lOMoARcPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội Cơ hội học tập cho mọi người
Trang 1
BÀI 2:
TIỀN TỆ - CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ - LẠM PHÁT
Hướng dẫn:
Kiểm tra lại kiến thức về cung tiềncầu tiên trong môn học Kinh tế học mô.
Nội dung:
I. TIỀN TỆ
1. Khái niệm và bản chất của tiền tệ
lOMoARcPSD| 47708777
Trang 2
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi
người
Tiền là bất cứ một phương tiện nào được xã hội chấp nhận làm phương tiện
trao đổi với mọi hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác trong nền kinh tế.
Tiền tệ kim loại vàng là sản phẩm của lao động con người có đầy đủ hai
thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Nhưng hàng hóa đặc biệt, bởi lẽ tiền có giá
trị sử dụng đặc biệt, dùngngười ta có thể trao đổi với bất cứ hàng hóa nào.
Do nền kinh tế hàng hóa một thực thể đầy biến động. tồn tại phát
triển bị chi phối bởi nhiều quy luật khách quan. Khi sản xuất trao đổi hàng hóa
phát triển đến giai đoạn cao, nền kinh tế thị trường được hình thành theo đúng nghĩa
của nó thì quá trình phi vật chất của tiền tệ cũng đồng thời diễn ra một cách tương
ứng. Nghĩa là vai trò của tiền vàng theo xu hướng giảm dần và tăng cường sử dụng
các loại dấu hiệu trong lưu thông. Cho nên, định nghĩa trên phù hợp với lưu thông
tiền tệ trong nền kinh tế thị trường phát triển.
2. Các hình thái tiền tệ
Trước hết phải thừa nhận tiền được mọi người chấp nhận là những dạng vật
chất quen thuộc và có ích với tất cả mọi người, hoặc được mọi người đánh giá cao
về mặt giá trị.
- Hoá tệ lấy hàng hoá làm tiền tệ, đây hình thái đầu tiên của
tiền tệ và được sử dụng trong một thời gian dài. Hàng hoá được sử dụng làm tiền
tiền tệ có 2 loại : Hàng hoá không phải kim loại và kim loại.
- Tín tệ loại tiền tệ bản thân không giá trị, hoặc giá trị
của rất nhỏ không đáng kể, nhưng nhờ sự tín nhiệm của mọi người
được lưu dụng. Tín tệ có 2 loại tiền kim loại ( dùng kim loại để đúc thành tiền)
tiền giấy ( sử dụng giấy để m tiền). Giá trị của tiền không phụ thuộc vào
nguyên liệu m tiền mà nó phụ thuộc vào những dấu hiệu ghi trên mặt đồng tiền
do nhà nước quy định.
lOMoARcPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi
người
- Bút tệ (tiền ghi sổ): đây những khoản tiền gửi không khạn
ngân hàng. Đó tiền do hệ thống ngân hàng thương mại tạo ra trong quá trình
thực hiện nghiệp vụ tín dụng. Việc sử dụng đồng tiền ghi sổ được thực hiện bằng
các bút toán ghi Nợ, ghi trên các tài khoản tiền gửi không khạn ngân hàng.
- Tiền điện tử: các ngân hàng đã có thể thay thế phương thức thanh
toán truyền thống sử dụng các chứng từ giấy bằng phương thức thanh toán điến
tử (Electronic means of payment), điều kiện cần là cá nhân và tổ chức cần thanh
toán tài khoản tại ngân hàng. Các giao dịch chuyển tiền sẽ được thực hiện trên
hệ thống máy tính kết nối hệ thống ngân hàng.
Trong khi tiền được hiểu tương đối hẹp, thì cách sử dụng tiền thì có ý nghĩa rất
rộng, có thể thông qua ví dụ sau để hiểu được. Nếu như một ai đó nói “trong túi tôi
rất nhiều tiển” nghĩa anh ta đang nói đến tiền mặt được mang theo trong
người. Còn nếu anh ta nói “tôi kiếm được rất nhiểu tiền” điều này có thể hiểu thu
nhập của anh ta. Trong trương hợp anh ta nói “tôi rất nhiều tiền” thì lại đang
nói về của cải của anh ta có được bao gồm cbất động sản, tiền trong tài khoản,
tranh nghệ thuật, trang sức bằng kim loại quý.
Từ đó, các nhà kinh tế và những người sản xuất kinh doanh bắt đầu nghĩ và đưa ra
những tiêu chuẩn tiện lợi mà tiền – với tư cách là vật trung gian trao đổi cần phải
có, đó là:
- Phải giá trị thực tế
- Dễ sử dụng trong tự nhiên
- Dễ vận chuyển và không quá cồng kềnh
- thể chia nhỏ phục vụ cho việc giao dịch thông thường hàng
ngày
- thể tồn tại lâu dài và không hại
lOMoARcPSD| 47708777
Trang 4
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi
người
Từ những tiêu chuẩn trên thể thấy được rất nhiều thứ đã tiền bây giờ trở nên
không thích hợp, tiền đá khó vận chuyển không giá trị thực tế. hay lừa khó
vận chuyển và khó chia nhỏ và không thể tồn tại lâu dài.
3. Chức năng của tiền
* Phương tiện trao đổi: tiền tệ được sử dụng như một vật môi giới trung gian
trong việc trao đổi các hàng hoá, dịch vụ. Đây chức năng đầu tiên của tiền tệ,
phản ánh do tại sao tiền tệ lại xuất hiệntồn tại trong nền kinh tế hàng hoá. Để
thực hiện chức năng phương tiện trao đổi tiền phải có những tiêu
chuẩn nhất định:
- Được chấp nhận rộng rãi
- Dễ nhận biết
- thể chia nhỏ
- Dễ vận chuyển, không bị hỏng một cách nhanh chóng
- Được tạo ra hàng loạt một cách dễ dàng và tính đồng nhất.
* Chức năng phương tiện lưu giữ giá trị: Để được thừa nhận một phương tiện
trao đổi tiền buộc phải tính chất bảo tồn gtrị. Chúng ta sẽ không dám chấp
nhận tiền nếu chỉ có hiệu lực trao đổi trong ngày hôm nay không thể dùng
để trao đổi từ ngày mai trở đi. một phương tiện dự trữ giá trị, tiền tệ nơi cất
giữ sức mua qua thời gian.
Việc thực hiện chức năng phương tiện dự trữ giá trị của tiền tốt đến đâu tu thuộc
vào sự ổn định của mức giá chung, do giá trị của tiền được xác định theo khối lượng
hàng hoá thể đổi được. Khi mức giá tăng lên, giá trị của tiền sẽ giảm đi
lOMoARcPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi
người
và ngược lại. Sự mất giá nhanh chóng của tiền sẽ làm cho người ta ít muốn giữ nó,
điều này thường xảy ra khi lạm phát cao. vậy để tiền thực hiện tốt chức năng
này, đòi hỏi sức mua của tiền phải ổn định. Với chức năng y thể thấy tiền cũng
là một loại tài sản như những tài sản khác chỉ là nó không sinh lời theo thời gian.
* Thước đo giá trị: giá trị của tiền tệ được sử dụng làm chuẩn để đo lường giá trị
của các hàng hóa khác. Thông qua quan hệ so sánh y giá trị của các hàng hóa
được biểu hiện thành giá cả hàng hóa. Thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ
thước đo hao phí lao động hội kết tinh trong các hàng hóa. Muốn thực hiện
được chức năng này, tiền tệ có những đặc điểm sau đây:
- giá trị nội tại
- Tiêu chuẩn giá cả
- Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ đã làm cho mọi
hàng hóa đều có một tiếng nói chung đó là giá cả. Giá cả của hàng hóa, là giá
trị của hàng hóa được biểu hiện bằng tiền. Thực chất giá cả của hàng hóa
tỷ lệ so nh giữa giá trị của nó với giá trị tiền tệ hay nói cách khác giá cả của
hàng hóa là một đại ợng tỉ lệ thuận với giá trị của hàng hóa và tỷ lệ nghịch
với giá trị của tiền tệ.
* Chức năng phương tiện thanh toán: chức năng y chức năng gộp của hai
chức năng: trung gian trao đổi đơn vị tính toán. Tuy nhiên, các nhà kinh tế học
tiền tệ vẫn muốn tách nó riêng ra để phản ánh một tính chất điển hình của tiền: tiền
là phiếu nợ.
* Công cụ để điều tiết nền kinh tế: số lượng tiền tệ được cung ứng cho mỗi thời
điểm của nền kinh tế tùy thuộc vào hai điều:
lOMoARcPSD| 47708777
Trang 6
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi
người
- Nhu cầu tiền của nền kinh tế vào thời điểm đó. Điều này phụ thuộc
vào tình trạng hoạt động của nền kinh tế. Nhân tố này thường rất thụ động.
- Số lượng cung ứng tiền phụ thuộc vào quyết định của mỗi chính
phủ thông qua ngân hàng trung ương của mình, đây nhân tố c định
chủ động.
4. Khối lượng tiền
* Các phép đo khối tiền tệ được đưa ra tuỳ thuộc vào các phương tiện được hệ
thống tài chính cung cấpthường xuyên sự thay đổi cho phù hợp, nhưng nhìn
chung các khối tiền tệ trong lưu thông bao gồm:
- Khối tiền giao dịch (M1) gồm những phương tiện được sử dụng
rộng
rãi trong thanh toán chi trả về hàng hoá dịch vụ, bộ phận này có tính lỏng cao nhất:
+ Tiền mặt trong lưu nh: Bộ phận tiền mặt (giấy bạc ngân hàng và tiền đúc)
nằm ngoài hệ thống ngân hàng.
lOMoARcPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi
người
nhân (gọi chung là tác nhân) diễn ra thường xuyên. Mọi giao dịch đều cần phải sử
dụng tiền, như: trả công lao động (trả ơng), mua nguyên vật liệu, thanh toán nợ,
mua vật phẩm tiêu dùng ... Các khoản chi này hợp thành Tổng cầu tiền cho giao
dịch.
Nhu cầu tiền cho tích luỹ: ngoài các khoản chi thường xuyên cho giao
dịch, các tác nhân còn phải tích lu một khoản tiền nhất định cho các nhu cầu đã
dự định trước, như: mua sắm tài sản, đầu tư, cho kỳ du lịch sắp đến ... Giá trị của
các khoản này chưa đến "độ sử dụng", chúng ở trong quỹ của các tác nhân dưới
dạng tiền nhàn rỗi. Khi lãi suất tiền gửi thấp, thì số tiền giành cho nhu cầu tích
lOMoARcPSD| 47708777
Trang 8
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi
người
lũy với các mục đích trên sẽ cao. Nhu cầu tích lũy phụ thuộc vào mức thu nhập
và mục đích của các tác nhân. Thời gian sử dụng tiền càng cấp bách thì đòi hỏi
tác nhân tích lũy càng nhanh. Giá trị khoản chi càng lớn thì phải tích lũy càng
nhiều.
Nhu cầu tiền cho dự phòng: dự phòng là nhu cầu bắt buộc của các tác
nhân. Nhu cầuy được chia làm ba loại. Dự phòng một số tiền để chờ hội
mua không dự báo trước được. Dự phòng chi thường xuyên. Đây những
khoản chi thường xuyên cho nhu cầu cá nhân, buộc mọi người phải dự phòng một
khoản tiền tối thiểu và cuối cùng dự phòng chi cho rủi ro.
Nhu cầu tiền để cất trữ: đây là số lượng tiền nhàn rỗi lâu dài, chưa có
mục tiêu sử dụng. Trường hợpy các thể nhân thường đưa số "tiền thừa" vào
cất trữ. Tiền cất trữ thể hiện bằng vàng.
Tổng hợp các nhu cầu tiền nêu trên thành tổng cầu tiền của nền kinh tế trong
một thời kỳ.
- Các nhân tố ảnh hưởng.
Nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế tăng lên hay giảm xuống nó phụ thuộc vào các nhân
tố sau: Giá trị các khoản giao dịch; lãi suất tín dụng; sự không đồng bộ về thời gian
thu và chi, tập quán chi tiêu của từng dân tộc, địa phương.
2. Cung tiền tệ
Cung tiền tệ khối lượng tiền tệ đã được cung cấp cho nền kinh tế bởi hệ
thống ngân hàng. Nói khác đi mức cung tiền tệ là tổng các phương tiện tiền tệ thực
tế trong lưu thông và được nắm giữ bởi các chủ thể trong nền kinh tế.
3. Cân bằng cung và cầu tiền tệ
lOMoARcPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi
người
Thị trường tiền tệ luôn hướng về điểm cân bằng khi mức cung tiền tệ bằng
mức cầu tiền tệ. Điều kiện cho sự cân bằng của thị trường tiền tệ là:
MS = MD
Khi mức gía (P) và thu nhập thực tế (Y) cho trước, sự cân bằng cung và cầu
tiền thực tế sẽ tạo ra mức lãi xuất cân bằng (i) trên thị trường.
4. Chính sách tiền tệ
Chính sách lưu thông tiền tệ hay chính sách tiền tệ (monetary policy) là quá
trình quản lý cung tiền (money supply) của quan quản tiền tệ (có thể ngân
hàng trung ương), thường ớng tới một lãi suất mong muốn (targeting interest
rate) để đạt được những mục đích ổn định tăng trưởng kinh tế - như kiềm chế
lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng
trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất
nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui
định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối.
5. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Thường các ngân ng trung ương y dựng chính sách tiền tệ hướng đến
những mục tiêu sau:
Ổn định tiền tệ, bảo vệ giá tr đối nội của đồng tiền trên sở kiểm soát
được lạm phát.
Ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền trên sở cân bằng cán cân thanh
toán quốc tế và ổn định tỷ giá hối đoái.
Ổn định lãi suất
Ổn định các thị trường tài chính
Tăng trưởng kinh tế trong sự ổn định
lOMoARcPSD| 47708777
Trang 10
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi
người
Tạo công ăn việc làmgiảm bớt thất nghiệp
Trong tác phẩm “sức mua của tiền tệ”, nhà kinh tế học Mỹ Irving Fisher đưa
ra mối quan hệ giữa tổng lượng tiền tệ (M) với tổng chi tiêu để mua hàng hoá, dịch
vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế dựa trên một khái niệm gọi tốc độ lưu thông
tiền tệ theo phương trình trao đổi tính theo giá trị danh nghĩa của các giao dịch trong
nền kinh tế:
MVT = PT
Trong đó P là giá bình quân mỗi giao dịch,
T là số lượng giao dịch tiến hành trong một m
VT : tốc độ giao dịch của tiền tệ - tốc độ khối lượng tiền quay vòng hàng
năm
giá trị danh nghĩa của các giao dịch (T) rất khó đo ờng cho nên học
thuyết số lượng đã được phát biểu theo tổng sản phẩm (Y):
MV=PY
6. Công cụ của chính sách tiền tệ:
những hoạt động của Ngân hàng trung ương nhằm tác động đến cung tiền
lãi xuất, qua đó nhằm đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Ngân hàng
trung ương sử dụng hai nhóm công cụ chính sách tiền tệ đó là:
Những công cụ gián tiếp được dùng phổ biến hiện nay như:
- Nghiệp vụ thị trường mở: Trong các công cụ điều chỉnh chính sách tiền
tệ thì công cụ nghiệp vụ thị trường mở công cụ chủ động của ngân hàng trung
ương để điều chỉnh khối lượng tiền lưu thông và lãi suất.
lOMoARcPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi
người
- Nghiệp vụ thị trường mở việc ngân hàng trung ương tham gia mua
hoặc bán giấy tờ giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ với c ngân hàng thương
mại với mục đích tác động đến thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ
giá, y ảnh hưởng đến khối dự trữ của các ngân hàng thương mại tại ngân ng
trung ương, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các ngân hàng y.
Trên thị trường tiền tệ, ngân hàng trung ương chủ yếu mua n trái phiếu của
Chính phủ trái phiếu ngân hàng trung ương để làm tăng giảm khi dự trữ của
ngân hàng thương mại, khi đó, ngân hàng thương mại có thể mở rộng hoặc hạn chế
khả năng cho vay.
Việc ngân ng trung ương mua trái phiếu góp phần tăng cung tín dụng, từ
đó làm lãi suất tín dụng hạ thấp, kích thích các doanh nghiệp đi vay. Đây cũng
một cách gia tăng khối tiền tệ. Ngược lại, bằng cách bán trái phiếu trên thị trường
tiền tệ cho ngân hàng thương mại, ngân hàng trung ương thu hút tiền vào làm giảm
bớt khối tiền tệ. Kết quả làm cho dự trữ của ngân hàng thương mại tại ngân hàng
trung ương bị giảm, từ đó hạn chế khối lượng cấp tín dụng của ngân hàng thương
mại.
Nếu sự mua bán trái phiếu không có ngân hàng trung ương tham gia mà ch
là giữa các ngân hàng thương mại với nhau thì khối tiền tệ không thay đổi. Đó chỉ
là sự di chuyển trái phiếu từ ngân hàng thương mại này sang ngân hàng thương mại
khác một sự di chuyển ngược lại từ một phần dự trữ thặng của ngân hàng
thừa vào dự trữ của ngân hàng thiếu.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở xuất hiện đầu tiên Mvào những năm
1920. Nó là công cụ tác động mạnh, linh hoạt và chủ động, công cụ này có thể hạn
chế được những khiếm khuyết của công cụ dự trữ bắt buộc. Công cụ nghiệp vụ thị
trường mở linh hoạt chỗ là dễ đảo ngược được tình huống khi phát hiện tiền lưu
thông thừa hay thiếu bằng cách mua hoặc bán ra các giấy tờ giá trị. Tuy nhiên,
lOMoARcPSD| 47708777
Trang 12
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi
người
hạn chế của nó là chỉ có thể áp dụng trong điều kiện hầu hết tiền trong lưu thông
đều nằm ở tài khoản tại ngân hàng.
Ở Việt Nam, công cụ nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện bằng việc phát
hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước tổ chức đấu thầu tín phiếu Kho bạc Nhà
nước. Do đó, hiệu quả điều tiết không cao, chỉ chủ yếu tác động vào dự trữ của các
ngân hàng.
Tỉ lệ dự trữ bắt buộc: Các ngân hàng trung gian phải gửi tại ngân hàng
trung ương một phần của tổng số tiền gửi ngân hàng trung gian nhận được từ
dân cư và các thành phần kinh tế theo một tỷ lệ nhất định.
Phần bắt buộc gửi đó được gọi tiền gửi dự trữ bắt buộc (Reserve
Requirements) và t lệ phần trăm mà ngân hàng trung ương quy định như trên được
gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tỷ lệ phần trăm tính trên tổng tiền gửi huy động được
các ngân hàng thương mại không được sử dụng để kinh doanh. Mục đích của
việc thực hiên dự trữ bắt buộc là nhằm:
- Duy trì khả năng thanh toán thường xuyên của các ngân hàng trung gian,
hoặc trong những trượng hợp khẩn cấp như trường hợp xảy ra tình trạng đồng loạt
rút tiền gửi (bank run) của công chúng, tránh được tình trạng khủng hoảng ngân
hàng.
- Giới hạn khả ng cho vay của ngân hàng trung gian, tránh được trường
hợp ngân hàng y quá ham kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay quá mức, thể
phương hại tới quyền lợi của người ký gửi tiền ở ngân hàng, tức là đảm bảo an toàn
tiền gửi của khách hàng.
lOMoARcPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi
người
- Việc tập trung dự trữ của các ngân hàng trung gian ngân hàng trung
ương còn một phương tiện để ngân hàng trung ương thêm quyền lực điều
khiển hệ thống ngân hàng, tạo sự lệ thuộc của các ngân hàng trung gian đối với
ngân hàng trung ương.
Về nguyên tắc, khi ấn định một mức dự trữ bắt buộc ở mức thấp, ngân hàng
trung ương muốn khuyến khích các ngân hàng trung gian mở rộng mức cho vay của
họ, tức muốn gia tăng khối tiền tệ. Điều này sẽ kích thích được các hoạt động
kinh tế, tăng khả năng giao lưu các nguồn vốn tài chính giữa các doanh nghiệp, thể
hiện một chính sách tiền tệ “nới lỏng”. Ngược lại, khi nâng cao mức dự trữ bắt
buộc, ngân hàng trung ương muốn giới hạn khả năng cho vay của ngân hàng trung
gian, báo hiệu một chính sách tiền tệ “thắt chặt” hay hạn chế khối tiền tệ. Điều này
tác động tới khả năng thu doanh lợi của ngân hàng trung gian.
Vì vậy, khi tiến hành gia tăng dự trữ bắt buộc đòi hỏi phải nghiên cứu trước
sức chịu đựng của ngân hàng trung gian đối với mức dự trữ mới sẽ ban hành. Để
ngân hàng trung gian không bị lỗ và cộng tác với ngân hàng trung ương trong việc
thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương thể trả lãi cho mức dự trữ thặng
nào đó của ngân ng trung gian, m theo một chính sách lãi suất thích hợp,
cộng vào đó, ngân hàng trung ương có thể vận dụng mức dự trữ bắt buộc một cách
uyển chuyển hơn, bằng cách phân biệt nhiều mức dự trữ bắt buộc, chẳng hạn, do
nh chất thanh khoản của mỗi loại tiền gửi, ngân hàng trung ương có thể quy định
tỷ lệ tiền dự trữ bắt buộc của tiền gửi không kỳ hạn cao hơn tlệ dự trữ bắt buộc
của tiền gửi có kỳ hạn.
Chính sách chiết khấu: Nghiệp vụ của ngân hàng thương mại là kinh doanh
tiền tệ, bằng nguồn vốn huy động tiền gửi là chính. Nhưng không phải lúc nào hoạt
động ngân hàng cũng đều thuận lợi. những lúc người gửi tiền đến rút tiền quá
nhiều, ngân hàng dễ i vào tình trạng thiếu vốn. Những trường hợp ào ạt rút tiền
thường xảy ra theo những chu kkinh tế. Do đó, nhiều ngân hàng khó tránh khỏi
lOMoARcPSD| 47708777
Trang 14
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi
người
tình trạng thiếu khả năng thanh khoản. vậy, nếu không ngân hàng trung ương,
các ngân hàng thương mại sẽ rất dễ rơi vào tình trạng phá sản. Chính vào những lúc
khó khắn đó, ngân hàng thường mại tìm đến sự giúp đỡ của ngân hàng trung ương,
người cho vay cuối cùng.
Ngân hàng trung ương sẽ cấp tín dụng cho ngân hàng thương mại qua nhiều
hình thức, thông dụng nhất tái cấp vốn dưới hình thức chiết khấu tái chiết khấu
các thương phiếu. Khi chấp nhận chiết khấu hay i chiết khấu ngân hàng trung
ương đã làm tăng khối tiền lưu thông. Đây là hình thức phát hành tiền được xem là
lành mạnh do được đảm bảo bằng các giấy tờ giá khi các chứng khoán đáo
hạn ngân hàng trung ương sẽ đòi được các món nợ đã cho vay. n cạnh đó, việc
cho vay này luôn gắn liền với yêu cầu của nền kinh tế do sự tác động trực tiếp của
quy luật cung cầu.
Thường thì việc điều hành công cụ tái cấp vốn để thực thi chính sách tiền tệ
được thông qua lãi suất chiết khấu, ngân hàng trung ương thể khuyến khích giảm
hoặc tăng mức cung ứng tín dụng của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế,
đồng thời giảm hoặc tăng mức cung ứng tiền. Khi thực hiện chính sách hạn chế
(thắt chặt) tiền tệ, ngân hàng trung ương sẽ nâng lãi suất chiết khấu lên. Khi đó, các
ngân hàng thương mại sẽ nâng lãi suất cho vay hoặc hạn chế bớt những hội cho
vay và ngược lại, nếu thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng (nới lỏng) ngân hàng
trung ương hạ thấp lãi suất chiết khấu, ngân hàng thương mại trong trường hợp này
đi vay rẻ, nên khuynh hướng giảm bớt lãi suất cho vay dẫn đến nhu cầu vay tăng.
Tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại công cụ đắc lực trong định
hướng phát triển kinh tế. Đối với chính sách kích thích xuất khẩu, ngân hàng trung
ương sẽ ưu tiên tái chiết khấu các thương phiếu xuất khẩu. Tuy nhiên khi chấp nhận
tái chiết khấu là ngân hàng trung ương đã tăng khối lượng tiền cung ứng. Chính
tầm quan trọng đó nên ngân hàng trung ương chỉ thể chấp nhận tái chiết khấu
theo điều kiện:
lOMoARcPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi
người
- Khối lượng tiền cung ứng bằng con đường tín dụng, tức cấp tín dụng cho
nền kinh tế còn được phép cung ứng thêm.
- Bản thân các ngân hàng thương mại đem hối phiếu để tái chiết khấu phải
là những hối phiếu tốt.
Như vậy, chiết khấu và tái chiết khấu chính là việc ngân hàng trung ương
“mua” các thương phiếu của ngân hàng thương mại nhằm điều chỉnh mức cung ứng
tín dụng của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế, đồng thời qua đó điều chỉnh
cung ứng tiền tệ.
Tuy nhiên, mỗi một công cụ đều có ưu nhược điểm riêng của nó, công cụ tái
cấp vốn (tái chiết khấu) có ưu điểm và nhược điểm sau:
-Ưu điểm: Các khoản cho vay của ngân hàng trung ương đều được đảm bảo bằng
các giấy tờ giá do khả năng thanh toán. Đồng thời công cụ tái chiết khấu
có tính chất chủ động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng hay hạn chế.
-Nhược điểm: Ngân hàng trung ương thụ động khi cung ứng tiền tệ, vì việc vay hay
không vay chủ động nằm ở ngân hàng thương mại
Nhóm công cụ trực tiếp thường mang tính hành chính như:
- Hạn mức tín dụng: mức nợ tối đa mỗi tổ chức tín dụng được
phép duy trì theo quy định của Ngân hàng trung ương trong từng thời kỳ. Hạn mức
tín dụng cho các tổ chức tín dụng là khác nhau, phụ thuộc vào đặc thù và năng lực
kinh doanh cũng như mức tổng nợ tín dụng dự tính của Ngân hàng trung ương
cho toàn bộ nền kinh tế cho từng thời kỳ tại mỗi quốc gia.
- Khung lãi suất: Để thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, Ngân hàng
trung ương thường điều chỉnh hạ lãi suất để kích thích các ngân hàng thương mại
và tổ chức tính dụng sử dụng tiền vay của ngân hàng trung ương để tăng cường tín
dụng cho nền kinh tế. Ngược lại, để thực hiện chính sách tiền thắt chặt, Ngân hàng
lOMoARcPSD| 47708777
Trang 16
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi
người
trung ương điều chỉnh tăng lãi suất để hạn chế quy mô tín dụng của các ngân hàng
thương mại cho nền kinh tế.
- Biên độ giao động tgít khi được dùng tới: Khi tgiả hối đoái biến
động, Ngân hàng trung ương phải can thiệp vào thị trường mở để ổn định tỷ giá hối
đoái bằng việc mua hoặc bán một lượng ngoại tệ
III. LẠM PHÁT
1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát đã được các nhà kinh tế học nghiên cứu từ rất sớm, hầu hết các
nhà nghiên cứu về lạm phát đều đồng ý rằng “lạm phát hiện tương tăng giá liên
tục của mức giá chung trong một khoảng thời gian”.
Lạm phát cũng thể hiện những mức độ nghiêm trọng khác nhau.
- Lạm phát vừa phải: được đặc trưng bằng giá cả tăng chậm và thể dự
đoán trước được, tlệ lạm phát hàng m dưới một con số thể coi lạm phát
vừa phải. Khi đó, các thành phần trong nền kinh tế tin tưởng vào việc giữ tiền mặt
các hợp đồng tính theo giá của đồng bản tệ, họ tin rằng giá của loại hàng
hóa được mua không chệch đi quá xa.
- Lạm phát phi mã: tỷ lệ lạm phát trong phạm vi hai chữ shoặc ba chữ
số, như 20%, 100% hay 200%. Một khi lạm phát phi diễn ra thường xuyên thì
sẽ đưa đến rất nhiều biến dạng kinh tế nghiêm trong. Trước nhất, các hợp đồng mua
bán có thể sẽ được neo vào một chỉ số giá nào đấy hoặc theo ngoại tệ có thể là đôla
hoặc Euro. Khi xảy ra lạm phát phi mã, đồng tiền tại quốc gia đó bị mất giá trị rất
nhanh, đưa đến các thành phần trong nền kinh tế chỉ giữ một lượng tiền tối thiểu
vừa đủ cho các thanh toán hàng ngày, họ sẽ chuyển tiền sang các loại đầu tư không
bị ảnh hưởng bởi lạm phát và không gửi tiền tiết kiệm với mức lãi suất danh nghĩa.
Tại Việt Nam, trong những năm 80 của thế kỷ trước, chúng ta cũng đã có tỷ lệ lạm
phát đến 300%.
lOMoARcPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi
người
- Siêu lạm phát: diễn ra khi giá cả trong một nền kinh tế thị trường ng
hàng triệu hay thậm chí hàng tỷ phần trăm một năm. Các nhà nghiên cứu nhận thấy
một số đặc điểm thường gặp của siêu lạm phát, thứ nhất cầu về tiền giảm mạnh (đo
bằng trữ ợng tiền chia cho mức giá), thứ hai giá cả lương thực tế không ổn
định. Siêu lạm phát thể hủy hoại thành quả lao động của các thành phần trong
nền kinh tế như một thảm họa tự nhiên. Thế giới đã được chứng kiến siêu lạm phát
tại Đức vào đầu thế kỷ XX và tại Zimbabwe trong thời gian gần đây.
2. Các nguyên nhân gây ra lạm phát
Milton Friedman đã đưa ra một kết luận nổi tiếng “Lạm phát mọi nơi và mọi
lúc đều hiện ợng tiền tệ”, nghĩa khi ng cung tiền để đáp ứng nhu cầu chi
tiêu của chính phủ thông qua việc Ngân hàng nhà nước mua trái phiếu do Chính
phủ phát nh, thì lạm phát không thể tránh khỏi. Lý thuyết này được giải thích
bới tiền đề tiền tệ trung lập, tiền đy cho rằng cung tiền tăng lên hoàn toàn không
tác động gì đến số lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra và số việc làm.
Keynes thi cho rằng, việc bù đắp chi tiêu bằng cách tăng cung tiền sẽ không
dẫn tới lạm phát cao, nếu trong nền kinh tế tại quốc gia đó đang có thất nghiệp cao
và các doanh nghiệp chưa tận dụng được hết năng lực sản xuất của mình. Nói cách
khác là nền kinh tế chưa đạt được mức GDP tiềm năng của mình.
Keynes phân biệt có hai loại lạm phát, đó là lạm phát hàng a và lạm phát
thu nhập (Luận thuyết về tiền tệ,1930). Trong đó lạm phát hàng hóa xảy ra khi giá
thị trường của các hàng hóa được sản xuất hàng loạt lâu dài như nông sản, dầu
thô, khoáng sản… tăng lên. Tương đương khi cầu hàng hóa trong tương lai tăng đột
biến trong khi cầu không thay đổi, thì khi đó giá thị trường sẽ tăng vọt. Lạm phát
thu nhập xuất hiện khi chi phí sản xuất hàng hóa tăng lên, điều nay đưa đến việc
các doanh nghiệp sẽ phải tăng giá bán để đảm bảo cho sự tồn tại của doanh nghiệp.
Trong trường hợp y, các yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất ntiền lương,
nguyên vật liệu, chi phí cho vốn vay đều trở lên đắt hơn. Trong khi, năng suất lao
lOMoARcPSD| 47708777
Trang 18
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi
người
động không tăng, hoặc tăng không nhanh bằng tốc độ tăng của chi phí sản xuất
được tính bằng tiền.
Ngay từ những năm 50 của thế k XX, khi các nhà kinh tế học của trường
phái cấu nghiên cứu về lạm phát tại các nước đang phát triển đã tìm thấy một
nguyên nhân gây ra lạm phát là sự không co giãn của cung và sự cứng nhắc của cơ
cấu giữa các khu vực trong nền kinh tế (Torado,1989). Các nhà kinh tế học đều xây
dựng căn cứ để xác định lạm phát cơ cấu dựa trên ba yếu tố căn bản:
- Giá ơng đối thay đổi khi cấu kinh tế thay đổi
- Sự kém linh hoạt của giá cảtiền tệ
- Cung tiền thđộng để cân bằng lượng cầu trong thị trường hàng hóa
và dịch vụ.
Tổng kết lại, cho dù tiếp cận từ các góc độ khác nhau, các nguyên nhân khác
nhau để phân tích nguyên nhân gây ra lạm phát, thì các nhà kinh tế học đều chấp
nhận rằng lạm phát xảy ra khi tổng cầu hàng hóa và dịch vụ vượt quá tổng cung
hàng hóa dịch vụ trong nền kinh tế.
Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cung và tổng cấu bao gồm:
- Nhân tố ảnh hưởng đến tổng cầu phải kể đến sự tăng cung tiền, tăng thu
nhập khả dụng, tăng chi tiêu công cộng của chính phủ, tăng tiêu dùng, mở rộng tín
dụng, mrộng khu vực kinh tế nhân, tăng hàng xuất khẩu, manh nên của nền kinh
tế ngầm và một số nhân tố ít ảnh hưởng khác
- Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cung gồm thiếu các nhân tố sản xuất,
sự mất ổn định trong công nghiệp, thiên tai và dịch bệnh trong nông nghiệp, sự khan
hiếm hàng giả tạo, tăng hàng xuất khẩu, sự độc quyền và các nhân tố khác.
3. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế
lOMoARcPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi
người
Lạm phát thường tác động cả hai mặt: tích cực khi lạm phát thấp tiêu cực
khi lạm phát ở mức phi mã hoặc siêu tốc.
Lạm phát làm phân phối lại thu nhậpcủa cải giữa các giai cấp khác nhau.
Khi lạm phát những người tài sản, những người đang đi vay nợ lợi,
giá cả các loại hàng hóa đều tăng lên, còn giá trị tiền tệ lại giảm xuống. Những
người m công ăn lương chỉ nguồn thu nhập chính tiền lương và những người
gửi tiền là bị thiệt hại.
- Tác động của lạm phát đối với phát triển kinh tế công ăn việc làm.
Đối với nền kinh tế thị trường, khi lạm phát xảy ra bảncó tác động m tăng
trưởng nền kinh tế tạo ra nhiều ng ăn việc làm hơn. Trong nền kinh tế thị
trường, lạm phát đồng nghĩa với việc cung tín dụng phát triển quá nhanh chóng, các
nhà kinh doanh có cơ hội để đầu tư thêm, công ăn việc làm cũng được tạo ra nhiều
hơn. Nhưng khi lạm phát giảm đột ngột thì sẽ làm cho nền kinh tế bị co hẹp lại quá
nhanh, hậu quả là số lao động giảm thiết bị bị bỏ không, không sử dụng hết năng
lực của nền kinh tế, dụ như nến kinh tế Việt Nam tại thời điểm 2012. Các món
nợ ngân hàng các chủ nợ khác sẽ dễ dàng thu lại được trong thời kỳ lạm phát,
nhưng nếu ngân hàng nhân hsẽ không thiệt hại cả. Chỉ người gửi tiền
mới bị thiệt hại.
Các tác động khác của lạm phát
- Lạm phát cân bằng dự tính được trước: đây một trường hợp
tưởng khi giá cả tăng lên 10% chằng hạn, thu nhập danh nghĩa cũng tăng lên 10%
có nghĩa là lạm phát không ảnh hưởng gì đến thu nhập, nó không phân phối lại thu
nhập. đây Nhà nước đã dự đoán trước được thu nhập điều chỉnh các chính
sách cho phù hợp, người dân cũng vậy, họ cũng biết trước được t lệ lạm phát
điều chỉnh các hành vi kinh tế của mình cho phù hợp.
- Một cuộc lạm phát vừa cân bằng, vừa dự đoán trước được không có ảnh
hưởng gì đến sản lượng thực tế, hoặc phân phối lại thu nhập.
lOMoARcPSD| 47708777
Trang 20
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi
người
- Lạm phát không cân bằng: thực tế lạm phát thường đẩy các loại chi
phí tăng lên, đẩy thuế tăng lên. nghĩa ảnh hưởng đến sản lượng thu
nhập.
4. Các biện pháp kiềm chế lạm phat
Chính sách hạn chế lượng cung tiền
Biện pháp y thực hiện khi lạm phát diễn ra một tốc độ siêu tốc hoặc phi mã.
Thực hiện chính sách thắt chặt lượng cung tiền tệ, ngân hàng trung ương của các
nước thường thực hiện chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt nhằm hạn chế khối
lượng tiền lưu thông, còn Chính phủ thường thực hiện chính sách hạn chế chi tiêu
hoặc các biện pháp khác, đây là biện pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát.
Chính sách tiền tệ
- Để thực hiện chính ch tiền tệ, hạn chế bằng hai cách
“đóng băng” tiền tệ hoặc “hút” bớt tiền từ lưu thông về, ngân hàng trung
ương sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo ớng:
+ Gia tăng lãi suất để hạn chế nhu cầu vay vốn của nền kinh tế đồng thời
kích thích tăng lượng tiền gửi của doanh nghiệp tiền gửi tiết kiệm của dân
vào ngân hàng.
+Chấm dứt việc phát hành tiền đểđắp thiếu hụt ngân sách nhà ớc.
+ Tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc để hạn chế khả năng cấp tín dụng của hệ thống
ngân hàng thương mại.
+ Thực hiện các biện pháp khác nhau nhằm rút bớt khối lượng tiền thừa trong
lưu thông như bán: chứng khoán, vàng, ngoại tệ,.. nhằm thu hút tiền lưu thông vào
hệ thống ngân hàng.
- Đối với chính sách tài chính:

Preview text:

lOMoAR cPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội Cơ hội học tập cho mọi người BÀI 2:
TIỀN TỆ - CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ - LẠM PHÁT
Hướng dẫn:
• Kiểm tra lại kiến thức về cung tiền và cầu tiên trong môn học Kinh tế học vĩ mô. Nội dung: I. TIỀN TỆ
1. Khái niệm và bản chất của tiền tệ Trang 1 lOMoAR cPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi người
Tiền là bất cứ một phương tiện nào được xã hội chấp nhận làm phương tiện
trao đổi với mọi hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác trong nền kinh tế.
Tiền tệ – kim loại vàng là sản phẩm của lao động con người có đầy đủ hai
thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Nhưng là hàng hóa đặc biệt, bởi lẽ tiền có giá
trị sử dụng đặc biệt, dùng nó người ta có thể trao đổi với bất cứ hàng hóa nào.
Do nền kinh tế hàng hóa là một thực thể đầy biến động. Nó tồn tại và phát
triển bị chi phối bởi nhiều quy luật khách quan. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa
phát triển đến giai đoạn cao, nền kinh tế thị trường được hình thành theo đúng nghĩa
của nó thì quá trình phi vật chất của tiền tệ cũng đồng thời diễn ra một cách tương
ứng. Nghĩa là vai trò của tiền vàng theo xu hướng giảm dần và tăng cường sử dụng
các loại dấu hiệu trong lưu thông. Cho nên, định nghĩa trên là phù hợp với lưu thông
tiền tệ trong nền kinh tế thị trường phát triển.
2. Các hình thái tiền tệ
Trước hết phải thừa nhận tiền được mọi người chấp nhận là những dạng vật
chất quen thuộc và có ích với tất cả mọi người, hoặc được mọi người đánh giá cao về mặt giá trị. -
Hoá tệ là lấy hàng hoá làm tiền tệ, đây là hình thái đầu tiên của
tiền tệ và được sử dụng trong một thời gian dài. Hàng hoá được sử dụng làm tiền
tiền tệ có 2 loại : Hàng hoá không phải kim loại và kim loại. -
Tín tệ là loại tiền tệ mà bản thân nó không có giá trị, hoặc giá trị
của nó rất nhỏ không đáng kể, nhưng nhờ sự tín nhiệm của mọi người mà nó
được lưu dụng. Tín tệ có 2 loại là tiền kim loại ( dùng kim loại để đúc thành tiền)
và tiền giấy ( sử dụng giấy để làm tiền). Giá trị của tiền không phụ thuộc vào
nguyên liệu làm tiền mà nó phụ thuộc vào những dấu hiệu ghi trên mặt đồng tiền do nhà nước quy định. Trang 2 lOMoAR cPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi người -
Bút tệ (tiền ghi sổ): đây là những khoản tiền gửi không kỳ hạn ở
ngân hàng. Đó là tiền do hệ thống ngân hàng thương mại tạo ra trong quá trình
thực hiện nghiệp vụ tín dụng. Việc sử dụng đồng tiền ghi sổ được thực hiện bằng
các bút toán ghi Nợ, ghi Có trên các tài khoản tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng. -
Tiền điện tử: các ngân hàng đã có thể thay thế phương thức thanh
toán truyền thống sử dụng các chứng từ giấy bằng phương thức thanh toán điến
tử (Electronic means of payment), điều kiện cần là cá nhân và tổ chức cần thanh
toán có tài khoản tại ngân hàng. Các giao dịch chuyển tiền sẽ được thực hiện trên
hệ thống máy tính kết nối hệ thống ngân hàng.
Trong khi tiền được hiểu tương đối hẹp, thì cách sử dụng tiền thì có ý nghĩa rất
rộng, có thể thông qua ví dụ sau để hiểu được. Nếu như một ai đó nói “trong túi tôi
có rất nhiều tiển” có nghĩa là anh ta đang nói đến tiền mặt được mang theo trong
người. Còn nếu anh ta nói “tôi kiếm được rất nhiểu tiền” điều này có thể hiểu là thu
nhập của anh ta. Trong trương hợp anh ta nói “tôi có rất nhiều tiền” thì lại là đang
nói về của cải của anh ta có được bao gồm cả bất động sản, tiền trong tài khoản,
tranh nghệ thuật, trang sức bằng kim loại quý.
Từ đó, các nhà kinh tế và những người sản xuất kinh doanh bắt đầu nghĩ và đưa ra
những tiêu chuẩn tiện lợi mà tiền – với tư cách là vật trung gian trao đổi – cần phải có, đó là: -
Phải có giá trị thực tế -
Dễ sử dụng trong tự nhiên -
Dễ vận chuyển và không quá cồng kềnh -
Có thể chia nhỏ phục vụ cho việc giao dịch thông thường hàng ngày -
Có thể tồn tại lâu dài và không hư hại lOMoAR cPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi người
Từ những tiêu chuẩn trên có thể thấy được rất nhiều thứ đã là tiền bây giờ trở nên
không thích hợp, tiền đá khó vận chuyển và không có giá trị thực tế. Bò hay lừa khó
vận chuyển và khó chia nhỏ và không thể tồn tại lâu dài.
3. Chức năng của tiền
* Phương tiện trao đổi: tiền tệ được sử dụng như một vật môi giới trung gian
trong việc trao đổi các hàng hoá, dịch vụ. Đây là chức năng đầu tiên của tiền tệ, nó
phản ánh lý do tại sao tiền tệ lại xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế hàng hoá. Để
thực hiện chức năng phương tiện trao đổi tiền phải có những tiêu chuẩn nhất định: -
Được chấp nhận rộng rãi - Dễ nhận biết - Có thể chia nhỏ -
Dễ vận chuyển, không bị hư hỏng một cách nhanh chóng -
Được tạo ra hàng loạt một cách dễ dàng và có tính đồng nhất.
* Chức năng phương tiện lưu giữ giá trị: Để được thừa nhận là một phương tiện
trao đổi tiền buộc phải có tính chất bảo tồn giá trị. Chúng ta sẽ không dám chấp
nhận tiền nếu nó chỉ có hiệu lực trao đổi trong ngày hôm nay mà không thể dùng
để trao đổi từ ngày mai trở đi. Là một phương tiện dự trữ giá trị, tiền tệ là nơi cất
giữ sức mua qua thời gian.
Việc thực hiện chức năng phương tiện dự trữ giá trị của tiền tốt đến đâu tuỳ thuộc
vào sự ổn định của mức giá chung, do giá trị của tiền được xác định theo khối lượng
hàng hoá mà nó có thể đổi được. Khi mức giá tăng lên, giá trị của tiền sẽ giảm đi Trang 4 lOMoAR cPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi người
và ngược lại. Sự mất giá nhanh chóng của tiền sẽ làm cho người ta ít muốn giữ nó,
điều này thường xảy ra khi lạm phát cao. Vì vậy để tiền thực hiện tốt chức năng
này, đòi hỏi sức mua của tiền phải ổn định. Với chức năng này có thể thấy tiền cũng
là một loại tài sản như những tài sản khác chỉ là nó không sinh lời theo thời gian.
* Thước đo giá trị: giá trị của tiền tệ được sử dụng làm chuẩn để đo lường giá trị
của các hàng hóa khác. Thông qua quan hệ so sánh này giá trị của các hàng hóa
được biểu hiện thành giá cả hàng hóa. Thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ
là thước đo hao phí lao động xã hội kết tinh trong các hàng hóa. Muốn thực hiện
được chức năng này, tiền tệ có những đặc điểm sau đây: - Có giá trị nội tại - Tiêu chuẩn giá cả -
Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ đã làm cho mọi
hàng hóa đều có một tiếng nói chung đó là giá cả. Giá cả của hàng hóa, là giá
trị của hàng hóa được biểu hiện bằng tiền. Thực chất giá cả của hàng hóa là
tỷ lệ so sánh giữa giá trị của nó với giá trị tiền tệ hay nói cách khác giá cả của
hàng hóa là một đại lượng tỉ lệ thuận với giá trị của hàng hóa và tỷ lệ nghịch
với giá trị của tiền tệ.
* Chức năng phương tiện thanh toán: chức năng này là chức năng gộp của hai
chức năng: trung gian trao đổi và đơn vị tính toán. Tuy nhiên, các nhà kinh tế học
tiền tệ vẫn muốn tách nó riêng ra để phản ánh một tính chất điển hình của tiền: tiền là phiếu nợ.
* Công cụ để điều tiết nền kinh tế: số lượng tiền tệ được cung ứng cho mỗi thời
điểm của nền kinh tế tùy thuộc vào hai điều: lOMoAR cPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi người -
Nhu cầu tiền của nền kinh tế vào thời điểm đó. Điều này phụ thuộc
vào tình trạng hoạt động của nền kinh tế. Nhân tố này thường rất thụ động. -
Số lượng cung ứng tiền phụ thuộc vào quyết định của mỗi chính
phủ thông qua ngân hàng trung ương của mình, và đây là nhân tố xác định chủ động.
4. Khối lượng tiền
* Các phép đo khối tiền tệ được đưa ra tuỳ thuộc vào các phương tiện được hệ
thống tài chính cung cấp và thường xuyên có sự thay đổi cho phù hợp, nhưng nhìn
chung các khối tiền tệ trong lưu thông bao gồm: -
Khối tiền giao dịch (M1) gồm những phương tiện được sử dụng rộng
rãi trong thanh toán chi trả về hàng hoá dịch vụ, bộ phận này có tính lỏng cao nhất:
+ Tiền mặt trong lưu hành: Bộ phận tiền mặt (giấy bạc ngân hàng và tiền đúc)
nằm ngoài hệ thống ngân hàng. Trang 6 lOMoAR cPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi người
nhân (gọi chung là tác nhân) diễn ra thường xuyên. Mọi giao dịch đều cần phải sử
dụng tiền, như: trả công lao động (trả lương), mua nguyên vật liệu, thanh toán nợ,
mua vật phẩm tiêu dùng ... Các khoản chi này hợp thành Tổng cầu tiền cho giao dịch.
• Nhu cầu tiền cho tích luỹ: ngoài các khoản chi thường xuyên cho giao
dịch, các tác nhân còn phải tích luỹ một khoản tiền nhất định cho các nhu cầu đã
dự định trước, như: mua sắm tài sản, đầu tư, cho kỳ du lịch sắp đến ... Giá trị của
các khoản này chưa đến "độ sử dụng", chúng ở trong quỹ của các tác nhân dưới
dạng tiền nhàn rỗi. Khi lãi suất tiền gửi thấp, thì số tiền giành cho nhu cầu tích lOMoAR cPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi người
lũy với các mục đích trên sẽ cao. Nhu cầu tích lũy phụ thuộc vào mức thu nhập
và mục đích của các tác nhân. Thời gian sử dụng tiền càng cấp bách thì đòi hỏi
tác nhân tích lũy càng nhanh. Giá trị khoản chi càng lớn thì phải tích lũy càng nhiều.
• Nhu cầu tiền cho dự phòng: dự phòng là nhu cầu bắt buộc của các tác
nhân. Nhu cầu này được chia làm ba loại. Dự phòng một số tiền để chờ cơ hội
mua mà không dự báo trước được. Dự phòng chi thường xuyên. Đây là những
khoản chi thường xuyên cho nhu cầu cá nhân, buộc mọi người phải dự phòng một
khoản tiền tối thiểu và cuối cùng dự phòng chi cho rủi ro.
• Nhu cầu tiền để cất trữ: đây là số lượng tiền nhàn rỗi lâu dài, chưa có
mục tiêu sử dụng. Trường hợp này các thể nhân thường đưa số "tiền thừa" vào
cất trữ. Tiền cất trữ thể hiện bằng vàng.
Tổng hợp các nhu cầu tiền nêu trên thành tổng cầu tiền của nền kinh tế trong một thời kỳ. -
Các nhân tố ảnh hưởng.
Nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế tăng lên hay giảm xuống nó phụ thuộc vào các nhân
tố sau: Giá trị các khoản giao dịch; lãi suất tín dụng; sự không đồng bộ về thời gian
thu và chi, tập quán chi tiêu của từng dân tộc, địa phương. 2. Cung tiền tệ
Cung tiền tệ là khối lượng tiền tệ đã được cung cấp cho nền kinh tế bởi hệ
thống ngân hàng. Nói khác đi mức cung tiền tệ là tổng các phương tiện tiền tệ thực
tế trong lưu thông và được nắm giữ bởi các chủ thể trong nền kinh tế.
3. Cân bằng cung và cầu tiền tệ Trang 8 lOMoAR cPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi người
Thị trường tiền tệ luôn hướng về điểm cân bằng khi mức cung tiền tệ bằng
mức cầu tiền tệ. Điều kiện cho sự cân bằng của thị trường tiền tệ là:
MS = MD
Khi mức gía (P) và thu nhập thực tế (Y) cho trước, sự cân bằng cung và cầu
tiền thực tế sẽ tạo ra mức lãi xuất cân bằng (i) trên thị trường.
4. Chính sách tiền tệ
Chính sách lưu thông tiền tệ hay chính sách tiền tệ (monetary policy) là quá
trình quản lý cung tiền (money supply) của cơ quan quản lý tiền tệ (có thể là ngân
hàng trung ương), thường là hướng tới một lãi suất mong muốn (targeting interest
rate) để đạt được những mục đích ổn định và tăng trưởng kinh tế - như kiềm chế
lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng
trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất
nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui
định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối.
5. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Thường các ngân hàng trung ương xây dựng chính sách tiền tệ hướng đến những mục tiêu sau:
• Ổn định tiền tệ, bảo vệ giá trị đối nội của đồng tiền trên cơ sở kiểm soát được lạm phát.
• Ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền trên cơ sở cân bằng cán cân thanh
toán quốc tế và ổn định tỷ giá hối đoái. • Ổn định lãi suất
• Ổn định các thị trường tài chính
• Tăng trưởng kinh tế trong sự ổn định lOMoAR cPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi người
• Tạo công ăn việc làm và giảm bớt thất nghiệp
Trong tác phẩm “sức mua của tiền tệ”, nhà kinh tế học Mỹ Irving Fisher đưa
ra mối quan hệ giữa tổng lượng tiền tệ (M) với tổng chi tiêu để mua hàng hoá, dịch
vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế dựa trên một khái niệm gọi là tốc độ lưu thông
tiền tệ theo phương trình trao đổi tính theo giá trị danh nghĩa của các giao dịch trong nền kinh tế: MVT = PT
Trong đó P là giá bình quân mỗi giao dịch,
T là số lượng giao dịch tiến hành trong một năm
VT : là tốc độ giao dịch của tiền tệ - tốc độ khối lượng tiền quay vòng hàng năm
Vì giá trị danh nghĩa của các giao dịch (T) rất khó đo lường cho nên học
thuyết số lượng đã được phát biểu theo tổng sản phẩm (Y): MV=PY
6. Công cụ của chính sách tiền tệ:
Là những hoạt động của Ngân hàng trung ương nhằm tác động đến cung tiền
và lãi xuất, qua đó nhằm đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Ngân hàng
trung ương sử dụng hai nhóm công cụ chính sách tiền tệ đó là:
• Những công cụ gián tiếp được dùng phổ biến hiện nay như: -
Nghiệp vụ thị trường mở: Trong các công cụ điều chỉnh chính sách tiền
tệ thì công cụ nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chủ động của ngân hàng trung
ương để điều chỉnh khối lượng tiền lưu thông và lãi suất. Trang 10 lOMoAR cPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi người -
Nghiệp vụ thị trường mở là việc ngân hàng trung ương tham gia mua
hoặc bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ với các ngân hàng thương
mại với mục đích tác động đến thị trường tiền tệ, điều hòa cung và cầu về giấy tờ
có giá, gây ảnh hưởng đến khối dự trữ của các ngân hàng thương mại tại ngân hàng
trung ương, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các ngân hàng này.
Trên thị trường tiền tệ, ngân hàng trung ương chủ yếu mua bán trái phiếu của
Chính phủ và trái phiếu ngân hàng trung ương để làm tăng giảm khối dự trữ của
ngân hàng thương mại, khi đó, ngân hàng thương mại có thể mở rộng hoặc hạn chế khả năng cho vay.
Việc ngân hàng trung ương mua trái phiếu góp phần tăng cung tín dụng, từ
đó làm lãi suất tín dụng hạ thấp, kích thích các doanh nghiệp đi vay. Đây cũng là
một cách gia tăng khối tiền tệ. Ngược lại, bằng cách bán trái phiếu trên thị trường
tiền tệ cho ngân hàng thương mại, ngân hàng trung ương thu hút tiền vào làm giảm
bớt khối tiền tệ. Kết quả làm cho dự trữ của ngân hàng thương mại tại ngân hàng
trung ương bị giảm, từ đó hạn chế khối lượng cấp tín dụng của ngân hàng thương mại.
Nếu sự mua bán trái phiếu không có ngân hàng trung ương tham gia mà chỉ
là giữa các ngân hàng thương mại với nhau thì khối tiền tệ không thay đổi. Đó chỉ
là sự di chuyển trái phiếu từ ngân hàng thương mại này sang ngân hàng thương mại
khác và một sự di chuyển ngược lại từ một phần dự trữ thặng dư của ngân hàng
thừa vào dự trữ của ngân hàng thiếu.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào những năm
1920. Nó là công cụ tác động mạnh, linh hoạt và chủ động, công cụ này có thể hạn
chế được những khiếm khuyết của công cụ dự trữ bắt buộc. Công cụ nghiệp vụ thị
trường mở linh hoạt ở chỗ là dễ đảo ngược được tình huống khi phát hiện tiền lưu
thông thừa hay thiếu bằng cách mua hoặc bán ra các giấy tờ có giá trị. Tuy nhiên, lOMoAR cPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi người
hạn chế của nó là chỉ có thể áp dụng trong điều kiện mà hầu hết tiền trong lưu thông
đều nằm ở tài khoản tại ngân hàng.
Ở Việt Nam, công cụ nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện bằng việc phát
hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và tổ chức đấu thầu tín phiếu Kho bạc Nhà
nước. Do đó, hiệu quả điều tiết không cao, chỉ chủ yếu tác động vào dự trữ của các ngân hàng.
Tỉ lệ dự trữ bắt buộc: Các ngân hàng trung gian phải ký gửi tại ngân hàng
trung ương một phần của tổng số tiền gửi mà ngân hàng trung gian nhận được từ
dân cư và các thành phần kinh tế theo một tỷ lệ nhất định.
Phần bắt buộc ký gửi đó được gọi là tiền gửi dự trữ bắt buộc (Reserve
Requirements) và tỷ lệ phần trăm mà ngân hàng trung ương quy định như trên được
gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm tính trên tổng tiền gửi huy động được
mà các ngân hàng thương mại không được sử dụng để kinh doanh. Mục đích của
việc thực hiên dự trữ bắt buộc là nhằm: -
Duy trì khả năng thanh toán thường xuyên của các ngân hàng trung gian,
hoặc trong những trượng hợp khẩn cấp như trường hợp xảy ra tình trạng đồng loạt
rút tiền gửi (bank run) của công chúng, tránh được tình trạng khủng hoảng ngân hàng. -
Giới hạn khả năng cho vay của ngân hàng trung gian, tránh được trường
hợp ngân hàng này quá ham kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay quá mức, có thể
phương hại tới quyền lợi của người ký gửi tiền ở ngân hàng, tức là đảm bảo an toàn
tiền gửi của khách hàng. Trang 12 lOMoAR cPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi người -
Việc tập trung dự trữ của các ngân hàng trung gian ở ngân hàng trung
ương còn là một phương tiện để ngân hàng trung ương có thêm quyền lực điều
khiển hệ thống ngân hàng, tạo sự lệ thuộc của các ngân hàng trung gian đối với ngân hàng trung ương.
Về nguyên tắc, khi ấn định một mức dự trữ bắt buộc ở mức thấp, ngân hàng
trung ương muốn khuyến khích các ngân hàng trung gian mở rộng mức cho vay của
họ, tức là muốn gia tăng khối tiền tệ. Điều này sẽ kích thích được các hoạt động
kinh tế, tăng khả năng giao lưu các nguồn vốn tài chính giữa các doanh nghiệp, thể
hiện một chính sách tiền tệ “nới lỏng”. Ngược lại, khi nâng cao mức dự trữ bắt
buộc, ngân hàng trung ương muốn giới hạn khả năng cho vay của ngân hàng trung
gian, báo hiệu một chính sách tiền tệ “thắt chặt” hay hạn chế khối tiền tệ. Điều này
tác động tới khả năng thu doanh lợi của ngân hàng trung gian.
Vì vậy, khi tiến hành gia tăng dự trữ bắt buộc đòi hỏi phải nghiên cứu trước
sức chịu đựng của ngân hàng trung gian đối với mức dự trữ mới sẽ ban hành. Để
ngân hàng trung gian không bị lỗ và cộng tác với ngân hàng trung ương trong việc
thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương có thể trả lãi cho mức dự trữ thặng
dư nào đó của ngân hàng trung gian, kèm theo một chính sách lãi suất thích hợp,
cộng vào đó, ngân hàng trung ương có thể vận dụng mức dự trữ bắt buộc một cách
uyển chuyển hơn, bằng cách phân biệt nhiều mức dự trữ bắt buộc, chẳng hạn, do
tính chất thanh khoản của mỗi loại tiền gửi, ngân hàng trung ương có thể quy định
tỷ lệ tiền dự trữ bắt buộc của tiền gửi không kỳ hạn cao hơn tỷ lệ dự trữ bắt buộc
của tiền gửi có kỳ hạn.
Chính sách chiết khấu: Nghiệp vụ của ngân hàng thương mại là kinh doanh
tiền tệ, bằng nguồn vốn huy động tiền gửi là chính. Nhưng không phải lúc nào hoạt
động ngân hàng cũng đều thuận lợi. Có những lúc người gửi tiền đến rút tiền quá
nhiều, ngân hàng dễ rơi vào tình trạng thiếu vốn. Những trường hợp ào ạt rút tiền
thường xảy ra theo những chu kỳ kinh tế. Do đó, nhiều ngân hàng khó tránh khỏi lOMoAR cPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi người
tình trạng thiếu khả năng thanh khoản. Vì vậy, nếu không có ngân hàng trung ương,
các ngân hàng thương mại sẽ rất dễ rơi vào tình trạng phá sản. Chính vào những lúc
khó khắn đó, ngân hàng thường mại tìm đến sự giúp đỡ của ngân hàng trung ương,
người cho vay cuối cùng.
Ngân hàng trung ương sẽ cấp tín dụng cho ngân hàng thương mại qua nhiều
hình thức, thông dụng nhất là tái cấp vốn dưới hình thức chiết khấu và tái chiết khấu
các thương phiếu. Khi chấp nhận chiết khấu hay tái chiết khấu là ngân hàng trung
ương đã làm tăng khối tiền lưu thông. Đây là hình thức phát hành tiền được xem là
lành mạnh do được đảm bảo bằng các giấy tờ có giá và khi các chứng khoán đáo
hạn ngân hàng trung ương sẽ đòi được các món nợ đã cho vay. Bên cạnh đó, việc
cho vay này luôn gắn liền với yêu cầu của nền kinh tế do sự tác động trực tiếp của quy luật cung cầu.
Thường thì việc điều hành công cụ tái cấp vốn để thực thi chính sách tiền tệ
được thông qua lãi suất chiết khấu, ngân hàng trung ương có thể khuyến khích giảm
hoặc tăng mức cung ứng tín dụng của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế,
đồng thời giảm hoặc tăng mức cung ứng tiền. Khi thực hiện chính sách hạn chế
(thắt chặt) tiền tệ, ngân hàng trung ương sẽ nâng lãi suất chiết khấu lên. Khi đó, các
ngân hàng thương mại sẽ nâng lãi suất cho vay hoặc hạn chế bớt những cơ hội cho
vay và ngược lại, nếu thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng (nới lỏng) ngân hàng
trung ương hạ thấp lãi suất chiết khấu, ngân hàng thương mại trong trường hợp này
đi vay rẻ, nên có khuynh hướng giảm bớt lãi suất cho vay dẫn đến nhu cầu vay tăng.
Tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại là công cụ đắc lực trong định
hướng phát triển kinh tế. Đối với chính sách kích thích xuất khẩu, ngân hàng trung
ương sẽ ưu tiên tái chiết khấu các thương phiếu xuất khẩu. Tuy nhiên khi chấp nhận
tái chiết khấu là ngân hàng trung ương đã tăng khối lượng tiền cung ứng. Chính vì
tầm quan trọng đó nên ngân hàng trung ương chỉ có thể chấp nhận tái chiết khấu theo điều kiện: Trang 14 lOMoAR cPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi người -
Khối lượng tiền cung ứng bằng con đường tín dụng, tức cấp tín dụng cho
nền kinh tế còn được phép cung ứng thêm. -
Bản thân các ngân hàng thương mại đem hối phiếu để tái chiết khấu phải
là những hối phiếu tốt.
Như vậy, chiết khấu và tái chiết khấu chính là việc ngân hàng trung ương
“mua” các thương phiếu của ngân hàng thương mại nhằm điều chỉnh mức cung ứng
tín dụng của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế, đồng thời qua đó điều chỉnh cung ứng tiền tệ.
Tuy nhiên, mỗi một công cụ đều có ưu nhược điểm riêng của nó, công cụ tái
cấp vốn (tái chiết khấu) có ưu điểm và nhược điểm sau:
-Ưu điểm: Các khoản cho vay của ngân hàng trung ương đều được đảm bảo bằng
các giấy tờ có giá do nó có khả năng thanh toán. Đồng thời công cụ tái chiết khấu
có tính chất chủ động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng hay hạn chế.
-Nhược điểm: Ngân hàng trung ương thụ động khi cung ứng tiền tệ, vì việc vay hay
không vay chủ động nằm ở ngân hàng thương mại
• Nhóm công cụ trực tiếp thường mang tính hành chính như: -
Hạn mức tín dụng: là mức dư nợ tối đa mà mỗi tổ chức tín dụng được
phép duy trì theo quy định của Ngân hàng trung ương trong từng thời kỳ. Hạn mức
tín dụng cho các tổ chức tín dụng là khác nhau, phụ thuộc vào đặc thù và năng lực
kinh doanh cũng như mức tổng dư nợ tín dụng dự tính của Ngân hàng trung ương
cho toàn bộ nền kinh tế cho từng thời kỳ tại mỗi quốc gia. -
Khung lãi suất: Để thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, Ngân hàng
trung ương thường điều chỉnh hạ lãi suất để kích thích các ngân hàng thương mại
và tổ chức tính dụng sử dụng tiền vay của ngân hàng trung ương để tăng cường tín
dụng cho nền kinh tế. Ngược lại, để thực hiện chính sách tiền thắt chặt, Ngân hàng lOMoAR cPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi người
trung ương điều chỉnh tăng lãi suất để hạn chế quy mô tín dụng của các ngân hàng
thương mại cho nền kinh tế. -
Biên độ giao động tỷ giá ít khi được dùng tới: Khi tỷ giả hối đoái biến
động, Ngân hàng trung ương phải can thiệp vào thị trường mở để ổn định tỷ giá hối
đoái bằng việc mua hoặc bán một lượng ngoại tệ III. LẠM PHÁT
1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát đã được các nhà kinh tế học nghiên cứu từ rất sớm, hầu hết các
nhà nghiên cứu về lạm phát đều đồng ý rằng “lạm phát là hiện tương tăng giá liên
tục của mức giá chung trong một khoảng thời gian”.
Lạm phát cũng thể hiện ở những mức độ nghiêm trọng khác nhau. -
Lạm phát vừa phải: được đặc trưng bằng giá cả tăng chậm và có thể dự
đoán trước được, tỷ lệ lạm phát hàng năm dưới một con số có thể coi là lạm phát
vừa phải. Khi đó, các thành phần trong nền kinh tế tin tưởng vào việc giữ tiền mặt
và ký các hợp đồng tính theo giá của đồng bản tệ, vì họ tin rằng giá của loại hàng
hóa được mua không chệch đi quá xa. -
Lạm phát phi mã: là tỷ lệ lạm phát trong phạm vi hai chữ số hoặc ba chữ
số, như 20%, 100% hay 200%. Một khi lạm phát phi mã diễn ra thường xuyên thì
sẽ đưa đến rất nhiều biến dạng kinh tế nghiêm trong. Trước nhất, các hợp đồng mua
bán có thể sẽ được neo vào một chỉ số giá nào đấy hoặc theo ngoại tệ có thể là đôla
hoặc Euro. Khi xảy ra lạm phát phi mã, đồng tiền tại quốc gia đó bị mất giá trị rất
nhanh, đưa đến các thành phần trong nền kinh tế chỉ giữ một lượng tiền tối thiểu
vừa đủ cho các thanh toán hàng ngày, họ sẽ chuyển tiền sang các loại đầu tư không
bị ảnh hưởng bởi lạm phát và không gửi tiền tiết kiệm với mức lãi suất danh nghĩa.
Tại Việt Nam, trong những năm 80 của thế kỷ trước, chúng ta cũng đã có tỷ lệ lạm phát đến 300%. Trang 16 lOMoAR cPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi người -
Siêu lạm phát: diễn ra khi giá cả trong một nền kinh tế thị trường tăng
hàng triệu hay thậm chí hàng tỷ phần trăm một năm. Các nhà nghiên cứu nhận thấy
một số đặc điểm thường gặp của siêu lạm phát, thứ nhất cầu về tiền giảm mạnh (đo
bằng trữ lượng tiền chia cho mức giá), thứ hai giá cả và lương thực tế không ổn
định. Siêu lạm phát có thể hủy hoại thành quả lao động của các thành phần trong
nền kinh tế như một thảm họa tự nhiên. Thế giới đã được chứng kiến siêu lạm phát
tại Đức vào đầu thế kỷ XX và tại Zimbabwe trong thời gian gần đây.
2. Các nguyên nhân gây ra lạm phát
Milton Friedman đã đưa ra một kết luận nổi tiếng “Lạm phát mọi nơi và mọi
lúc đều là hiện tượng tiền tệ”, nghĩa là khi tăng cung tiền để đáp ứng nhu cầu chi
tiêu của chính phủ thông qua việc Ngân hàng nhà nước mua trái phiếu do Chính
phủ phát hành, thì lạm phát là không thể tránh khỏi. Lý thuyết này được giải thích
bới tiền đề tiền tệ trung lập, tiền đề này cho rằng cung tiền tăng lên hoàn toàn không
tác động gì đến số lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra và số việc làm.
Keynes thi cho rằng, việc bù đắp chi tiêu bằng cách tăng cung tiền sẽ không
dẫn tới lạm phát cao, nếu trong nền kinh tế tại quốc gia đó đang có thất nghiệp cao
và các doanh nghiệp chưa tận dụng được hết năng lực sản xuất của mình. Nói cách
khác là nền kinh tế chưa đạt được mức GDP tiềm năng của mình.
Keynes phân biệt có hai loại lạm phát, đó là lạm phát hàng hóa và lạm phát
thu nhập (Luận thuyết về tiền tệ,1930). Trong đó lạm phát hàng hóa xảy ra khi giá
thị trường của các hàng hóa được sản xuất hàng loạt và lâu dài như nông sản, dầu
thô, khoáng sản… tăng lên. Tương đương khi cầu hàng hóa trong tương lai tăng đột
biến trong khi cầu không thay đổi, thì khi đó giá thị trường sẽ tăng vọt. Lạm phát
thu nhập xuất hiện khi chi phí sản xuất hàng hóa tăng lên, điều nay đưa đến việc
các doanh nghiệp sẽ phải tăng giá bán để đảm bảo cho sự tồn tại của doanh nghiệp.
Trong trường hợp này, các yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất như tiền lương,
nguyên vật liệu, chi phí cho vốn vay đều trở lên đắt hơn. Trong khi, năng suất lao lOMoAR cPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi người
động không tăng, hoặc tăng không nhanh bằng tốc độ tăng của chi phí sản xuất được tính bằng tiền.
Ngay từ những năm 50 của thế kỷ XX, khi các nhà kinh tế học của trường
phái cơ cấu nghiên cứu về lạm phát tại các nước đang phát triển đã tìm thấy một
nguyên nhân gây ra lạm phát là sự không co giãn của cung và sự cứng nhắc của cơ
cấu giữa các khu vực trong nền kinh tế (Torado,1989). Các nhà kinh tế học đều xây
dựng căn cứ để xác định lạm phát cơ cấu dựa trên ba yếu tố căn bản: -
Giá tương đối thay đổi khi cơ cấu kinh tế thay đổi -
Sự kém linh hoạt của giá cả và tiền tệ -
Cung tiền thụ động để cân bằng lượng cầu dư trong thị trường hàng hóa và dịch vụ.
Tổng kết lại, cho dù tiếp cận từ các góc độ khác nhau, các nguyên nhân khác
nhau để phân tích nguyên nhân gây ra lạm phát, thì các nhà kinh tế học đều chấp
nhận rằng lạm phát xảy ra khi tổng cầu hàng hóa và dịch vụ vượt quá tổng cung
hàng hóa dịch vụ trong nền kinh tế.
Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cung và tổng cấu bao gồm: -
Nhân tố ảnh hưởng đến tổng cầu phải kể đến sự tăng cung tiền, tăng thu
nhập khả dụng, tăng chi tiêu công cộng của chính phủ, tăng tiêu dùng, mở rộng tín
dụng, mở rộng khu vực kinh tế tư nhân, tăng hàng xuất khẩu, manh nên của nền kinh
tế ngầm và một số nhân tố ít ảnh hưởng khác -
Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cung gồm có thiếu các nhân tố sản xuất,
sự mất ổn định trong công nghiệp, thiên tai và dịch bệnh trong nông nghiệp, sự khan
hiếm hàng giả tạo, tăng hàng xuất khẩu, sự độc quyền và các nhân tố khác.
3. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế Trang 18 lOMoAR cPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi người
Lạm phát thường tác động cả hai mặt: tích cực khi lạm phát thấp và tiêu cực
khi lạm phát ở mức phi mã hoặc siêu tốc.
Lạm phát làm phân phối lại thu nhập và của cải giữa các giai cấp khác nhau.
Khi có lạm phát những người có tài sản, những người đang đi vay nợ là có lợi, vì
giá cả các loại hàng hóa đều tăng lên, còn giá trị tiền tệ lại giảm xuống. Những
người làm công ăn lương chỉ có nguồn thu nhập chính là tiền lương và những người
gửi tiền là bị thiệt hại. -
Tác động của lạm phát đối với phát triển kinh tế và công ăn việc làm.
Đối với nền kinh tế thị trường, khi lạm phát xảy ra cơ bản là có tác động làm tăng
trưởng nền kinh tế và tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn. Trong nền kinh tế thị
trường, lạm phát đồng nghĩa với việc cung tín dụng phát triển quá nhanh chóng, các
nhà kinh doanh có cơ hội để đầu tư thêm, công ăn việc làm cũng được tạo ra nhiều
hơn. Nhưng khi lạm phát giảm đột ngột thì sẽ làm cho nền kinh tế bị co hẹp lại quá
nhanh, hậu quả là số lao động giảm và thiết bị bị bỏ không, không sử dụng hết năng
lực của nền kinh tế, ví dụ như nến kinh tế Việt Nam tại thời điểm 2012. Các món
nợ ngân hàng và các chủ nợ khác sẽ dễ dàng thu lại được trong thời kỳ lạm phát,
nhưng nếu là ngân hàng tư nhân họ sẽ không thiệt hại gì cả. Chỉ có người gửi tiền mới bị thiệt hại.
Các tác động khác của lạm phát -
Lạm phát cân bằng có dự tính được trước: đây là một trường hợp lý
tưởng khi giá cả tăng lên 10% chằng hạn, thu nhập danh nghĩa cũng tăng lên 10%
có nghĩa là lạm phát không ảnh hưởng gì đến thu nhập, nó không phân phối lại thu
nhập. Ở đây Nhà nước đã dự đoán trước được thu nhập và điều chỉnh các chính
sách cho phù hợp, người dân cũng vậy, họ cũng biết trước được tỷ lệ lạm phát và
điều chỉnh các hành vi kinh tế của mình cho phù hợp. -
Một cuộc lạm phát vừa cân bằng, vừa dự đoán trước được không có ảnh
hưởng gì đến sản lượng thực tế, hoặc phân phối lại thu nhập. lOMoAR cPSD| 47708777
Trường Đại học Mở Hà Nội
hội học tập cho mọi người -
Lạm phát không cân bằng: thực tế là lạm phát thường đẩy các loại chi
phí tăng lên, đẩy thuế tăng lên. Có nghĩa là nó có ảnh hưởng đến sản lượng và thu nhập.
4. Các biện pháp kiềm chế lạm phat
• Chính sách hạn chế lượng cung tiền
Biện pháp này thực hiện khi lạm phát diễn ra ở một tốc độ siêu tốc hoặc phi mã.
Thực hiện chính sách thắt chặt lượng cung tiền tệ, ngân hàng trung ương của các
nước thường thực hiện chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt nhằm hạn chế khối
lượng tiền lưu thông, còn Chính phủ thường thực hiện chính sách hạn chế chi tiêu
hoặc các biện pháp khác, đây là biện pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát. • Chính sách tiền tệ -
Để thực hiện chính sách tiền tệ, hạn chế bằng hai cách
“đóng băng” tiền tệ hoặc “hút” bớt tiền từ lưu thông về, ngân hàng trung
ương sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo hướng:
+ Gia tăng lãi suất để hạn chế nhu cầu vay vốn của nền kinh tế đồng thời
kích thích tăng lượng tiền gửi của doanh nghiệp và tiền gửi tiết kiệm của dân cư vào ngân hàng.
+Chấm dứt việc phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước.
+ Tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc để hạn chế khả năng cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại.
+ Thực hiện các biện pháp khác nhau nhằm rút bớt khối lượng tiền thừa trong
lưu thông như bán: chứng khoán, vàng, ngoại tệ,.. nhằm thu hút tiền lưu thông vào hệ thống ngân hàng. -
Đối với chính sách tài chính: Trang 20