ ràng các hình thức thực hiện pháp luật cũng là tiền đề để chuyên môn hóa việc thực
hiện chức năng nhà nước của từng cơ quan cụ thể. Bên cạnh đó, các hình thức này tuy độc lập
nhưng cũng phải phối hợp nhuần nhuyễn, nhịp nhàng với nhau để không làm xơ cứng, máy móc
hoạt động thực hiện chức năng nhà nước.
VD1: Ngày nay, thực hiện chức năng nhà nước không còn giao cho một cá nhân quản lý và thực
hiện. Thay vào đó, các hình thức thực hiện chức năng nhà nước được giao cho nhiều cơ quan như
Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân Tối cao… tương ứng với các hình thức cụ thể theo nguyên
tắc phân công, phối hợp QLNN.
Biện pháp thực hiện chức năng nhà nước gồm biện pháp giáo dục, thuyết phục và biện pháp cưỡng
chế. Yêu cầu hiện nay đối với không chỉ riêng Nhà nước Việt Nam là tăng dần biện pháp giáo dục, lOMoAR cPSD| 61685031
thuyết phục và giảm dần biện pháp cưỡng chế. Vì biện pháp giáo dục, thuyết phục là biện pháp
làm cho người dân hiểu và tự nguyện chấp hành quy định của pháp luật, do đó, biện pháp này tỏ
ra hiệu quả trong việc đưa pháp luật của nhà nước vào đời sống, không gây ra phản ứng tiêu cực
như biện pháp cưỡng chế. Tuy nhiên, không thể hoàn toàn loại bỏ biện pháp cưỡng chế, đặc biệt
là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa nghĩa xã hội. Biện pháp cưỡng chế mang lại hiệu quả nhanh
chóng, đối tượng bị tác động phải ngay lập tức ứng xử theo ý chí của nhà nước. Ở góc độ nào đó,
biện pháp cưỡng chế cũng có tác động giáo dục đến các chủ thể khác trong xã hội. -
Phương pháp thuyết phục: là cách thức theo đó nhà nước vận động, khuyến khích, tạo đk
chocác chủ thể thực hiện một cách tự giác -
Phương pháp cưỡng chế: là cách thức mà theo đó các nội dung, yêu cầu của nhà nước được
cácđối tượng có liên quan thực hiện một cách bắt buộc.
6. Phân tích khái niệm bộ máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương, được tổ chức
theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
7. Phân tích khái niệm cơ quan nhà nước, phân loại cơ quan nhà nước, cho ví dụ.
Cơ quan nhà nước là bộ phận cơ bản cấu thành nhà nước, bao gồm số lượng người nhất định, được
tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật, nhân danh nhà nước thực hiện QLNN.
Cơ quan nhà nước có một số đặc điểm sau: 1.
Cơ quan nhà nước là bộ phận cơ bản cấu thành nhà nước và đó chỉ là những bộ phận
thenchốt, thiết yếu của nhà nước: Theo từ điển tiếng Việt, bộ phận là phần làm nên một chỉnh thể,
cơ bản là “coi như là nền gốc”, như vậy, bộ phận cơ bản là một phần coi như nền gốc để tạo nên
một chỉnh thể. Vì vậy, chỉ những phần là nền gốc mà khi thiếu bộ phận đó, bộ máy nhà nước bị
khiếm khuyết thì bộ phận đó mới được coi là CQNN. Ví dụ: Chính phủ, Quốc hội, Toà án là những
CQNN. Như vậy, có một số bộ phận cấu thành nên bộ máy nhà nước nhưng vai trò của nó không
phải then chốt, bỏ nó đi thì bộ máy nhà nước vẫn có thể tồn tại đúng nghĩa, ví dụ như các bộ phận
tham mưu, giúp việc cho chính phủ, các trường, học viện... 2.
Cơ quan nhà nước được thành lập theo những cách thức và trình tự khác nhau: Ở trong
những nhà nước khác nhau thì CQNN lại được thành lập theo những cách thức khác nhau, có thể
là thế tập, tiến cử, bầu cử, bổ nhiệm. Ví dụ: Chủ tịch nước được Quốc hội bầu ra. 3.
Tổ chức và hoạt động của CQNN do pháp luật quy định: Do các CQNN được thay mặt nhà
nước sử dụng QLNN nên yêu cầu phải có những quy định chặt chẽ về tổ chức, hoạt động của
những cơ quan này để đảm bảo hoạt động một cách nguyên tắc, quy củ, không lạm quyền. Ví dụ:
Luật Tổ chức Quốc hội quy định rõ về tổ chức và hoạt động của Quốc hội. 4.
Mỗi cơ quan có những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn riêng do pháp luật quy định và
đượctrao những quyền năng tương ứng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn7F 8 : Bộ
máy nhà nước là hệ thống những CQNN được thành lập để thực hiện chức năng nhà nước, vì vậy,
những cơ quan này cần có những quyền năng nhất định để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mình. Các quyền năng đó được gọi là thẩm quyền của cơ quan nhà nước, có thể hiểu đơn
giản là toàn bộ những việc mà cơ quan nhà nước được làm, phải làm. Thẩm quyền của CQNN
được trao đều phải thông qua pháp luật để đảm bảo sự kiểm soát của nhà nước với các cơ quan
này. Ngoài ra, thẩm quyền của CQNN đều phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà
pháp luật quy định cho nó. Những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật quy định cho
từng cơ quan chính là giới hạn mà pháp luật đặt ra với thẩm quyền của CQNN, nghĩa là, CQNN lOMoAR cPSD| 61685031
chỉ có thẩm quyền trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đó. Ví dụ:
Chính phủ là CQNN có nhiệm vụ, quyền hạn được quy định trong Điều 96 Hiến pháp 2013, có cơ
cấu, tổ chức, hoạt động quy định cụ thể trong Luật Tổ chức Chính phủ. Ngoài những nhiệm vụ
quyền hạn nêu trên, Chính phủ không có bất kỳ nhiệm vụ, quyền hạn hay chức năng nào khác.
Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chính phủ được trao quyền
năng quyết định hay kiểm tra, giám sát nhưng chỉ trong phạm vị chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của mình. a – Căn cứ vào thẩm quyền theo phạm vi lãnh thổ
– Cơ quan nhà nước ở trung ương là cơ quan có thẩm quyền hoạt động trên toàn lãnh thổ, ví dụ:
Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao…
– Cơ quan nhà nước ở địa phương là cơ quan có thẩm quyền hoạt động trong phạm vi một
địaphương. Ví dụ: Hội đồng nhân dân hoặc Ủy ban nhân dân các địa phương… b – Căn cứ vào
chức năng của các cơ quan nhà nước
– Cơ quan lập pháp là cơ quan ban hành luật. Ví dụ: Quốc hội hay Nghị viện.
– Cơ quan hành pháp là cơ quan tổ chức thực hiện pháp luật. Ví dụ: Chính phủ, Nội các.
– Cơ quan tư pháp là cơ quan bảo vệ pháp luật. Ví dụ: Tòa án.c Căn cứ vào thời gian hoạt động
– Cơ quan thường xuyên là cơ quan được thành lập để thực hiện những công việc thường xuyêncủa
nhà nước, tồn tại thường xuyên trong bộ máy nhà nước.
– Cơ quan lâm thời là cơ quan được thành lập để thực hiện những cồng việc có tính chất nhấtthời
của nhà nước, sau khi thực hiện xong công việc đó nó sẽ tự giải tán, ví dụ, Ủy ban sửa đổi Hiến
pháp, các cơ quan bầu cử ở nước ta…
d Căn cứ vào con đường hình thành, tính chất, chức năng, các cơ quan nhà nước
– Cơ quan quyền lực nhà nước là cơ quan do nhân dân bầu ra, đại diện cho nhân dân để thực
thiquyền lực nhà nước.
– Nguyên thủ quốc gia là cơ quan đứng đầu nhà nước, đại diện chính thức cho nhà nước trongcác
quan hệ đối nội và đối ngoại.
– Cơ quan quản lý nhà nước là cơ quan được hình thành từ cơ quan quyền lực nhà nước, thựchiện
chức năng quản lý, điều hành công việc hàng ngày của đất nước trong các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
– Cơ quan xét xử có chức năng xét xử các vụ án.
– Cơ quan kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm soát hoạt động tư pháp8. Phân
tích nguyên tắc phân quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Nguyên tắc này bao gồm những nội dung cơ bản sau: 1.
Quyền lực nhà nước được phân chia thành nhiều loại quyền khác nhau như quyền lập
pháp,quyền hành pháp, quyền tư pháp và được trao cho các CQNN khác nhau thực hiện một cách
độc lập, mỗi cơ quan chỉ thực hiện một loại quyền, không một cơ quan nào nắm trọn vẹn QLNN,
cũng như không một cơ quan nào có thể “lấn sân” sang hoạt động của cơ quan khác. Thực chất
của sự phân chia quyền lực là sự phân định một cách rạch ròi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
các CQNN, đồng thời bảo đảm sự chuyện môn hóa trong việc thực hiện QLNN. Các cơ quan lập
pháp hành pháp, tư pháp đều thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trên cơ sở pháp luật. 2.
Giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp còn có sự kiềm chế, đối trọng với nhau
theophương châm không cơ quan nào nằm ngoài sự kiểm soát, giám sát từ phía cơ quan khác
nhằm ngăn ngừa tình trạng lạm quyền, chuyên quyền, độc đoán hoặc thiếu trách nhiệm trong việc
thực hiện QLNN, qua đó bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các cá nhân, tổ chức
trong xã hội cũng như có thể tránh được những mối nguy khác. Sự kiểm soát, giám sát lẫn nhau lOMoAR cPSD| 61685031
giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp cũng thể hiện sự phối hợp với nhau nhằm tạo nên
sự thống nhất của QLNN. Ở các nhà nước tư sản, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể,
việc áp dụng nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước không hoàn\ toàn
giống nhau. Thực tế cho thấy, có thể có ba mô hình áp dụng nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước tư sản, đó là mô hình phân quyền cứng rắn, mô hình phân quyền mềm
dẻo, mô hình phân quyền hỗn hợp (trung gian).
Sự khác nhau giữa ba mô hình này thể hiện ở cơ cấu các thiết chế quyền lực tối cao, địa vị của
từng thiết chế cũng như mối quan hệ giữa chúng. Trong thực tiễn tổ chức bộ máy nhà nước, sự
phân chia QLNN không chỉ giới hạn ở việc phân quyền theo chiều ngang (lập pháp, hành pháp, tư
pháp) mà còn diễn ra theo chiều dọc, giữa nhà nước liên bang với nhà nước thành viên, giữa chính
quyền trung ương với chính quyền địa phương giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau.
Giá trị của nguyên tắc: 1.
Ngăn ngừa tình trạng lạm quyền, chuyên quyền, độc đoán hoặc thiếu trách nhiệm trong
việcthực hiện QLNN, qua đó bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các cá nhân, tổ
chức trong xã hội cũng như có thể tránh được những mối nguy khác. Đây chính là giá trị cốt lõi
mà nguyên tắc này đem lại; 2.
Đảm bảo tính minh bạch, hiệu quả trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước: Khi
các CQNN được trao những quyền năng khác nhau và thêm vào đó là quyền năng giám sát, kiềm
chế, làm đối trọng với các cơ quan khác, những cơ quan này sẽ phải hoạt động cẩn thận, tuân thủ
quy định pháp luật bởi luôn có cơ chế giám sát hiện diện. Khi các CQNN tự giác tuân thủ pháp
luật và sử dụng quyền lực một cách đúng đắn thì hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước, quản
lý xã hội sẽ được cải thiện; 3.
Củng cố niềm tin của người dân vào một máy nhà nước trong sạch, hiệu quả: Do QLNN
không nằm trọn vẹn trong tay bất kỳ cơ quan nào nên việc lạm dụng QLNN sẽ không thể diễn ra
giống như trong nhà nước chủ nô hay nhà nước phong kiến. Quyền năng được phân chia thì vẫn
có khả năng các cơ quan nắm giữ các quyền năng này lạm quyền. Tuy nhiên, cơ chế đối trọng giữa
các cơ quan được áp dụng giúp minh bạch hoá và tạo hiệu quả quản lý. Khi nhà nước hoạt động
hiệu quả, niềm tin của nhân dân vào nhà nước sẽ được củng cố, duy trì và phát triển.
9. Phân tích nguyên tắc bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật.
Nội dung của nguyên tắc: -
Nguyên tắc bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo hiến pháp và pháp luật
(nguyêntắc pháp chế) là nguyên tắc đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước không
thể tiến hành một cách tùy tiện, độc đoán theo ý chí cá nhân của người cầm quyền mà phải dựa
trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật. -
Hầu hết các nhà nước đương đại đều có Hiến pháp và pháp luật quy định khá đầy đủ về cơ
cấubộ máy nhà nước, trình tự thành lập mới, giải thể, chia tách, sáp nhập một CQNN, cơ cấu của
nó, vấn đề tuyển dụng, bổ nhiệm các thành viên trong cơ quan đó… đều phải được tiến hành theo
đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật. -
Về mặt hoạt động, nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan và nhân viên nhà nước phải thực
hiệnđúng đắn, đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo đúng trình tự, thủ tục đã
được Hiến pháp và pháp luật quy định, mọi sự VPPL của nhân viên và CQNN đều phải xử lý theo pháp luật.... lOMoAR cPSD| 61685031 -
Nguyên tắc này được áp dụng rộng rãi trong nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ
nghĩa.Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc này ở các nhà nước tư sản không hoàn toàn nhất quán
mà có sự thay đổi qua các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Đối với Nhà nước Việt Nam,
đây cũng là một nguyên tắc hiến định và được ghi nhận trong Hiến pháp ngày càng rõ ràng, cụ thể hơn.
Giá trị của nguyên tắc: -
Đây là một trong những nguyên tắc bắt buộc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nướchiện đại. Nếu như trong các kiểu nhà nước chưa có Hiến pháp và pháp luật mang tính chủ
quan của giai cấp thống trị, bộ máy nhà nước thường có kết cấu lộn xộn, chồng chéo chức năng,
nhiệm vụ. Hoạt động của các cơ quan này cũng còn tuỳ tiện và chịu sự chi phối của nhà cầm
quyền. Chính vì vậy, không thể tránh khỏi việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước gây
phương hại đến lợi ích của nhiều cá nhân tổ chức trong xã hội, thậm chí là lợi ích của chính bản
thân nhà nước. Do đó, ngay từ khi nhà nước tư sản còn chưa ra đời, người ta đã nghĩ rằng cần phải
có công cụ để chống lại sự tuỳ tiện của bộ máy nhà nước. Khi nhà nước tư sản và nhà nước xã hội
chủ nghĩa ra đời, Hiến pháp và pháp luật cùng với các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước cũng theo đó ra đời, trở thành công cụ hiệu quả để chống lại sự tuỳ tiện của bộ máy
nhà nước. Trong đó, nguyên tắc pháp chế là nguyên tắc quan trọng, đảm bảo cho Hiến pháp và
pháp luật được thực thi trên thực tế. Khi đó, bộ máy nhà nước không thể nằm ngoài phạm vi điều
chỉnh của Hiến pháp và pháp luật, nhờ đó mà tránh được sự tuỳ tiện trong tổ chức và hoạt động của các CQNN này. -
Ngoài ra, nguyên tắc này tạo cơ sở cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trở nên
hiệuquả, qua đó củng cố niềm tiên của nhân dân vào một bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh.
10. Phân tích khái niệm hình thức chính thể. Trình bày các dạng chính thể cơ bản, cho ví dụ.
Hình thức chính thể là cách thức và trình tự thành lập cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước,
xác lập mối quan hệ giữa cơ quan đó với cơ quan cấp cao khác và nhân dân. Xem xéthình thức
chính thể của một nhà nước nào đó là xem xét trong nhà nước đó quyền lực tối cao của nhà nước
được trao cho cơ quan nào, cách thức và trình tự thiết lập ra cơ quan đó, quan hệ giữa cơ quan đo
với các cơ quan cấp cao khác của nhà nước, sự tham gia của nhân dân vào việc tổ chức và hoạt động của cơ quan đó
Căn cứ vào những nội dung này, có thể chia hình thức chính thể thành hai dạng cơ bản là chính
thể quản chủ và chính thể cộng hoà
Quân chủ là chính thể mà trong đó quyền lực tối cao của nhà nước tập trong toàn bộ hoặc một
phần vào tay một cá nhân. Trong chính thể quân chủ về mặt pháp là người đứng đầu nhà nước
được coi là người có quyền lực cao nhất của nhà nước Thông thường. nhà vua lên ngôi bảng con
đường của truyền con nối. Trên thực tế cũng có những trường hợp nhà vua lên ngôi cao được chỉ
định, suy tôn bầu cử, tự xưng. Tuy nhiên, thường các triều vua sau phương thức truyền kế ngôi
vua lại được củng cố và duy trì. Vua thường tại vì suốt đời nếu không bị truất ngôi hay tự nhường ngôi
Chính thể quân chủ bao gồm nhiều dạng với những đặc trưng khác nhau, trong đó có hai dang cơ
bản là quản chủ tuyệt đói và quản chủ hạn chế.
Quân chủ tuyệt đối là chính thể mà trong đó nhà vua cỏ quyền lực tổ cao và vô hạn trong cả ba
lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp, không bị chia sẻ cho ai và cũng không chịu một sự hạn lOMoAR cPSD| 61685031
chế nào. Đây là hình thức chính thể mà nhà vua là người ban hanh pháp luật, chỉ huy việc thực
hiện pháp luật và cũng là vị quan tòa tối cao, vua còn có thể có cả quyền lực trong lĩnh vực tôn
giáo, tỉ lễ, có những nghi lễ mà chỉ nhà vua mới được phép chủ trì
VD: Phương Đông thời phong kiến, các nhà nước hầu hết dưới hình thức chính thể quân chủ tuyệt
đối như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản,…
Quân chủ hạn chế là chính thể mà trong đó nhà vua chỉ nắm giữ một phần quyền lực tổ cao của
nhà nước, bên cạnh vua còn có cơ quan khác để chia sẻ quyền lực với vua. Trong chính thể này,
nhà vua có thể chỉ nắm giữ quyền lực thi của nhà nước trên danh nghĩa, thực tế nhà vua có thể bị
hạn chế một hoặc tất cả trong các quyền lập pháp hành pháp tư pháp. Cùng nắm giữ quyền lực
tối cao của nhà nước với nhà vua còn có thể có các cơ quan như nghị viện, chính phủ. Chính thể
quản chủ hạn chỉ có các dạng điển hình là quân chủ đại diện đẳng cấp, quân chủ nhị hợp, quân
chủ đại nghị (quân chủ nghị viện)
VD: một số nước hiện nay là Vương quốc Thái Lan, Vương quốc Anh,
Cộng hoà là chính thể mà trong đó quyền lực cao nhất của nhà nước thuộc về cơ quan (tập thể)
đại diện của nhân dân. Mỗi nhà nước có thể có quy định nêng về trình tự, thủ tục thành lập,
nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan này. Thực tế cho thấy, cơ quan này thưởng có tên gọi là quốc
hội, nghị viện , thương được thành lập ra bảng con đường bầu cử và hoạt động trong một thời
hạn nhất định được gọi là nhiệm kì.
Tuỳ theo đổi tượng được quyền tham gia vào việc thành lập cơ quan tối cao của nhà nước, chính
thể cộng hòa được chia thành hai dạng khác nhau là cộng hoà quy tộc và công hoà dân chủ, Cộng
hoà quý tộc là chính thể mà trong đó quyền bầu cử cơ quan tối cao của quyền lực nhà nước thuộc về tầng lớp quý tộc
Nhà nước Cộng hòa Athens: là nhà nước hình thành bằng con đường bầu cử hoạt động theo
nhiệm kì. Đại hội nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, chế độ bỏ phiếu bằng vỏ sò
để chỉ ra người có hành vi quá khích không có lợi cho nền dân chủ quy định các trách nhiệm của
nhà soạn luật, bầu cử các quan chức bằng hình thức bốc thăm.
Cộng hoà dân chủ là chính thể mà trong đó quyền bầu cử cơ quan tối cao của quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân. VD: Nhà nước La Mã từ thế kỷ thứ IV- thế kỷ thứ I TCN.
11. Phân tích khái niệm hình thức cấu trúc nhà nước. Trình bày các dạng cấu trúc nhà nước
cơ bản, cho ví dụ.
Hình thức cấu trúc nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước theo các đơn v hành chủ
nh - lãnh thổ và xác lập mối quan hệ giữa các cấp chủ nh quyền nhà nước với nhau. Như vậy.
khu xem xét hình thức cấu trúc của một nhà nước là xem xét cách thức cảu tạo nhà nước thành
các cấp chính quyền từ trung ương xuống địa phương, địa vị của chính quyền mỗi cấp cũng như
quan hệ giữa các cấp chính quyền với nhau Theo đó, hình thức cấu trúc nhà nước có thể được
chia thành hai dang cơ bản là nhà nước đơn nhất và nhà nước lên bang. ngoài ra có thể có một
dạng cầu trúc nhà nước không có bản là nhà nước liên minh,
Nhà nước đơn nhất là hình thức cấu trúc nhà nước truyền thỏng và rất phổ biến trên thế giới, tuy
nhiên hình thức cấu trúc này rất đa dạng và phức tạp phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội lOMoAR cPSD| 61685031
Nhìn chung, nhà nước đơn nhất có đặc điểm cơ bản là chủ quyền quốc gia do chính quyền trung
ương cảm giữ, đa phong là những đơn vị hành chính lãnh thổ không có chủ quyền, cả nước có
một hệ thông chính quyền và một hệ thông pháp luật, quan hệ giữa chính quyền trung ương với
chính quyền địa phương và chính quyền địa phương các cấp là quan hệ giữa cấp trên và dưới
Các nhà nước đơn nhất tiêu biểu: Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, Hàn quốc, Nhật bản, Thái
Lan, Pháp, Anh, Brunei Darussalam, Cu ba, Lào…
Nhà nước lên bang được hình thành bằng nhiều con đường khác nhau. Chẳng hạn, nhà nước liên
bang có thể được hình thanh từ việc các nhà nước đơn nhất từ nguyện liên kết với nhau, có thể
thông qua con đường xâm chiếm, mua bán lãnh thổ, cũng có thể từ một nhà nước đơn nhất được
liên bang hóa. Bởi vậy, hình thức cấu trúc nhà nước liên bang cũng rất đa dạng và phức tạp. Ở
mức độ chung nhát, có thể thấy nhà nước liên bang có đặc điểm cơ bản là chủ quyền quốc gia
vừa do chính quyền liên bang vừa do chính quyền các bang nắm giữ, có sự phân chia quyền lực
gia chính quyền liên bang và chính quyền các bang, sự phân chia này có thể diễn ra trên một số
hoặc cả ba lĩnh vực là lập pháp hành phap, tư pháp, các bang tự tổ chức chính quyền của bang
minh, tự ban hành pháp luật cho bang minh, cả nước tồn tại nhiều hệ thống chính quyền, nhiều
hệ thống pháp luật song song của liên bang, mỗi bang…
Ví dụ: Thụy Sỹ theo chế độ cộng hòa với mô hình nhà nước liên bang. Cấu trúc nhà nước liên
bang được phân thành ba cấp như sau: chính quyền liên bang (confederation), chính quyền bang
(canton) và chính quyền xã (commune).
Cần lưu ý là, trong nhà nước đơn nhất có thể có yếu tố liên bang, ngược lại, trong nhà nước liên
bang có thể có yếu tố đơn nhất. Chẳng hạn, ở một số nhà nước liên bang, một số khu vực lãnh
thổ đặt dưới sự cai quản trực tiếp của chính quyền liên bang đó, chỉ có một hệ thống chính
quyền, công dân chỉ chịu sự điều chỉnh của một hệ thống phap luật. Ngược lại, ở một số nhà
nước đơn nhất, có những địa phương, quyền lực nhà nước được tổ chức tương tự như một bang
trong nhà nước liên bang, riêng vấn đề chủ quyền quốc gia, an ninh lãnh thổ thuộc thẩm quyền
của chính quyền trung ương
Ngoài hai dạng cấu trúc nhà nước cơ bản trên còn có dang cảu trúc nhà nước không cơ bản đó là
nhà nước liên minh là sự liên kết tạm thời của các nhà nước nhằm thực hiện một số mục tiêu
nhất định. Sau khi đã đạt được các mục đích đó, nhà nước lên mình có thể tự giải tán hoặc có thể
phát triển thành nhà nước liên bang
Ví dụ, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ từ năm 1776 đến năm 1787 là nhà nước liên minh sau đó trở
thành nhà nước liên bang. Liên minh châu Âu (EU) hiện nay. Nhà nước liên minh có thể có bộ
máy nhà nước và hệ thống pháp luật chung cho toàn liên minh, tuy nhiên, các nhà nước thành
viên vẫn có chủ quyền hoàn toàn trong cả nh vực đòi nói và đội ngoại
12. Phân biệt nhà nước đơn nhất với nhà nước liên bang, cho ví dụ. Nhà nước đơn nhất Nhà nước liên bang lOMoAR cPSD| 61685031 Định nghĩa
Cấu trúc đơn nhất là hình thức của nhà Cấu trúc liên bang là hình thức của nhà nước mà
nước mà theo đó chỉ tồn tại duy nhất trong đó nhà nước liên bang được tạo thành từ
một nhà nước trên phạm vi quốc gia, nhiều nhà nước thành viên (bang). Tại nhà nước
nắm giữ và thực hiện chủ quyền quốc liên bang, các bang từ bỏ một phần chủ quyền quốc
gia. Trong nhà nước đơn nhất, địa gia của mình để tạo thành chủ quyền quốc gia của
phương là các đơn vị hành chính cấp toàn liên bang.
dưới của trung ương, không có chủ quyền quốc gia.
Con đường Cấu trúc đơn nhất là cấu trúc kinh điển, Có thể nói nhà nước liên bang chỉ xuất hiện sau khi hình thành
truyền thống của nhiều nhà nước trên nhà nước tư sản ra đời8F 9 . Nhà nước liên bang
thế giới. Đây là cấu trúc xuất hiện đầu được hình thành bằng 03 con đường chủ yếu, đó là:
tiên và khá phổ biến trên thế giới. Nhà -
Các nhà nước đơn nhất tự nguyện gia nhập
nước đơn nhất được ra đời dựa trên nhu nhànước liên bang (VD: 13 bang đầu tiên của Hoa
cầu tập trung chủ quyền quốc gia của Kỳ, 15 nước cộng hoà Xô viết thuộc Liên Xô); -
Mua bán, xâm chiếm lãnh thổ (VD: chính quyền trung ương.
bangFlorida, Louisiana, Alaska là Mỹ mua của các nước khác); -
Liên bang hoá nhà nước đơn nhất (VD:
TiệpKhắc cũ, Vương quốc Bỉ).
Chủ thể nắm Chủ quyền quốc gia do chính quyền Chủ quyền quốc gia vừa do chính quyền liên bang,
giữ chủ quyền trung ương nắm giữ.
vừa do chính quyền các bang nắm giữ. Tuy nhiên, quốc gia
VD: Cộng hoà Pháp là nhà nước đơn các bang từ bỏ một phần chủ quyền quốc gia của
nhất. Chính quyền trung ương trực tiếp mình để tạo thành chủ quyền quốc gia của liên
nắm giữ chủ quyền quốc gia, quyết bang. Nói cách khác, chỉ có chính quyền liên bang
định tối cao và độc lập không phụ thuộc mới nắm giữ chủ quyền quốc gia đầy đủ, mới có
vào bất kỳ cá nhân, tổ chức nào về mọi thẩm quyền nhân danh toàn liên bang để thực hiện
vấn đề đối nội và đối ngoại của nhà các chức năng nhiệm vụ ở quy mô quốc gia, quốc tế.
nước. Trong khi đó các địa phương Ví dụ: Tại Hợp ch úng quốc Hoa Kỳ, chính quyền
không có khả năng như vậy và phụ liên bang và chính quyền các bang đều nắm giữ chủ
thuộc vào chính quyền trung ương.
quyền quốc gia, cụ thể: chính quyền liên bang nắm
giữ chủ quyền quốc gia của toàn liên bang, chính
quyền mỗi bang nắm giữ chủ quyền quốc gia của
bang mình (trừ ngoại thương và quốc phòng). Do
đó, các bang đều độc lập trong việc quyết định các
vấn đề đối nội, đối ngoại không thuộc thẩm quyền của liên bang lOMoAR cPSD| 61685031
Quan hệ giữa Quan hệ giữa chính quyền trung ương Có sự phân chia quyền lực giữa liên bang và bang,
các cấp chính với chính quyền địa phương và các cấp thể hiện rõ trong cả 03 lĩnh vực lập pháp, hành pháp quyền với
chính quyền địa phương là cấp trên với và tư pháp. Quan hệ giữa các bang với nhau là quan nhau
cấp dưới, địa phương phục tùng trung hệ bình đẳng.
ương, chính quyền địa phương cấp - Ví dụ: Hiến pháp Nga thừa nhận các chủ thể liên
dưới phục tùng chính quyền địa bang bình đẳng với nhau, nghĩa là quan hệ giữa các phương cấp trên.
bang với nhau không phải là cấp trên cấp dưới.
- Ví dụ: Ở Việt Nam, chính quyền ở địa Cũng theo bản hiến pháp này, thẩm quyền của
phương (tỉnh, huyện, xã) phục tùng chính quyền liên bang được quy định trong hiến
trung ương; chính quyền cấp tỉnh là cấp pháp liên bang, hiến pháp của các nước cộng hoà
trên của cấp huyện và cấp xã, chính thành viên quy định về thẩm quyền cụ thể của từng
quyền cấp huyện là cấp trên của cấp xã. nước cộng hoà mà không có trong hiến pháp liên
bang, đồng thời, chính quyền liên bang không được
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ thuộc thẩm
quyền của các nước cộng hoà.
Ở Hoa Kỳ, các bang không có thẩm quyền trong
lĩnh vực quốc phòng và ngoại. Trong nghị viện Hoa
Kỳ, mỗi bang luôn có 02 thượng nghị sĩ trong
thượng viện và ít nhất 01 hạ nghị sĩ trong hạ viện.
Số lượng hệ Các nhà nước đơn nhất chỉ có duy nhất Nhà nước liên bang tồn tại song song nhiều hệ thống CQNN
01 hệ thống CQNN từ trung ương đến thống CQNN. Một bộ máy nhà nước chung của liên địa phương.
bang có thẩm quyền tối cao trên toàn lãnh thổ đất
Ví dụ: Việt Nam, Pháp, Trung Quốc… nước và mỗi bang có một bộ máy nhà nước riêng
chỉ có một hệ thống CQNN từ trung có thẩm quyền trong phạm vi bang đó. Ví dụ: Tại
ương đến địa phương. Địa phương Mỹ tồn tại bộ máy nhà nước của liên bang hoạt
không được phép thành lập chính động song song với bộ máy nhà nước của 50 bang quyền riêng. thành viên.
Tương tự, tại Nga, 23 nước cộng hoà thành viên
cũng tự tổ chức chính quyền riêng của mình. Số lượng hệ
Chỉ có duy nhất một hệ thống pháp luật Cả nước tồn tại song song nhiều hệ thống pháp luật, thống
áp dụng trên toàn quốc. Cả nước chỉ có một hệ thống pháp luật của liên bang và nhiều hệ pháp
01 bản hiến pháp. Địa phương chỉ được thống pháp luật của các bang. Tương ứng với đó là luật trong một
phép ban hành các quy định nhằm nhiều bản hiến pháp cùng tồn tại. Ví dụ: theo Điều quốc gia
hướng dẫn chi tiết, áp dụng VBQPPL 5 Hiến pháp Nga: Nước cộng hoà (nhà nước) có
do trung ương ban hành. Ví dụ: Việt hiến pháp và pháp luật riêng. Khu; tỉnh; thành phố
Nam chỉ có một hệ thống pháp luật duy trực thuộc trung ương; tỉnh tự trị; vùng tự trị có hiến
nhất. Cả nước chỉ có quy nhất 01 bản chương và pháp luật của mình.
Hiến pháp 2013. Cơ quan có quyền lập
pháp duy nhất là Quốc hội, không có
một CQNN nào ở địa phương được
phép ban hành luật, pháp lệnh... lOMoAR cPSD| 61685031 Cách
Thông thường, các nhà nước đơn nhất Nhà nước liên bang được chia thành các bang, thức
phân chia thành cấp trực thuộc trung tương ứng với đó là chính quyền liên bang và chính phân chia đơn
ương, dưới cấp trung ương là một hoặc quyền từng bang. Bang là cấp chính quyền ngay vị hành chính
nhiều cấp trung gian và cuối cùng l cấp dưới cấp liên bang, các bang có cách tổ chức chính lãnh thổ
cơ sở. Các cấp chính quyền được phân quyền địa phương của riêng mình. Mỗi bang mang
chia tương ứng với đơn vị hành chính các đặc điểm của của một nhà nước, tuy nhiên, có
lãnh thổ của đất nước, tạo thành hệ một số đặc điểm chỉ có liên bang mới có (VD: phát
thống CQNN từ trung ương đến địa hành tiền)
phương. Số lượng cấp chính quyền, tên Ví dụ: Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (The United
gọi của từng cấp rất đa dạng ở các quốc States9F 10 of America) là nhà nước liên bang bao gia khác nhau.
gồm 50 bang. Các bang này mang đặc điểm của các
Ví dụ: CHXHCN Việt Nam là nhà nước nhà nước độc lập.
đơn nhất với 04 cấp chính quyền từ trên Liên Xô (cũ) bao gồm 15 nước Cộng hoà Xô Viết
xuống dưới là cấp trung ương, cấp tỉnh, thành viên. Các nước cộng hoà Xô Viết này chính
cấp huyện và cấp xã (và tương đương). là các bang trong nhà nước liên bang. Cộng hoà
Liên bang Nga bao gồm 23 nước cộng hoà thuộc
liên bang. Ngoài ra Nga còn có một số đơn vị hành
chính đặc biệt khác như vùng, tỉnh tự trị...
13. Phân tích khái niệm chế độ chính trị của nhà nước. Trình bày các dạng chế độ chính trị, cho ví dụ. 1. Khái niệm:
Chế độ chính trị là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm của luật hiển pháp (bao gồm các nguyên
tắc, quy phạm hiến định và các ngưyên tẳc, quy phạm pháp luật thể hiện trong các nguồn khác của
luật hiến pháp) đế xác lập và điều chỉnh các vấn đề về chỉnh thể và chủ quyền quốc gia, về bản
chất và mục đích của nhà nước, về tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước và quyền lực nhân
dân, về tố chức và hoạt động của hệ thống chính trị và chính sách đổi nội, đối ngoại của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2. Các hình thức
Chế độ chính trị toàn trị
- Một chế độ chính trị trong đó nhà nước hoàn toàn phụ thuộc vào tất cả các lĩnh vực của xã hội
và cá nhân. Đó là sự giám sát của họ rằng chủ nghĩa toàn trị khác với tất cả các hình thức bạo lực
nhà nước khác - chế độ chuyên quyền, chuyên chế, độc tài quân sự, v.v.
Chế độ toàn trị phát sinh trong thế kỷ 20. với tư cách là một chế độ chính trị và là một mô hình
đặc biệt của trật tự kinh tế xã hội, đặc trưng của giai đoạn phát triển công nghiệp, và như một hệ
tư tưởng đưa ra những hướng dẫn rõ ràng cho sự phát triển của người đàn ông mới, một thứ gì đó
về kinh tế và chính trị mới. Đây là một loại phản ứng của cộng đồng người dân Đức về sự phá hủy
nhanh chóng của các cấu trúc truyền thống, mong muốn của họ về sự thống nhất và củng cố khi
đối mặt với sự không chắc chắn đáng sợ.
Hệ thống chính trị của chế độ toàn trị, như một quy luật, là một cơ cấu nhà nước đảng tập trung
cứng nhắc, kiểm soát toàn xã hội, ngăn chặn sự xuất hiện của bất kỳ tổ chức chính trị xã hội nào lOMoAR cPSD| 61685031
nằm ngoài sự kiểm soát này. Ví dụ, ở Liên Xô, tại mỗi doanh nghiệp, ở mọi tiểu bang hoặc tổ chức
công cộng, đều có một chi bộ đảng (CPSU).
Dưới chế độ toàn trị, xã hội dân sự hoàn toàn bị nhà nước hấp thụ, và sự kiểm soát ý thức hệ của
đảng cầm quyền được thiết lập đối với chính nhà nước. Hệ tư tưởng thống trị trở thành một lực
lượng thống nhất và huy động mạnh mẽ của xã hội. Anh ấy không ở cùng chúng tôi thì chống lại
chúng tôi - Đây là một trong những khẩu hiệu không cho phép bất kỳ ý kiến \u200b\u200bđa nguyên nào.
Chế độ chính trị độc đoán
Chế độ độc đoán được đặc trưng bởi sự tập trung quyền lực cao; quốc hữu hóa nhiều khía cạnh
của cuộc sống công cộng; chỉ huy và phương pháp quản lý hành chính; đệ trình vô điều kiện lên
nắm quyền; xa lánh nhân dân khỏi quyền lực; ngăn chặn sự đối lập chính trị thực sự; hạn chế tự do báo chí.
Theo chế độ độc đoán, hiến pháp được bảo tồn, nhưng về bản chất nó là tuyên bố. Ngoài ra còn có
một hệ thống bầu cử, nhưng nó thực hiện một chức năng hư cấu theo cấp số nhân. Kết quả bầu cử,
như một quy luật, được xác định trước và không thể ảnh hưởng đến bản chất của chế độ chính trị.
Khác với chế độ toàn trị, chủ nghĩa độc tài không có toàn quyền kiểm soát tất cả các tổ chức công
cộng. Trong ý thức hệ, đa nguyên giới hạn được cho phép nếu nó không gây hại cho hệ thống. Chủ
yếu là những người chống đối tích cực của chế độ phải chịu sự đàn áp. Những người ở vị trí trung
lập không được coi là kẻ thù. Có một số quyền và tự do cá nhân, nhưng chúng bị hạn chế.
Chế độ độc đoán là một trong những loại hệ thống chính trị phổ biến nhất. Theo đặc điểm của nó,
nó chiếm một vị trí trung gian giữa chế độ toàn trị và dân chủ. Do đó, có thể cả trong quá trình
chuyển đổi từ chế độ toàn trị sang dân chủ, và ngược lại, từ dân chủ sang chế độ toàn trị.
Chế độ độc đoán rất đa dạng. Họ khác nhau về mục tiêu và phương pháp giải quyết vấn đề, trong
các hình thức tổ chức quyền lực và có thể phản động, bảo thủ hoặc tiến bộ. Chẳng hạn, các quốc
gia như Chile, Brazil, Hàn Quốc, thông qua chế độ độc tài, đã đi đến một chế độ quyền lực dân chủ.
Chế độ chính trị dân chủ
Đây là một hình thức nhà nước, chế độ chính trị của nó, trong đó người dân hoặc đa số họ (được
coi là) người mang quyền lực nhà nước.
Khái niệm "dân chủ" là nhiều mặt. Dân chủ được hiểu là hình thức tổ chức của nhà nước hoặc tổ
chức, và các nguyên tắc quản trị, và một loạt các phong trào xã hội liên quan đến việc thực hiện
dân chủ, và lý tưởng của cấu trúc xã hội trong đó công dân là trọng tài chính của số phận của họ.
Dân chủ như một cách tổ chức và một hình thức quản lý có thể diễn ra trong bất kỳ tổ chức nào
(gia đình, bộ phận khoa học, đội sản xuất, tổ chức công cộng, v.v.).
Dân chủ gắn liền với tự do, bình đẳng, công bằng, tôn trọng quyền con người, sự tham gia của
công dân vào chính phủ. Do đó, dân chủ với tư cách là một chế độ chính trị thường đối lập với các
chế độ độc tài chuyên chế, toàn trị và độc tài khác. lOMoAR cPSD| 61685031
3. Các loại chế độ chính trị
Trong suốt lịch sử lâu dài về sự tồn tại của nhà nước như một hiện tượng xã hội, bảy loại chế độ
chính trị đã được sử dụng.
Chế độ chuyên chế (từ Hy Lạp. Despoteia - quyền lực vô hạn). Chế độ này là đặc trưng của một
chế độ quân chủ tuyệt đối. Với chế độ chuyên quyền, quyền lực chỉ được thực hiện bởi một người.
Nhưng vì một mình người tuyệt vọng không thể quản lý một người, anh ta buộc phải giao phó một
số công việc quản lý cho một người khác thích sự tin tưởng đặc biệt của anh ta (ở Nga, đó là
Malyuta Skuratov, Menshikov, Arakcheev). Ở phương Đông, người này được gọi là tể tướng. Đằng
sau anh ta, kẻ chuyên quyền chắc chắn để lại các chức năng trừng phạt và thuế.
Ý chí của kẻ chuyên quyền là độc đoán và đôi khi thể hiện không chỉ là chuyên chế, mà còn là
chuyên chế. Điều chính trong một trạng thái chuyên chế là sự vâng lời, sự hoàn thành ý chí của
người cai trị. Nhưng có một lực lượng có thể chịu được ý chí của kẻ chuyên quyền, đây là tôn giáo,
nó cũng là bắt buộc đối với chủ quyền.
Chủ nghĩa chuyên quyền được đặc trưng bởi sự đàn áp tàn bạo của bất kỳ sự độc lập, bất mãn,
phẫn nộ và thậm chí bất đồng của các chủ thể. Các biện pháp trừng phạt được áp dụng trong trường
hợp này gây sốc bởi mức độ nghiêm trọng của chúng, và theo quy định, chúng không tương ứng
với chứng thư, nhưng được xác định một cách tùy tiện. Hình phạt chính được sử dụng thường
xuyên nhất là tử hình. Đồng thời, chính quyền cố gắng cho tầm nhìn của nó để gieo rắc nỗi sợ hãi
trong nhân dân và đảm bảo sự vâng lời của nó.
Chế độ chuyên chế được đặc trưng bởi sự thiếu hoàn toàn quyền của công dân. Việc thiếu các
quyền và tự do cơ bản làm giảm chúng đến vị trí của gia súc. Nó chỉ có thể là về việc đáp ứng nhu
cầu sinh lý, và thậm chí sau đó không đầy đủ.
Chế độ chuyên quyền về cơ bản là một quá khứ lịch sử. Thế giới hiện đại không chấp nhận nó.
Chế độ chuyên chế (từ Hy Lạp - Kẻ hành hạ) được thành lập, như một quy luật, trong lãnh thổ
phải chịu sự chinh phục của quân đội. Nó dựa trên quy tắc một người, tuy nhiên, nó được đặc trưng
bởi sự hiện diện của tổ chức thống đốc, và không phải là tổ chức của một proxy (tể tướng). Sức
mạnh bạo chúa là tàn nhẫn. Trong một nỗ lực để đàn áp cuộc kháng chiến, anh ta thực hiện không
chỉ vì sự bất tuân bày tỏ, mà còn vì ý định được tiết lộ về vấn đề này, đó là, phòng ngừa, để gieo
rắc nỗi sợ hãi trong dân chúng.
Việc chiếm hữu lãnh thổ và dân số của một quốc gia khác thường gắn liền với bạo lực thể xác và
đạo đức không chỉ đối với người dân, mà còn đối với phong tục của người dân. Khi những người
cai trị mới đưa ra những mệnh lệnh trái ngược với lối sống và suy nghĩ của mọi người, đặc biệt
nếu họ áp đặt các chuẩn mực tôn giáo khác, người dân gặp rất nhiều quyền lực chuyên chế (Đế
chế Ottoman). Luật pháp không hoạt động, bởi vì quyền lực chuyên chế, như một quy luật, không
có thời gian để tạo ra chúng.
Sự cai trị chuyên chế được người dân nhìn nhận là áp bức, và bạo chúa là một kẻ áp bức. Một chế
độ như vậy cũng tồn tại trong giai đoạn đầu phát triển của loài người (Thế giới cổ đại, đầu thời
Trung cổ). So với chế độ chuyên quyền, chuyên chế dường như là một chế độ ít nghiêm trọng hơn một chút. lOMoAR cPSD| 61685031
Chế độ toàn trị có thể được gọi là một quyền lực bao gồm tất cả.
Cơ sở kinh tế của chế độ toàn trị là tài sản lớn: phong kiến, độc quyền, nhà nước. Một nhà nước
toàn trị được đặc trưng bởi sự hiện diện của một ý thức hệ chính thức. Tập hợp các ý tưởng về đời
sống xã hội được thiết lập bởi giới cầm quyền. Trong số những ý tưởng đó, ý tưởng lịch sử chính
của người Viking nổi bật: tôn giáo (ở Iraq, Iran), cộng sản (ở Liên Xô cũ: thế hệ hiện tại sẽ sống
dưới chế độ cộng sản), kinh tế (ở Trung Quốc: để bắt kịp và vượt qua phương Tây qua một bước
nhảy vọt), yêu nước hoặc có chủ quyền và v.v ... Và ý tưởng được hình thành rất phổ biến, đơn
giản, đến mức nó có thể được hiểu và chấp nhận bởi tất cả các thành phần của xã hội, ngay cả
những người ít học nhất. Sự độc quyền của nhà nước trên các phương tiện truyền thông góp phần
hỗ trợ chân thành của chính quyền bởi người dân. Có một đảng cầm quyền tuyên bố mình là lực
lượng hàng đầu trong xã hội. Vì đảng này mang lại cho Thái độ thái độ đúng đắn nhất, nên chính
quyền được trao cho nó: việc sáp nhập các bộ máy của đảng và nhà nước diễn ra.
Chế độ toàn trị được đặc trưng bởi chủ nghĩa trung tâm cực đoan. Trung tâm của hệ thống toàn trị
là người lãnh đạo. Vị trí của anh ấy giống như thần thánh. Ông được tuyên bố là người khôn ngoan
nhất, không thể sai lầm, công bằng, không mệt mỏi khi nghĩ về những điều tốt đẹp của mọi người.
Bất kỳ thái độ phê phán nào đối với anh ta đều bị đàn áp dã man. Trong bối cảnh đó, có sự gia tăng
quyền lực của các cơ quan hành pháp. Trong số các cơ quan nhà nước, nắm đấm quyền lực của
người nổi bật (cảnh sát, cơ quan an ninh nhà nước, công tố viên, v.v.). Các cơ quan trừng phạt
không ngừng mở rộng, vì chính họ phải sử dụng bạo lực, mang đặc tính khủng bố - thể chất và
tinh thần. Kiểm soát đang được thiết lập trên tất cả các lĩnh vực của xã hội: chính trị, kinh tế, cá
nhân, v.v., và do đó, cuộc sống trong tình trạng như vậy trở nên giống như đằng sau một vách ngăn
kính. Một người bị giới hạn về quyền và tự do, mặc dù chính thức họ thậm chí có thể được tuyên bố.
Một trong những đặc điểm chính của chế độ toàn trị là quân sự hóa. Ý tưởng về sự nguy hiểm của
quân đội, về một "pháo đài bị bao vây" là cần thiết cho sự thống nhất của xã hội theo nguyên tắc
của một trại quân đội. Chế độ toàn trị có bản chất hung hăng và không phản đối lợi nhuận bằng
chi phí của các quốc gia và dân tộc khác (Iraq, Liên Xô cũ). Sự xâm lược giúp đạt được một số
mục tiêu cùng một lúc: để đánh lạc hướng mọi người khỏi những suy nghĩ về hoàn cảnh của họ,
để làm giàu, để thỏa mãn người lãnh đạo phù phiếm.
Chế độ toàn trị của Tây Âu có kinh nghiệm trong thời trung cổ (chủ nghĩa toàn trị tôn giáo). Hiện
tại, nó tồn tại ở nhiều quốc gia châu Á, trong quá khứ gần đây - ở Liên Xô và các quốc gia Đông Âu.
Chế độ phát xít (phân biệt chủng tộc) khác với chế độ toàn trị ở chỗ nó liên quan đến hệ tư tưởng
dân tộc (phân biệt chủng tộc, chau chuốt), được nâng lên cấp bậc nhà nước. Tiền đề chính của hệ
tư tưởng phát xít là thế này: mọi người không có nghĩa là bình đẳng trước pháp luật, quyền và
nghĩa vụ của họ phụ thuộc vào quốc tịch. Một quốc gia được tuyên bố là hàng đầu trong tiểu bang
hoặc thậm chí trong cộng đồng thế giới, và do đó xứng đáng với điều kiện sống tốt hơn. Sự tồn tại
của các quốc gia khác được cho phép, nhưng trong vai trò phụ trợ.
Chủ nghĩa phát xít, bị "bận tâm" với số phận của cộng đồng thế giới, đưa ra quốc gia được chọn
làm nhà lãnh đạo không chỉ trong chính quốc gia của mình. Ban đầu, những người theo chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc (phân biệt chủng tộc) chỉ thể hiện mong muốn của En enobob trên toàn thế