
















Preview text:
lOMoAR cPSD| 39651089
BÀI 2: CÁC KHOANG LIÊN KẾT – MẠC VÙNG ĐẦU MẶT CỔ Mục tiêu học tập
Sau khi học xong bài này sinh viên có khả năng
1. Mô tả giới hạn các khoang mạc vùng đầu mặt cổ
2. Giải thích được sư lưu thông giữa các khoang khi có dịch 1. DA VÙNG ĐẦU MẶT 1.1. Da đầu
Da đầu (scalp) có cấu trúc giải phẫu đặc biệt, gồm 5 lớp chính từ ngoài vào trong,
được ghi nhớ bằng chữ viết tắt SCALP: -S: Skin (Da):
Lớp ngoài cùng, chứa nang lông, tuyến bã nhờn và tuyến mồ hôi.
Nhiều mạch máu và thần kinh, giúp nuôi dưỡng và chi phối cảm giác.
-C: Connective Tissue (Mô liên kết):
Lớp mô liên kết dày đặc chứa nhiều mạch máu và thần kinh.
Là nơi các mạch máu bám chặt vào, làm cho vết thương da đầu dễ chảy máu nhiều. -A: Aponeurosis (Màng cân):
Còn gọi là cân Galia, là một tấm gân chắc, nối cơ trán (trước) và cơ chẩm (sau).
Giúp duy trì sự căng của da đầu và có vai trò trong biểu hiện khuôn mặt.
-L: Loose Connective Tissue (Mô liên kết lỏng lẻo):
Lớp mô liên kết lỏng lẻo chứa ít mạch máu nhưng tạo không gian giúp da đầu di động trên hộp sọ.
Đây là “khoang nguy hiểm” vì nhiễm trùng có thể lan nhanh theo tĩnh mạch thông nối vào hộp sọ.
-P: Periosteum (Màng xương):
Lớp màng xương bọc ngoài xương sọ, có vai trò nuôi dưỡng và tái tạo xương. lOMoAR cPSD| 39651089
Bám chắc vào xương sọ, trừ các vùng có đường khớp sọ, nơi màng xương dễ bị bóc tách. 1.2. Da mặt
Mô mềm của khuôn mặt được sắp xếp đồng tâm từ nông vào sâu gồm năm lớp cơ
bản: (1) da; (2) lớp dưới da; (3) lớp cân cơ nông; (4) lớp dây chằng và các khoang;
và (5) màng xương và lớp cân sâu Lớp da:
Lớp biểu bì là lớp giàu tế bào chủ yếu bao gồm các thế bào keratinocyte khác nhau
và một số lượng nhỏ hơn của các hắc tố bào (melanocyte) sản xuất melanin và các
tế bào Langerhans kháng nguyên. Lớp hạ bì là lớp bên dưới của lớp cân bề mặt cấu
trúc và bao gồm chủ yếu là chất căn bản ngoại bào được tiết ra bởi nguyên bào sợi.
Một mạng lưới chằng chịt các mạch máu là một thành phần quan trọng của lớp hạ
bì. Độ dày của lớp hạ bì liên quan đến chức năng của nó và có xu hướng tỷ lệ nghịch
với tính di động của nó. Lớp hạ bì mỏng nhất ở mí mắt và dày nhất trên trán và đầu
mũi Lớp mô mỡ dưới da:
Các sợi xơ và lớp mỡ hợp thành lớp mô xơ mỡ dưới da có hai thành phần: lớp mỡ
dưới da, là lớp tạo nên độ dày, và thành phần xơ liên kết lớp xơ mỡ với lớp hạ bì.
Số lượng, tỷ lệ và sắp xếp của từng thành phần là khác nhau ở các vùng khác
nhau trên khuôn mặt. Ở da đầu, lớp dưới da có độ dày và độ đồng đều nhất quán
cố định cho lớp hạ bì. Ngược lại, ở vùng mặt nói riêng, lớp dưới da có sự thay đổi
đáng kể về độ dày và thành phần đi kèm. Ở các vị trí chuyên biệt như mí mắt và
môi, lớp này mỏng đáng kể và có ít mỡ. Ở các khu vực khác, chẳng hạn như đoạn
mũi-môi, lớp này rất dày.Hơn nữa, các dây chằng xơ không đồng đều trên bề
mặt, mà thay đổi về hướng và mật độ theo các cấu trúc giải phẫu sâu bên dưới.
Rõ ràng khi giải phẫu lớp 4 bên dưới được mô tả, tại vị trí của dây chằng níu giữ,
những sợi cân của da có hướng thẳng đứng là dày đặc nhất và có hiệu quả nhất lOMoAR cPSD| 39651089
trong việc nâng đỡ cho các mô mềm phía trên và đồng thời tạo thành các ranh
giới phân chia với lớp mỡ dưới da Hệ thống cân cơ nông:
Các cơ giúp biểu lộ cảm xúc trên khuôn mặt. Tất cả các cơ biểu lộ cảm xúc trên
khuôn mặt chủ yếu được nằm trên và xung quanh hốc mắt, khoang miệng. Các khoang dây chằng:
Đó là một khu vực nhiều phức tạp và chứa đựng các cấu trúc sau: (1) khoang mô
mềm; (2) dây chằng níu giữ; (3) các cơ lớp sâu và đầu bám xương của các cơ mặt;
và (4) các nhánh thần kinh mặt, đi từ sâu đến nông. Về chức năng, một loạt các
khoang mô mềm tồn tại trong lớp 4 cho phép chuyển động độc lập của các cơ quanh
hốc mắt và quanh hốc miệng để biểu hiện cảm xúc. Các dây chằng níu giữ của mặt
được đặt trong ranh giới giữa các khoảng mô mềm và các chức năng nhằm để củng cố ranh giới này.
Màng xương và lớp cân sâu
Các cân sâu, lớp mô mềm sâu nhất của khuôn mặt, hoặc là màng xương , nơi
mà nó phủ lên trên xương. Trên vùng mặt bên, nơi cơ của hệ nhai (cơ thái
dương và cơ cắn) phủ lên trên xương, lớp cân sâu là lớp cân phủ lên các cơ,
cân thái dương sâu phủ cơ thái dương phía trên cung gò má, và cân cắn phủ
cơ cắn bên dưới cung gò má. Các cân tuyến mang tai cũng là một phần của
lớp cân sâu. Cân cổ sâu là lớp tương ứng ở cổ, nơi nó bao bọc các cơ trên
móng và chia tách để tạo thành khoang dưới hàm dưới có chứa tuyến dưới
hàm. Các cân sâu, mặc dù mỏng, sờ nắn được, cứng chắc và gắn với các dây
chằng níu giữ của mặt. Tại các hốc xương, nơi cân sâu không có, chúng được
thay thế bằng một lớp lót di động có nguồn gốc từ các khoang, đó là kết mạc
ở mắt hoặc niêm mạc miệng. 2. CÁC MẠC ĐẦU MẶT 2.1. Cân trên sọ lOMoAR cPSD| 39651089
Cân trên sọ (galea aponeurotica hay aponeurosis epicranius): là một màng xơ chắc
tạo thành lá gân trung gian giữa 2 đội bụng của cơ chẩm trán, che phủ vòm sọ và
cách màng xương bởi một lớp mô liên kết lỏng lẻo. Ở phía sau, cân trên sọ cùng
với các thớ sợi của 2 bụng chẩm cơ chẩm trán bám vào ụ chẩm ngoài và hai đường
gáy trên cùng. Ở phía trước, cân là chỗ bám cho bụng trán cơ chẩm trán, kéo dài
tới tận cung mày. Ở hai bên cân mỏng dần phủ lên mạc thái dương tới tận cung gò
má,và là chỗ bám cho các cơ tại trước và tại trên. 2.2. Mạc thái dương
Mạc thái dương (fascia temporalis): mạc thái dương phủ cơ thái dương ở trên bám
vào đường thái dương trên thuộc xương đỉnh và xương trán, ở dưới bám vào bờ
dưới cung gò má. Ở 1/4 dưới mạc chia làm hai lá: - Lá sâu (lamina profunda):
bám vào bờ trong cung gò má. trung. Lá nông (lamina superficialis): bám vào bờ
ngoài cung gò má rồi tiếp tục chạy xuống tạo thành mạc cơ cắn. 2.3. Mạc cắn
Mạc cắn (fascia masseterica): liên tiếp với mạc thái dương từ bờ dưới cung gò má,
bọc lấy cơ cắn. Ở phía sau, mạc bám vào bờ sau ngành xương hàm dưới. Ở phía
trước bám vào thân, bờ trước ngành và mỏm vẹt xương hàm dưới; còn ở dưới bám
vào bờ dưới thân xương hàm dưới. 2.4. Mạc mang tai
Mạc tuyến mang tai (fascia parotidea): tạo nên do lá nông mạc cổ, khi tới gần góc
hàm dưới tách làm hai lá bọc lấy tuyến mang tai. Ở phía trước, mạc tuyến mang tai
liên tiếp với mạc cắn. Lá nông phủ mặt ngoài của tuyến dày và chắc, ở trên dính
vào sụn ống tai và xương gò má. Lá sâu dính vào mặt dưới xương thái dương. 2.5. CÂN SMAS 3. CÁC MẠC VÙNG CỔ lOMoAR cPSD| 39651089
Mạc cổ phức tạp, gồm nhiều lớp, tạo nên nhiều ngăn và khe, chứa đựng các cấu
trúc sâu khác nhau của cổ.
Mạc cổ gồm ba lá chính: lá nông, lá trước khí quản và lá trước cột sống. Ngoài ra,
mạc cổ còn cho một chẽ bọc lấy mạch và thần kinh ở cổ, gọi là bao cảnh, một chẽ
bọc lấy các cơ dưới móng gọi là mạc các cơ dưới móng,các lá mạc ở sau các tạng ở
cổ là mạc miệng hầu, và mạc cánh
3.1. Lá nông mạc cổ (lamina superficialis): lá nông mạc cổ bọc vòng quanh
cổ, nằm dưới cơ bám da cổ và các mô dưới da.
- Là một lá mạc mỏng. Ở trên dính vào đường gáy trên của xương chẩm, mỏm
chũm của xương thái dương và bờ dưới của xương hàm dưới.
- Ở dưới lá nông bám vào mỏm cùng vai, xương đòn và bờ trên cán xương ức. Ở
phía sau lá nông dính vào dây chẳng gáy và mỏm gai đốt sống cổ VII. Từ đó mạc
tách làm 2 lá bọc lấy cơ thang. Tới bờ trước cơ này hai lá chập làm một, phủ tam
giác cổ sau rồi lại chẽ làm hai lá bọc cơ ức đòn chũm. Khi tới bờ trước cơ này hai
lá lại chập làm một để tiếp tục chạy ra trước, phủ tam giác cổ trước, và nối tiếp
với lá nông bên đối diện ở đường giữa.
Ở tam giác cổ trước, lá nông dính vào xương móng, nên được chia làm hai phần:
trên móng và dưới móng.
Phần trên móng: căng từ xương móng tới bờ dưới xương hàm dưới. Ở đây lá nông
tách đôi bọc lấy tuyến dưới hàm ở ngoài và bụng trước cơ hai bụng ở trong. Lá bọc
mặt sâu của tuyến dưới hàm phủ lên cơ trâm móng và gần trung gian của cơ hai
bụng, rồi hòa lẫn vào mạc của các cơ này, tạo nên một dải mạc bám vào mỏm trâm.
Các lá phủ mặt nông và sâu của tuyến dưới hàm gặp nhau ở gần góc hàm rồi lại
tách đôi để bọc lấy tuyến mang tai, tạo nên mạc tuyến mang tai. lOMoAR cPSD| 39651089
- Phần dưới móng: mạc nông khi tới gần cán ức thì chia làm hai lá dính vào bờ
trước và bờ sau cán ức, tạo nên một khoang trên ức chứa mỡ, các hạch bạch
huyết, phần dưới tĩnh mạch cảnh trước và đầu ức của cơ ức đòn chũm
3.2. Mạc các cơ dưới móng: là một chẽ phụ thuộc vào lá nông mạc cổ,
gồm hai lá: lá nông bao bọc cơ vai móng và cơ ức móng. Lá sâu bọc cơ ức
giáp và cơ giáp móng. Ở trên mạc dính vào xương móng; ở dưới mạc dính
vào mặt sau xương đòn và mặt sau cán úc; ở hai bên mạc tỏa tới tận bờ
ngoài co vai móng và dính vào lá sâu của bao cơ ức-đòn chũm; dọc theo
đường giữa, mạc hòa lẫn với lá nông của mạc cổ.
3.3. Lá trước khí quản (lamina pretrachealis): là một lá mạc mỏng nằm
dưới các cơ dưới móng, che phủ ở trước thanh quản, khí quản và tách ra bọc
lấy tuyến giáp, tạo thành bao tuyến giáp. on
Ở trên mạc bám vào xương móng và vào đường chéo sụn giáp.
Ở dưới mạc liên tiếp ở sau xương ức với bao mạc của động mạch chủ và lớp xơ của
ngoại tâm mạc ở trong ngực.
Ở hai bên mạc hòa lẫn với mạc miệng hầu (fascia buccopharyngealis), dọc theo chỗ
bám của các cơ khít hầu giữa và dưới vào các sừng lớn, sừng nhỏ xương móng, và
đường chéo sụn giáp, cũng như dọc theo bờ sau bên của tuyến giáp. Như vậy lá
trước khí quản cùng mạc miệng hầu tạo thành một ống hình trụ bao quanh các tạng
(hầu - thực quản, thanh - khí quản, tuyến giáp - cận giáp) và có thể gọi chung là bao tạng.
3.4. Mạc miệng hầu (fascia bucco-pharyngealis): là một lá mạc bao phủ cơ
thổi kèn và hầu, kéo dài xuống mặt sau thực quản.
- Ở trên mạc bám vào củ hầu của xương chẩm và tỏa ra ngoài tới mảnh chân bướm
trong. Mạc phủ mặt ngoài cơ khít hầu trên, bám vào đường chân bướm hàm, rồi
tỏa ra trước phủ cơ thổi kèn, tới gần môi. lOMoAR cPSD| 39651089
- Ở dưới mạc phủ các cơ khít hầu giữa và dưới, cho đến chỗ bám của các cơ đó vào
xương móng và sụn giáp, thì hòa lẫn với mạc trước khí quản.
- Ở dưới nữa mạc miệng hầu hòa lẫn bao tuyến giáp dọc bờ sau của tuyến.
Giới hạn dưới của mạc không rõ rệt.
Mạc cánh: bám dọc theo đường giữa của mạc miệng hầu, từ xương sọ tới mang đốt
sống cổ VII, rồi từ đó mạc tỏa sang 2 bên để tận hết ở bao cảnh.
3.5. Lá trước cột sống (lamina prevertebralis) hay lá sâu của mạc cổ: là
phần cổ của mạc trước sống (đi từ nền sọ đến tận xương cụt). Mạc phủ ở
trước các cơ trước sống, tỏa sang hai bên phủ tiếp các cơ bậc thang trước,
giữa, sau, các cơ nâng vai, cơ gối, và tận hết ở lá nông của mạc cổ.
Ở phía trước: ở giữa lá trước sống ngăn cách với hầu và mạc miệng hầu (fascia
buccopharyngealis) bởi khoang sau hầu (spatium retropharyngealis), và ở hai bên
lá trước sống tạo thành nền của tam giác cổ sau.
Ở dưới nền cổ: lá trước sống di theo các cơ trước sống và các cơ bậc thang, xuống
liên tiếp với mạc thành ngực. Mạc ở mặt sâu các cơ bậc thang tỏa xuống đỉnh
màng phổi tạo thành mạc trên màng phổi (membrana suprapleuralis). Một phần
kéo xuống theo dám rối thần kinh cánh tay và bọc lấy động mạch nách tạo thành bao nách.
3.6. Bao cảnh (vagina carotica): là một phần của mạc cổ, có hình ống bao
quanh động mạch cảnh, tĩnh mạch cảnh trong và dây thần kinh lang thang.
- Phía trong bao cảnh dính vào bao tạng (bao bọc các tạng ở cổ).
Ở phía sau bao cảnh dính vào lá trước cột sống dọc theo đỉnh các mỏm ngang các đốt sống cổ.
Phía ngoài bao dính vào lá nông mạc cổ ở mặt sau cơ ức-đòn-chũm.
Ở phía trước bao cảnh dính vào mạc các cơ dưới móng, dọc theo bờ ngoài cơ ức
Ở trên bao cảnh hòa lẫn với mạc bao cơ trâm móng và bụng sau cơ hai bụng và lOMoAR cPSD| 39651089
cuối cùng dính vào nền sọ, ở quanh lỗ tĩnh mạch cảnh và ống động mạch cảnh. Ở
dưới bao cảnh dính vào xương ức, xương sườn I và liên tiếp với lớp xơ màng ngoài tim. 4. CÁC KHOANG LIÊN KẾT 4.1. Hố thái dương
Hố thái dương tạo bởi mạc thái dương bên ngoài và cơ thái dương bên trong. Giới
hạn trên hố thái dương là đường thái dương trên và giới hạn dưới là cung gò má và
mào dưới thái dương cánh lớn xương bướm. Hố thái dương chứa tổ chức liên kết
lỏng lẻo và thông thương với hố dưới thái dương và dưới cơ cắn.
4.2. Hố dưới thái dương
Vùng dưới thái dương hay hố dưới thái dương chiếm toàn bộ hố dưới thái dương
xương, nằm ngoài mảnh chân bướm ngoài và lồi củ xương hàm trên. Hố dưới thái
dương có giới hạn ngoài là ngành lên xương hàm dưới và mặt trong cơ thái dương.
Trần hố dưới thái dương là mặt dưới thái dương cánh lớn xương bướm. Phía trong,
hố dưới thái dương tiếp xúc với mảnh chân bướm ngoài ở trước và mạc tạng cùng
với thành hầu bên ở sau. Hố dưới thái dương không có giới hạn sau và dưới mà
liên tục với khoang bên hầu.
Hố dưới thái dương chứa nhiều cấu trúc quan trọng như động mạch hàm cùng các
nhánh bên, thần kinh hàm dưới cùng các nhánh bên, đám rối tĩnh mạch chân bướm
hàm, các cơ chân bướm ngoài và chân bướm trong. Hố dưới thái dương thông
thương với nhiều khoang liên kết khác như hố thái dương, vùng dưới cơ cắn, vùng
dưới hàm, khoang bên hầu. 4.3. Vùng má
Nằm giữa cơ mút và cơ cắn,giới hạn ở phía trên bởi bờ dưới của ổ mắt; ở dưới bởi
bờ dưới xương hàm dưới; ở sau bởi bờ trước cơ cắn; ở trước bởi rãnh mũi má, mép lOMoAR cPSD| 39651089
môi và đường thẳng từ mép môi đến bờ dưới xương hàm. Cắt ngang qua vùng má,
từ nông vào sâu -Da và tổ chức dưới da
Gồm lớp biểu bì, trung bì và hạ bì, trong đó có các thành phần như nang lông,
tuyến bã, tuyến mồ hôi, thần kinh, mạch máu và mô liên kết dưới da. - Lớp cơ nông
Gồm có các cơ bám da (cơ nông kéo cánh mũi và môi trên, cơ tiếp nhỏ, cơ tiếp lớn,
cơ cười), bó sau của cơ bám da cổ, cơ tam giác môi.
+Lớp mô lỏng lẻo: Trong đó có cục mỡ Bichat. Đi qua lớp này có nhiều mạch máu,
thần kinh và ống Sténon.
+Ống Sténon đi ngang qua vùng má theo con đường từ dái tai tới cánh mũi. Nó đi
qua cơ mút ở một phần trước cơ cắn để đi vào miệng ở vùng niêm mạc má, đối
diện với cổ răng hàm lớn thứ nhất hoặc thứ hai.
Động mạch mặt đi ngang qua vùng má, từ góc sau dưới đi chéo ra trước và lên trên,
tới rãnh mũi và từ đó đi tới góc mắt trong.
Tĩnh mạch mặt đi phía ngoài và sau động mạch.
Mạch bạch huyết má: Có nhóm trên hàm và nhóm cơ mút mép môi.
Thần kinh gồm có nhánh thần kinh mặt (nhánh thái dương mặt), thần kinh lỗ dưới
ổ mắt chui ra ở lỗ dưới ổ mắt, nhánh miệng của nhánh thần kinh thái dương miệng
và nhánh thần kinh cằm (nhánh tận của thần kinh răng dưới).
-Lớp cơ sâu gồm có, từ trên xuống dưới:
+Cơ sâu kéo cánh mũi và môi trên, cơ nanh, cơ mút và những bỏ ngoài cùng của cơ vuông cằm.
+Lớp xương hay niêm mạc miệng với rãnh tiền đình trên và dưới
Vùng má thông thương với vùng dưới thái dương, khoang chân bướm hàm, vùng
thái dương và vùng nanh ở phía trước. lOMoAR cPSD| 39651089
4.4. Vùng mang tai: Giới hạn ở trước bởi bờ sau cơ cắn, ngành xương hàm dưới, cơ
chân bướm trong, ở mặt trước có khuyết sau lồi cầu (khuyết Juvara), chui qua đó
có động mạch hàm trên và dây thần kinh tai thái dương; giới hạn ở sau bởi hoành
trâm, ở ngoài bởi cân cổ nông, da và tổ chức dưới da. Đầu trên khu liên quan với
khớp thái dương hàm; đầu dưới khu là dải ức hàm đi từ cơ ức đòn chũm tới hàm
dưới. Dải này tạo nên vách giữa tuyến mang tai và tuyến dưới hàm. Khu mang tai
chứa đựng tuyến nước bọt mang tai, tuyến này nằm choáng hết cả khu và lấn cả
ngoài khu ở trước, ra sau và nhất là ở trong, về phần hầu. Tuyến được bọc trong
một cái vỏ, giữa vỏ và khu có tổ chức tế bào làm tuyến nước bọt có thể tách dễ
dàng khỏi khu trừ hai chỗ dính (vào bờ trước cơ ức đòn chũm và bao khớp thái
dương hàm); trong khu có nhiều mạch máu thần kinh liên quan đến tuyến. Nó sắp xếp làm ba lớp:
Lớp nông có dây VII đi qua giữa hai thuỳ nông và sâu của tuyến nước bọt và phân chia ra những nhánh cùng.
Lớp tĩnh mạch gồm hợp lưu TM tai sau và nhánh sau của TM sau hàm dưới đổ vào tĩnh mạch cảnh ngoài
Lớp sâu: lớp động mạch, có động mạch cảnh ngoài, dây thần kinh tai thái dương đi
vào tuyến,nhiều hạch bạch huyết. Hạch trên cân, toán dưới cân và toán hạch nội
tuyến ở giữa hai thùy dọc theo tĩnh mạch cảnh có những hạch ở sâu hơn dọc theo
động mạch cảnh. 4.5. Vùng cơ cắn
Giới hạn ở trên bởi cung tiếp, ở dưới bởi bờ dưới xương hàm, ở sau bởi bờ sau
ngành xương hàm dưới, ở trước bởi bờ trước cơ cắn. Từ nông vào sâu vùng này ta thấy:
- Da và tổ chức dưới da có một vài mạch máu và thần kinh nông đi qua. - Cân cơ
cắn, trong lớp cân có ống Sténon, ống này đi chéo qua bờ trước cơ cắn ở 1 cm dưới cung tiếp. lOMoAR cPSD| 39651089
- Cơ cắn và mạch máu thần kinh của nó.
- Lớp xương: quai hàm xương hàm dưới. Khi sờ nắn, ta thấy góc trên sau vùng cơ
cắn (trước nắp tai) có một lồi: lồi cầu xương hàm dưới, khi nhai thấy nó cử động,
ở góc trên trước vùng cơ cắn có gờ xương má. 4.6. Vùng dưới cơ cắn
Là 1 vùng nhỏ khu trú giữa cơ cắn và mặt ngoài ngành xương hàm dưới,thông
thương với hố thái dương và hố dưới thái dương
4.7. Vùng chân bướm hàm: là 1 phần của hố thái dương, một vùng nguy hiểm đối
với nhà phẫu thuật. Có thể hình dung vùng này như một hình tháp, nền ở trên, đỉnh quay xuống dưới.
Thành trên hay nền là mặt dưới cánh lớn xương bướm tạo nên( cơ chân bướm ngoài)
Đỉnh ở dưới là chỗ lồi củ xương hàm trên và chân bướm tiếp giáp với nhau.
Thành trước là lồi củ xương hàm trên(mặt sau xương hàm trên) Thành
sau là mảnh ngoài chân bướm.
Thành trong là mảnh thẳng xương khẩu cái.
Thành ngoài ngành lên xương hàm dưới.
Trong vùng này có chứa đựng các cơ chân bướm, động mạch và tĩnh mạch hàm
trên, thần kinh hàm trên và dưới, hạch bướm khẩu cái.
Hố chân bướm hàm thông thương với hố dưới thái dương ở phía ngoài, khoang bên
hầu phía trong và vùng dưới hàm ở phía trước. 4.8. VÙNG MÔI
Giới hạn ở trên nền mũi, ở dưới bởi rãnh cằm môi và hai bên là rãnh mũi mả Vùng
môi gồm môi trên và môi dưới, cấu tạo bởi các cơ môi; giữa các bó cơ có động
mạch vành môi và các nhánh của thần kinh mặt đi vào các cơ bám da ở môi. Động
mạch vành môi ở mép môi, nằm trong lớp cơ, từ đó theo mặt sâu của cơ đi đến lOMoAR cPSD| 39651089
đường giữa để nối tiếp với động mạch vành môi bên kia. Khi cắt ngang môi, ta sẽ
thấy từ ngoài vào trong Da và tổ chức dưới da.
Lớp cơ vòng môi, ở mặt sâu của cơ thấy động mạch vành môi.
- Lớp tổ chức dưới niêm mạc và niêm mạc môi. 4.9. Vùng dưới lưỡi
Được giới hạn ở phía trong bởi khối cơ lưỡi; ở phía ngoài bởi hố dưới lưỡi xương
hàm dưới; ở dưới là nền miệng tạo bởi cơ cằm móng, cơ hàm móng và cơ nhị thân;
ở trên là niêm mạc ở rãnh giữa lưỡi và lợi; ở trước hai khu phải và trái thông với
nhau; ở sau, khu dưới lưỡi thông với khu dưới hàm bởi khe giữa cơ móng lưỡi và
cơ hàm móng. Trong khu có chứa đựng tuyến nước bọt dưới lưỡi do nhiều tuyến
con tạo nên, vì vậy, có nhiều ống tiết dịch, ống to nhất là ống Rivinus(các ống phụ
của tuyến dưới lưỡi), các ống khác là ống Whalter, các ống này được đổ vào miệng
cạnh ống Wharton(ống tiết của tuyến dưới hàm)
Ở giữa tuyến và lưỡi có (từ trên xuống dưới) ống Wharton, dây thần kinh lưỡi, dây
này mới đầu ở ngoài, sau bắt chéo ở dưới và đi vào trong ống Wharton, dây thần
kinh XII và các mạch dưới lưỡi. 4.10. Vùng dưới cằm
a) Lớp nông (lớp da, lớp mỡ trong đó có cơ bám da được bao phủ giữa hai lá của lá
cân cổ nông, lớp tổ chức tế bào trong đó có tĩnh mạch dưới cằm và nhánh ngang
của đám rối thần kinh cổ nông).
b) Cân cổ nông và nhiều hạch dưới cằm, nằm dưới cân.
c) Lớp cơ gồm hai thân trước cơ nhị thân, hai cơ hàm móng. Rạch giữa hai cơ này thì vào ở miệng. 4.11. Vùng dưới hàm
Khu dưới hàm nhìn trên một thiết đồ đứng ngang, trông giống hình tam giác.
Thành ngoài trên liên quan với xương hàm dưới.
Thành ngoài dưới là lá nông của cân cổ nông bám vào bờ dưới xương hàm. lOMoAR cPSD| 39651089 Thành trong: Cơ hàm móng
Ở phía dưới xương móng là lá sâu của cân cổ nông, lá này quặt ngược lên trên và
sau khi bao bọc gân cơ nhị thân, chạy tới bám vào xương móng.
Ở phía trên xương móng, thành trong của khu là các cơ trên móng. Ở đây có hai cơ,
cơ móng lưỡi ở sau và cơ hàm móng ở trước, hai cơ này đều có cơ nhị thân bắt chéo
ngang. Hai cơ đều bám vào xương móng, khi đi lên trên, cơ hàm móng bám vào
mặt trong xương hàm dưới còn cơ móng lưỡi chạy chếch trong tới đáy lưỡi nên
giữa hai cơ có một khe, qua khe đó có mẫu trước tuyến dưới hàm cùng với ống
Wharton, dây thần kinh XII và tĩnh mạch lưỡi nông kèm theo chạy vào khu dưới
lưỡi, ở mặt trong cơ móng lưỡi có động mạch lưỡi, còn dây thần kinh XII trước khi
vào khe giữa cơ móng lưỡi và hàm móng thì đi ở mặt ngoài cơ móng lưỡi. Đầu sau
khu dưới hàm liên quan và thông với khu cạnh hầu, ở ngoài liên quan với vách liên
hàm mang tại phân cách khu này với khu mang tai.
Đầu trước liên quan với thân trước cơ nhị thân, ở đó cân cổ nông dính vào cân cơ hàm móng.
Trong khu dưới hàm chứa đựng tuyến dưới hàm, tuyến này liên quan mật thiết với
mạch mặt: tĩnh mạch mặt ở nông nằm áp vào mặt ngoài tuyến, động mạch mặt ở
sâu áp vào mặt sâu của tuyến, khi tới đầu trên của tuyến, động mạch quặt ra ngoài
để chạy tới bờ dưới xương hàm gặp tĩnh mạch mặt rồi cùng tĩnh mạch quặt lên má (cách góc hàm độ 3 cm).
Tuyến nước bọt còn liên quan với các bó mạch thần kinh chạy vào lưỡi. Cụ thể là ở
dưới có động mạch lưỡi và tĩnh mạch lưỡi sâu (cách tuyến bởi cơ móng lưỡi), dây
XII và tĩnh mạch lưỡi nông; ở trên là dây lưỡi.
Hạch bạch huyết dưới hàm nằm ở bờ dưới xương hàm dưới và hai đầu của khu dưới hàm. lOMoAR cPSD| 39651089
Vùng dưới hàm thông thương với vùng dưới lưỡi, vùng dưới cằm, vùng dưới thái
dương và vùng bên hầu. 4.12. Khoang niêm mạc hầu
Vị trí: trên xương móng, phía trong khoang bên hầu (PPS) , trước khoang sau hầu (RPS)
- Thành phần: niêm mạc, các tuyến nước bọt nhỏ, vòng bạch huyết khoang niêm mạc
hầu (PMS), các cơ khít hầu + bề mặt niêm mạc tỵ hầu, khẩu hầu, hạ hầu
+ khoang niêm mạc hầu (PMS) của tỵ hầu: gờ vòi nhĩ (torus tubarius), hạch VA, các
cơ khít hầu trên và và cơ nâng vòm miệng
+ khoang niêm mạc hầu (PMS) của khẩu hầu: các trụ trước và sau của hạnh nhân,
các hạnh nhân lưỡi và vòm miệng, vòm miệng mềm
-Mạc: khoang niêm mạc hầu ở mặt trong lá giữa của mạc cổ sâu (ML-DCF) 4.13.Khoang bên hầu
Khoang này hình lăng trụ tam giác:
Thành trong là thành bên của hầu và vách đứng dọc. Vách này đi từ bao tạng đến cân cổ sâu.
Thành ngoài gồm có, từ trước ra sau: Cảnh lên xương hàm dưới, có cơ cắn bám ở
mặt ngoài và cơ chân bướm trong bám ở mặt trong, cân cổ nông.
Thành sau: cân trước sống.
Đầu trên: nền sọ (xương thái dương).
Đầu dưới là mặt phẳng đi ngang qua bờ dưới xương hàm dưới.
Khoang này chia làm hai vùng bởi vách hoành cân cơ đi từ ức đòn chũm đến hầu.
Vách này còn gọi là hoành trâm. Nó được tạo bởi, từ ngoài vào trong, cơ nhị thân,
và dây chằng Riolan, cân bao phủ và nối liền các cơ đó với nhau, cánh hầu nối các cơ vào hầu.
Vùng sau hoành trâm gọi là vùng sau trâm. Vùng này liên quan ở phía trên với nền
sọ, cụ thể là lỗ rách sau, ống động mạch cảnh nên vùng này liên quan đến nhiều lOMoAR cPSD| 39651089
mạch máu và thần kinh (động mạch cảnh trong, động mạch cảnh ngoài, tĩnh mạch
cảnh trong, bốn dây thần kinh sọ não: dây IX, dây X, dây XI, dây XII, hạch giao
cảm cổ trên). Ngoài ra, còn có cả hạch bạch huyết.
Vùng trước hoành trâm gọi là vùng trước trâm, vùng này lại chia làm hai khu: khu
mang tai ở sau ngoài và khu cạnh hạnh nhân ở trước trong.
4.14. Khoang sau hầu và vùng nguy hiểm
Vị trí: phía sau khoang niêm mạc hầu (ở trên xương móng) và sau khoang tạng (ở dưới xương móng) -
Bắt đầu ở dốc xương chẩm (clivus); kéo dài ngang qua SHN-IHN tới mức
T3 - Thành phần: vùng trên xương móng có các hạch và mỡ; không có hạch ở vùng dưới xương móng -
Mạc: mạc phía trước là lá giữa của mạc sâu (ML-DCF), mạc phía sau và bên
là lá sâu của mạc sâu (DL-DCF), gọi là mạc cánh -
Tầm quan trọng: thông phía dưới với khoang trung thất cho phép nhiễm khuẩn lan vào trung thất
▪ Khoang nguy hiểm (DS: Danger Space)
– Phía sau khoang sau hầu RPS (ở cả trên và dưới xương móng); phía dưới thông với trung thất
Khoang sau hầu và khoang nguy hiểm ở ngay trước cột sống chạy xuống trung thất.
Lưu ý “cửa sập”-“trap door” ở khoảng mức thân đốt sống T3, nó là một ống từ
khoang sau hầu tới khoang nguy hiểm. Nhiễm khuẩn hoặc u từ khoang sau hầu có
thể lan vào trung thất theo đường này. 4.15. Khoang tạng
Vị trí: chỉ ở vùng dưới xương móng; kéo dài vào trung thất
-Thành phần: tuyến giáp và tuyến cận giáp, hạch sau khí quản, thực quản, thần kinh thanh quản quặt ngược lOMoAR cPSD| 39651089
- Mạc: lá giữa của mạc cổ sâu (ML-DCF) bao quanh khoang tạng (VS)
- Tầm quan trọng: khí quản và thực quản đi qua khoang tạng (VS)
Vị trí: trên xương móng, PCS bắt đầu ở mỏm chũm, kéo dài tới xương đòn; phần
lớn thể tích khoang cổ sau ở vùng dưới xương móng
-Thành phần: mỡ, dây thần kinh XI, các hạch gai sống (dọc theo dây XI-dây thần kinh phụ)
- Mạc: giữa lá nông và lá sâu của mạc cổ sâu 4.16. Khoang cảnh (CS)
- Vị trí: phía sau khoang bên hầu (vùng cổ trên xương móng, SHN); phía ngoài
khoang tạng (VS) và khoang sau hầu (RPS) ở vùng dưới xương móng (IHN) - Bắt
đầu ở dưới lỗ tĩnh mạch cảnh và ống động mạch cảnh ở nền sọ; kéo dài tới quai động mạch chủ
- Thành phần: dây thần kinh IX-XII, tĩnh mạch cảnh trong, động mạch cảnh
- Mạc: cả ba lá mạc cổ sâu 4.17. Khoang trước tạng
Khoang nằm trước khí quản, giữa mạc tạng và mạc bao. Trong khoang chứa các tạng
và hạch bạch huyết, tĩnh mạch cảnh trước. Khoang này thông với khaong bên hầu
hai bên. 4.18. Khoang trên ức
Là một khoang độc lập, hình thành do mạc bao tách làm đôi bám vào mặt trước và
mặt sau xương ức. Khoang trên ức có chứa các tổ chức liên kết lỏng lẻo và cung
cảnh, nối với tĩnh mạch cảnh trước với nhau. Do không liên thông với các khoang
liên kết khác nên khoang này ít quan trọng trong sự nhiễm trùng vùng đầu mặt cổ. TÀI LIỆU GIẢNG DẠY TÀI LIỆU THAM KHẢO lOMoAR cPSD| 39651089 CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ