lOMoARcPSD| 59943509
Trư
ng Đ
i h
c M
Hà N
i
M
cơ h
i h
c t
p cho m
i ngư
i
BÀI 4
CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN TỘI PHẠM
VÀ ĐỒNG PHẠM
4.1. Khái niệm các giai đoạn thực hiện TP
Các giai đoạn thực hiện tội phạm các bước trong quá trình cố ý thực
hiện tội phạm bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt tội phạm hoàn
thành.
Chế định giai đoạn thực hiện tội phạm quy định dấu hiệu của từng giai
đoạn xác định trách nhiệm hình sđối với các trường hợp việc thực hiện tội
phạm đang diễn ra ở giai đoạn đó.
Các giai đoạn thực hiện tội phạm các bước trong quá trình cố ý thực hiện
tội phạm. Được phân biệt với nhau bởi các dấu hiệu, biển hiệu nhằm đánh giá sự
diễn biến mức độ thực hiện ý định phạm tội, làm sở cho việc xác định phạm
vi và mức độ trách nhiệmnh sự và hình phạt.
Hoạt động phạm tội cũng như bất kỳ hoạt động nào của con người đều diễn
ra theo một quá trình nhất định.
dụ: Để đạt được mục đích chiếm đoạt tài sản người phạm tội phải lựa
chọn đối tượng tác động (lấy loại tài sản nào). Sau đó n nhắc, lựa chọn thời
gian, địa điểm để sao cho quá trình thực hiện tội phạm được an toàn nhất.
Trong một số vụ án, người phạm tội thực hiện được trọn vẹn các quá trình
trên, nhưng mt số trường hợp người phạm tội phải dừng lại những thời
điểm khác nhau do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn.
lOMoARcPSD| 59943509
Luật Hình sự 1 – Bài 4
2
Trư
ng Đ
i h
c M
Hà N
i
M
cơ h
i h
c t
p cho m
i ngư
i
Để đánh giá tính chất, mức độ của tội phạm đã thực hiện, qua đó có cơ sở
để xác định TNHS đối với người phạm tội. Luật hình sự Việt Nam đã phân chia
quá trình thực hiện tội phạm thành 3 giai đoạn. Đó là: chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành.
Quá trình thực hiện tội phạm (lỗi cố ý) có ba giai đoạn:
+ Giai đoạn chuẩn bị phạm tội +
Giai đoạn phạm tội chưa đạt
+ Giai đoạn tội phạm đã hoàn thành.
Các giai đoạn phạm tội chỉ diễn ra trong các tội được thực hiện với lỗi cố ý
trực tiếp. Đối với tội vô ý, người phạm tội không có ý định phạm tội, không mong
muốn hậu quả xảy ra cho nên tội ý chỉ thể những tội đã hoàn thành, không
có giai đoạn chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt.
4.1.1. Giai đoạn chuẩn bị phạm tội
a) Khái niệm: Chuẩn bị phạm tội tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương
tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham
gia nhóm tội phạm, trừ trường hợp thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm quy
định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của Bộ
luật hình sự.
Chuẩn bị phạm tội giai đoạn trong đó người phạm tội những hành vi
tạo ra nhng điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm, nhưng chưa bắt đầu
thực hiện tội phạm đó. Thời điểm sớm nhất của giai đoạn phạm tội này thời
điểm người phạm tội bắt đầu có hành vi tạo ra những điều kiện vật chất hoặc tinh
thần giúp cho việc thực hiện hành vi phạm tội có thể xảy ra và xảy ra được thuận
lOMoARcPSD| 59943509
Trư
ng Đ
i h
c M
Hà N
i
M
cơ h
i h
c t
p cho m
i ngư
i
lợi, dễ dàng hơn. Những suy nghĩ, tính toán của con người diễn ra trong đầu của
họ không phải là chuẩn bị phạm tội dù đó là ý định phạm tội.
Thời điểm muộn nhất thời điểm trước lúc người phạm tội bắt đầu thực
hiện hành vi khách quan được phản ánh trong cấu thành tội phạm. Đó thời điểm
giới hạn giữa chuẩn bị phạm tộiphạm tội chưa đạt. Tóm lại, hành vi chuẩn bị
phạm tội phải thể hiện được ba dấu hiệu:
- Người phạm tội hành vi chuẩn bị các điều kiện vật chất hoặc các
điều kiện khác cho việc thực hiện tội phạm;
- Hành vi chuẩn bị dừng lại trước khi người phạm tội bắt đầu thực hiện
các hành vi được tả trong cấu thành tội phạm hoặc hành vi đi liền trước các
hành vi đó;
- Việc dừng lại ở giai đoạn này là do nguyên nhân khách quan.
Trong thực tế, hành vi chuẩn bphạm tội có thể thể hiện một sdạng như:
- Tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện phạm tội: công cụ, phương
tiện phạm tội là những vật mà người phạm tội dùng để tác động vào đối tượng tội
phạm. Mặt khác, công cụ, phương tiện phạm tội hỗ trợ đắc lực cho việc thực hiện
tội phạm diễn ra một cách thuận lợi, dễ dàng hơn.
- Tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm: Chuẩn
bị kế hoạch phạm tội; thăm địa điểm phạm tội; thăm , làm quen với nạn nhân
hoặc người bị hại; loại trừ trước những trở ngại khách quan cho việc phạm tội...
Trong những dạng chuẩn bị này, hành vi chuẩn bcông cụ, phương tiện dạng
phổ biến nhất, nói chung đó điều kiện cần thiết bản cho quá trình thực hiện
tội phạm.
lOMoARcPSD| 59943509
Luật Hình sự 1 – Bài 4
4
Trư
ng Đ
i h
c M
Hà N
i
M
cơ h
i h
c t
p cho m
i ngư
i
- Thành lập, tham gia nhóm tội phạm: là hành vi rủ rê, lôi kéo, lừa gạt
người khác tham gia vào nhóm tội phạm hoặc tham gia với cách thành viên
của nhóm tội phạm. đây, loại trừ trường hợp thành lập, tham gia tổ chức tội
phạm đã cấu thành tội độc lập quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 điều 113
hoặc điểm a khoản 2 điều 229 của Bộ luật nh sự.
b) Trách nhiệm hình sự: Vấn đtrách nhiệm hình sự chỉ được đặt ra đối
với trường hợp chuẩn bị phạm tội bị dừng lại bởi những nguyên nhân khách quan
ngoài ý muốn của người phạm tội và được quy định trong từng cấu thành tội phạm
cụ thể theo luật định.
Khoản 2, Khoản 3 Điều 14 Bộ luật hình sự quy định:
- Người chuẩn bị phạm một trong các tội sau đây thì phải chịu trách nhiệm
hình sự:
Điều 108 (tội phản bội Tổ quốc); Điều 109 (tội hoạt động nhằm lật đổ chính
quyền nhân dân); Điều 110 (tội gián điệp); Điều 111 (tội xâm phạm an ninh lãnh
thổ); Điều 112 (tội bạo loạn); Điều 113 (tội khủng bố nhằm chống chính quyền
nhân dân….Điều 123 (tội giết người); Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác);Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 169 (tội
bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản)….
4.1.2. Phạm tội chưa đạt
a) Khái niệm: Điều 15 Bộ luật hình sự quy định: “Phạm tội chưa đạt là cố ý
thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân
ngoài ý muốn của người phạm tội.”
lOMoARcPSD| 59943509
Trư
ng Đ
i h
c M
Hà N
i
M
cơ h
i h
c t
p cho m
i ngư
i
Các dấu hiệu về phạm tội chưa đạt:
- Đã bắt đầu thực hiện tội phạm
- Chưa thực hiện hết các dấu hiệu trong CTTP hoặc chưa làm thỏa mãn
hết các dấu hiệu trong CTTP
- Việc không thực hiện được đến cùng là do các nguyên nhân khách
quan ngoài ý muốn của người phạm tội…
b) Phân loại các trường hợp phạm tội chưa đạt
+ Dựa vào tâm người phạm tội về việc chưa đạt, khoa học luật hình sự
thể chia phạm tội chưa đạt thành phạm tội chưa đạt chưa đạt chưa hoàn thành và
phạm tội chưa đạt đã hoàn thành
+ Dựa vào nguyên nhân chưa đạt do đối tượng tác động hoặc do công cụ
phương tiện, phạm tội chưa đạt được chia thành: chưa đạt hiệu và các trường
hợp chưa đạt khác
Ý nghĩa: Nếu một người đang ở giai đoạn chưa đạt đã hoàn thành thì việc
dừng lại không được coi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nữa, trạng
thái tâm lý cho rằng đã thực hiết những hành vi người phạm tội cho cần thiết
để gây ra hậu quả, nên hậu quả không xảy ra là do yếu tố khách quan.
Phân chia các trường hợp chưa đạt còn giúp cho việc đánh giá tính chất mức
độ nguy hiểm của từng trường hợp phạm tội chưa đạt
c/ Trách nhiệm hình sự của giai đoạn phạm tội chưa đạt: Đối với trường
hợp phạm tội chưa đạt, Luật hình sự Việt Nam quy định mọi trường hợp phạm tội
chưa đạt đều phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp này người phạm
lOMoARcPSD| 59943509
Luật Hình sự 1 – Bài 4
6
Trư
ng Đ
i h
c M
Hà N
i
M
cơ h
i h
c t
p cho m
i ngư
i
tội đã có hành vi trực tiếp xâm hại đến khách thể, đã trực tiếp đe doạ gây ra những
hậu quả nguy hiểm cho hội, người phạm tội đã thực hiện được những hành vi
cần thiết để gây ra hậu quả, nhưng hậu quả không xảy ra do nhng nguyên nhân
ngoài ý muốn.
- Nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt cao nhất chung
thân hoặc tử hình, thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm.
- Nếu luật được áp dụng thời hạn thì mức hình phạt không quá
ba phần tư mức hình phạt tù mà điều luật quy định.
4.1.3. Tội pham hoàn thành
a) Khái niệm: Một tội phạm được coi hoàn thành khi hành vi
phạm
tội đã thoả mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm.
Điều đó nghĩa khi một tội phạm hoàn thành thì hành vi phạm tội đã
có đủ các dấu hiệu nói lên được đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của loại tội
đó. Với quan niệm này, Luật hình sự Việt Nam khẳng định: thời điểm tội phạm
hoàn thành không phụ thuộc vào việc người phạm tội đã đạt được mục đích của
mình hay chưa. Khái niệm tội phạm hoàn thành đây theo nghĩa hoàn thành về
mặt pháp lý, tức là tội phạm đã thoả mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm.
b) Thời điểm tội phạm hoàn thành: Căn cứ vào định nghĩa chung
về tội phạm hoàn thành dựa vào đặc điểm cấu trúc của các loại cấu thành
tội phạm, thể rút ra được kết luận về thời điểm hoàn thành của các loại
tội có cấu thành vật chất, có cấu thành hình thức như sau:
lOMoARcPSD| 59943509
Trư
ng Đ
i h
c M
Hà N
i
M
cơ h
i h
c t
p cho m
i ngư
i
- Những tội phạm cấu thành tội phạm vật chất hoàn thành khi người
phạm tội đã gây ra hậu quả của tội phạm p hợp với yêu cầu của điều luật. Ví dụ,
tội giết người tội cấu thành tội phạm vật chất nên tội phạm này hoàn thành
khi hậu quả chết người đã xảy ra.
- Những tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức, thì tội phạm hoàn
thành ngay khi người phạm tội đã thực hiện xong hành vi phạm tội. dụ, tội cướp
tài sản là tội có cấu thành hình thức, nên tội phạm hoàn thành khi người phạm tội
hành vi dùng lực, đe dọa dùng lực ngay tức khắc hoặc hành vi khác
làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự
được, không cần thiết có hậu quả chiếm đoạt tài sản đã xảy ra hay chưa.
Thời điểm tội phạm hoàn thành cần phải được phân biệt với thời điểm tội
phạm kết thúc. Tội phạm kết thúc là thời điểm hành vi phạm tội đã thực sự chấm
dứt trên thực tế. Hai thời điểm này có thể trùng nhau hoặc không trùng nhau.
4.1.4 Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
a) Khái niệm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
Điều 16 Bộ luật hình sự quy định: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản”.
b) Các điều kiện của trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
- Việc chấm dứt hành vi phạm tội phải xảy ra khi tội phạm đang ở giai đoạn
chuẩn bị phạm tội hoặc giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Khi tội phạm
đã ở giai đoạn chưa đạt đã hoàn thành tcũng có nghĩa là người phạm tội đã thực
lOMoARcPSD| 59943509
Luật Hình sự 1 – Bài 4
8
Trư
ng Đ
i h
c M
Hà N
i
M
cơ h
i h
c t
p cho m
i ngư
i
hiện được hết những hành vi mong muốn do vậy không thể việc tự ý dừng
lại không thực hiện tiếp tội phạm.
- Việc chấm dứt hành vi phạm tội phải tự nguyện và dứt khoát. Để được coi
là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, trước hết đòi hỏi việc chủ thể dừng lại,
không tiếp tục thực hiện tội phạm phải hoàn toàn do động lực bên trong chứ không
phải do trở ngại khách quan chi phối. Khi dừng lại, người phạm tội trong hoàn
cảnh hiện tại không có gì ngăn cản, vẫn có thể thực hiện tiếp tội phạm nhưng họ
đã dừng lại.
- Việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội làm cho tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội được coi là giảm đi đáng kể. Về mặt khách quan,
tính chất nguy hiểm cho hội của hành vi còn hạn chế mức độ nhất định. Về
mặt chủ quan, người phạm tội đã hoàn toàn từ bỏ hẳn ý định phạm tội của mình,
họ không ý chí mong muốn thực hiện tội phạm đến cùng như những trường hợp
phạm tội chưa hoàn thành. Do đó, Luật hình sự quy định miễn TNHS cho người
phạm tội.
Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong trường hợp đồng phạm.
Việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người xúi giục, người tổ
chức, người giúp sức (trong trường hợp đồng phạm) có mt số đặc điểm khác với
tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người thực hành tội phạm.
Theo đó:
lOMoARcPSD| 59943509
Trư
ng Đ
i h
c M
Hà N
i
M
cơ h
i h
c t
p cho m
i ngư
i
- Để được miễn trách nhiệm hình sự theo Điều 16 Bộ luật hình sự, người xúi
giục, người tổ chức phải thuyết phục, khuyên bảo để người thực hành không thực
hiện tội phạm hoặc phải báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, báo cho người
sẽ là nạn nhân biết…và phải ngăn chặn được người thực hành thực hiện tội phạm
- Để được miễn trách nhiệm hình sự theo Điều 16 Bộ luật hình sự, người giúp
sức phải chấm dứt việc tạo những điều kiện về vật chất hay các điều kiện khác
cho việc thực hiện tội phạm như: thu hồi cung cấp phương tiện, công c phạm tội;
không chỉ địa điểm, dẫn đường cho người thực hành... Nếu sự giúp sức của người
giúp sức đang được những người đồng phạm khác thực hiện, tngười giúp sức
cũng phải có những hành động tích cực để ngăn chặn việc thực hiện tội phạm
phải ngăn chặn được hành vi thực hiện tội phạm thì mới được miễn TNHS.
c) Trách nhiệm hình sự của những người tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội
Theo Điều 16 Bộ luật hình sự, “người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực
hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội này”.
dụ, một người dự định phạm tội giết người nhưng mới đâm gây thương
tích cho nạn nhân đã tự nguyện dừng lại và không thực hiện tội phạm nữa. Khi đó,
người này không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người
(Điều 123) nhưng sẽ bị truy cứu về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác (Điều 134).
lOMoARcPSD| 59943509
Luật Hình sự 1 – Bài 4
10
Trư
ng Đ
i h
c M
Hà N
i
M
cơ h
i h
c t
p cho m
i ngư
i
4.2. Khái niệm và các dấu hiệu của đồng phạm
4.2.1. Khái niệm: Khoản 1 Điều 17 Bộ luật hình sự quy định: “Đồng phạm
là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.
Từ khái niệm nêu trên cho thấy:
- Đồng phạm phải có từ hai người trở lên.
- Những người trong đồng phạm phải thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.
Phạm tội trong trường hợp đồng phạm thường có tính chất và mức độ nguy
hiểm cao hơn so với trường hợp phạm tội đơn lẻ
4.2.2. Dấu hiệu của đồng phạm: a/
Dấu hiệu về mt khách quan
- Có từ hai người trở lên và những người này phải có đủ điều kiện chủ
thể của tội phạm (có năng lực trách nhiệm hình sự). Hai hay nhiều người trong
đồng phạm đòi hỏi phải có đủ những điều kiện của chủ thể của tội phạm.
- Những người này phải cùng thực hiện một tội phạm: Cùng thực hiện
một tội phạm nghĩa người tham gia đồng phạm phải thực hiện mt trong
những hành vi sau:
- Hành vi thực hiện tội phạm (tức thực hiện hành vi được tả trong
cấu thành tội phạm);
- Hành vi tổ chức thực hiện tội phạm;
lOMoARcPSD| 59943509
Trư
ng Đ
i h
c M
Hà N
i
M
cơ h
i h
c t
p cho m
i ngư
i
- Hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm;
- Hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm.
Những người đồng phạm thực hiện các hành vi nêu trên trong sliên kết
với nhau, tác động lẫn nhau, hành vi của người này là điều kiện, là khâu cần thiết
trong việc thực hiện hành vi phạm tội chung, tạo nên nguyên nhân gây ra hậu quả
nguy hiểm cho xã hội.
b/ Dấu hiệu về mặt chủ quan
- Dấu hiệu lỗi: Hai hay nhiều người phải cùng thực hiện một tội phạm
với lỗi cố ý. Khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho hội, mỗi người đồng phạm
không chỉ c ý với hành vi của mình, còn biết và mong muốn sự cố ý tham gia
của những người đồng phạm khác. Cố ý đây thcố ý trực tiếp hoặc gián
tiếp. Đối với những tội phạm có lỗi vô ý thì không thể có đồng phạm.
- Về trí: mỗi người trong đồng phạm đều biết hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội và biết hành vi của người khác cũng nguy hiểm cho xã hội
cùng với mình. Đồng thời, mỗi người cũng thấy trước được hậu quả của hành vi
mình cũng như hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực hiện xảy ra.
- Về ý chí: mỗi người trong đồng phạm đều mong muốn có hoạt động
chung, cùng mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Nếu có nhiều
người cùng phạm tội nhưng không có sự “cùng cố ý”, không thống nhất ý chí thì
không có đồng phạm xảy ra mà chỉ là những trường hợp phạm tội riêng lẻ.
Dấu hiệu mục đích
Đối với những những tội phạm luật quy định mục đích dấu hiệu bắt
buộc thì những người trong đồng phạm phải có cùng mục đích khi thực hiện hành
lOMoARcPSD| 59943509
Luật Hình sự 1 – Bài 4
12
Trư
ng Đ
i h
c M
Hà N
i
M
cơ h
i h
c t
p cho m
i ngư
i
vi phạm tội hoặc tiếp nhận mc đích đó. Nếu không thỏa mãn dấu hiệu mục đích
sẽ không có đồng phạm và những người tham gia sẽ chịu trách nhiệm hình sự độc
lập với nhau.
Dấu hiệu động cơ
Những người tham gia đồng phạm có thể cùng động cơ hoặc có những động
cơ khác nhau khi cùng thực hiện tội phạm. 4.2.3. Các loại người đồng phạm
a) Người thực hành
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Người thực hành
có hai dạng:
Dạng 1: Tự mình thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong CTTP.
Ví dụ như trực tiếp thực hiện hành vi đâm, bắn, dùng vũ lực trong các
tội giết người, cướp tài sản.
Dạng 2: Không tự mình trực tiếp thực hiện hành vi khách quan được mô
tả trong CTTP hành vi cố ý tác động đến người khác để người này trực
tiếp thực hiện hành vi đó. Nhưng người trực tiếp thực hiện hành vi khách quan
đó họ không phải chịu TNHS những do khác nhau. Chúng thuộc các trường
hợp phổ biến sau:
- Do họ không NLTNHS. dụ A đủ 18 tuổi thuê em
bé 13 tuổi, người tâm thần hủy hoại tài sản của người khác. A bị coi
là người thực hành tội phạm hủy hoại tài sản.
lOMoARcPSD| 59943509
Trư
ng Đ
i h
c M
Hà N
i
M
cơ h
i h
c t
p cho m
i ngư
i
- Do họ không lỗi hoặc chỉ lỗi ý do sai lầm.
dụ trường hợp gửi quà trong đó có thuốc phiện mà người vận chuyển
không biết đó là thuốc phiện.
- Họ bị cưỡng bức về tinh thần trong trường hợp được
miễn TNHS.
b) Người tổ chức
Người tổ chức được quy định tại Khoản 2, Điều 17 BLHS bao gồm 3
loại người như sau:
- Người chủ u: là người chủ động vmặt tinh thần gây
ra việc thực hiện tội phạm.
- Người cầm đầu: người đứng ra thành lập các ng
nhóm phạm tội hoặc hành vi tham gia vào việc soạn thảo kế hoạch,
phân công giao trách nhiệm cho đồng bọn.
- Người chỉ huy: Là người trực tiếp điều khiển hoạt động
của các băng nhóm phạm tội.
Người tổ chức người vai thình thành băng nhóm tội phạm điều khiển
hoạt động của băng nhóm tội phạm. Do đó luật hình sự coi người tổ chức là người
nguy hiểm nhất trong vụ đồng phạm.
c) Người xúi giục
Người xúi giục là người dụ dỗ, kích động, thúc đẩy người khác thực hiện
tội phạm.
Người xúi giục có 2 đặc điểm sau:
- Tác động đến tưởng người khác bằng thủ đoạn kích
động, dụ dỗ thúc đẩy khiến người này hình thành ý định phạm tội
thực hiện tội phạm.
lOMoARcPSD| 59943509
Luật Hình sự 1 – Bài 4
14
Trư
ng Đ
i h
c M
Hà N
i
M
cơ h
i h
c t
p cho m
i ngư
i
- Hành vi xúi giục phải nhằm vào một, một sngười cụ
thể và phải nhằm gây ra việc thực hiện một tội phạm nhất định.
d) Người giúp sức
Người giúp sức người tạo ra những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho
việc thực hiện tội phạm.
Hành vi của người giúp sức thể hiện hành vi tạo điều kiện vật chất
tinh thần, nhìn chung để tạo những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tội
phạm. Nói về việc tạo điều kiện vật chất có thể là cung cấp công cụ, phương tiện
phạm tội, tạo điều kiện về tinh thần thể góp ý, chỉ dẫn thủ đoạn thực hiện
tội phạm.
Hành vi giúp sức có thể thực hiện bằng không hành động phạm tội.
Trường hợp không hành động xảy ra khi một người nghĩa vụ theo luật
định phải hành động nhưng đã không hành động do đó đã tạo điều kiện thuận
lợi cho việc thực hiện tội phạm. dụ A cán bộ phòng tài vcủa quan đã
cố tình về sau cùng và cố tình không khóa cửa phòng nhằm tạo thuận lợi cho em
trai là B đêm đó vào phòng tài vụ trộm cắp tài sản. A giúp sức bằng không hành
động, đó là cố ý không khóa cửa phòng.
Cũng bị xem người giúp sức trong trường hợp một người hứa hẹn sẽ
che giấu, tiêu thụ tài sản…tạo điều kiện thuận lợi về tinh thần cho người thực
hành tội phạm.
4.2.4. Các hình thức đồng phạm
a) Phân loại theo ý thức chủ quan
lOMoARcPSD| 59943509
Trư
ng Đ
i h
c M
Hà N
i
M
cơ h
i h
c t
p cho m
i ngư
i
- Đồng phạm thông mưu trước: hình thức đồng phạm trong
đó giữa nhng người đồng phạm đã sự thoả thuận, bàn bạc trước
về tội phạm cùng thực hiện.
- Đồng phạm không thông mưu trước: hình thức đồng
phạm trong đó giữa những người đồng phạm không có sự thoả thuận,
bàn bạc trước về tội phạm cùng thực hiện.
Ví dụ: Trường hợp A và B là bạn, cùng thỏa thuận trước ở nhà để chuẩn bị
thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thì được coi là đồng phạm thông mưu trước.
Ví dụ: Trong một vụ trộm cắp tài sản, A nhờ B là xe ôm chở đến ngôi nhà
chủ nhân đi vắng để thực hiện hành vi trộm cắp, đến nơi A nói với B bên trong
nhà có nhiều tài sản có giá trị và rủ B cùng tham gia, B đồng ý. Cả hai cùng thực
hiện hành vi trộm cắp đó là đồng phạm không có sự thông mưu trước.
b) Phân loại theo dấu hiệu khách quan
- Đồng phạm đơn giản: Là hình thức đồng phạm trong đó những người cùng
tham gia vào vụ đồng phạm đều với vai trò là người thực hành.
dụ: Tất cả những người đồng phạm cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm
đều vai trò người thực hành.Ví dụ: A rủ B C vào công ty lấy trộm một
thùng hàng có giá trị.
- Đồng phạm phức tạp: hình thức đồng phạm trong đó một hoặc một s
người là người thực hành còn lại những người khác với vai trò là người tổ chức
hoặc người xúi giục hoặc người giúp sức.
dụ: A vạch kế hoạch vào công ty lấy trộm thùng hàng giá trị, rồi
sai đàn em của mình là B và C thực hiện kế hoạch. Trong đó B là người canh giữ
bên ngoài và chuẩn bị xe để tẩu thoát, còn C là người trực tiếp vào trong kho lấy
trộm.
lOMoARcPSD| 59943509
Luật Hình sự 1 – Bài 4
16
Trư
ng Đ
i h
c M
Hà N
i
M
cơ h
i h
c t
p cho m
i ngư
i
c) Căn cứ vào dấu hiệu chủ quan và khách quan
Phạm tội có tổ chức
Phạm tội có tổ chức là trường hợp đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa
những người đồng phạm. (Khoản 3, Điều 17 BLHS).
Phạm tội có tổ chức: là hình thức đồng phạm đặc biệt mà định nghĩa pháp
của được quy định tại khoản 2 Điều 17 Bộ luật Hình sự: “Phạm tội tổ
chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực
hiện tội phạm”. Thường sự kết hợp của đồng phạm thông u trước
đồng phạm phức tạp.
Như vậy, đặc điểm của phạm tội tổ chức scấu kết chặt chẽ giữa
những người trong đồng phạm
Sự cấu kết chặt chẽ tức là chỉ mức độ liên kết cao hơn, chặt chẽ n về
khách quan sphân hoá vai trò nhiệm vụ về chủ quan của mỗi người trong
đồng phạm.
Ranh giới xác định như thế nào là sự câu kết chặt chẽ chỉ mang tính tương
đối. Thực tiễn thừa nhận các trường hợp sau phạm tội tổ chức: + Những
người đồng phạm đã tham gia vào tổ chức phạm tội như Đảng phái chống chính
quyền nhân dân, băng ổ trộm, cướp.
+ Những người phạm tội đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo một kế
hoạch đã thống nhất trước.
+ Những người đồng phạm chthực hiện tội phạm một lần nhưng đã
thực hiện theo kế hoạch được tính toán kỹ càng, chu đáo.
lOMoARcPSD| 59943509
Trư
ng Đ
i h
c M
Hà N
i
M
cơ h
i h
c t
p cho m
i ngư
i
4.2.5. Trách nhiệm hình sự trong đng phạm a)
Các vấn đề liên quan đến xác định tội phạm
- Vấn đề chủ thể đặc biệt trong đồng phạm
Đối với những tội phạm chủ thể đặc biệt, luật hình sự chỉ đòi hỏi người
thực hành có đặc điểm của chủ thể đó. Những người đồng phạm khác không nhất
thiết phải có những đặc điểm của chthể đặc biệt. d
:
Trong vụ tham ô tài sản,
người thực hành phải người chức vụ, quyền hạn liên quan đến tài sản còn
những người đồng phạm khác (xúi giục, giúp sức, tổ chức) có thể là người không
có chức vụ, quyền hạn như vậy.
- Vấn đề giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng phạm
Nếu những người đồng phạm không thực hiện tội phạm được đến cùng do
những nguyên nhân khách quan thì người thực hành thực hiện tội phạm đến giai
đoạn nào, thì những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm hình sự đến đó.
Nếu người bị xúi giục không nghe theo, sự xúi giục không có kết quả thì
chỉ riêng người xúi giục phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm họ muốn
xúi giục.
Nếu người giúp sức cho người khác thực hiện tội phạm nhưng người này
không thực hiện tội phạm đó hoặc không sử dụng sự giúp sức thì người giúp sức
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mà họ muốn giúp sức. Ví dụ: Canh gác giúp
người khác để người này bán chất ma tuý nhưng thực tế không có chất ma tuý mà
chỉ lừa dối bán chất ma tuý giả để chiếm đoạt tài sản của người mua. Trong
trường họp này, người giúp sức phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái
phép chất ma tuý (Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
- Vấn đtự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng
phạm
lOMoARcPSD| 59943509
Luật Hình sự 1 – Bài 4
18
Trư
ng Đ
i h
c M
Hà N
i
M
cơ h
i h
c t
p cho m
i ngư
i
Trong vụ đồng phạm, khi có sự tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của
một người hay một số người thì việc miễn trách nhiệm hình sự chỉ được áp dụng
đối với người đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Đối với người thực hành,
vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội cũng như trường hợp phạm tội riêng
lẻ. Khi người thực hành tý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì chỉ riêng họ
được miễn trách nhiệm nh sự. Những người đồng phạm khác vẫn phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm họ đã tham gia giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc
phạm tội chưa đạt, tuỳ thuộc vào thời điểm người thực hành đã tý nửa chừng
chẩm dứt việc phạm tội.
Đối với người tổ chức, người xúi giục người giúp sức, việc tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội phải được thực hiện trước khi người thực hành thực
hiện tội phạm và phải có hành động tích cực làm mất tác dụng của những hành vi
trước đó của mình, để ngăn chặn việc thực hiện tội phạm (nthu hồi lại công cụ,
phương tiện đã cho mượn).
- Một số hành vi có liên quan đến tội phạm nhưng không phải
hành vi đồng phạm
Liên quan đến tội phạm nhưng không phải hành vi cùng thực hiện tội
phạm. Đó là những trường hợp không tố giác tội phạm và che giấu tội phạm.
Hành vi không tổ giác tội phạm hành vi che giấu tội phạm được gọi chung
hành vi liên quan đến tội phạm. Cả hai hành vi này đều không ảnh hưởng đến việc
thực hiện tội phạm không được tố giác hoặc che giấu nếu không có hứa hẹn trước.
Do vậy, người hành vi che giấu hoặc không tố giác tội phạm không phải chịu
trách nhiệm hình sự cùng với người thực hiện tội phạm với vai trò người đồng
phạm.
lOMoARcPSD| 59943509
Trư
ng Đ
i h
c M
Hà N
i
M
cơ h
i h
c t
p cho m
i ngư
i
dụ: Tội che giấu tội phạm hành vi “... không hứa hẹn trước, nhưng
sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người phạm tội, dấu vết, tang vật
của tội phạm hoặc hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử người
phạm tội... ” (Điều 18 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
b) Các nguyên tắc xác định TNHS trong đồng phạm
Thứ nhất, Nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về tội phạm cùng thực hiện
- Tất cả những người đồng phạm đều bị truy tố xét xử về cùng một tội
danh theo cùng một điều luật và trong phạm vi những chế tài mà điều luật ấy quy
định.
- Tất cả những người trong đồng phạm cùng phải chịu trách nhiệm về
những tình tiết tăng nặng của vụ án nếu họ đều biết.
- Phải tuân thủ các nguyên tắc chung về thời hiệu truy cứu TNHS,
quyết định hình phạt đối với loại tội mà họ đã tham gia thực hiện.
Thứ hai, Nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện trong
đồng phạm
- Những người trong đồng phạm không phải chịu tránh nhiệm về hành
vi vượt quá của những người đồng phạm khác. Hành vi vượt quá trong đồng phạm
hành vi thực hiện ngoài sự thỏa thuận trước của những người đồng phạm khác.
Ví dụ: A và B đã bàn bạc và thống nhất sẽ vào trộm cắp tài sản nhà anh
X. Trong khi A đứng gác, B đã bí mật vào nhà anh X. Trong khi đang lấy tài sản,
b đã bị X phát hiện và bắt giữ. B đã đánh X bị thương để tẩu thoát. Việc đánh
chủ nhà bị thương là hoàn toàn nằm ngoài kế hoạch của A và B. Hành vi gây
thương tích của B có thể cấu thành tội độc lập là Tội cố ý gây thương tích, tùy
thuộc vào mức độ thương tích.
lOMoARcPSD| 59943509
Luật Hình sự 1 – Bài 4
20
Trư
ng Đ
i h
c M
Hà N
i
M
cơ h
i h
c t
p cho m
i ngư
i
- Những tình tiết tăng nặng, hoặc giảm nhẹ, hoặc miễn TNHS,
miễn hình phạt thuộc riêng người nào thì chỉ áp dụng đối với người đó.
- Hành vi của người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức dù
chưa đưa đến việc thực hiện tội phạm vẫn phải chịu TNHS.
- Sự tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người nào trong
đồng phạm thì chỉ miễn
TNHS đối với người đó.
Thứ ba, Nguyên tắc cá thể h TNHS
- TNHS của mỗi người trong đồng phạm phụ thuộc vào mức độ
tham gia
Trong vụ đồng phạm, những người tham gia tuy phạm ng tội nhưng tính
chất và mức độ tham gia của mỗi người có khác nhau, tính chất và mức độ nguy
hiểm của hành vi của mỗi người cũng khác nhau. Do vậy, trách nhiệm hình sự
của mỗi người phải được xác định khác nhau.Thể hiện nguyên tắc này, luật hình
sự Việt Nam xác định: “Nghiêm trị kết hợp khoan hồng”. Đó nghiêm trị những
người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối. Khoan hồng đối với người
tự thú, thành khẩn khai báo, tổ giác người đồng phạm, lập công chuộc tội
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Trình bày các giai đoạn thực hiện tội phạm. Trách nhiệm hình sự đặt
ra trong các giai đoạn này được quy định như thế nào?
Câu 2: Phân biệt giai đoạn chuẩn bị phạm tội với giai đoạn phạm tội chưa
đạt? Cho ví dụ?

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59943509
Trư ng Đ i h c M Hà N i M cơ h i h c t p cho m i ngư i BÀI 4
CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN TỘI PHẠM VÀ ĐỒNG PHẠM
4.1. Khái niệm các giai đoạn thực hiện TP
Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước trong quá trình cố ý thực
hiện tội phạm bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành.
Chế định giai đoạn thực hiện tội phạm quy định dấu hiệu của từng giai
đoạn và xác định trách nhiệm hình sự đối với các trường hợp việc thực hiện tội
phạm đang diễn ra ở giai đoạn đó.
Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước trong quá trình cố ý thực hiện
tội phạm. Được phân biệt với nhau bởi các dấu hiệu, biển hiệu nhằm đánh giá sự
diễn biến mức độ thực hiện ý định phạm tội, làm cơ sở cho việc xác định phạm
vi và mức độ trách nhiệm hình sự và hình phạt.
Hoạt động phạm tội cũng như bất kỳ hoạt động nào của con người đều diễn
ra theo một quá trình nhất định.
Ví dụ: Để đạt được mục đích chiếm đoạt tài sản người phạm tội phải lựa
chọn đối tượng tác động (lấy loại tài sản nào). Sau đó cân nhắc, lựa chọn thời
gian, địa điểm để sao cho quá trình thực hiện tội phạm được an toàn nhất.
Trong một số vụ án, người phạm tội thực hiện được trọn vẹn các quá trình
trên, nhưng có một số trường hợp người phạm tội phải dừng lại ở những thời
điểm khác nhau do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn. lOMoAR cPSD| 59943509
Trư ng Đ i h c M Hà N i M cơ h i h c t p cho m i ngư i
Để đánh giá tính chất, mức độ của tội phạm đã thực hiện, qua đó có cơ sở
để xác định TNHS đối với người phạm tội. Luật hình sự Việt Nam đã phân chia
quá trình thực hiện tội phạm thành 3 giai đoạn. Đó là: chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành.
Quá trình thực hiện tội phạm (lỗi cố ý) có ba giai đoạn:
+ Giai đoạn chuẩn bị phạm tội +
Giai đoạn phạm tội chưa đạt
+ Giai đoạn tội phạm đã hoàn thành.
Các giai đoạn phạm tội chỉ diễn ra trong các tội được thực hiện với lỗi cố ý
trực tiếp. Đối với tội vô ý, người phạm tội không có ý định phạm tội, không mong
muốn hậu quả xảy ra cho nên tội vô ý chỉ có thể là những tội đã hoàn thành, không
có giai đoạn chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt.
4.1.1. Giai đoạn chuẩn bị phạm tội
a) Khái niệm: Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương
tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham
gia nhóm tội phạm, trừ trường hợp thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm quy
định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của Bộ luật hình sự.
Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn trong đó người phạm tội có những hành vi
tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm, nhưng chưa bắt đầu
thực hiện tội phạm đó. Thời điểm sớm nhất của giai đoạn phạm tội này là thời
điểm người phạm tội bắt đầu có hành vi tạo ra những điều kiện vật chất hoặc tinh
thần giúp cho việc thực hiện hành vi phạm tội có thể xảy ra và xảy ra được thuận Luật Hình sự 1 – 2 Bài 4 lOMoAR cPSD| 59943509
Trư ng Đ i h c M Hà N i M cơ h i h c t p cho m i ngư i
lợi, dễ dàng hơn. Những suy nghĩ, tính toán của con người diễn ra trong đầu của
họ không phải là chuẩn bị phạm tội dù đó là ý định phạm tội.
Thời điểm muộn nhất là thời điểm trước lúc người phạm tội bắt đầu thực
hiện hành vi khách quan được phản ánh trong cấu thành tội phạm. Đó là thời điểm
giới hạn giữa chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Tóm lại, hành vi chuẩn bị
phạm tội phải thể hiện được ba dấu hiệu: -
Người phạm tội có hành vi chuẩn bị các điều kiện vật chất hoặc các
điều kiện khác cho việc thực hiện tội phạm; -
Hành vi chuẩn bị dừng lại trước khi người phạm tội bắt đầu thực hiện
các hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm hoặc hành vi đi liền trước các hành vi đó; -
Việc dừng lại ở giai đoạn này là do nguyên nhân khách quan.
Trong thực tế, hành vi chuẩn bị phạm tội có thể thể hiện ở một số dạng như: -
Tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện phạm tội: công cụ, phương
tiện phạm tội là những vật mà người phạm tội dùng để tác động vào đối tượng tội
phạm. Mặt khác, công cụ, phương tiện phạm tội hỗ trợ đắc lực cho việc thực hiện
tội phạm diễn ra một cách thuận lợi, dễ dàng hơn. -
Tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm: Chuẩn
bị kế hoạch phạm tội; thăm dò địa điểm phạm tội; thăm dò, làm quen với nạn nhân
hoặc người bị hại; loại trừ trước những trở ngại khách quan cho việc phạm tội...
Trong những dạng chuẩn bị này, hành vi chuẩn bị công cụ, phương tiện là dạng
phổ biến nhất, vì nói chung đó là điều kiện cần thiết cơ bản cho quá trình thực hiện tội phạm. lOMoAR cPSD| 59943509
Trư ng Đ i h c M Hà N i M cơ h i h c t p cho m i ngư i -
Thành lập, tham gia nhóm tội phạm: là hành vi rủ rê, lôi kéo, lừa gạt
người khác tham gia vào nhóm tội phạm hoặc tham gia với tư cách là thành viên
của nhóm tội phạm. Ở đây, loại trừ trường hợp thành lập, tham gia tổ chức tội
phạm đã cấu thành tội độc lập quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 điều 113
hoặc điểm a khoản 2 điều 229 của Bộ luật hình sự.
b) Trách nhiệm hình sự: Vấn để trách nhiệm hình sự chỉ được đặt ra đối
với trường hợp chuẩn bị phạm tội bị dừng lại bởi những nguyên nhân khách quan
ngoài ý muốn của người phạm tội và được quy định trong từng cấu thành tội phạm
cụ thể theo luật định.
Khoản 2, Khoản 3 Điều 14 Bộ luật hình sự quy định:
- Người chuẩn bị phạm một trong các tội sau đây thì phải chịu trách nhiệm hình sự:
Điều 108 (tội phản bội Tổ quốc); Điều 109 (tội hoạt động nhằm lật đổ chính
quyền nhân dân); Điều 110 (tội gián điệp); Điều 111 (tội xâm phạm an ninh lãnh
thổ); Điều 112 (tội bạo loạn); Điều 113 (tội khủng bố nhằm chống chính quyền
nhân dân….Điều 123 (tội giết người); Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác);Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 169 (tội
bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản)….
4.1.2. Phạm tội chưa đạt
a) Khái niệm: Điều 15 Bộ luật hình sự quy định: “Phạm tội chưa đạt là cố ý
thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân
ngoài ý muốn của người phạm tội.” Luật Hình sự 1 – 4 Bài 4 lOMoAR cPSD| 59943509
Trư ng Đ i h c M Hà N i M cơ h i h c t p cho m i ngư i
Các dấu hiệu về phạm tội chưa đạt:
- Đã bắt đầu thực hiện tội phạm
- Chưa thực hiện hết các dấu hiệu trong CTTP hoặc chưa làm thỏa mãn
hết các dấu hiệu trong CTTP
- Việc không thực hiện được đến cùng là do các nguyên nhân khách
quan ngoài ý muốn của người phạm tội…
b) Phân loại các trường hợp phạm tội chưa đạt
+ Dựa vào tâm lý người phạm tội về việc chưa đạt, khoa học luật hình sự có
thể chia phạm tội chưa đạt thành phạm tội chưa đạt chưa đạt chưa hoàn thành và
phạm tội chưa đạt đã hoàn thành
+ Dựa vào nguyên nhân chưa đạt do đối tượng tác động hoặc do công cụ
phương tiện, phạm tội chưa đạt được chia thành: chưa đạt vô hiệu và các trường hợp chưa đạt khác
Ý nghĩa: Nếu một người đang ở giai đoạn chưa đạt đã hoàn thành thì việc
dừng lại không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nữa, vì trạng
thái tâm lý cho rằng đã thực hiết những hành vi mà người phạm tội cho là cần thiết
để gây ra hậu quả, nên hậu quả không xảy ra là do yếu tố khách quan.
Phân chia các trường hợp chưa đạt còn giúp cho việc đánh giá tính chất mức
độ nguy hiểm của từng trường hợp phạm tội chưa đạt
c/ Trách nhiệm hình sự của giai đoạn phạm tội chưa đạt: Đối với trường
hợp phạm tội chưa đạt, Luật hình sự Việt Nam quy định mọi trường hợp phạm tội
chưa đạt đều phải chịu trách nhiệm hình sự vì trong trường hợp này người phạm lOMoAR cPSD| 59943509
Trư ng Đ i h c M Hà N i M cơ h i h c t p cho m i ngư i
tội đã có hành vi trực tiếp xâm hại đến khách thể, đã trực tiếp đe doạ gây ra những
hậu quả nguy hiểm cho xã hội, người phạm tội đã thực hiện được những hành vi
cần thiết để gây ra hậu quả, nhưng hậu quả không xảy ra do những nguyên nhân ngoài ý muốn. -
Nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung
thân hoặc tử hình, thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm. -
Nếu luật được áp dụng là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá
ba phần tư mức hình phạt tù mà điều luật quy định.
4.1.3. Tội pham hoàn thành a)
Khái niệm: Một tội phạm được coi là hoàn thành khi hành vi phạm
tội đã thoả mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm.
Điều đó có nghĩa là khi một tội phạm hoàn thành thì hành vi phạm tội đã
có đủ các dấu hiệu nói lên được đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của loại tội
đó. Với quan niệm này, Luật hình sự Việt Nam khẳng định: thời điểm tội phạm
hoàn thành không phụ thuộc vào việc người phạm tội đã đạt được mục đích của
mình hay chưa. Khái niệm tội phạm hoàn thành ở đây theo nghĩa hoàn thành về
mặt pháp lý, tức là tội phạm đã thoả mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. b)
Thời điểm tội phạm hoàn thành: Căn cứ vào định nghĩa chung
về tội phạm hoàn thành và dựa vào đặc điểm cấu trúc của các loại cấu thành
tội phạm, có thể rút ra được kết luận về thời điểm hoàn thành của các loại
tội có cấu thành vật chất, có cấu thành hình thức như sau: Luật Hình sự 1 – 6 Bài 4 lOMoAR cPSD| 59943509
Trư ng Đ i h c M Hà N i M cơ h i h c t p cho m i ngư i -
Những tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất hoàn thành khi người
phạm tội đã gây ra hậu quả của tội phạm phù hợp với yêu cầu của điều luật. Ví dụ,
tội giết người là tội có cấu thành tội phạm vật chất nên tội phạm này hoàn thành
khi hậu quả chết người đã xảy ra. -
Những tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức, thì tội phạm hoàn
thành ngay khi người phạm tội đã thực hiện xong hành vi phạm tội. Ví dụ, tội cướp
tài sản là tội có cấu thành hình thức, nên tội phạm hoàn thành khi người phạm tội
có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác
làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự
được, không cần thiết có hậu quả chiếm đoạt tài sản đã xảy ra hay chưa.
Thời điểm tội phạm hoàn thành cần phải được phân biệt với thời điểm tội
phạm kết thúc. Tội phạm kết thúc là thời điểm hành vi phạm tội đã thực sự chấm
dứt trên thực tế. Hai thời điểm này có thể trùng nhau hoặc không trùng nhau.
4.1.4 Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
a) Khái niệm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
Điều 16 Bộ luật hình sự quy định: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản”.
b) Các điều kiện của trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
- Việc chấm dứt hành vi phạm tội phải xảy ra khi tội phạm đang ở giai đoạn
chuẩn bị phạm tội hoặc giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Khi tội phạm
đã ở giai đoạn chưa đạt đã hoàn thành thì cũng có nghĩa là người phạm tội đã thực lOMoAR cPSD| 59943509
Trư ng Đ i h c M Hà N i M cơ h i h c t p cho m i ngư i
hiện được hết những hành vi mong muốn và do vậy không thể có việc tự ý dừng
lại không thực hiện tiếp tội phạm.
- Việc chấm dứt hành vi phạm tội phải tự nguyện và dứt khoát. Để được coi
là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, trước hết đòi hỏi việc chủ thể dừng lại,
không tiếp tục thực hiện tội phạm phải hoàn toàn do động lực bên trong chứ không
phải do trở ngại khách quan chi phối. Khi dừng lại, người phạm tội trong hoàn
cảnh hiện tại không có gì ngăn cản, vẫn có thể thực hiện tiếp tội phạm nhưng họ đã dừng lại.
- Việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội làm cho tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội được coi là giảm đi đáng kể. Về mặt khách quan,
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi còn hạn chế ở mức độ nhất định. Về
mặt chủ quan, người phạm tội đã hoàn toàn từ bỏ hẳn ý định phạm tội của mình,
họ không có ý chí mong muốn thực hiện tội phạm đến cùng như những trường hợp
phạm tội chưa hoàn thành. Do đó, Luật hình sự quy định miễn TNHS cho người phạm tội.
Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong trường hợp đồng phạm.
Việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người xúi giục, người tổ
chức, người giúp sức (trong trường hợp đồng phạm) có một số đặc điểm khác với
tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người thực hành tội phạm. Theo đó: Luật Hình sự 1 – 8 Bài 4 lOMoAR cPSD| 59943509
Trư ng Đ i h c M Hà N i M cơ h i h c t p cho m i ngư i
- Để được miễn trách nhiệm hình sự theo Điều 16 Bộ luật hình sự, người xúi
giục, người tổ chức phải thuyết phục, khuyên bảo để người thực hành không thực
hiện tội phạm hoặc phải báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, báo cho người
sẽ là nạn nhân biết…và phải ngăn chặn được người thực hành thực hiện tội phạm
- Để được miễn trách nhiệm hình sự theo Điều 16 Bộ luật hình sự, người giúp
sức phải chấm dứt việc tạo những điều kiện về vật chất hay các điều kiện khác
cho việc thực hiện tội phạm như: thu hồi cung cấp phương tiện, công cụ phạm tội;
không chỉ địa điểm, dẫn đường cho người thực hành... Nếu sự giúp sức của người
giúp sức đang được những người đồng phạm khác thực hiện, thì người giúp sức
cũng phải có những hành động tích cực để ngăn chặn việc thực hiện tội phạm và
phải ngăn chặn được hành vi thực hiện tội phạm thì mới được miễn TNHS.
c) Trách nhiệm hình sự của những người tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội
Theo Điều 16 Bộ luật hình sự, “người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực
hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội này”.
Ví dụ, một người dự định phạm tội giết người nhưng mới đâm gây thương
tích cho nạn nhân đã tự nguyện dừng lại và không thực hiện tội phạm nữa. Khi đó,
người này không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người
(Điều 123) nhưng sẽ bị truy cứu về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác (Điều 134). lOMoAR cPSD| 59943509
Trư ng Đ i h c M Hà N i M cơ h i h c t p cho m i ngư i
4.2. Khái niệm và các dấu hiệu của đồng phạm
4.2.1. Khái niệm: Khoản 1 Điều 17 Bộ luật hình sự quy định: “Đồng phạm
là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.
Từ khái niệm nêu trên cho thấy: -
Đồng phạm phải có từ hai người trở lên. -
Những người trong đồng phạm phải thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.
Phạm tội trong trường hợp đồng phạm thường có tính chất và mức độ nguy
hiểm cao hơn so với trường hợp phạm tội đơn lẻ
4.2.2. Dấu hiệu của đồng phạm: a/
Dấu hiệu về mặt khách quan -
Có từ hai người trở lên và những người này phải có đủ điều kiện chủ
thể của tội phạm (có năng lực trách nhiệm hình sự). Hai hay nhiều người trong
đồng phạm đòi hỏi phải có đủ những điều kiện của chủ thể của tội phạm. -
Những người này phải cùng thực hiện một tội phạm: Cùng thực hiện
một tội phạm có nghĩa là người tham gia đồng phạm phải thực hiện một trong những hành vi sau: -
Hành vi thực hiện tội phạm (tức là thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm); -
Hành vi tổ chức thực hiện tội phạm; Luật Hình sự 1 – 10 Bài 4 lOMoAR cPSD| 59943509
Trư ng Đ i h c M Hà N i M cơ h i h c t p cho m i ngư i -
Hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm; -
Hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm.
Những người đồng phạm thực hiện các hành vi nêu trên trong sự liên kết
với nhau, tác động lẫn nhau, hành vi của người này là điều kiện, là khâu cần thiết
trong việc thực hiện hành vi phạm tội chung, tạo nên nguyên nhân gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
b/ Dấu hiệu về mặt chủ quan -
Dấu hiệu lỗi: Hai hay nhiều người phải cùng thực hiện một tội phạm
với lỗi cố ý. Khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, mỗi người đồng phạm
không chỉ cố ý với hành vi của mình, mà còn biết và mong muốn sự cố ý tham gia
của những người đồng phạm khác. Cố ý ở đây có thể là cố ý trực tiếp hoặc gián
tiếp. Đối với những tội phạm có lỗi vô ý thì không thể có đồng phạm. -
Về lý trí: mỗi người trong đồng phạm đều biết hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội và biết hành vi của người khác cũng nguy hiểm cho xã hội
cùng với mình. Đồng thời, mỗi người cũng thấy trước được hậu quả của hành vi
mình cũng như hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực hiện xảy ra. -
Về ý chí: mỗi người trong đồng phạm đều mong muốn có hoạt động
chung, cùng mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Nếu có nhiều
người cùng phạm tội nhưng không có sự “cùng cố ý”, không thống nhất ý chí thì
không có đồng phạm xảy ra mà chỉ là những trường hợp phạm tội riêng lẻ.
Dấu hiệu mục đích
Đối với những những tội phạm luật quy định có mục đích là dấu hiệu bắt
buộc thì những người trong đồng phạm phải có cùng mục đích khi thực hiện hành lOMoAR cPSD| 59943509
Trư ng Đ i h c M Hà N i M cơ h i h c t p cho m i ngư i
vi phạm tội hoặc tiếp nhận mục đích đó. Nếu không thỏa mãn dấu hiệu mục đích
sẽ không có đồng phạm và những người tham gia sẽ chịu trách nhiệm hình sự độc lập với nhau.
Dấu hiệu động cơ
Những người tham gia đồng phạm có thể cùng động cơ hoặc có những động
cơ khác nhau khi cùng thực hiện tội phạm. 4.2.3. Các loại người đồng phạm
a) Người thực hành
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Người thực hành có hai dạng:
Dạng 1: Tự mình thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong CTTP.
Ví dụ như trực tiếp thực hiện hành vi đâm, bắn, dùng vũ lực trong các
tội giết người, cướp tài sản.
Dạng 2: Không tự mình trực tiếp thực hiện hành vi khách quan được mô
tả trong CTTP mà có hành vi cố ý tác động đến người khác để người này trực
tiếp thực hiện hành vi đó. Nhưng người trực tiếp thực hiện hành vi khách quan
đó họ không phải chịu TNHS vì những lý do khác nhau. Chúng thuộc các trường hợp phổ biến sau: -
Do họ không có NLTNHS. Ví dụ A đủ 18 tuổi thuê em
bé 13 tuổi, người tâm thần hủy hoại tài sản của người khác. A bị coi
là người thực hành tội phạm hủy hoại tài sản. Luật Hình sự 1 – 12 Bài 4 lOMoAR cPSD| 59943509
Trư ng Đ i h c M Hà N i M cơ h i h c t p cho m i ngư i -
Do họ không có lỗi hoặc chỉ có lỗi vô ý do sai lầm. Ví
dụ trường hợp gửi quà trong đó có thuốc phiện mà người vận chuyển
không biết đó là thuốc phiện. -
Họ bị cưỡng bức về tinh thần trong trường hợp được miễn TNHS.
b) Người tổ chức
Người tổ chức được quy định tại Khoản 2, Điều 17 BLHS bao gồm 3 loại người như sau: -
Người chủ mưu: là người chủ động về mặt tinh thần gây
ra việc thực hiện tội phạm. -
Người cầm đầu: Là người đứng ra thành lập các băng
nhóm phạm tội hoặc có hành vi tham gia vào việc soạn thảo kế hoạch,
phân công giao trách nhiệm cho đồng bọn. -
Người chỉ huy: Là người trực tiếp điều khiển hoạt động
của các băng nhóm phạm tội.
Người tổ chức là người có vai trò hình thành băng nhóm tội phạm và điều khiển
hoạt động của băng nhóm tội phạm. Do đó luật hình sự coi người tổ chức là người
nguy hiểm nhất trong vụ đồng phạm.
c) Người xúi giục
Người xúi giục là người dụ dỗ, kích động, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Người xúi giục có 2 đặc điểm sau: -
Tác động đến tư tưởng người khác bằng thủ đoạn kích
động, dụ dỗ thúc đẩy khiến người này hình thành ý định phạm tội và thực hiện tội phạm. lOMoAR cPSD| 59943509
Trư ng Đ i h c M Hà N i M cơ h i h c t p cho m i ngư i -
Hành vi xúi giục phải nhằm vào một, một số người cụ
thể và phải nhằm gây ra việc thực hiện một tội phạm nhất định.
d) Người giúp sức
Người giúp sức là người tạo ra những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho
việc thực hiện tội phạm.
Hành vi của người giúp sức thể hiện ở hành vi tạo điều kiện vật chất và
tinh thần, nhìn chung là để tạo những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tội
phạm. Nói về việc tạo điều kiện vật chất có thể là cung cấp công cụ, phương tiện
phạm tội, tạo điều kiện về tinh thần có thể là góp ý, chỉ dẫn thủ đoạn thực hiện tội phạm.
Hành vi giúp sức có thể thực hiện bằng không hành động phạm tội.
Trường hợp không hành động xảy ra khi một người có nghĩa vụ theo luật
định phải hành động nhưng đã không hành động và do đó đã tạo điều kiện thuận
lợi cho việc thực hiện tội phạm. Ví dụ A là cán bộ phòng tài vụ của cơ quan đã
cố tình về sau cùng và cố tình không khóa cửa phòng nhằm tạo thuận lợi cho em
trai là B đêm đó vào phòng tài vụ trộm cắp tài sản. A giúp sức bằng không hành
động, đó là cố ý không khóa cửa phòng.
Cũng bị xem là người giúp sức trong trường hợp một người hứa hẹn sẽ
che giấu, tiêu thụ tài sản…tạo điều kiện thuận lợi về tinh thần cho người thực hành tội phạm.
4.2.4. Các hình thức đồng phạm
a) Phân loại theo ý thức chủ quan Luật Hình sự 1 – 14 Bài 4 lOMoAR cPSD| 59943509
Trư ng Đ i h c M Hà N i M cơ h i h c t p cho m i ngư i -
Đồng phạm có thông mưu trước: Là hình thức đồng phạm trong
đó giữa những người đồng phạm đã có sự thoả thuận, bàn bạc trước
về tội phạm cùng thực hiện. -
Đồng phạm không có thông mưu trước: Là hình thức đồng
phạm trong đó giữa những người đồng phạm không có sự thoả thuận,
bàn bạc trước về tội phạm cùng thực hiện.
Ví dụ: Trường hợp A và B là bạn, cùng thỏa thuận trước ở nhà để chuẩn bị
thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thì được coi là đồng phạm có thông mưu trước.
Ví dụ: Trong một vụ trộm cắp tài sản, A nhờ B là xe ôm chở đến ngôi nhà
chủ nhân đi vắng để thực hiện hành vi trộm cắp, đến nơi A nói với B bên trong
nhà có nhiều tài sản có giá trị và rủ B cùng tham gia, B đồng ý. Cả hai cùng thực
hiện hành vi trộm cắp đó là đồng phạm không có sự thông mưu trước.
b) Phân loại theo dấu hiệu khách quan -
Đồng phạm đơn giản: Là hình thức đồng phạm trong đó những người cùng
tham gia vào vụ đồng phạm đều với vai trò là người thực hành.
Ví dụ: Tất cả những người đồng phạm cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm
đều có vai trò là người thực hành.Ví dụ: A rủ B và C vào công ty lấy trộm một thùng hàng có giá trị. -
Đồng phạm phức tạp: Là hình thức đồng phạm trong đó có một hoặc một số
người là người thực hành còn lại những người khác với vai trò là người tổ chức
hoặc người xúi giục hoặc người giúp sức.
Ví dụ: A vạch rõ kế hoạch vào công ty lấy trộm thùng hàng có giá trị, rồi
sai đàn em của mình là B và C thực hiện kế hoạch. Trong đó B là người canh giữ
bên ngoài và chuẩn bị xe để tẩu thoát, còn C là người trực tiếp vào trong kho lấy trộm. lOMoAR cPSD| 59943509
Trư ng Đ i h c M Hà N i M cơ h i h c t p cho m i ngư i
c) Căn cứ vào dấu hiệu chủ quan và khách quan
Phạm tội có tổ chức
Phạm tội có tổ chức là trường hợp đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa
những người đồng phạm. (Khoản 3, Điều 17 BLHS).
Phạm tội có tổ chức: là hình thức đồng phạm đặc biệt mà định nghĩa pháp
lý của nó được quy định tại khoản 2 Điều 17 Bộ luật Hình sự: “Phạm tội có tổ
chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực
hiện tội phạm”. Thường là sự kết hợp của đồng phạm có thông mưu trước và đồng phạm phức tạp.
Như vậy, đặc điểm của phạm tội có tổ chức là sự cấu kết chặt chẽ giữa
những người trong đồng phạm
Sự cấu kết chặt chẽ tức là chỉ mức độ liên kết cao hơn, chặt chẽ hơn về
khách quan và sự phân hoá vai trò nhiệm vụ về chủ quan của mỗi người trong đồng phạm.
Ranh giới xác định như thế nào là sự câu kết chặt chẽ chỉ mang tính tương
đối. Thực tiễn thừa nhận các trường hợp sau là phạm tội có tổ chức: + Những
người đồng phạm đã tham gia vào tổ chức phạm tội như Đảng phái chống chính
quyền nhân dân, băng ổ trộm, cướp.
+ Những người phạm tội đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo một kế
hoạch đã thống nhất trước.
+ Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần nhưng đã
thực hiện theo kế hoạch được tính toán kỹ càng, chu đáo. Luật Hình sự 1 – 16 Bài 4 lOMoAR cPSD| 59943509
Trư ng Đ i h c M Hà N i M cơ h i h c t p cho m i ngư i
4.2.5. Trách nhiệm hình sự trong đồng phạm a)
Các vấn đề liên quan đến xác định tội phạm
- Vấn đề chủ thể đặc biệt trong đồng phạm
Đối với những tội phạm có chủ thể đặc biệt, luật hình sự chỉ đòi hỏi người
thực hành có đặc điểm của chủ thể đó. Những người đồng phạm khác không nhất
thiết phải có những đặc điểm của chủ thể đặc biệt. Ví dụ: Trong vụ tham ô tài sản,
người thực hành phải là người có chức vụ, quyền hạn liên quan đến tài sản còn
những người đồng phạm khác (xúi giục, giúp sức, tổ chức) có thể là người không
có chức vụ, quyền hạn như vậy.
- Vấn đề giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng phạm
Nếu những người đồng phạm không thực hiện tội phạm được đến cùng do
những nguyên nhân khách quan thì người thực hành thực hiện tội phạm đến giai
đoạn nào, thì những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm hình sự đến đó.
Nếu người bị xúi giục không nghe theo, sự xúi giục không có kết quả thì
chỉ riêng người xúi giục phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà họ muốn xúi giục.
Nếu người giúp sức cho người khác thực hiện tội phạm nhưng người này
không thực hiện tội phạm đó hoặc không sử dụng sự giúp sức thì người giúp sức
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mà họ muốn giúp sức. Ví dụ: Canh gác giúp
người khác để người này bán chất ma tuý nhưng thực tế không có chất ma tuý mà
chỉ là lừa dối bán chất ma tuý giả để chiếm đoạt tài sản của người mua. Trong
trường họp này, người giúp sức phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái
phép chất ma tuý (Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017). -
Vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm lOMoAR cPSD| 59943509
Trư ng Đ i h c M Hà N i M cơ h i h c t p cho m i ngư i
Trong vụ đồng phạm, khi có sự tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của
một người hay một số người thì việc miễn trách nhiệm hình sự chỉ được áp dụng
đối với người đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Đối với người thực hành,
vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội cũng như trường hợp phạm tội riêng
lẻ. Khi người thực hành tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì chỉ riêng họ
được miễn trách nhiệm hình sự. Những người đồng phạm khác vẫn phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm họ đã tham gia ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc
phạm tội chưa đạt, tuỳ thuộc vào thời điểm mà người thực hành đã tự ý nửa chừng
chẩm dứt việc phạm tội.
Đối với người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức, việc tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội phải được thực hiện trước khi người thực hành thực
hiện tội phạm và phải có hành động tích cực làm mất tác dụng của những hành vi
trước đó của mình, để ngăn chặn việc thực hiện tội phạm (như thu hồi lại công cụ,
phương tiện đã cho mượn). -
Một số hành vi có liên quan đến tội phạm nhưng không phải là hành vi đồng phạm
Liên quan đến tội phạm nhưng không phải là hành vi cùng thực hiện tội
phạm. Đó là những trường hợp không tố giác tội phạm và che giấu tội phạm.
Hành vi không tổ giác tội phạm và hành vi che giấu tội phạm được gọi chung là
hành vi liên quan đến tội phạm. Cả hai hành vi này đều không ảnh hưởng đến việc
thực hiện tội phạm không được tố giác hoặc che giấu nếu không có hứa hẹn trước.
Do vậy, người có hành vi che giấu hoặc không tố giác tội phạm không phải chịu
trách nhiệm hình sự cùng với người thực hiện tội phạm với vai trò người đồng phạm. Luật Hình sự 1 – 18 Bài 4 lOMoAR cPSD| 59943509
Trư ng Đ i h c M Hà N i M cơ h i h c t p cho m i ngư i
Ví dụ: Tội che giấu tội phạm là hành vi “... không hứa hẹn trước, nhưng
sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người phạm tội, dấu vết, tang vật
của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lí người
phạm tội... ” (Điều 18 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
b) Các nguyên tắc xác định TNHS trong đồng phạm
Thứ nhất, Nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về tội phạm cùng thực hiện -
Tất cả những người đồng phạm đều bị truy tố xét xử về cùng một tội
danh theo cùng một điều luật và trong phạm vi những chế tài mà điều luật ấy quy định. -
Tất cả những người trong đồng phạm cùng phải chịu trách nhiệm về
những tình tiết tăng nặng của vụ án nếu họ đều biết. -
Phải tuân thủ các nguyên tắc chung về thời hiệu truy cứu TNHS,
quyết định hình phạt đối với loại tội mà họ đã tham gia thực hiện.
Thứ hai, Nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện trong đồng phạm -
Những người trong đồng phạm không phải chịu tránh nhiệm về hành
vi vượt quá của những người đồng phạm khác. Hành vi vượt quá trong đồng phạm
là hành vi thực hiện ngoài sự thỏa thuận trước của những người đồng phạm khác.
Ví dụ: A và B đã bàn bạc và thống nhất sẽ vào trộm cắp tài sản nhà anh
X. Trong khi A đứng gác, B đã bí mật vào nhà anh X. Trong khi đang lấy tài sản,
b đã bị X phát hiện và bắt giữ. B đã đánh X bị thương để tẩu thoát. Việc đánh
chủ nhà bị thương là hoàn toàn nằm ngoài kế hoạch của A và B. Hành vi gây
thương tích của B có thể cấu thành tội độc lập là Tội cố ý gây thương tích, tùy
thuộc vào mức độ thương tích. lOMoAR cPSD| 59943509
Trư ng Đ i h c M Hà N i M cơ h i h c t p cho m i ngư i -
Những tình tiết tăng nặng, hoặc giảm nhẹ, hoặc miễn TNHS,
miễn hình phạt thuộc riêng người nào thì chỉ áp dụng đối với người đó. -
Hành vi của người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức dù
chưa đưa đến việc thực hiện tội phạm vẫn phải chịu TNHS. -
Sự tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người nào trong
đồng phạm thì chỉ miễn
TNHS đối với người đó.
Thứ ba, Nguyên tắc cá thể hoá TNHS -
TNHS của mỗi người trong đồng phạm phụ thuộc vào mức độ tham gia
Trong vụ đồng phạm, những người tham gia tuy phạm cùng tội nhưng tính
chất và mức độ tham gia của mỗi người có khác nhau, tính chất và mức độ nguy
hiểm của hành vi của mỗi người cũng khác nhau. Do vậy, trách nhiệm hình sự
của mỗi người phải được xác định khác nhau.Thể hiện nguyên tắc này, luật hình
sự Việt Nam xác định: “Nghiêm trị kết hợp khoan hồng”. Đó là nghiêm trị những
người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối. Khoan hồng đối với người
tự thú, thành khẩn khai báo, tổ giác người đồng phạm, lập công chuộc tội CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Trình bày các giai đoạn thực hiện tội phạm. Trách nhiệm hình sự đặt
ra trong các giai đoạn này được quy định như thế nào?
Câu 2: Phân biệt giai đoạn chuẩn bị phạm tội với giai đoạn phạm tội chưa đạt? Cho ví dụ? Luật Hình sự 1 – 20 Bài 4