lOMoARcPSD|61830286
Ảnh hưởng của Overthinking đến chất lượng quan
hệ bạn bè của sinh viên đại học Văn Lang
1.1 Lý do chọn đề tài:
Hiện nay, tâm lý con người đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức từ áp lực
công việc, học tập, đến các mối quan hệ xã hội. Điều này dần hình thành nên các
vấn đề tâm phổ biến giới trẻ hiện nay điển hình chính Overthinking,
theo Tiến sĩ Trần Thanh Nam-Phó chủ tịch Hội khoa học Tâm lý-Giáo dục Việt
Nam cho biết, thế hệ Gen Z (những người sinh từ năm 1997 trở đi) đang phải đối
mặt với vấn đề y nhiều hơn các thế hệ trước và một trong những nguyên nhân
chính đến từ việc họ phải chịu áp lực bạn bè, mạng hội,.... Overthinking,
hay còn gọi “quá trình suy nghĩ quá mức hoặc lặp đi lặp lại về một vấn đề hoặc
tình huống nào đó, thường với một mức độ lo lắng hoặc căng thẳng"(Sở y tế
Nam Định,2023). Overthinking không chỉ gây ra những hậu quả tiêu cực về mặt
(1) sức khỏe tinh thần (2) thể chất n ảnh hưởng đến chất lượng của
(3)các mối quan hệ xã hội như là tình bạn.
Mối quan hệ bạn bè đóng vai trò quan trọng trong đời sống hội của mỗi người.
Đây nơi chúng ta tìm kiếm sự hỗ trợ, sẻ chia động viên trong những thời
điểm khó khăn. Overthinking có thể làm suy yếu mối quan hệ bạn bè thông qua
việc tạo ra những hiểu lầm, lo âu căng thẳng không cần thiết. Những người
hay suy nghĩ quá mức thường có xu hướng nghi ngờ ý định của bạn bè, khó mở
lòng chia sẻ cảm xúc, dẫn đến sự mất niềm tin xa cách. Điều này không
chỉ làm giảm sự hài lòng trong mối quan hệ mà còn có thể dẫn đến xung đột và
đổ vỡ. thể xung đột đổ vỡ khi mới xảy ra, chúng ta hoàn toàn không cảm thấy
nó ảnh hưởng quá nhiều, nhưng theo thời gian thì tác hại của xung đột trong mối
quan hệ đều thể hiện rõ qua sự suy giảm về sức khỏe thể chất như dễ bị bệnh vặt,
đau đầu, stress nhiều hơn nữa (Elizabeth Scott,2022),ngoài ra việc tan vỡ hoặc
xảy ra những vấn đề gay gắt 1 mối quan hcũng dẫn đến việc mắc hội chứng
“Trái tim tan vỡ" (Broken Heart syndrome) (Harvard Health Publishing,2023)
gây ra những dấu hiệu hệt như bệnh tim (hoặc nhẹ hơn) .Việc nghiên cứu về ảnh
hưởng của overthinking đến chất ợng mối quan hệ bạn không chỉ giúp chúng
ta hiểu rõ hơn về những tác động này mà còn hỗ trợ trong việc xây dựng và duy
trì những mối quan hệ lành mạnh và bền vững. Đồng thời, nghiên cứu này đóng
góp vào việc cập nhật thực trạng mối liên hệ giữa overthinking mối quan hệ
bạn của sinh viên khoa KHXH&NV của trường Văn Lang nhằm góp góc nhìn
đến tình hình overthinking hiện tại của giới trẻ hiện nay. Hiểu về vấn đề
Overthinking và có những kinh nghiệm thông qua việc có cho mình kiến thức về
vấn đề y để giảm thiểu ảnh hưởng của overthinking đối với các mối quan hệ
xã hội là vô cùng quan trọng trong một thế giới ngày càng kết nối và phức tạp.
lOMoARcPSD|61830286
1.2 Mục tiêu nghiên cứu:
Theo một nghiên cứu của Đại học Harvard (News Editor,2023), overthinking là
một yếu tố nguy dẫn đến trầm cảm,ngoài việc suy nghĩ quá nhiều đến 1 vấn
đề dẫn đến các bệnh về tâm lý thì overthinking cũng luôn là một yếu tố tiêu cực
dẫn đến rất nhiều khó khăn trong việc y dựng mối quan hệ nhân của con
người.... Tuy nói overthinking một vấn đề khá phổ biến với người trẻ (Kim
Ngan,2023), song vẫn có nhiều bạn trẻ vẫn không nhiều kiến thức hay chiều sâu
về vấn đề y. Hiện nay đa phần các nghiên cứu đều chỉ tập trung vào các tác
động hệ quả của nó, nhưng nguyên nhân sao dẫn đến tình trạng mối quan
hệ bạn bị overthinking ảnh hưởng như thế nào các yếu tố nào dẫn đến
overthinking vẫn còn chưa được đề cập đến nhiều.
Để có thể tìm hiểu sâu hơn nữa về ảnh hưởng của overthinking lên mối quan hệ
bạn của sinh viên Văn Lang, nhóm nghiên cứu đề xuất hai mục tiêu nghiên
cứu. Mục tiêu (I) Đánh giá các yếu tố y nên overthinking là (1) sự tư phê bình,
(2) sự tự ti, (3) sự thiếu tin tưởng; và điều này ảnh hưởng đến mục tiêu (II) đánh
giá sự ảnh hưởng của Overthinking đối với chất lượng mối quan hbạn của
sinh viên Văn Lang như thế nào.
Nghiên cứu này sẽ giúp tìm hiểu những yếu tố tác động đến overthinking và ảnh
hưởng đến mối quan hệ bạn của sinh viên K28. Trước khi đi sâu vào phần
nghiên cứu chính, mô hình nghiên cứu dưới đây sẽ giúp chỉ ra những điểm trọng
tâm trong bài nghiên cứu
1.3 Mô hình nghiên cứu :
Từ mục tiêu nghiên cứu trên, nhóm nghiên cứu đề xuất mô hình nghiên cứu bao
gồm 1 biến trung gian, 3 biến độc lập 1 biến phụ thuộc cụ thể như sau:
Overthinking,tự ti, thiếu tin tưởng,tự phê bình và mối quan hệ bạn bè.
Tự phê bình: sự tự phê bình là tự đánh giá, kiểm điểm chính bản thân một cách
nghiêm khắc. Những người có thói quen phê bình bản thân thường nhạy cảm với
sự phê phán, chỉ trích sự so sánh bản thân với những người khác (Blatt,
D’Afflitti & Quinlan, 1976) và những người này thường có xu ớng thành tích
(Blatt & Zuroff, 1992). Những người tự phê bình bản thân thường có xu hướng
đi kèm với trầm cảm và overthinking và từ đó dẫn đến việc những người này sẽ
gặp khó khăn trong việc tìm cho mình một mối quan hệ lành mạnh. Từ
những dữ liệu trên, ta giả thuyết H1:Sự tự phê bình sự tác động đến biến
trung gian overthinking.
Sự tự ti: theo Hiệp hội tâm học Mỹ, sự tự ti cảm giác đặc trưng cho việc
thiếu tự tin trong cuộc sống hằng ngày do tin rằng bản thân họ thấp kém về mặt
thể chất,tinh thần và nhiều vấn đề khác, cho dù điều đó có hợp lý hay không. Sẽ
có 2 loại hình của tự ti, loại thứ nhất họ sẽ luôn chọn cách rút lui, chùn bước và
trở nên ít tương tác với người khác, loại thứ 2 họ sẽ trnên rất cạnh tranh
trong hầu như tất cả vấn đề để chứng tỏ rằng họ không thua kém bất cứ ai. Khác
với kiểu thứ nhất, những người thứ hai đôi khi phát triển sự tự ti đấy thành sự
lOMoARcPSD|61830286
vượt trội của chính họ (Chantelle Ritzert,2022). Người mắc chứng tự ti thường
những hành vi, liều lĩnh, sức khỏe tinh thần giảm sút dễ gặp các vấn đề
tâm như trầm cảm hoặc lo âu từ đó dẫn đến việc họ rất khó thể tìm được
cho bản thân một mối quan hệ tốt. Điều trên rút ra biến H2: Sự tự ti sự tác
động đến biến trung gian overthinking.
Sự thiếu tin tưởng: hay còn được hiểu m na “vấn đề tin tưởng” là một thuật
ngữ nói về sự thường xuyên thiếu tin tưởng của một ai đó với vấn đề, bản thân
hay kể cả các mối quan hệ thân thiết. Sự thiếu tin tưởng nó sẽ ảnh hưởng cách ta
nhìn nhận bản thân và cuộc sống xung quanh, sẽ luôn có cảm giác nghi ngờ với
những điều tốt được người khác thực hiện sợ hãi khi ai đó quá gần gũi. Các
hành vi liên quan đến vấn đề tin tưởng thường cản trở các mối quan hệ trong xã
hội. Theo Hiệp hội tâm lý học M, sự thiếu lòng tin đồng thời diễn ra song song
với sự gia tăng của các chỉ số đơn, lo âu trầm cảm hiện nay trên toàn thế
giới (APA, 2022; WHO, 2022). Dữ liệu trên đã đưa ra một giả thuyết nghiên cứu
H3: Sự thiếu tin tưởng có sự tác động đến biến trung gian overthinking.
Overthinking: sự suy nghĩ lặp lại nhưng không mang lại hiệu quả trong quá
trình suy nghĩ. Quá trình “overthinking" thường được phân biệt thành các kiểu
như nghĩ nhiều cho qkhứ hiện tại suy nghĩ lo lắng cho tương lai. Thường
góp mặt trong xung đột của một mối quan hệ thông qua việc khiến họ có những
suy nghĩ như liệu họ có nói quá nhiều không?, họ có làm sai điều gì không ? Và
nhiều suy nghĩ tự hoài nghi bản thân trong một mối quan hệ (Juliana
Sabatello,2021). Overthinking thường được đi kèm với các suy nghĩ sai lệch như
catastrophizing (suy nghĩ rằng điều tồi tệ nhất sẽ xảy ra), should statements (tập
trung vào những mình nên làm cho người khác), mind reading (nghĩ rằng mình
biết được ai đó đang nghĩ gì) và emotional reasoning (tin một điều gì đó là đúng
vì bản thân thấy dù không có bằng chứng). Những giả tưởng trong suy nghĩ trên
thường đem lại sự thiếu trọn vẹn trong thời gian tận hưởng cùng bạn bè. Vì vậy
ta có giả thuyết H4: Overthinking có sự ảnh hưởng đến các mối quan hệ bạn bè.
Chất lượng mối quan hệ bạn bè : chất ợng mối quan hệ bạn hiện nay chưa
một khái niệm nhất định nào. Để đưa ra một định nghĩa về mối quan hệ bạn
bè thì ta phải dựa vào và xem xét hai chiều tích cực và tiêu cực của mối quan hệ
bạn y (Berndt,1996). Theo lứa tuổi thanh thiếu niên, một mối quan hệ bạn
bè có chất lượng tốt khi chúng chia sẻ mọi thứ, tiết lộ suy nghĩ hoặc cảm xúc
cá nhân cho nhau và những tiết lộ trên là việc chứng minh cho một mối quan hệ
bạn bè có gắn kết, thân mật.
lOMoARcPSD|61830286
Hình 1. Mô hình nghiên cứu tác động của overthinking lên chất lượng mối quan hệ bạn bè
1.4 Mẫu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của nhóm 396 sinh viên trên tổng 40000 sinh viên
trường đại học Văn Lang, một môi trường tư thục ở TPHCM.
1.5 Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu này được thực hiện thông qua 2 giai đoạn. Ở giai đoạn nhóm nghiên
cứu sử dụng phương pháp chuyên gia, trên sở tham khảo ý kiến chuyên gia
(giáo viên hướng dẫn) để định hướng cho đề tài, sau đó tìm hiểu các nghiên cứu
liên quan đến đề tài, tiếp đến thảo luận nhóm chuyển ngữ thang đo hoàn
thiện cũng như thiết kế bảng câu hỏi điều tra trước khi tiến hành khảo sát sơ bộ.
Sau đó, tác giả tiến hành khảo sát sơ bộ đối với các đối tượng nghiên cứu là sinh
viên khối ngành KH&XH của trường Đại học Văn Lang để hoàn thiện bảng câu
hỏi trước khi tiến hành khảo sát chính thức. Bảng câu hỏi khảo sát chính thức
gồm (liệt số lượng biến) đo ờng theo thang đo Likert từ 4 đến 7 mức độ.
Trong nghiên cứu y, do số lượng (bao nhiêu mẫu khảo sát) (loại bỏ bao
nhiêu mẫu không hợp lệ) . Trong giai đoạn hai, nhóm nghiên cứu tiến hành kiểm
định độ tin cậy của thang đo với hệ số Cronbach’s Alpha (a), phân tích nhân tố
khám phá (EFA) và phân tích hồi quy để đánh giá mức độ của từng yếu tố.
1.6 Các đóng góp của nghiên cứu
Ý nghĩa khoa học
Làm những yếu tố ảnh hưởng đến chất ợng mối quan hệ bạn của sinh
viên Văn Lang qua overthinking. Đưa ra những phân tích cho thấy mối tương
lOMoARcPSD|61830286
quan giữa overthinking và các mối quan hệ bạn bè sẽ bị ảnh hưởng như thế nào
thông qua những kết quả từ việc điều tra bảng hỏi. Hiểu về sự ảnh hưởng của
overthinking lên mối quan hệ bạn bè của bản thân
Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của bài nghiên cứu giúp giới trẻ nói chung sinh viên khoa hội nhân
văn nói riêng có sự nhìn nhận rõ hơn những yếu tố tiêu cực của overthinking đã
ảnh hưởng nhiều như nào đến mối quan hệ bạn bè của bản thân và giúp sinh viên
nâng cao nhận thức bảo vệ bản thân mối quan hệ bạn của mỗi nhân
trước những tác động tiêu cực của overthinking và những yếu tố đã gây nên việc
bản thân overthinking Đồng thời đưa ra những giải pháp để đề phòng, khắc phục
kịp thời những tác động tiêu cực từ overthinking lên các mối quan hệ xã hội nói
chung và mối quan hệ bạn bè nói riêng. Hướng dẫn cho sinh viên những phương
pháp để bảo vệ các mối quan hệ bạn bè, củng cố sức khoẻ tinh thần điều chỉnh
suy nghĩ của bản thân. Đề xuất ra những phương pháp xử trước những suy
nghĩ mang tính độc hại và có thể ảnh hưởng đến bản thân sinh viên và mối quan
hệ bạn bè vốn có
Bao quát, bài nghiên cứu trên còn cung cấp thông tin tham khảo cho cộng đồng
để hiểu hơn về những khía cạnh tiêu cực mà overthinking mang lại cho bản thân
và các mối quan hệ bạn bè như sự nghi ngờ, thiếu tự tin,...những yếu tố trên rất
dễ dẫn đến sự rạn nứt,hiểu lầm. Từ đó rút ra cho bản thân một sự thận trọng
tính chắc chắn trước yếu tố tiêu cực khi đang y dựng một mối quan hệ bạn bè,
từ đó sinh viên sẽ có cho mình những mối quan hệ bền vững hơn.
CHƯƠNG 1:
1.1 Tổng quan nghiên cứu về overthinking ảnh hưởng thế nào đến chất lượng mối
quan hệ bạn bè
1.1.1 Các nghiên cứu liên quan đến đề tài nghiên cứu
Tổng quan về ovtk, dẫn dắt về vấn đề của bài nghiên cứu
1. Association between friendship quality and subjective wellbeing among
adolescents: a systematic review (Liên kết giữa chất lượng tình bạn và cảm xúc
chủ quan của thanh thiếu niên: một đánh giá hệ thống)
Bài viết này nói về mối liên hệ giữa chất lượng tình bạn hạnh phúc chủ quan
thanh thiếu niên ( Abdullah Alsarrani , Ruth F Hunter , Laura Dunne , Leandro
Garcia)
. Bài nghiên cứu bao gồm sự hòa nhập xã hội với bạn bè và vai trò của nó trong việc
định hình hành vi và hạnh phúc của thanh thiếu niên. Bài báo cũng định nghĩa hạnh
phúc chủ quan sáu cấu trúc tạo nên nó. Chất lượng tình bạn mối liên hệ tích
cực với tất cả sáu cấu trúc của hạnh phúc chủ quan. Những cấu trúc này bao gồm
lOMoARcPSD|61830286
tâm trạng, sự đơn, sự hài lòng với cuộc sống, hạnh phúc, lòng tự trọng hạnh
phúc chủ quan.
2. Self-Critical Thinking and Overgeneralization in Depression and Eating
Disorders: An Experimental Study. (tạm dịch: suy nghĩ tự kiểm và tổng quát
hóa quá mức trong rối loạn ăn uống và rối loạn trầm cảm)
Nghiên cứu này cho thấy suy nghĩ tự ti có thể đóng vai trò quan trọng trong
việc tổng quát hóa quá mức. Tổng quát hóa quá mức là việc đưa ra kết luận
chung từ một trải nghiệm tiêu cực đơn lẻ. Nghiên cứu đã phân tích ba nhóm:
người mắc bệnh trầm cảm, rối loạn ăn uống và nhóm kiểm soát không mắc
bệnh lý tâm thần. Kết quả cho thấy, sau khi trải nghiệm thất bại, cả nhóm trầm
cảm và rối loạn ăn uống đều có xu hướng tổng quát hóa tiêu cực về bản thân
nhiều hơn so với nhóm kiểm soát.
3. Friendship Quality and Social Development (tạm dịch: Chất lượng mối quan
hệ bạn bè và sự phát triển của xã hội)
Một mối quan hệ bạn bè chất lượng cao được đặc trưng bởi mc độ cao của hành vi
hỗ trợ hội, sự gần gũi những đặc điểm tích cực khác, đồng thời mức độ
thấp của mâu thuẫn, ganh đua và những đặc điểm tiêu cực khác. Chất lượng của mối
quan hệ bạn đã được cho tác động trực tiếp đến nhiều khía cạnh của phát
triển hội của trẻ em, bao gồm tự hào bản thân điều chỉnh hội của họ. Tuy
nhiên, nghiên cứu gần đây cho thấy rằng chất lượng mối quan hệ bạn bè ảnh hưởng
chủ yếu đến sự thành công của trẻ trong hội của các bạn cùng trang lứa. Chất
lượng của mối quan hệ bạn cũng thể tác động gián tiếp, bằng cách tăng
hoặc giảm sự ảnh hưởng của bạn bè lên những thái độ và hành vi của nhau. Có bạn
tốt có thể làm giảm xu hướng bắt chước hành vi của những người bạn ngại ngùng
và rút lui, nhưng chưa có nhiều bằng chứng hỗ trợ giả thuyết rằng các mối quan hệ
bạn bè chất lượng cao làm tăng sự ảnh hưởng của bạn bè lên nhau.
4. Commitment and Trust in Young Adult Friendships (tạm dịch: Sự trách
nhiệm và niềm tin ở trong mối quan hệ bạn bè của giới trẻ)
Nghiên cứu này nhằm xác định vai trò của niềm tin giữa các bạn trong mối quan hệ
bạn bè thanh thiếu niên và liệu niềm tin có phản ánh sự cam kết của đối tác. Nghiên
cứu sử dụng hình tương quan phân tích đa cấp để chứng minh rằng nhân
tin tưởng bạn bè ở mức độ mà bạn bè cam kết với mối quan hệ, với sự nhận thức về
cam kết của bạn bè đóng vai trò trung gian. Kết quả cho thấy bạn bè thường thể hiện
một mức độ cam kết lẫn nhau vừa phải. Nghiên cứu cũng đcập đến các hướng
nghiên cứu tiềm năng về sự phát triển hậu quả của niềm tin trong các mối quan
hệ bạn bè thân thiết.
5. Trust, respect and friendship (tạm dịch: Tin tưởng, tôn trọng và tình bạn)
Một mẫu gồm 146 học việc trong ngành xây dựng (chủ yếu là nam thanh niên) tại
lOMoARcPSD|61830286
Australia đã tự báo cáo về các mối quan hệ quan trọng của họ cũng như các đặc
điểm chính của những mối quan hệ này. Các kết quả cho thấy rằng các thanh niên
chia sẻ sự kiện, tiết lộ những bí mật và tìm kiếm sự giúp đỡ từ gia đình, bạn đời và
bạn bè thân thiết. Những đặc điểm chính của những mối quan hệ này là sự tin
tưởng, sự tôn trọng và tình bạn.Đáng lo ngại là có khoảng 10% trong số các học
việc này đang đối diện với nguy cơ cô lập xã hội và không có ai để họ có thể dựa
vào để được hỗ trợ.
6. Recalled peer relationship experiences and current levels of self-criticism
and self-reassurance (tạm dịch: Ký c về các trải nghiệm trong quan hệ bạn
và mức độ hiện tại của tự chỉ trích và tự an ủi)
Mục tiêu của nghiên cứu điều tra vai trò của ức về việc nuôi dạy từ phía cha
mẹ và các mối quan hệ bạn bè trong sự phát triển của tự chỉ trích và tự an ủi. Nhiều
nghiên cứu đã chỉ ra rằng các yếu tố nhân cách thể tăng hoặc giảm sự dễ tổn
thương đối với trầm cảm, nhưng ít nghiên cứu đã xem xét vai trò của mối quan hệ
bạn bè trong sự phát triển của những yếu tố này. Do đó, nghiên cứu này nhằm điều
tra vai trò của ký ức về việc nuôi dạy từ phía cha mẹ và các trải nghiệm với bạn bè
trong việc phát triển tự chỉ trích và tự an ủi. Giả thuyết của nghiên cứu là rằng, sau
khi kiểm soát các hành vi nuôi dạy từ phía cha mẹ được ghi nhớ, các trải nghiệm cụ
thể về các mối quan hệ bạn bè sẽ liên quan đến mức độ hiện tại của các dạng cụ thể
của tự chỉ trích và tự an ủi.
7. Men's friendships, women's friendship and the alleged inferiority of the
latter (tạm dịch: Mối quan hệ bạn bè ở nam giới, mối quan hệ bạn bè ở nữ giới
và quan điểm rằng mối quan hệ bạn bè của phụ nữ kém hơn so với nam giới)
Trong hơn một thập k nghiên cứu sử dụng một mô hình và k thuật để nghiên cứu
các mối quan hệ bạn cùng giới đã phát hiện ra một số sự khác biệt không mong
đợi ban đầu giữa nam và nữ. Các khía cạnh liên quan của nghiên cứu này được xem
lại. Tổng thể, các kết quả cho thấy sự khác biệt tổng thể giữa nam và nữ thể dễ
dàng được giải thích dựa trên các vai trò giới truyền thống và các thực hànhhội
hóa. Tuy nhiên, khi tìm thấy sự khác biệt, chúng hiếm khi rất lớn hoặc ràng
do đó không cung cấp sở vững chắc để dự đoán tính chất của mối quan hệ bạn
của bất kcặp nam hay nữ nào cụ thể. Hơn nữa, khi c mối quan hbạn bè được
nghiên cứu giới hạn trong những mối quan hệ rất mạnh mẽ và lâu dài, không có sự
khác biệt rệt giữa nam nữ được phát hiện. Sự chú ý đặc biệt được dành cho
tranh luận rằng các mối quan hệ bạn bè của phụ nữ kém hơn so với nam giới.
8. Co-worry in friendship dyads (tạm dịch: Lo lắng chung ở các cặp bạn thân)
Các rối loạn lo âu tăng t lệ từ thời thơ u đến khi trưởng thành. Mặc các thuyết
nhận thức nổi bật trong nguyên nhân và duy trì lo âu, các mối quan hệ bạn bè đang
lOMoARcPSD|61830286
nổi lên như những yếu tố rủi ro liên nhân quan trọng. Nghiên cứu này điều tra
ảnh hưởng của các trao đổi liên cá nhân cụ thể đối với triệu chứng lo âu ở sinh viên
đại học.
60 sinh viên đại học tham gia thí nghiệm cùng với người bạn thân cùng giới và được
phân ngẫu nhiên vào hai nhóm: nhóm trò chuyện lo lắng (đồng lo) nhóm trò
chuyện trung lập. Mỗi người hoàn thành các biện pháp tự báo cáo về lo âu trạng thái,
ảnh ởng tiêu cực ảnh hưởng tích cực trước sau cuộc trò chuyện kéo dài 8
phút về các chủ đề lo lắng tự tạo ra như kỳ thi hoặc các chủ đề trung lập như thời
tiết. Các cuộc trò chuyện đã được quay video để mã hóa.
Kết quả cho thấy, sự tương tác giữa thời gian và điều kiện thí nghiệm có ảnh hưởng
đáng kể đến lo âu trạng thái, F(1, 104) = 11.62, p = .001, ảnh hưởng tiêu cực, F(1,
108) = 4.40, p = .038, ảnh hưởng tích cực, F(1, 108) = 4.74, p = .032. Những
người tham gia nhóm trò chuyện trung lập giảm lo âu trạng thái ảnh hưởng tiêu
cực, đồng thời tăng ảnh ởng tích cực, trong khi những người tham gia nhóm trò
chuyện lo lắng duy trì trạng thái lo âu và ảnh hưởng tiêu cực.
1.1.2 Cơ sở phương pháp luận
Thuật ngữ “Overthinking” được sử dụng lần đầu tiên vào những năm 1628. Đây
là thuật ngữ được sử dụng để chỉ sự suy nghĩ quá nhiều về một vấn đề từ đó
dẫn đến tác động tiêu cực đối với tinh thần con người. xuất hiện khá lâu
nhưng overthinking chỉ thật sự phổ biến vào thời kỳ hiện đại, lúc mà con người
bắt đầu để ý đến sức khỏe tinh thần các vấn đề tâm lý. Sự phổ biến của
overthinking được thhiện ở một số yếu tố như giúp con người gia tăng về sức
khỏe tinh thần (các nhà tâm học, các chuyên gia sức khỏe bắt đầu nhận thấy
nghĩ quá nhiều đem lại ảnh hưởng tiêu cực đến con người), ảnh hưởng trên các
phương tiện truyền thông (xuất hiện các đầu tạp chí, các hội thảo nhắc về hiện
tượng overthinking) hay các nghiên cứu về overthinking đang dần xuất hiện
nhiều hơn. Và để đi sâu hơn về khái niệm overthinking những ảnh hưởng tiêu
cực của khái niệm trên thì bài nghiên cứu Đầu tiên, nhóm nghiên cứu thực hiện
phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia để xác định đề tài nghiên cứu và hỗ
trợ trong việc thiết kế hình quy tình nghiên cứu. Tiếp đến nhóm nghiên
cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu trên nền tảng sẵn từ phương pháp
chuyên gia .....
Tuy không phổ biến quốc tế như phương pháp nghiên cứu chuyên gia, song
phương pháp nghiên cứu tài liệu cũngmột kiểu phương pháp khá phổ biến
môi trường nghiên cứu Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu tài liệu, là quá trình
thu thập các thông tin, đánh giá, phân tích đến từ các tài liệu đã được công bố,
có sẵn hoặc được lưu trữ. Ở đề tài nghiên cứu “Ảnh hưởng của overthinking đến
chất lượng mối quan hệ bạn bè của sinh viên Văn Lang", các bước thực hiện đều
lOMoARcPSD|61830286
đi theo các chỉ dẫn cơ bản của phương pháp nghiên cứu chuyên gia như chuyên
gia được chọn giảng viên hướng dẫn môn học, thông tin thu thập đều thông
qua sự kiểm duyệt, hướng dẫn của chuyên gia phương pháp nghiên cứu tài
liệu bằng những tài liệu tham khảo trên Research gate, Google scholar, American
Psychology Association, sách nghiên cứu các bài nghiên cứu sẵn. Thông
qua những bước kể trên, bài nghiên cứu đã có được những số liệu tương đối phù
hợp để tiến hành nghiên cứu và đưa ra kết luật.
Với mục tiêu nghiên cứu từ đề tài, nhóm nghiên cứu chọn loại nghiên cứu định
lượng để nhằm đo lường sự tác động tiêu cực của overthinking đến chất lượng
mối quan hệ . Nghiên cứu chọn phương pháp định lượng nhằm tìm hiểu tính
tương tương quan của các biến thông qua việc đo lường các biến, kiểm tra phân
tích số liệu bằng phân tích thống kê.
Đối với nghiên cứu này, các mẫu nghiên cứu sẽ được chọn trong môi trường đại
học Văn Lang để dễ tiếp cận các bạn sinh viên và hỗ trợ các sinh viên làm mẫu
tham gia khảo sát. Mẫu nghiên cứu sẽ được lựa chọn dựa trên việc đo lường kích
thước mẫu, tìm ra phương pháp chọn mẫu, độ tin cậy và sai số, tính đa dạng của
mẫu và kiểm tra giả thuyết. Bước đầu trong quy trình chọn mẫu sẽ đo lường,
sử dụng công thức chuẩn để tìm ra số mẫu, trong qua trình tính toán sẽ có sai số
cho số mẫu cần m (ví dụ: 0,05). Sau khi tìm được số mẫu cần khảo sát, bài
nghiên cứu phải có một phương pháp chọn mẫu phù hợp để tránh các trường hợp
như sai sót không đáng kể. phương pháp được chọn trong bài nghiên cứu y
là phương pháp chọn mẫu thuận tiện (nằm trong các phương pháp chọn mẫu phi
xác suất). Lý do kho
Dữ liệu trong bài nghiên cứu được thu thập dựa vào bảng hỏi Google Form xây
dựng dựa trên các lý thuyết thang đo đã chuẩn hóa , một hiệu năng làm bảng hỏi
khá phổ biến với các đối tượng đang làm nghiên cứu sử dụng phương pháp thu
thập dữ liệu bằng bảng hỏi online. Bảng hỏi được tạo bởi Google form giúp thu
thập, thống kê và phân loại câu hỏi trong quá trình hoạt động, một tính năng khá
hữu ích giúp sinh viên sàng lọc thông tin nhanh, tránh mất thời gian hơn việc
sàng lọc thủ công. Quy trình thu thập thông tin diễn ra rất nhanh khi sự trợ
giúp của bảng hỏi online.
Trước khi bước vào quá trình thu thập dữ liệu, y dựng bảng hỏi sẽ bước mấu
chốt quyết định hầu hết các kết quả nhận được độ tin cậy hay không, nên bước
xây dựng 1 bảng hỏi là bước quan trọng nhất trong quy trình thu thập dữ liệu. Để
có được một form bảng hỏi hoàn chỉnh để khảo sát thu thập dữ liệu, cần có được
đầy đủ thông tin của c thang đo mà bài nghiên cứu đang thực hiện như thang
đo đã được kiểm chứng độ tin cậy hay chưa, thang điểm dựa trên likert hay
lOMoARcPSD|61830286
một thang điểm riêng biệt ví dụ như thang đo về sự tự ti của Rosenberg. Thường
các thang đo không phổ biến sẽ không có bản việt hoá nên khi phiên dịch thang
đo cũng cần có sự kiểm tra về dịch thuật đến từ các chuyên gia hướng dẫn hoặc
một bên chuyên về ngôn ngữ để có được độ dễ hiểu và dịch thuật đúng nhất. Sau
khi xong bước y dựng xong bảng hỏi thì bước tiến hành thu thập dữ liệu sẽ
diễn ra hơn các bước trên, nhưng trong quá trình thu thập cần đảm bảo các mẫu
khảo sát phải trả lời trung thực, không bỏ sót câu hỏi đồng ý thực hiện khảo
sát để tránh những lỗi đáng tiếc xảy ra trong quá trình thu thập dữ liệu.
Dữ liệu thể sử dụng dữ liệu đã hoá chạy qua phần mềm thống kê,
phân tích dữ liệu sẽ nhiều loại nhưng với phân tích sử dụng định lượng thì
nhóm nghiên cứu sẽ sử dụng chủ yếu phần mềm SPSS. Trước khi đưa vào
SPSS để chạy xác suất thống kê cần mã hoá số liệu, một bước đóng vai trò sàng
lọc lần 2 các dữ liệu và quyết định tính đúng sai thông qua việc so sánh dựa trên
các tiêu chuẩn có sẵn của số liệu để đưa vào nghiên cứu sau y. Các kết quả của
bài nghiên cứu cần được đưa vào phần mềm Excel để tiến hành mã hoá theo quy
trình đưa thứ tự các dữ liệu vào phần mềm thống SPSS. Quá trình thống
hoá dữ liệu chiếm phần lớn thời gian các sliệu cần hoá bằng
tay và cần kiểm tra nhiều lần để tránh các lỗ hổng null (bỏ trắng) trong phần dữ
liệu sẽ một slượng mẫu khảo sát không đem lại chất lượng đồng đều
mang tính tin cậy cao. Trong quá trình chạy phân tích sẽ có một số biến mang hệ
shơn 0,5, nếu như số ợng ít thì thể loại ra để bảng thống ổn định
hơn nhưng nếu sai cả biến lớn thì cần tìm ra nguyên do vì vấn đề sai cả biến lớn
rất dễ dẫn đến sai các phần sau đó. Nguyên do thể đến từ nhiều khía cạnh
nhưng phần lớn đến từ phần bảng hỏi các thang đo trong bảng hỏi. trong
bài nghiên cứu y, đã 1 số biến nhỏ không đạt yêu cầu hệ số n đã bị loại
và nguyên nhân của vấn đề y đến từ việc không m rõ ở phần thang đo có câu
hỏi nghịch đảo.
Độ tin cậy là phần không thể thiếu trước khi đưa ra các con số thống kê vào bài
nghiên cứu. Độ tin cậy là thuật ngữ chỉ tính tin cậy của một thang đo có tính ổn
định trong các điều kiện khác nhau, độ tin cậy cao đồng nghĩa với thang đo sẽ
có khả năng đưa ra kết quả ổn định nhất, độ tin cậy sẽ yếu tố quan trọng trọng
trong việc đảm bảo độ tin cậy của nghiên cứu. Trong bài nghiên cứu này, phần
mềm CA sẽ được sử dụng công cụ để kiểm tra độ tin cậy của thang đo. Các
thang đo cần test độ tin cậy bao gồm : (1) Thang đo của sự tự ti, (2) thang đo
của sự tự phê bình/ chỉ trích/ an ủi, (3) thang đo tin tưởng, (4) thang đo của sự
suy nghĩ kiên trì (5) thang đo chất lượng mối quan hệ bạn bè, các thang đo
trên đều có độ ổn định, đủ điều kiện để đưa vào chạy độ tin cậy. Các giá trị trên
được xác thực thông qua việc đánh giá lặp lại các biến bằng CA m so sánh các
chỉ số với các bài nghiên cứu đã sử dụng thang đo tương tự, trong quá trình đánh
giá lọc ra nhiều biến không đạt chuẩn và đã loại bỏ. Sau phần CA, các thang đo
lOMoARcPSD|61830286
bảng đánh giá tin cậy đã được báo cáo lên các chuyên gia sau khi kiểm tra
theo tiêu chuẩn của từng thang đo để được thông qua một lần cuối trước khi đi
đến các bước tiếp theo và hoàn thành nghiên cứu.
Tuy nhiên, mỗi bài nghiên cứu đều những nhược điểm đi m n vấn đề giới
hạn mẫu, phương pháp thu thập dữ liệu có vấn đề, thời gian thực hiện bị giới hạn
hoặc sự tác động của các yếu tố ngoại lai. Ở bài nghiên cứu y có một nhược
điểm phương pháp thu thập dữ liệu vấn đề. Như đã trình bày trên, phần
dịch thuật thang đo không chuẩn xác đã khiến một phần mẫu khảo sát nhỏ khi
làm form khảo sát không nắm ý nên xảy ra 2 trường hợp là từ chối trả lời hoặc
trả lời nhưng không hiểu câu hỏi dẫn đến sai lệch số liệu trong quá trình mã hoá
chạy số liệu. Sau quá trình chỉnh sửa tìm ra lỗi sai, để tránh việc sai sót
trong việt hóa thang đo các nghiên cứu sinh nên thông qua chính chuyên gia
hướng dẫn hoặc các chuyên gia ngôn ngữ, sử dụng những công cụ dịch thuật như
những loại từ điển điện tử đã được chuẩn hoá như từ điển Oxford, Cambridge,
Longman hay Ozidz, nếu các nghiên cứu sinh muốn tăng độ tin cậy trong dịch
thuật thì nên m các loại từ điển chuyên ngành phù hợp với từng mục đang
nghiên cứu. Ngoài ra, để một bài nghiên cứu có sự cải tiến hơn, nên trình y
nhận phản biện, góp ý từ chuyên gia để nhìn ra những mặt thiếu sót của bài ngoài
những lỗi mà chính các nghiên cứu sinh tự nhận ra chỉnh sửa. Từ đó các bài
nghiên cứu sẽ dần hoàn thiện và có thể trở thành tài liệu nghiên cứu cho các bài
nghiên cứu khác.
Trong toàn bộ bài nghiên cứu y đã sử dụng 2 phương pháp nghiên cứu bao
gồm phương pháp chuyên gia và phương pháp tham khảo tài liệu, ngoài ra bài
còn sử dụng phương pháp thu thập bảng hỏi dành cho nghiên cứu định lượng.
Nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của chuyên gia và thông tin từ tài liệu, tiến hành
khảo sát 396 mẫu trên tổng 40000 sinh viên của trường đại học Văn Lang, sau
khi đủ số mẫu tiếp tục tiến hành chạy dữ liệu độ tin cậy. Các phương pháp
trên đã khiến cho góc nhìn của bài nghiên cứu rộng và đa chiều hơn, và phương
pháp thu thập thông tin đã mang lại các mẫu dữ liệu khá lớn chỉ trong một thời
gian ngắn. Tuy nhiên, bài vẫn n một số hạn chế về mặt dịch thuật nhưng đã có
phương pháp khắc phục như đã nêu trên. Các phương pháp nghiên cứu trên đã
góp phần trong việc dẫn dắt bài nghiên cứu đầu tay đi đến bước cuối cùng
không gặp quá nhiều trở ngại, giúp giải đáp các thắc mắc đến từ các chuyên gia
và tài liệu tham khảo.
CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
2.1. Mô tả mẫu nghiên cứu
Số lượng (n)
Tỉ lệ (%)
Giới tính
Nam
74
33%
lOMoARcPSD|61830286
Nữ
134
59,8%
Khác
16
7,2%
Tuổi
19
41
18,3%
20
88
39,2%
21
59
26,3%
22
36
16,2%
Niên khóa
K29
47
20,9%
K28
84
35,7%
K27
62
27,6%
K26
31
15,8%
Bảng 2.1 Đặc điểm nhân khẩu học của mẫu nghiên cứu
Nghiên cứu đã tiến hành khảo sát 224 sinh viên đang học tập tại Trường Đại học
Văn Lang. Trong 224 sinh viên thực hiện phiếu khảo sát, không có sinh viên nào
từ chối tham gia nghiên cứu. Một số đặc điểm nhân khẩu học của khách thể
nghiên cứu.
Khảo sát thu được kết quả từ 74/224 sinh viên là nam (33%), 134/224 sinh viên
nữ (59,8%) 16/224 sinh viên khác (7,2%). Trong đó, độ tuổi sinh viên tham
gia khảo sát chiếm tỷ trọng lớn nhất là 20 tuổi (39,2%), tiếp theo là sinh viên 21
tuổi (26,3%), tỷ lệ người tham gia 19 tuổi (18,3%) thấp nhất sinh viên 22
tuổi chỉ chiếm (16,2%).
Tỷ lệ sinh viên thuộc khóa K28 chiếm tỷ lệ cao nhất với 35,7%. Tiếp đến là sinh
viên khóa K27 chiếm 27,6% và sinh viên khóa K29 là 20,9%. Thấp nhất là sinh
viên khóa K26 chỉ chiếm 15,8%.
2.2. Kiểm tra phân phối chuẩn của các biến số
Mean
Std.
Deviation
Skewness
Kurtosis
Statistic
Statistic
Statistic
Std. Error
Statistic
Std. Error
FQQ
3,191
0,435
0,520
0,163
-0,330
0,324
lOMoARcPSD|61830286
DYS
4,138
1,077
0,289
0,163
-0,337
0,324
PTQ
3,072
0,539
0,343
0,163
0,974
0,324
FSCRS
3,051
0,391
0,811
0,163
2,885
0,324
2.3. Đánh giá độ tin cậy của thang đo
Nhóm sử dụng hệ số Cronbach’s Alpha để đo lường độ tin cậy của thang đo các
yếu tố trong hình nghiên cứu. Trong đó các biến quan sát hsố tương
quan biến tổng (Item total correlation) nhỏ hơn 0.3 sẽ bloại tiêu chuẩn
chọn thang đo khi độ tin cậy Alpha từ 0.7 trở lên (Nguyễn Đình Thọ, 2011).
Thang đo Chất lượng mối quan hệ bạn bè có biến quan sát FQQ1, FQQ2, FQQ7,
FQQ11, FQQ12, FQQ14, FQQ17; thang đo Sự tự phê phán, sự tự chỉ trích tự an ủi
bản thân biến quan sát FSCRS2, FSCRS3, FSCRS5, FSCRS8, FSCRS11, FSCRS12,
FSCRS13, FSCRS15, FSCRS17, FSCRS18, FSCRS21, FSCRS23 có hệ số tương quan
biến tổng < 0.3, không đạt yêu cầu. Vì vậy, loại biến quan sát y và chạy lại cronbach
alpha lần 2 cho thang đo. Riêng thang đo Sự tự phê phán, sự tự chỉ trích và tự an ủi bản
thân đo lường 3 yếu tố tự phê phán bản thân, tự chỉ trích bản thân và tự an ủi bản thân
nên việc loại các biến không phù hợp với mục tiêu nghiên cứu ban đầu là cần thiết. Kết
quả chi tiết kiểm định hệ số tin cậy của các thang đo được thể hiện tại bảng 2.3 sau khi
loại biến quan sát FQQ1, FQQ2, FQQ7, FQQ11, FQQ12, FQQ14, FQQ17, FSCRS2,
FSCRS3, FSCRS5, FSCRS8, FSCRS11, FSCRS12, FSCRS13,
FSCRS15, FSCRS17, FSCRS18, FSCRS21, FSCRS23
Kí hiệu
Biến quan
sát ban đầu
Biến quan
sát còn lại
Hệ số
Cronbach
Alpha
Hệ số tương
quan biến
tổng thấp
nhất
FQQ
23
16
0.834
0.312
DYS
8
8
0.814
0.306
PTQ
15
15
0.784
0.306
lOMoARcPSD|61830286
FSCRS
24
12
0.736
0.303
Bảng 2.3 Kết quả kiểm tra độ tin cậy
Tất cả các thang đo đều hệ số Cronbach Alpha lớn hơn 0.6 nên đạt yêu cầu
(Hoang & Chu, 2005). Dựa vào bảng 2.3 hiển thị kết quả phân tích Cronbach alpha của
các thang đo các khái niệm được trình bày, cho thấy tất cả các khái niệm đo lường đều
đạt hệ số Cronbach Alpha từ 0.70 trở lên. Cụ thể, hệ số Cronbach Alpha dao động từ
0.736 đến 0.834, các biến quan sát đều hsố ơng quan biến tổng từ 0.30 trở lên.
Như vậy, thang đo các khái niệm trong mô hình nghiên cứu đạt độ tin cậy yêu cầu
được tiếp tục đưa vào thực hiện phân tích EFA.
2.4. Phân tích nhân tố khám phá EFA
2.4.1. Kết quả phân tích biến độc lập
Yếu t cần đánh g
Giá tr bng
So sánh
H s KMO
0.763
0< 0,7863< 1
Giá tr Sig trong kim
định Bartlett
0,001
0,001< 0,05
Phương sai trích
55,18%
55,18%> 50%
Giá tr Eigenvalue
1.261
1,161> 1
lOMoARcPSD|61830286
Component
1
2
3
DYS7
0,746
DYS8
0,743
DYS3
0,733
DYS4
0,675
DYS5
0,615
DYS6
0,575
DYS1
0,557
FQQ23
0,682
FQQ21
0,657
FQQ20
0,607
FQQ18
0,582
FSCRS10
0,685
FSCRS14
0,626
lOMoARcPSD|61830286
FSCRS24
0,612
FSCRS19
0,579
2.4.2 Kết qu phân tích biến trung gian
Yếu t cần đánh g
Giá tr bng
So sánh
H s KMO
0.788
0< 0,788< 1
Giá tr Sig trong kim
định Bartlett
0,001
0,001< 0,05
Phương sai trích
52,05%
52,05%> 50%
Giá tr Eigenvalue
1.146
1,146> 1
Component
1
2
3
PTQ2
0,737
PTQ7
0,634
PTQ3
0,598
lOMoARcPSD|61830286
PTQ11
0,594
PTQ12
0,521
PTQ1
0,777
PTQ4
0,626
PTQ8
0,546
PTQ9
0,506
PTQ14
0,679
PTQ5
0,676
PTQ13
0,614
PTQ15
0,528
2.4.3. Kết qu phân tích biến ph thuc
Yếu t cần đánh g
Giá tr bng
So sánh
H s KMO
0.873
0< 0,873< 1
lOMoARcPSD|61830286
Giá tr Sig trong kim
định Bartlett
0,001
0,001< 0,05
Phương sai trích
53,75%
53,75%> 50%
Giá tr Eigenvalue
1.177
1,177> 1
Component
1
2
3
FQQ18
0,699
FQQ23
0,650
FQQ3
0,609
FQQ13
0,590
FQQ22
0,670
FQQ4
0,654
FQQ8
0,512
lOMoARcPSD|61830286
FQQ16
0,637
FQQ19
0,624
FQQ20
0,558
FQQ4
0,549
FQQ10
0,526
Phân tích khám phá (Exploratory Factor Analysis) một phương pháp thống được
sử dụng để tìm ra các cấu trúc tiềm ẩn trong dữ liệu. Phân tích này nhằm khám phá các
yếu tố tiềm ẩn đại diện cho sự ảnh hưởng của overthinking với chất lượng mối quan hệ
bạn bè ở môi trường trường Đại học Văn Lang. Dữ liệu được thu thập từ 400 sinh viên
thông qua khảo sát trực tuyến, khảo sát gồm 5 mục cùng slượng câu hỏi khác nhau
nhằm đánh giá các yếu tố hình thành overthinking overthinking đã ảnh hưởng như
thế nào đến chất ợng mối quan hệ bạn bè. Hệ số KMO cho 3 loại biến được phân tích
hệ EFA lần ợt 0.763,0.788, 0.873, các hệ strên cho thấy dữ liệu phù hợp với EFA.
Sử dụng PCA, nhóm nghiên cứu trích xuất được 3 yếu tố với eigenvalues lớn hơn 1,
giải thích tổng phương sai đều lớn hơn 50%. Phương pháp xoay Varimax được áp dụng
để m rõ cấu trúc yếu tố. Kết quả cho thấy được nhóm thành 3 yếu tố chính. (1)
Overthinking bao gồm các câu hỏi về việc việc suy nghĩ lặp đi lặp lại đã diễn ra như
thế nào, (2) Chất ợng mối quan hệ bạn thang đo khảo sát liệu đang trong
một mối quan hệ bạn bè lành mạnh và chất lượng cao hay không, (3) các yếu tố y nên
overthinking bao gồm tti, thiếu tin tưởng và tự phê bình và câu hỏi sẽ về liệu các mẫu
nghiên cứu có gặp tình trạng như trên và dẫn đến overthinking. Phân tích EFA đã
2.5. Phân tích tương quan Pearson
Tương quan Pearson phương pháp thống được sử dụng để đo lường mối quan hệ
tuyến tính giữa 2 biến số. Ký hiệu r giá trị nằm khoảng từ -1 đến 1. Mục tiêu
của phân tích y xác định mối quan hệ giữa overthinking chất lượng mối quan
hệ bạn bè. Hệ số tương quan Pearson được tính 0.564. Hệ số cho thấy 1 mối tương
quan trung bình giữa overthinking và chất lượng mối quan hệ bạn bè. Tuy nhiên cần
lưu ý rằng tương quan giữa 2 biến trên không nhất thiết chỉ ra mối quan hệ nhân quả.
thể sẽ có các yếu tố khác ảnh hưởng đến chất lượng mối quan hệ nhưng không được
phân tích và đánh giá trong bảng này.

Preview text:

lOMoARcPSD| 61830286
Ảnh hưởng của Overthinking đến chất lượng quan
hệ bạn bè của sinh viên đại học Văn Lang

1.1 Lý do chọn đề tài:
Hiện nay, tâm lý con người đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức từ áp lực
công việc, học tập, đến các mối quan hệ xã hội. Điều này dần hình thành nên các
vấn đề tâm lý phổ biến ở giới trẻ hiện nay và điển hình chính là Overthinking,
theo Tiến sĩ Trần Thanh Nam-Phó chủ tịch Hội khoa học Tâm lý-Giáo dục Việt
Nam cho biết, thế hệ Gen Z (những người sinh từ năm 1997 trở đi) đang phải đối
mặt với vấn đề này nhiều hơn các thế hệ trước và một trong những nguyên nhân
chính là đến từ việc họ phải chịu áp lực bạn bè, mạng xã hội,.... Overthinking,
hay còn gọi là “quá trình suy nghĩ quá mức hoặc lặp đi lặp lại về một vấn đề hoặc
tình huống nào đó, thường là với một mức độ lo lắng hoặc căng thẳng"(Sở y tế
Nam Định,2023). Overthinking không chỉ gây ra những hậu quả tiêu cực về mặt
(1) sức khỏe tinh thần và (2) thể chất mà còn ảnh hưởng đến chất lượng của
(3)các mối quan hệ xã hội như là tình bạn.
Mối quan hệ bạn bè đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội của mỗi người.
Đây là nơi chúng ta tìm kiếm sự hỗ trợ, sẻ chia và động viên trong những thời
điểm khó khăn. Overthinking có thể làm suy yếu mối quan hệ bạn bè thông qua
việc tạo ra những hiểu lầm, lo âu và căng thẳng không cần thiết. Những người
hay suy nghĩ quá mức thường có xu hướng nghi ngờ ý định của bạn bè, khó mở
lòng và chia sẻ cảm xúc, dẫn đến sự mất niềm tin và xa cách. Điều này không
chỉ làm giảm sự hài lòng trong mối quan hệ mà còn có thể dẫn đến xung đột và
đổ vỡ. Có thể xung đột đổ vỡ khi mới xảy ra, chúng ta hoàn toàn không cảm thấy
nó ảnh hưởng quá nhiều, nhưng theo thời gian thì tác hại của xung đột trong mối
quan hệ đều thể hiện rõ qua sự suy giảm về sức khỏe thể chất như dễ bị bệnh vặt,
đau đầu, stress và nhiều hơn nữa (Elizabeth Scott,2022),ngoài ra việc tan vỡ hoặc
xảy ra những vấn đề gay gắt 1 mối quan hệ cũng dẫn đến việc mắc hội chứng
“Trái tim tan vỡ" (Broken Heart syndrome) (Harvard Health Publishing,2023)
gây ra những dấu hiệu hệt như bệnh tim (hoặc nhẹ hơn) .Việc nghiên cứu về ảnh
hưởng của overthinking đến chất lượng mối quan hệ bạn bè không chỉ giúp chúng
ta hiểu rõ hơn về những tác động này mà còn hỗ trợ trong việc xây dựng và duy
trì những mối quan hệ lành mạnh và bền vững. Đồng thời, nghiên cứu này đóng
góp vào việc cập nhật thực trạng mối liên hệ giữa overthinking và mối quan hệ
bạn bè của sinh viên khoa KHXH&NV của trường Văn Lang nhằm góp góc nhìn
đến tình hình overthinking hiện tại của giới trẻ hiện nay. Hiểu rõ về vấn đề
Overthinking và có những kinh nghiệm thông qua việc có cho mình kiến thức về
vấn đề này để giảm thiểu ảnh hưởng của overthinking đối với các mối quan hệ
xã hội là vô cùng quan trọng trong một thế giới ngày càng kết nối và phức tạp. lOMoARcPSD| 61830286
1.2 Mục tiêu nghiên cứu:
Theo một nghiên cứu của Đại học Harvard (News Editor,2023), overthinking là
một yếu tố nguy cơ dẫn đến trầm cảm,ngoài việc suy nghĩ quá nhiều đến 1 vấn
đề dẫn đến các bệnh về tâm lý thì overthinking cũng luôn là một yếu tố tiêu cực
dẫn đến rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng mối quan hệ cá nhân của con
người.... Tuy nói overthinking là một vấn đề khá phổ biến với người trẻ (Kim
Ngan,2023), song vẫn có nhiều bạn trẻ vẫn không nhiều kiến thức hay chiều sâu
về vấn đề này. Hiện nay đa phần các nghiên cứu đều chỉ tập trung vào các tác
động và hệ quả của nó, nhưng nguyên nhân vì sao dẫn đến tình trạng mối quan
hệ bạn bè bị overthinking ảnh hưởng như thế nào và các yếu tố nào dẫn đến
overthinking vẫn còn chưa được đề cập đến nhiều.
Để có thể tìm hiểu sâu hơn nữa về ảnh hưởng của overthinking lên mối quan hệ
bạn bè của sinh viên Văn Lang, nhóm nghiên cứu đề xuất hai mục tiêu nghiên
cứu. Mục tiêu (I) Đánh giá các yếu tố gây nên overthinking là (1) sự tư phê bình,
(2) sự tự ti, (3) sự thiếu tin tưởng; và điều này ảnh hưởng đến mục tiêu (II) đánh
giá sự ảnh hưởng của Overthinking đối với chất lượng mối quan hệ bạn bè của
sinh viên Văn Lang như thế nào.
Nghiên cứu này sẽ giúp tìm hiểu những yếu tố tác động đến overthinking và ảnh
hưởng đến mối quan hệ bạn bè của sinh viên K28. Trước khi đi sâu vào phần
nghiên cứu chính, mô hình nghiên cứu dưới đây sẽ giúp chỉ ra những điểm trọng tâm trong bài nghiên cứu
1.3 Mô hình nghiên cứu :
Từ mục tiêu nghiên cứu trên, nhóm nghiên cứu đề xuất mô hình nghiên cứu bao
gồm 1 biến trung gian, 3 biến độc lập và 1 biến phụ thuộc cụ thể như sau:
Overthinking,tự ti, thiếu tin tưởng,tự phê bình và mối quan hệ bạn bè.
Tự phê bình: sự tự phê bình là tự đánh giá, kiểm điểm chính bản thân một cách
nghiêm khắc. Những người có thói quen phê bình bản thân thường nhạy cảm với
sự phê phán, chỉ trích và sự so sánh bản thân với những người khác (Blatt,
D’Afflitti & Quinlan, 1976) và những người này thường có xu hướng thành tích
(Blatt & Zuroff, 1992). Những người tự phê bình bản thân thường có xu hướng
đi kèm với trầm cảm và overthinking và từ đó dẫn đến việc những người này sẽ
gặp khó khăn trong việc tìm và có cho mình một mối quan hệ lành mạnh. Từ
những dữ liệu trên, ta có giả thuyết H1:Sự tự phê bình có sự tác động đến biến trung gian overthinking.
Sự tự ti: theo Hiệp hội tâm lý học Mỹ, sự tự ti là cảm giác đặc trưng cho việc
thiếu tự tin trong cuộc sống hằng ngày do tin rằng bản thân họ thấp kém về mặt
thể chất,tinh thần và nhiều vấn đề khác, cho dù điều đó có hợp lý hay không. Sẽ
có 2 loại hình của tự ti, loại thứ nhất họ sẽ luôn chọn cách rút lui, chùn bước và
trở nên ít tương tác với người khác, loại thứ 2 là họ sẽ trở nên rất cạnh tranh
trong hầu như tất cả vấn đề để chứng tỏ rằng họ không thua kém bất cứ ai. Khác
với kiểu thứ nhất, những người thứ hai đôi khi phát triển sự tự ti đấy thành sự lOMoARcPSD| 61830286
vượt trội của chính họ (Chantelle Ritzert,2022). Người mắc chứng tự ti thường
có những hành vi, liều lĩnh, sức khỏe tinh thần giảm sút và dễ gặp các vấn đề
tâm lý như trầm cảm hoặc lo âu từ đó dẫn đến việc họ rất khó có thể tìm được
cho bản thân một mối quan hệ tốt. Điều trên rút ra biến H2: Sự tự ti có sự tác
động đến biến trung gian overthinking.
Sự thiếu tin tưởng: hay còn được hiểu nôm na là “vấn đề tin tưởng” là một thuật
ngữ nói về sự thường xuyên thiếu tin tưởng của một ai đó với vấn đề, bản thân
hay kể cả các mối quan hệ thân thiết. Sự thiếu tin tưởng nó sẽ ảnh hưởng cách ta
nhìn nhận bản thân và cuộc sống xung quanh, sẽ luôn có cảm giác nghi ngờ với
những điều tốt được người khác thực hiện và sợ hãi khi ai đó quá gần gũi. Các
hành vi liên quan đến vấn đề tin tưởng thường cản trở các mối quan hệ trong xã
hội. Theo Hiệp hội tâm lý học Mỹ, sự thiếu lòng tin đồng thời diễn ra song song
với sự gia tăng của các chỉ số cô đơn, lo âu và trầm cảm hiện nay trên toàn thế
giới (APA, 2022; WHO, 2022). Dữ liệu trên đã đưa ra một giả thuyết nghiên cứu
H3: Sự thiếu tin tưởng có sự tác động đến biến trung gian overthinking.
Overthinking: là sự suy nghĩ lặp lại nhưng không mang lại hiệu quả trong quá
trình suy nghĩ. Quá trình “overthinking" thường được phân biệt thành các kiểu
như nghĩ nhiều cho quá khứ và hiện tại và suy nghĩ lo lắng cho tương lai. Thường
góp mặt trong xung đột của một mối quan hệ thông qua việc khiến họ có những
suy nghĩ như liệu họ có nói quá nhiều không?, họ có làm sai điều gì không ? Và
nhiều suy nghĩ tự hoài nghi bản thân trong một mối quan hệ (Juliana
Sabatello,2021). Overthinking thường được đi kèm với các suy nghĩ sai lệch như
catastrophizing (suy nghĩ rằng điều tồi tệ nhất sẽ xảy ra), should statements (tập
trung vào những gì mình nên làm cho người khác), mind reading (nghĩ rằng mình
biết được ai đó đang nghĩ gì) và emotional reasoning (tin một điều gì đó là đúng
vì bản thân thấy dù không có bằng chứng). Những giả tưởng trong suy nghĩ trên
thường đem lại sự thiếu trọn vẹn trong thời gian tận hưởng cùng bạn bè. Vì vậy
ta có giả thuyết H4: Overthinking có sự ảnh hưởng đến các mối quan hệ bạn bè.
Chất lượng mối quan hệ bạn bè : chất lượng mối quan hệ bạn bè hiện nay chưa
có một khái niệm nhất định nào. Để đưa ra một định nghĩa về mối quan hệ bạn
bè thì ta phải dựa vào và xem xét hai chiều tích cực và tiêu cực của mối quan hệ
bạn bè ấy (Berndt,1996). Theo lứa tuổi thanh thiếu niên, một mối quan hệ bạn
bè có chất lượng tốt là khi chúng chia sẻ mọi thứ, tiết lộ suy nghĩ hoặc cảm xúc
cá nhân cho nhau và những tiết lộ trên là việc chứng minh cho một mối quan hệ
bạn bè có gắn kết, thân mật. lOMoARcPSD| 61830286
Hình 1. Mô hình nghiên cứu tác động của overthinking lên chất lượng mối quan hệ bạn bè
1.4 Mẫu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của nhóm là 396 sinh viên trên tổng 40000 sinh viên
trường đại học Văn Lang, một môi trường tư thục ở TPHCM.
1.5 Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu này được thực hiện thông qua 2 giai đoạn. Ở giai đoạn nhóm nghiên
cứu sử dụng phương pháp chuyên gia, trên cơ sở tham khảo ý kiến chuyên gia
(giáo viên hướng dẫn) để định hướng cho đề tài, sau đó tìm hiểu các nghiên cứu
liên quan đến đề tài, tiếp đến thảo luận nhóm và chuyển ngữ thang đo và hoàn
thiện cũng như thiết kế bảng câu hỏi điều tra trước khi tiến hành khảo sát sơ bộ.
Sau đó, tác giả tiến hành khảo sát sơ bộ đối với các đối tượng nghiên cứu là sinh
viên khối ngành KH&XH của trường Đại học Văn Lang để hoàn thiện bảng câu
hỏi trước khi tiến hành khảo sát chính thức. Bảng câu hỏi khảo sát chính thức
gồm (liệt kê số lượng biến) đo lường theo thang đo Likert từ 4 đến 7 mức độ.
Trong nghiên cứu này, do số lượng (bao nhiêu mẫu khảo sát) và (loại bỏ bao
nhiêu mẫu không hợp lệ) . Trong giai đoạn hai, nhóm nghiên cứu tiến hành kiểm
định độ tin cậy của thang đo với hệ số Cronbach’s Alpha (a), phân tích nhân tố
khám phá (EFA) và phân tích hồi quy để đánh giá mức độ của từng yếu tố.
1.6 Các đóng góp của nghiên cứu Ý nghĩa khoa học
Làm rõ những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng mối quan hệ bạn bè của sinh
viên Văn Lang qua overthinking. Đưa ra những phân tích cho thấy mối tương lOMoARcPSD| 61830286
quan giữa overthinking và các mối quan hệ bạn bè sẽ bị ảnh hưởng như thế nào
thông qua những kết quả từ việc điều tra bảng hỏi. Hiểu về sự ảnh hưởng của
overthinking lên mối quan hệ bạn bè của bản thân
Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của bài nghiên cứu giúp giới trẻ nói chung và sinh viên khoa xã hội nhân
văn nói riêng có sự nhìn nhận rõ hơn những yếu tố tiêu cực của overthinking đã
ảnh hưởng nhiều như nào đến mối quan hệ bạn bè của bản thân và giúp sinh viên
nâng cao nhận thức bảo vệ bản thân và mối quan hệ bạn bè của mỗi cá nhân
trước những tác động tiêu cực của overthinking và những yếu tố đã gây nên việc
bản thân overthinking Đồng thời đưa ra những giải pháp để đề phòng, khắc phục
kịp thời những tác động tiêu cực từ overthinking lên các mối quan hệ xã hội nói
chung và mối quan hệ bạn bè nói riêng. Hướng dẫn cho sinh viên những phương
pháp để bảo vệ các mối quan hệ bạn bè, củng cố sức khoẻ tinh thần và điều chỉnh
suy nghĩ của bản thân. Đề xuất ra những phương pháp xử lý trước những suy
nghĩ mang tính độc hại và có thể ảnh hưởng đến bản thân sinh viên và mối quan hệ bạn bè vốn có
Bao quát, bài nghiên cứu trên còn cung cấp thông tin tham khảo cho cộng đồng
để hiểu hơn về những khía cạnh tiêu cực mà overthinking mang lại cho bản thân
và các mối quan hệ bạn bè như sự nghi ngờ, thiếu tự tin,...những yếu tố trên rất
dễ dẫn đến sự rạn nứt,hiểu lầm. Từ đó rút ra cho bản thân một sự thận trọng và
tính chắc chắn trước yếu tố tiêu cực khi đang xây dựng một mối quan hệ bạn bè,
từ đó sinh viên sẽ có cho mình những mối quan hệ bền vững hơn. CHƯƠNG 1:
1.1 Tổng quan nghiên cứu về overthinking ảnh hưởng thế nào đến chất lượng mối quan hệ bạn bè
1.1.1 Các nghiên cứu liên quan đến đề tài nghiên cứu
Tổng quan về ovtk, dẫn dắt về vấn đề của bài nghiên cứu
1. Association between friendship quality and subjective wellbeing among
adolescents: a systematic review (Liên kết giữa chất lượng tình bạn và cảm xúc
chủ quan của thanh thiếu niên: một đánh giá hệ thống)

Bài viết này nói về mối liên hệ giữa chất lượng tình bạn và hạnh phúc chủ quan ở
thanh thiếu niên ( Abdullah Alsarrani , Ruth F Hunter , Laura Dunne , Leandro Garcia)
. Bài nghiên cứu bao gồm sự hòa nhập xã hội với bạn bè và vai trò của nó trong việc
định hình hành vi và hạnh phúc của thanh thiếu niên. Bài báo cũng định nghĩa hạnh
phúc chủ quan và sáu cấu trúc tạo nên nó. Chất lượng tình bạn có mối liên hệ tích
cực với tất cả sáu cấu trúc của hạnh phúc chủ quan. Những cấu trúc này bao gồm lOMoARcPSD| 61830286
tâm trạng, sự cô đơn, sự hài lòng với cuộc sống, hạnh phúc, lòng tự trọng và hạnh phúc chủ quan.
2. Self-Critical Thinking and Overgeneralization in Depression and Eating
Disorders: An Experimental Study. (tạm dịch: suy nghĩ tự kiểm và tổng quát
hóa quá mức trong rối loạn ăn uống và rối loạn trầm cảm)

Nghiên cứu này cho thấy suy nghĩ tự ti có thể đóng vai trò quan trọng trong
việc tổng quát hóa quá mức. Tổng quát hóa quá mức là việc đưa ra kết luận
chung từ một trải nghiệm tiêu cực đơn lẻ. Nghiên cứu đã phân tích ba nhóm:
người mắc bệnh trầm cảm, rối loạn ăn uống và nhóm kiểm soát không mắc
bệnh lý tâm thần. Kết quả cho thấy, sau khi trải nghiệm thất bại, cả nhóm trầm
cảm và rối loạn ăn uống đều có xu hướng tổng quát hóa tiêu cực về bản thân
nhiều hơn so với nhóm kiểm soát.
3. Friendship Quality and Social Development (tạm dịch: Chất lượng mối quan
hệ bạn bè và sự phát triển của xã hội)
Một mối quan hệ bạn bè chất lượng cao được đặc trưng bởi mức độ cao của hành vi
hỗ trợ xã hội, sự gần gũi và những đặc điểm tích cực khác, đồng thời có mức độ
thấp của mâu thuẫn, ganh đua và những đặc điểm tiêu cực khác. Chất lượng của mối
quan hệ bạn bè đã được cho là có tác động trực tiếp đến nhiều khía cạnh của phát
triển xã hội của trẻ em, bao gồm tự hào bản thân và điều chỉnh xã hội của họ. Tuy
nhiên, nghiên cứu gần đây cho thấy rằng chất lượng mối quan hệ bạn bè ảnh hưởng
chủ yếu đến sự thành công của trẻ trong xã hội của các bạn cùng trang lứa. Chất
lượng của mối quan hệ bạn bè cũng có thể có tác động gián tiếp, bằng cách tăng
hoặc giảm sự ảnh hưởng của bạn bè lên những thái độ và hành vi của nhau. Có bạn
bè tốt có thể làm giảm xu hướng bắt chước hành vi của những người bạn ngại ngùng
và rút lui, nhưng chưa có nhiều bằng chứng hỗ trợ giả thuyết rằng các mối quan hệ
bạn bè chất lượng cao làm tăng sự ảnh hưởng của bạn bè lên nhau.
4. Commitment and Trust in Young Adult Friendships (tạm dịch: Sự trách
nhiệm và niềm tin ở trong mối quan hệ bạn bè của giới trẻ)
Nghiên cứu này nhằm xác định vai trò của niềm tin giữa các bạn trong mối quan hệ
bạn bè thanh thiếu niên và liệu niềm tin có phản ánh sự cam kết của đối tác. Nghiên
cứu sử dụng mô hình tương quan và phân tích đa cấp để chứng minh rằng cá nhân
tin tưởng bạn bè ở mức độ mà bạn bè cam kết với mối quan hệ, với sự nhận thức về
cam kết của bạn bè đóng vai trò trung gian. Kết quả cho thấy bạn bè thường thể hiện
một mức độ cam kết lẫn nhau vừa phải. Nghiên cứu cũng đề cập đến các hướng
nghiên cứu tiềm năng về sự phát triển và hậu quả của niềm tin trong các mối quan hệ bạn bè thân thiết.
5. Trust, respect and friendship (tạm dịch: Tin tưởng, tôn trọng và tình bạn)
Một mẫu gồm 146 học việc trong ngành xây dựng (chủ yếu là nam thanh niên) tại lOMoARcPSD| 61830286
Australia đã tự báo cáo về các mối quan hệ quan trọng của họ cũng như các đặc
điểm chính của những mối quan hệ này. Các kết quả cho thấy rằng các thanh niên
chia sẻ sự kiện, tiết lộ những bí mật và tìm kiếm sự giúp đỡ từ gia đình, bạn đời và
bạn bè thân thiết. Những đặc điểm chính của những mối quan hệ này là sự tin
tưởng, sự tôn trọng và tình bạn.Đáng lo ngại là có khoảng 10% trong số các học
việc này đang đối diện với nguy cơ cô lập xã hội và không có ai để họ có thể dựa
vào để được hỗ trợ.
6. Recalled peer relationship experiences and current levels of self-criticism
and self-reassurance (tạm dịch: Ký ức về các trải nghiệm trong quan hệ bạn bè
và mức độ hiện tại của tự chỉ trích và tự an ủi)

Mục tiêu của nghiên cứu là điều tra vai trò của ký ức về việc nuôi dạy từ phía cha
mẹ và các mối quan hệ bạn bè trong sự phát triển của tự chỉ trích và tự an ủi. Nhiều
nghiên cứu đã chỉ ra rằng các yếu tố nhân cách có thể tăng hoặc giảm sự dễ tổn
thương đối với trầm cảm, nhưng ít nghiên cứu đã xem xét vai trò của mối quan hệ
bạn bè trong sự phát triển của những yếu tố này. Do đó, nghiên cứu này nhằm điều
tra vai trò của ký ức về việc nuôi dạy từ phía cha mẹ và các trải nghiệm với bạn bè
trong việc phát triển tự chỉ trích và tự an ủi. Giả thuyết của nghiên cứu là rằng, sau
khi kiểm soát các hành vi nuôi dạy từ phía cha mẹ được ghi nhớ, các trải nghiệm cụ
thể về các mối quan hệ bạn bè sẽ liên quan đến mức độ hiện tại của các dạng cụ thể
của tự chỉ trích và tự an ủi.
7. Men's friendships, women's friendship and the alleged inferiority of the
latter (tạm dịch: Mối quan hệ bạn bè ở nam giới, mối quan hệ bạn bè ở nữ giới
và quan điểm rằng mối quan hệ bạn bè của phụ nữ kém hơn so với nam giới)

Trong hơn một thập kỷ nghiên cứu sử dụng một mô hình và kỹ thuật để nghiên cứu
các mối quan hệ bạn bè cùng giới đã phát hiện ra một số sự khác biệt không mong
đợi ban đầu giữa nam và nữ. Các khía cạnh liên quan của nghiên cứu này được xem
lại. Tổng thể, các kết quả cho thấy sự khác biệt tổng thể giữa nam và nữ có thể dễ
dàng được giải thích dựa trên các vai trò giới truyền thống và các thực hành xã hội
hóa. Tuy nhiên, khi tìm thấy sự khác biệt, chúng hiếm khi rất lớn hoặc rõ ràng và
do đó không cung cấp cơ sở vững chắc để dự đoán tính chất của mối quan hệ bạn
bè của bất kỳ cặp nam hay nữ nào cụ thể. Hơn nữa, khi các mối quan hệ bạn bè được
nghiên cứu giới hạn trong những mối quan hệ rất mạnh mẽ và lâu dài, không có sự
khác biệt rõ rệt giữa nam và nữ được phát hiện. Sự chú ý đặc biệt được dành cho
tranh luận rằng các mối quan hệ bạn bè của phụ nữ kém hơn so với nam giới.
8. Co-worry in friendship dyads (tạm dịch: Lo lắng chung ở các cặp bạn thân)
Các rối loạn lo âu tăng tỷ lệ từ thời thơ ấu đến khi trưởng thành. Mặc dù các lý thuyết
nhận thức nổi bật trong nguyên nhân và duy trì lo âu, các mối quan hệ bạn bè đang lOMoARcPSD| 61830286
nổi lên như những yếu tố rủi ro liên cá nhân quan trọng. Nghiên cứu này điều tra
ảnh hưởng của các trao đổi liên cá nhân cụ thể đối với triệu chứng lo âu ở sinh viên đại học.
60 sinh viên đại học tham gia thí nghiệm cùng với người bạn thân cùng giới và được
phân ngẫu nhiên vào hai nhóm: nhóm trò chuyện lo lắng (đồng lo) và nhóm trò
chuyện trung lập. Mỗi người hoàn thành các biện pháp tự báo cáo về lo âu trạng thái,
ảnh hưởng tiêu cực và ảnh hưởng tích cực trước và sau cuộc trò chuyện kéo dài 8
phút về các chủ đề lo lắng tự tạo ra như kỳ thi hoặc các chủ đề trung lập như thời
tiết. Các cuộc trò chuyện đã được quay video để mã hóa.
Kết quả cho thấy, sự tương tác giữa thời gian và điều kiện thí nghiệm có ảnh hưởng
đáng kể đến lo âu trạng thái, F(1, 104) = 11.62, p = .001, ảnh hưởng tiêu cực, F(1,
108) = 4.40, p = .038, và ảnh hưởng tích cực, F(1, 108) = 4.74, p = .032. Những
người tham gia nhóm trò chuyện trung lập giảm lo âu trạng thái và ảnh hưởng tiêu
cực, đồng thời tăng ảnh hưởng tích cực, trong khi những người tham gia nhóm trò
chuyện lo lắng duy trì trạng thái lo âu và ảnh hưởng tiêu cực.
1.1.2 Cơ sở phương pháp luận
Thuật ngữ “Overthinking” được sử dụng lần đầu tiên vào những năm 1628. Đây
là thuật ngữ được sử dụng để chỉ sự suy nghĩ quá nhiều về một vấn đề và từ đó
dẫn đến tác động tiêu cực đối với tinh thần con người. Dù xuất hiện khá lâu
nhưng overthinking chỉ thật sự phổ biến vào thời kỳ hiện đại, lúc mà con người
bắt đầu để ý đến sức khỏe tinh thần và các vấn đề tâm lý. Sự phổ biến của
overthinking được thể hiện ở một số yếu tố như giúp con người gia tăng về sức
khỏe tinh thần (các nhà tâm lý học, các chuyên gia sức khỏe bắt đầu nhận thấy
nghĩ quá nhiều đem lại ảnh hưởng tiêu cực đến con người), ảnh hưởng trên các
phương tiện truyền thông (xuất hiện các đầu tạp chí, các hội thảo nhắc về hiện
tượng overthinking) hay các nghiên cứu về overthinking đang dần xuất hiện
nhiều hơn. Và để đi sâu hơn về khái niệm overthinking và những ảnh hưởng tiêu
cực của khái niệm trên thì bài nghiên cứu Đầu tiên, nhóm nghiên cứu thực hiện
phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia để xác định đề tài nghiên cứu và hỗ
trợ trong việc thiết kế mô hình và quy tình nghiên cứu. Tiếp đến nhóm nghiên
cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu trên nền tảng sẵn từ phương pháp chuyên gia .....
Tuy không phổ biến ở quốc tế như phương pháp nghiên cứu chuyên gia, song
phương pháp nghiên cứu tài liệu cũng là một kiểu phương pháp khá phổ biến ở
môi trường nghiên cứu Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu tài liệu, là quá trình
thu thập các thông tin, đánh giá, phân tích đến từ các tài liệu đã được công bố,
có sẵn hoặc được lưu trữ. Ở đề tài nghiên cứu “Ảnh hưởng của overthinking đến
chất lượng mối quan hệ bạn bè của sinh viên Văn Lang", các bước thực hiện đều lOMoARcPSD| 61830286
đi theo các chỉ dẫn cơ bản của phương pháp nghiên cứu chuyên gia như chuyên
gia được chọn là giảng viên hướng dẫn môn học, thông tin thu thập đều thông
qua sự kiểm duyệt, hướng dẫn của chuyên gia và phương pháp nghiên cứu tài
liệu bằng những tài liệu tham khảo trên Research gate, Google scholar, American
Psychology Association, sách nghiên cứu và các bài nghiên cứu có sẵn. Thông
qua những bước kể trên, bài nghiên cứu đã có được những số liệu tương đối phù
hợp để tiến hành nghiên cứu và đưa ra kết luật.
Với mục tiêu nghiên cứu từ đề tài, nhóm nghiên cứu chọn loại nghiên cứu định
lượng để nhằm đo lường sự tác động tiêu cực của overthinking đến chất lượng
mối quan hệ . Nghiên cứu chọn phương pháp định lượng nhằm tìm hiểu tính
tương tương quan của các biến thông qua việc đo lường các biến, kiểm tra phân
tích số liệu bằng phân tích thống kê.
Đối với nghiên cứu này, các mẫu nghiên cứu sẽ được chọn trong môi trường đại
học Văn Lang để dễ tiếp cận các bạn sinh viên và hỗ trợ các sinh viên làm mẫu
tham gia khảo sát. Mẫu nghiên cứu sẽ được lựa chọn dựa trên việc đo lường kích
thước mẫu, tìm ra phương pháp chọn mẫu, độ tin cậy và sai số, tính đa dạng của
mẫu và kiểm tra giả thuyết. Bước đầu trong quy trình chọn mẫu sẽ là đo lường,
sử dụng công thức chuẩn để tìm ra số mẫu, trong qua trình tính toán sẽ có sai số
cho số mẫu cần tìm (ví dụ: 0,05). Sau khi tìm được số mẫu cần khảo sát, bài
nghiên cứu phải có một phương pháp chọn mẫu phù hợp để tránh các trường hợp
như sai sót không đáng kể. Và phương pháp được chọn trong bài nghiên cứu này
là phương pháp chọn mẫu thuận tiện (nằm trong các phương pháp chọn mẫu phi xác suất). Lý do kho
Dữ liệu trong bài nghiên cứu được thu thập dựa vào bảng hỏi Google Form xây
dựng dựa trên các lý thuyết thang đo đã chuẩn hóa , một hiệu năng làm bảng hỏi
khá phổ biến với các đối tượng đang làm nghiên cứu sử dụng phương pháp thu
thập dữ liệu bằng bảng hỏi online. Bảng hỏi được tạo bởi Google form giúp thu
thập, thống kê và phân loại câu hỏi trong quá trình hoạt động, một tính năng khá
hữu ích giúp sinh viên sàng lọc thông tin nhanh, tránh mất thời gian hơn việc
sàng lọc thủ công. Quy trình thu thập thông tin diễn ra rất nhanh khi có sự trợ
giúp của bảng hỏi online.
Trước khi bước vào quá trình thu thập dữ liệu, xây dựng bảng hỏi sẽ là bước mấu
chốt quyết định hầu hết các kết quả nhận được có độ tin cậy hay không, nên bước
xây dựng 1 bảng hỏi là bước quan trọng nhất trong quy trình thu thập dữ liệu. Để
có được một form bảng hỏi hoàn chỉnh để khảo sát thu thập dữ liệu, cần có được
đầy đủ thông tin của các thang đo mà bài nghiên cứu đang thực hiện như thang
đo đã được kiểm chứng độ tin cậy hay chưa, thang điểm dựa trên likert hay là lOMoARcPSD| 61830286
một thang điểm riêng biệt ví dụ như thang đo về sự tự ti của Rosenberg. Thường
các thang đo không phổ biến sẽ không có bản việt hoá nên khi phiên dịch thang
đo cũng cần có sự kiểm tra về dịch thuật đến từ các chuyên gia hướng dẫn hoặc
một bên chuyên về ngôn ngữ để có được độ dễ hiểu và dịch thuật đúng nhất. Sau
khi xong bước xây dựng xong bảng hỏi thì bước tiến hành thu thập dữ liệu sẽ
diễn ra hơn các bước trên, nhưng trong quá trình thu thập cần đảm bảo các mẫu
khảo sát phải trả lời trung thực, không bỏ sót câu hỏi và đồng ý thực hiện khảo
sát để tránh những lỗi đáng tiếc xảy ra trong quá trình thu thập dữ liệu.
Dữ liệu có thể sử dụng là dữ liệu đã mã hoá và chạy qua phần mềm thống kê,
phân tích dữ liệu sẽ có nhiều loại nhưng với phân tích sử dụng định lượng thì
nhóm nghiên cứu sẽ sử dụng chủ yếu là phần mềm SPSS. Trước khi đưa vào
SPSS để chạy xác suất thống kê cần mã hoá số liệu, một bước đóng vai trò sàng
lọc lần 2 các dữ liệu và quyết định tính đúng sai thông qua việc so sánh dựa trên
các tiêu chuẩn có sẵn của số liệu để đưa vào nghiên cứu sau này. Các kết quả của
bài nghiên cứu cần được đưa vào phần mềm Excel để tiến hành mã hoá theo quy
trình và đưa thứ tự các dữ liệu vào phần mềm thống kê SPSS. Quá trình thống
kê và mã hoá dữ liệu chiếm phần lớn thời gian vì các số liệu cần mã hoá bằng
tay và cần kiểm tra nhiều lần để tránh các lỗ hổng null (bỏ trắng) trong phần dữ
liệu vì sẽ có một số lượng mẫu khảo sát không đem lại chất lượng đồng đều và
mang tính tin cậy cao. Trong quá trình chạy phân tích sẽ có một số biến mang hệ
số bé hơn 0,5, nếu như số lượng ít thì có thể loại ra để bảng thống kê ổn định
hơn nhưng nếu sai cả biến lớn thì cần tìm ra nguyên do vì vấn đề sai cả biến lớn
rất dễ dẫn đến sai các phần sau đó. Nguyên do có thể đến từ nhiều khía cạnh
nhưng phần lớn là đến từ phần bảng hỏi và các thang đo trong bảng hỏi. Và trong
bài nghiên cứu này, đã có 1 số biến nhỏ không đạt yêu cầu hệ số nên đã bị loại
và nguyên nhân của vấn đề này đến từ việc không làm rõ ở phần thang đo có câu hỏi nghịch đảo.
Độ tin cậy là phần không thể thiếu trước khi đưa ra các con số thống kê vào bài
nghiên cứu. Độ tin cậy là thuật ngữ chỉ tính tin cậy của một thang đo có tính ổn
định trong các điều kiện khác nhau, độ tin cậy cao đồng nghĩa với thang đo sẽ
có khả năng đưa ra kết quả ổn định nhất, độ tin cậy sẽ là yếu tố quan trọng trọng
trong việc đảm bảo độ tin cậy của nghiên cứu. Trong bài nghiên cứu này, phần
mềm CA sẽ được sử dụng là công cụ để kiểm tra độ tin cậy của thang đo. Các
thang đo cần test độ tin cậy bao gồm : (1) Thang đo của sự tự ti, (2) thang đo
của sự tự phê bình/ chỉ trích/ an ủi, (3) thang đo tin tưởng, (4) thang đo của sự
suy nghĩ kiên trì và (5) thang đo chất lượng mối quan hệ bạn bè, các thang đo
trên đều có độ ổn định, đủ điều kiện để đưa vào chạy độ tin cậy. Các giá trị trên
được xác thực thông qua việc đánh giá lặp lại các biến bằng CA kèm so sánh các
chỉ số với các bài nghiên cứu đã sử dụng thang đo tương tự, trong quá trình đánh
giá lọc ra nhiều biến không đạt chuẩn và đã loại bỏ. Sau phần CA, các thang đo lOMoARcPSD| 61830286
và bảng đánh giá tin cậy đã được báo cáo lên các chuyên gia sau khi kiểm tra
theo tiêu chuẩn của từng thang đo để được thông qua một lần cuối trước khi đi
đến các bước tiếp theo và hoàn thành nghiên cứu.
Tuy nhiên, mỗi bài nghiên cứu đều có những nhược điểm đi kèm như vấn đề giới
hạn mẫu, phương pháp thu thập dữ liệu có vấn đề, thời gian thực hiện bị giới hạn
hoặc có sự tác động của các yếu tố ngoại lai. Ở bài nghiên cứu này có một nhược
điểm là phương pháp thu thập dữ liệu có vấn đề. Như đã trình bày ở trên, phần
dịch thuật thang đo không chuẩn xác đã khiến một phần mẫu khảo sát nhỏ khi
làm form khảo sát không nắm rõ ý nên xảy ra 2 trường hợp là từ chối trả lời hoặc
trả lời nhưng không hiểu câu hỏi dẫn đến sai lệch số liệu trong quá trình mã hoá
và chạy số liệu. Sau quá trình chỉnh sửa và tìm ra lỗi sai, để tránh việc sai sót
trong việt hóa thang đo các nghiên cứu sinh nên thông qua chính chuyên gia
hướng dẫn hoặc các chuyên gia ngôn ngữ, sử dụng những công cụ dịch thuật như
những loại từ điển điện tử đã được chuẩn hoá như từ điển Oxford, Cambridge,
Longman hay Ozidz, nếu các nghiên cứu sinh muốn tăng độ tin cậy trong dịch
thuật thì nên tìm các loại từ điển chuyên ngành phù hợp với từng mục đang
nghiên cứu. Ngoài ra, để một bài nghiên cứu có sự cải tiến hơn, nên trình bày và
nhận phản biện, góp ý từ chuyên gia để nhìn ra những mặt thiếu sót của bài ngoài
những lỗi mà chính các nghiên cứu sinh tự nhận ra và chỉnh sửa. Từ đó các bài
nghiên cứu sẽ dần hoàn thiện và có thể trở thành tài liệu nghiên cứu cho các bài nghiên cứu khác.
Trong toàn bộ bài nghiên cứu này đã sử dụng 2 phương pháp nghiên cứu bao
gồm phương pháp chuyên gia và phương pháp tham khảo tài liệu, ngoài ra bài
còn sử dụng phương pháp thu thập bảng hỏi dành cho nghiên cứu định lượng.
Nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của chuyên gia và thông tin từ tài liệu, tiến hành
khảo sát 396 mẫu trên tổng 40000 sinh viên của trường đại học Văn Lang, sau
khi đủ số mẫu tiếp tục tiến hành chạy dữ liệu và độ tin cậy. Các phương pháp
trên đã khiến cho góc nhìn của bài nghiên cứu rộng và đa chiều hơn, và phương
pháp thu thập thông tin đã mang lại các mẫu dữ liệu khá lớn chỉ trong một thời
gian ngắn. Tuy nhiên, bài vẫn còn một số hạn chế về mặt dịch thuật nhưng đã có
phương pháp khắc phục như đã nêu trên. Các phương pháp nghiên cứu trên đã
góp phần trong việc dẫn dắt bài nghiên cứu đầu tay đi đến bước cuối cùng mà
không gặp quá nhiều trở ngại, giúp giải đáp các thắc mắc đến từ các chuyên gia và tài liệu tham khảo.
CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
2.1. Mô tả mẫu nghiên cứu Số lượng (n) Tỉ lệ (%) Giới tính Nam 74 33% lOMoARcPSD| 61830286 Nữ 134 59,8% Khác 16 7,2% Tuổi 19 41 18,3% 20 88 39,2% 21 59 26,3% 22 36 16,2% Niên khóa K29 47 20,9% K28 84 35,7% K27 62 27,6% K26 31 15,8%
Bảng 2.1 Đặc điểm nhân khẩu học của mẫu nghiên cứu
Nghiên cứu đã tiến hành khảo sát 224 sinh viên đang học tập tại Trường Đại học
Văn Lang. Trong 224 sinh viên thực hiện phiếu khảo sát, không có sinh viên nào
từ chối tham gia nghiên cứu. Một số đặc điểm nhân khẩu học của khách thể nghiên cứu.
Khảo sát thu được kết quả từ 74/224 sinh viên là nam (33%), 134/224 sinh viên
nữ (59,8%) và 16/224 sinh viên khác (7,2%). Trong đó, độ tuổi sinh viên tham
gia khảo sát chiếm tỷ trọng lớn nhất là 20 tuổi (39,2%), tiếp theo là sinh viên 21
tuổi (26,3%), tỷ lệ người tham gia 19 tuổi (18,3%) và thấp nhất là sinh viên 22 tuổi chỉ chiếm (16,2%).
Tỷ lệ sinh viên thuộc khóa K28 chiếm tỷ lệ cao nhất với 35,7%. Tiếp đến là sinh
viên khóa K27 chiếm 27,6% và sinh viên khóa K29 là 20,9%. Thấp nhất là sinh
viên khóa K26 chỉ chiếm 15,8%.
2.2. Kiểm tra phân phối chuẩn của các biến số Mean Std. Skewness Kurtosis Deviation Statistic Statistic Statistic Std. Error Statistic Std. Error FQQ 3,191 0,435 0,520 0,163 -0,330 0,324 lOMoARcPSD| 61830286 DYS 4,138 1,077 0,289 0,163 -0,337 0,324 PTQ 3,072 0,539 0,343 0,163 0,974 0,324 FSCRS 3,051 0,391 0,811 0,163 2,885 0,324
2.3. Đánh giá độ tin cậy của thang đo
Nhóm sử dụng hệ số Cronbach’s Alpha để đo lường độ tin cậy của thang đo các
yếu tố trong mô hình nghiên cứu. Trong đó các biến quan sát có hệ số tương
quan biến tổng (Item – total correlation) nhỏ hơn 0.3 sẽ bị loại và tiêu chuẩn
chọn thang đo khi nó có độ tin cậy Alpha từ 0.7 trở lên (Nguyễn Đình Thọ, 2011).
Thang đo Chất lượng mối quan hệ bạn bè có biến quan sát FQQ1, FQQ2, FQQ7,
FQQ11, FQQ12, FQQ14, FQQ17; thang đo Sự tự phê phán, sự tự chỉ trích và tự an ủi
bản thân có biến quan sát FSCRS2, FSCRS3, FSCRS5, FSCRS8, FSCRS11, FSCRS12,
FSCRS13, FSCRS15, FSCRS17, FSCRS18, FSCRS21, FSCRS23 có hệ số tương quan
biến tổng < 0.3, không đạt yêu cầu. Vì vậy, loại biến quan sát này và chạy lại cronbach
alpha lần 2 cho thang đo. Riêng thang đo Sự tự phê phán, sự tự chỉ trích và tự an ủi bản
thân đo lường 3 yếu tố tự phê phán bản thân, tự chỉ trích bản thân và tự an ủi bản thân
nên việc loại các biến không phù hợp với mục tiêu nghiên cứu ban đầu là cần thiết. Kết
quả chi tiết kiểm định hệ số tin cậy của các thang đo được thể hiện tại bảng 2.3 sau khi
loại biến quan sát FQQ1, FQQ2, FQQ7, FQQ11, FQQ12, FQQ14, FQQ17, FSCRS2,
FSCRS3, FSCRS5, FSCRS8, FSCRS11, FSCRS12, FSCRS13,
FSCRS15, FSCRS17, FSCRS18, FSCRS21, FSCRS23 Thang đo Kí hiệu Biến quan Biến quan Hệ số Hệ số tương
sát ban đầu sát còn lại Cronbach quan biến Alpha tổng thấp nhất Chất lượng FQQ 23 16 0.834 0.312 mối quan hệ bạn bè Sự tin DYS 8 8 0.814 0.306 tưởng Sự kiên trì PTQ 15 15 0.784 0.306 trong suy nghĩ lOMoARcPSD| 61830286 Sự tự phê FSCRS 24 12 0.736 0.303 phán, tấn công và an ủi bản thân
Bảng 2.3 Kết quả kiểm tra độ tin cậy
Tất cả các thang đo đều có hệ số Cronbach Alpha lớn hơn 0.6 nên đạt yêu cầu
(Hoang & Chu, 2005). Dựa vào bảng 2.3 hiển thị kết quả phân tích Cronbach alpha của
các thang đo các khái niệm được trình bày, cho thấy tất cả các khái niệm đo lường đều
đạt hệ số Cronbach Alpha từ 0.70 trở lên. Cụ thể, hệ số Cronbach Alpha dao động từ
0.736 đến 0.834, các biến quan sát đều có hệ số tương quan biến tổng từ 0.30 trở lên.
Như vậy, thang đo các khái niệm trong mô hình nghiên cứu đạt độ tin cậy yêu cầu và
được tiếp tục đưa vào thực hiện phân tích EFA.
2.4. Phân tích nhân tố khám phá EFA
2.4.1. Kết quả phân tích biến độc lập
Yếu tố cần đánh giá Giá trị bảng So sánh Hệ số KMO 0.763 0< 0,7863< 1
Giá trị Sig trong kiểm 0,001 0,001< 0,05 định Bartlett Phương sai trích 55,18% 55,18%> 50% Giá trị Eigenvalue 1.261 1,161> 1 lOMoARcPSD| 61830286 Component 1 2 3 DYS7 0,746 DYS8 0,743 DYS3 0,733 DYS4 0,675 DYS5 0,615 DYS6 0,575 DYS1 0,557 FQQ23 0,682 FQQ21 0,657 FQQ20 0,607 FQQ18 0,582 FSCRS10 0,685 FSCRS14 0,626 lOMoARcPSD| 61830286 FSCRS24 0,612 FSCRS19 0,579
2.4.2 Kết quả phân tích biến trung gian Yếu tố cần đánh giá Giá trị bảng So sánh Hệ số KMO 0.788 0< 0,788< 1
Giá trị Sig trong kiểm 0,001 0,001< 0,05 định Bartlett Phương sai trích 52,05% 52,05%> 50% Giá trị Eigenvalue 1.146 1,146> 1 Component 1 2 3 PTQ2 0,737 PTQ7 0,634 PTQ3 0,598 lOMoARcPSD| 61830286 PTQ11 0,594 PTQ12 0,521 PTQ1 0,777 PTQ4 0,626 PTQ8 0,546 PTQ9 0,506 PTQ14 0,679 PTQ5 0,676 PTQ13 0,614 PTQ15 0,528
2.4.3. Kết quả phân tích biến phụ thuộc Yếu tố cần đánh giá Giá trị bảng So sánh Hệ số KMO 0.873 0< 0,873< 1 lOMoARcPSD| 61830286
Giá trị Sig trong kiểm 0,001 0,001< 0,05 định Bartlett Phương sai trích 53,75% 53,75%> 50% Giá trị Eigenvalue 1.177 1,177> 1 Component 1 2 3 FQQ18 0,699 FQQ23 0,650 FQQ3 0,609 FQQ13 0,590 FQQ22 0,670 FQQ4 0,654 FQQ8 0,512 lOMoARcPSD| 61830286 FQQ16 0,637 FQQ19 0,624 FQQ20 0,558 FQQ4 0,549 FQQ10 0,526
Phân tích khám phá (Exploratory Factor Analysis) là một phương pháp thống kê được
sử dụng để tìm ra các cấu trúc tiềm ẩn trong dữ liệu. Phân tích này nhằm khám phá các
yếu tố tiềm ẩn đại diện cho sự ảnh hưởng của overthinking với chất lượng mối quan hệ
bạn bè ở môi trường trường Đại học Văn Lang. Dữ liệu được thu thập từ 400 sinh viên
thông qua khảo sát trực tuyến, khảo sát gồm 5 mục cùng số lượng câu hỏi khác nhau
nhằm đánh giá các yếu tố hình thành overthinking và overthinking đã ảnh hưởng như
thế nào đến chất lượng mối quan hệ bạn bè. Hệ số KMO cho 3 loại biến được phân tích
hệ EFA lần lượt là 0.763,0.788, 0.873, các hệ số trên cho thấy dữ liệu phù hợp với EFA.
Sử dụng PCA, nhóm nghiên cứu trích xuất được 3 yếu tố với eigenvalues lớn hơn 1,
giải thích tổng phương sai đều lớn hơn 50%. Phương pháp xoay Varimax được áp dụng
để làm rõ cấu trúc yếu tố. Kết quả cho thấy được nhóm thành 3 yếu tố chính. (1)
Overthinking bao gồm các câu hỏi về việc việc suy nghĩ lặp đi lặp lại đã diễn ra như
thế nào, (2) Chất lượng mối quan hệ bạn bè là thang đo khảo sát liệu có đang ở trong
một mối quan hệ bạn bè lành mạnh và chất lượng cao hay không, (3) các yếu tố gây nên
overthinking bao gồm tự ti, thiếu tin tưởng và tự phê bình và câu hỏi sẽ về liệu các mẫu
nghiên cứu có gặp tình trạng như trên và dẫn đến overthinking. Phân tích EFA đã
2.5. Phân tích tương quan Pearson
Tương quan Pearson phương pháp thống kê được sử dụng để đo lường mối quan hệ
tuyến tính giữa 2 biến số. Ký hiệu là r và có giá trị nằm khoảng từ -1 đến 1. Mục tiêu
của phân tích này là xác định mối quan hệ giữa overthinking và chất lượng mối quan
hệ bạn bè. Hệ số tương quan Pearson được tính là 0.564. Hệ số cho thấy 1 mối tương
quan trung bình giữa overthinking và chất lượng mối quan hệ bạn bè. Tuy nhiên cần
lưu ý rằng tương quan giữa 2 biến trên không nhất thiết chỉ ra mối quan hệ nhân quả.
Có thể sẽ có các yếu tố khác ảnh hưởng đến chất lượng mối quan hệ nhưng không được
phân tích và đánh giá trong bảng này.