-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Bài giảng môn Pháp luật đại cương (chương 1 và 2)
Bài giảng môn Pháp luật đại cương (chương 1 và 2)
Môn: Pháp luật đại cương (ĐHKT)
5 tài liệu
Trường: Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
1.1 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD|35919223
BÀI GIẢNG MÔN HỌC PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NHÀ NƯỚC
1. Nguồn gốc và sự ra đời của Nhà nước
1.1. Chế độ cộng sản nguyên thủy - Tổ chức Thị tộc, Bào tộc, Bộ lạc
Cơ sở kinh tế đặc trưng cho xã hội cộng sản nguyên thủy là chế độ sở hữu chung
về tư kiệu sản xuất, lực lượng sản xuất thấp kém, công cụ sản xuất thô sơ, năng suất lao
động thấp, xã hội chưa phân chia giai cấp và không có đấu tranh giai cấp.
Tế bào của xã hội không phải là gia đình mà là thị tộc được tổ chức theo huyết
thống. Ở giai đoạn đầu, do điều kiện kinh tế - xã hội – hôn nhân, thì tộc được tổ chức
theo chế độ mâu hệ, dần dần sự thay đổi kinh tế làm thay đổi quan hệ trong hôn nhân, chế
độ mẫu hệ chuyển thành chế độ phụ hệ.
1.2. Quyền lực xã hội và quy phạm xã hội trong chế độ cộng sản nguyên thủy
a) Quyền lực xã hội
Thị tộc là tế bào cơ sở của xã hội (chứ không phải gia đình như xã hội hiện nay). Thị
tộc được tổ chức theo nguyên tắc huyết thống, lúc đầu huyết thống được xác lập theo
dòng mẹ gọi là thị tộc mẫu hệ về sau được xác lập theo dòng cha gọi là thị tộc phụ hệ.
Mọi người trong thị tộc đều bình đẳng, không một ai có đặc quyền đặc lợi đối với người
khác trong cùng một thị tộc. Trong thị tộc đã tồn tại phân công lao động tự nhiên giữa
đàn ông, đàn bà, giữa người già và trẻ nhỏ để thực hiện các loại công việc khác nhau chứ
chưa mang tính xã hội. Thị tộc cần đến quyền lực để duy trì trật tự, quyết định sự tồn
vong của xã hội. Thị tộc cũng cần một hệ thống tổ chức để thực hiện quyền lực. Hệ thống đó bao gồm:
Hội đồng Thị tộc: là tổ chức quyền lực cao nhất của Thị tộc, bao gồm tất cả thành
viên đã trưởng thành của Thị tộc, không phân biệt là đàn ông hay đàn bà đều là thành
viên của hội đồng quyết định tập thể về những vấn đề liên quan đến Thị tộc như chiến
tranh, hòa bình, nghi lễ tôn giáo, giải quyết tranh chấp nội bộ nên về cơ bản, được mọi
thành viên của Thị tộc tự giác thực hiện, nếu có một thành viên nào đó không tự giác
chấp hành, phải chịu quyết định cưỡng chế của tập thể Thị tộc.
Tù trưởng: là người đứng đầu Thị tộc do Hội đồng thị tộc bầu ra trong số người
cao tuổi. Khi nào xảy ra chiến tranh Thị tộc bầu ra thủ lĩnh quân sự. Tù trưởng, thủ lĩnh
quân sự không có đặc quyền so với thành viên khác, nhưng có quyền lực rất lớn, bởi uy
tín và sự ủng hộ của mọi thành viên trong Thị tộc. 1
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
Trong xã hội Cộng sản nguyên thủy quyền lực đã tồn tại, có hiệu lực thực tế rất cao,
tính cưỡng chế mạnh, nhưng đó là quyền lực xã hội. Quyền lực ấy có đặc điểm:
Không tách rời khỏi xã hội, hòa nhập và thuộc về xã hội, do toàn thể thành
viên xã hội tổ chức ra;
Phục vụ lợi ích cả cộng đồng;
Không có bộ máy cưỡng chế riêng để thực hiện sự cưỡng chế.
Bào tộc là tổ chức cao hơn Thị tộc, do một số Thị tộc có quan hệ hôn nhân với nhau
hợp thành. Bào tộc hình thành vào giai đoạn xã hội có một trình độ phát triển nhất định.
Bào tộc là một liên minh bao gồm nhiều Thị tộc hợp lại. Tổ chức quyền lực cũng tương
tự như trong Thị tộc nhưng mức độ tập trung cao hơn. Hội Đồng Bào Tộc bao gồm các
Tù trưởng và Thủ lĩnh quân sự của các Thị tộc. Hội đồng quyết định những vấn đề quan trọng của Bào Tộc.
Bộ lạc bao gồm nhiều Bào tộc liên minh lại. Tổ chức quyền lực cũng tương tự như
trong Thị tộc và Bào tộc nhưng ở mức độ tập trung cao hơn. Dù vậy, quyền lực vẫn mang
tính xã hội, phục vụ lợi ích chung của mọi thành viên trong Bộ lạc.
b) Quy phạm xã hội
Xã hội cần có một trật tự, các thành viên xã hội phải tuân theo chuẩn mực chung thống
nhất, phù hợp với điều kiện xã hội và lợi ích tập thể các tập quán dần dần được hình
thành được xã hội chấp nhận, trở thành quy tắc xử sự chung mang tính đạo đức cao quy phạm xã hội.
1.3. Sự tan rã của chế độ Cộng sản nguyên thủy và sự xuất hiện Nhà nước
Công cụ lao động cải tiến, con người phát triển cả về thể lực và trí lực, lực lượng sản
xuất không ngừng phát triển xã hội Cộng sản nguyên thủy đã lần lượt trải qua ba lần
phân công lao động lớn:
Lần phân công lao động xã hội lần thứ nhất: chăn nuôi đã trở thành một ngành
kinh tế độc lập tách khỏi ngành trồng trọt. Với việc con người đã thuần dưỡng được động
vật, chính đoàn gia súc được thuần dưỡng đã trở thành nguồn tích lũy tài sản quan trọng,
là mầm mống sinh ra chế độ tư hữu;
Lần phân công lao động xã hội lần thứ hai: thủ công nghiệp tách khỏi nông
nghiệp. Việc con người tìm ra kim loại, đặc biệt là sắt đã mở rộng diện tích canh tác,
nghề dệt và chế tạo đồ kim loại ngày càng phát triển;
Lần phân công lao động xã hội lần thứ ba: thương nghiệp ra đời, tách khỏi quá
trình sản xuất vật chất trực tiếp của xã hội. Chính sự phát triển của nghề dệt, nghề chế tạo 2
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
đồ kim loại và những ngành nghề thủ công khác làm cho sản phẩm làm ra ngày càng
nhiều, sự tăng trưởng đó kéo theo sự tăng trưởng về giá trị sức lao động của con người,
làm nảy sinh một giai cấp không còn tham gia vào sản xuất nữa, mà chỉ làm công việc
trao đổi sản phẩm, đó chính là thương nhân (trao đổi hàng hóa phát triển, xuất hiện tiền, cho vay…).
Sau lần phân công lao động đầu tiên, chế độ tư hữu đã xuất hiện, xã hội đã có sự phân
chia thành kẻ giàu, người nghèo. Chế độ tư hữu làm xuất hiện chế độ hôn nhân từ quần
hôn đến chế độ một vợ một chồng, là điều kiện để các gia đình nhỏ được hình thành và
trở thành những đơn vị kinh tế độc lập, tự quyết định sản xuất và định đoạt sản phẩm do
kết quả sản xuất của mình tạo ra. Gia đình xuất hiện đe dọa đời sống cộng đồng thị tộc.
Trong quá trình lao động, nhờ tích lũy được kinh nghiệm, có cơ hội, một số người trở nên
giàu có, trong lúc một số khác lại rất nghèo khó.
Cùng với hiện tượng phân hóa trên, các Tù trưởng, Thủ lĩnh quân sự lợi dụng quyền
lực của Thị tộc trước đây giao cho để phục vụ lợi ích riêng và trở thành giai cấp bóc lột.
Trong lúc đó một bộ phận khác là đa số dân cư không còn tư liệu sản xuất, lâm vào tình
cảnh khốn khổ, cùng với tù binh chiến tranh được giữ lại thay vì bị giết hợp thành giai
cấp nô lệ - giai cấp bị bóc lột.
Xã hội xuất hiện giai cấp và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa. Cuộc đấu tranh
một mất một còn giữa hai giai cấp, giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, là điều không tránh
khỏi. Xã hội có nguy cơ diệt vong.
Trước tình hình xã hội như vậy, quyền lực công cộng của Thị tộc và hệ thống quản lý
của nó chỉ phù hợp với một xã hội không có mâu thuẫn nội tại, nay không còn phù hợp
nữa, đòi hỏi phải có một tổ chức mới. Tổ chức đó phải dập tắt xung đột công khai giữa
các giai cấp, giữ cho công chúng ở trong vòng trật tự ổn định, bảo vệ quyền lợi của giai
cấp nắm kinh tế, giai cấp thống trị. Tổ chức đó là Nhà nước.
Tiền đề kinh tế của sự ra đời của Nhà nước là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Tiền
đề kinh tế là cơ sở vật chất chủ yếu tạo ra tiền đề xã hội cho sự ra đời Nhà nước, đó là sự
phân chia xã hội thành giai cấp và sự đối kháng giai cấp không thể điều hòa.
2. Bản chất và đặc điểm của Nhà nước
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có một bộ máy chuyên
làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý đặc biệt, nhằm duy trì trật tự
xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp. 3
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
Làm rõ bản chất Nhà nước tức là xác định Nhà nước của ai, là công cụ của giai cấp
nào, phục vụ chủ yếu cho giai cấp nào trong xã hội. Bản chất của Nhà nước là một thể
thống nhất bao gồm hai phương diện: giai cấp và xã hội.
Tính giai cấp của Nhà nước được thể hiện: Nhà nước đó do giai cấp nào tổ chức thành,
quyền lực Nhà nước nằm trong tay giai cấp nào, bảo vệ giai cấp nào là chủ yếu. Từ sự
phân tích nguồn gốc của nhà nước, xét về bản chất, Nhà nước trước hết là bộ máy trấn áp
đặc biệt của giai cấp thống trị xã hội đối với giai cấp khác trong xã hội, là bộ máy để duy
trì sự thống trị của giai cấp. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, sự thống trị của giai cấp
này đối với giai cấp khác thể hiện trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, tư tưởng...
Nói bản chất của Nhà nước là tính giai cấp không có nghĩa là phủ định hoàn toàn vai
trò xã hội của Nhà nước, dù đó là Nhà nước của giai cấp bóc lột. Một Nhà nước sẽ khó
tồn tại nếu chỉ phục vụ lợi ích đơn thuần của giai cấp thống trị mà không tính đến lợi ích,
nguyện vọng tối thiểu của các giai tầng khác trong xã hội. Trong một chừng mực nào đó,
Nhà nước phải thực hiện đầy đủ mọi chức năng xã hội của mình như vấn đề an toàn và an
ninh quốc gia, vấn đề thiên tại, địch họa...
Học thuyết Mác-Lênin về Nhà nước chỉ rõ Nhà nước có những đặc điểm sau:
1) Nhà nước thiết lập một quyền lực công đặc biệt, hầu như tách khỏi xã hội
không còn hòa nhập vào dân cư như trong chế độ Thị tộc;
2) Nhà nước phân chia dân cư theo lãnh thổ thành đơn vị hành chính không phụ
thuộc chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hoặc giới tính;
3) Nhà nước có chủ quyền quốc gia;
4) Nhà nước nước ban hành pháp luật có tính bắt buộc chung và mọi người đều phải thực hiện
5) Nhà nước quy định và thực hiện việc thu các loại thuế dưới hình thức bắt buộc.
3. Chức năng của Nhà nước
Chức năng nhà nước là những phương diện hoạt động của Nhà nước nhằm thực
hiện những nhiệm vụ đặt ra trước Nhà nước. Chức năng Nhà nước được xác định xuất
phát từ bản chất nhà nước, do cơ sở kinh tế và cơ cấu giai cấp của xã hội quyết định, phản
ánh tập trung và đầy đủ bản chất của Nhà nước. Chức năng nhà nước luôn gắn liền với
từng giai đoạn phát triển của chính bản thân Nhà nước, phụ thuộc vào mục đích và yêu
cầu hoạt động của Nhà nước trong từng giai đoạn phát triển xã hội và chi phối nhiệm vụ
cụ thể của Nhà nước.
Căn cứ vào phạm vi hoạt động của Nhà nước, chức năng của Nhà nước được phân biệt
thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Hai chức năng này có mối quan hệ mật 4
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
thiết, tác động qua lại và thống nhất với nhau, thể hiện bản chất Nhà nước và mục đích
của mỗi Nhà nước trong mỗi thời kỳ phát triển nhất định.
Chức năng đối nội là hoạt động của Nhà nước trong nội bộ đất nuớc với hai nội
dung chính đó là: 1)Trấn áp và bảo vệ, 2) Tổ chức và xây dựng.(Donner les exemples sur
les théories de Khổng Tử, Mạnh Tử et Tuân Tử)
Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của Nhà nước trong mối quan hệ với các
quốc gia, dân tộc khác và các tổ chức quốc tế. Nội dung chủ yếu là hợp tác hữu nghị với
các dân tộc, các quốc gia và bảo vệ đất nước trước khả năng xâm lược của kẻ thù bên ngoài.
Các hình thức thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại: 3 hình thức chủ yếu là xây
dựng pháp luật, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật. Nội dung của các hình thức đó tùy
thuộc vào bản chất của Nhà nước, tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế-xã hội và
tương quan lực lượng giai cấp trong từng giai đoạn phát triển của Nhà nước.
Phương pháp thực hiện các chức năng nhà nước, có sự khác nhau giữa các kiểu Nhà
nước. Nhìn chung, có hai phương pháp chủ yếu là thuyết phục và cưỡng chế. Đối với các
Nhà nước của giai cấp bóc lột thì phương pháp cưỡng chế là chủ yếu, còn với Nhà nước
xã hội chủ nghĩa thì lại coi trọng công tác thuyết phục, động viên.
Chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước là hai khái niệm rất gần gũi với nhau nhưng
không đồng nhất. Chức năng là phương diện hoạt động mang tính định hướng. Để thực
hiện chức năng của mình, Nhà nước có thể xác định các nhiệm vụ trong mỗi giai đoạn
phát triển với hoàn cảnh cụ thể. Nhiệm vụ của Nhà nước là bước cụ thể hóa chức năng
Nhà nước, thể hiện cụ thể bản chất Nhà nước.
4. Kiểu Nhà nước và Hình thức Nhà nước
4.1. Khái niệm kiểu Nhà nước
Kiểu Nhà nước là tổng thể các dấu hiệu cơ bản đặc thù của nhà nước, thể hiện bản
chất giai cấp và những điều kiện tồn tại, phát triển của Nhà nước trong một hình thái
kinh tế-xã hội nhất định.
Trong lịch sử xã hội đã tồn tại các hình thái kinh tế-xã hội cơ bản, tương ứng với đó là bốn kiểu Nhà nước:
+ Hình thái kinh tế-xã hội Cộng sản nguyên thủy Nhà nước chưa xuất hiện,
+ Hình thái kinh tế-xã hội chiếm hữu nô lệ kiểu Nhà nước Chủ nô;
+ Hình thái kinh tế-xã hội phong kiến kiểu Nhà nước Phong kiến;
+ Hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa kiểu Nhà nước Tư sản; 5
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
+ Hình thái kinh tế-xã hội xã hội chủ nghĩa kiểu Nhà nước Xã hội chủ nghĩa.
Mỗi kiểu nhà nước có tính đặc thù của nó. Những nét đặc thù đó biểu hiện ở việc
Nhà nước đó là của giai cấp nào và bảo vệ giai cấp nào, giai cấp nào là giai cấp thống trị,
giai cấp, lực lượng nào bị thống trị.
Sự thay thế một kiểu Nhà nước này bằng một kiểu Nhà nước khác tiến bộ hơn là
một quy luật tất yếu, quy luật về sự thay đổi kiểu Nhà nước phù hợp với quy luật về sự
phát triển và thay thế giữa các hình thái kinh tế-xã hội. Kiểu Nhà nước cũ được thay thế
bằng kiểu Nhà nước mới thông qua một cuộc cách mạng xã hội.
4.2. Khái niệm Hình thức Nhà nước
Hình thức Nhà nước là cách thức tổ chức Nhà nước và phương pháp thực hiện
quyền lực Nhà nước. Hình thức Nhà nước chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố, quan trọng
nhất là tương quan lực lượng các giai cấp trong xã hội. Đấu tranh giai cấp trong xã hội có
vai trò quyết định trong việc hình thành và xác định hình thức Nhà nước. Các yếu tố như
truyền thống dân tộc, tập quán lịch sử, tình hình chính trị khu vực và thế giới... cũng có
ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành hình thức của một Nhà nước cụ thể.
Hình thức Nhà nước là một khái niệm tổng quát được hình thành từ ba khái niệm:
hình thức chính thể; hình thức cấu trúc và chế độ chính trị.
a) Hình thức chính thể là cách thức và trình tự lập ra cơ quan tối cao của Nhà
nước và xác lập quan hệ cơ bản của các cơ quan đó.
Trong lịch sử phát triển xã hội, tồn tại hai hình thức chính thể cơ bản: Chính thể quân
chủ và chính thể cộng hòa.
Chính thể quân chủ là hình thức mà trong đó quyền lực tối cao của Nhà nước tập
trung vào một người (Vua, Hoàng đế..) và theo nguyên tắc thừa kế, cha truyền con nối.
Hình thức chính thể quân chủ gồm hai loại: chỉnh thể quân chủ tuyệt đối và chính thể quân chủ lập hiến.
Chính thể quân chủ tuyệt đối, là chính thể mà trong đó toàn bộ quyền lực Nhà
nước thuộc về Nhà vua, Nhà nước không có Hiến pháp.
Hình thức quân chủ lập hiến là chính thể mà trong đó tồn tại Vua, nhưng đồng
thời có Nghị viện được lập ra theo Hiến pháp nhằm hạn chế quyền lực nhà vua và giai
cấp phong kiến. Tùy thuộc vào mức độ hạn chế quyền lực của nhà vua và sự phân quyền
giữa nhà vua và nghị viện mà hình thức chính thể quân chủ lập hiến còn phân biệt thành
hình thức quân chủ nhị nguyên và quân chủ đại nghị.
Quân chủ nhị nguyên là chính thể phân chia quyền lực song phương giữa
Nhà vua và Nghị viện, trong đó Nghị viện nắm quyền lập pháp và Nhà vua nắm 6
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
quyền hành pháp. Chính thể này đã từng tồn tại ở Nhật, Đức...vào cuối thể kỷ
XIX, hiện không còn nữa.
Quân chủ đại nghị là chính thể, mà trong đó, quyền lực thực tế của Nhà vua
không còn tác động đến lập pháp và cũng rất hạn chế đến lĩnh vực hành pháp và
tư pháp. Loại chính thể này hiện còn tồn tại ở nhiều nhà nước tư sản như Anh,
Bỉ, Hà Lan, Na Uy, Đan Mạch, Nhật Bản,.... Ở các nước đó, Nhà vua hầu như
không có quyền lực cũng như không có trách nhiệm gì đáng kể trong hệ thống chính trị.
Chính thể Cộng hòa là chính thể, trong đó quyền lực tối cao của nhà nước thuộc về
một tập thể được bầu ra theo nhiệm kỳ, theo quy định của Hiến pháp của nhà nước. Hình
thức chính thể cộng hòa có hai hình thức: Cộng hòa dân chủ và Cộng hòa quý tộc.
Trong chính thể cộng hòa dân chủ, các tầng lớp dân cư được tham gia bầu cử để
lập ra cơ quan đại diện nhà nước như Quốc hội hoặc Nghị viện. Trong loại này ở các
nước tư bản còn phân biệt thành Cộng hòa Tổng thống và Cộng hòa Đại nghị.
Trong cộng hòa quý tộc, pháp luật chỉ ghi nhận quyền bầu cử tối riêng các tầng
lớp quý tộc giàu có (phổ biến trong kiểu nhà nước chủ nô và nhà nước phong kiến)
b) Hình thức cấu trúc là sự cấu tạo nhà nước thành các đơn vị lãnh thổ và xác
lập các mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan nhà nước, giữa trung ương và địa
phương. Có hai hình thức: nhà nước đơn nhất và nhà nước liên bang.
Nhà nước đơn nhất là nhà nước có lãnh thổ toàn vẹn, có chủ quyền chung, có hệ
thống cơ quan quyền lực và quản lý thống nhất từ trung ương tới địa phương và các đơn
vị hành chính lãnh thổ như: tỉnh, huyện, xã... Trong nhà nước đơn nhất chỉ có một Hiến
pháp và một hệ thống pháp luật thống nhất.
Nhà nước liên bang là nhà nước có hai hoặc nhiều bang thành viên hợp lại với
nhau. Trong nhà nước liên bang có hai hệ thống cơ quan quyền lực và cơ quan quản lý
nhà nước. Một hệ thống chung cho toàn liên bang và một hệ thống riêng cho mỗi tiểu
bang thành viên, vừa có chủ quyền quốc gia chung vừa có chủ quyền mỗi tiểu bang.
Cùng tồn tại với Hiến pháp và hệ thống pháp luật chung của liên bang có hệ thống pháp
luật riêng của mỗi bang thành viên.
c) Chế độ chính trị của nhà nước là tổng thể các phương pháp, thủ đoạn mà
Nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước. Thông qua nghiên cứu chế độ
chính trị của một nhà nước, chúng ta thấy rõ ai thực hiện quyền lực, bằng cách nào, ai có
quyền quyết định tối cao về mặt nhà nước. Có thể chia thành hai loại: Phương pháp dân
chủ và phương pháp phản dân chủ (độc tài). 7
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
Phương pháp dân chủ cũng có nhiều loại: dân chủ chân thực và dân chủ giả
hiệu; dân chủ rộng rãi và dân chủ hạn chế; dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp.
Phương pháp phản dân chủ thể hiện tính độc tài, độc đoán, cũng có nhiều
loại: hợp pháp, bất hợp pháp.
5. Bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam
5.1. Những vấn đề cơ bản về bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam 5.1.1. Khái niệm
Bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa là hệ thống các cơ quan Nhà nước từ trung ương
xuống cơ sở, được tổ chức theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ
chế đồng bộ để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
5.1.2. Những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam
Bộ máy nhà nướcViệt Nam được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ
nghĩa với những nội dung cụ thể sau:
+Nguyên tắc Bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động đảm bảo sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước: Đảng định ra đường lối, chủ trương về
những vấn đề quan trọng liên quan đến tổ chức bộ máy nhà nước, thông qua nhà nước,
những chủ trương, đường lối của Đảng được thế chế hóa thành chính sách và pháp luật
nhằm đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
+Nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền lực Nhà nước: Quyền lực nhà
nước bao gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp, và quyền tư pháp được phân công cho
các cơ quan tương ứng là Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân
dân, nhưng quyền lực Nhà nước vẫn thống nhất nằm trong cơ quan đại diện cao nhất của
nhân dân (Quốc hội), không có sự khống chế lẫn nhau giữa ba bộ phận quyền lực trên và
các cơ quan được trao quyền đó.
+Nguyên tắc đảm bảo sự tham gia đông đảo của nhân dân vào quản lý nhà nước:
Nguyên tắc này tạo ra khả năng phát huy sức lực, trí tuệ của nhân dân vào công việc của
nhà nước, là phương pháp hiệu quả ngăn chặn tệ quan liêu, của quyền và tham nhũng của
các cơ quan nhà nước. Có nhiều hình thức để thu hút nhân dân tham gia vào quản lý nhà
nước như bầu cử trực tiếp, thảo luận, đóng góp ý kiến, giám sát hoạt động của các cơ
quan nhà nước hay tham gia vào các đoàn thể xã hội...
+Nguyên tắc tập trung dân chủ: Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước, phải kết hợp được sự chỉ đạo, điều hành của các cơ quan trung ương, cơ quan cấp 8
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
trên với sự năng động, tự chủ của địa phương và cơ quan cấp dưới. Đây là vấn đề hết sức
quan trọng trong thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước.
+Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: Việc tổ chức và hoạt động của Bộ máy
nhà nước phải được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật; mọi nhân viên nhà nước,
cơ quan nhà nước phải triệt để tôn trọng pháp luật khi thi hành nhiệm vụ, quyền hạn của
mình. Thực hiện tốt nguyên tắc này là cơ sở cho bộ máy nhà nước được hoạt động nhịp
nhàng, đồng bộ, phát huy được hiệu lực của quản lý nhà nước, đảm bảo công bằng xã hội.
5.2. Chế định Chủ tịch nước
Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt cho nhà nước Việt Nam về đối
nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số Đại biểu Quốc hội và do
Quốc hội miễn nhiệm và bãi nhiệm. Chủ tịch nước là một cơ quan nhà nước có nhiệm vụ,
quyền hạn theo quy định của Hiến pháp.
5.3. Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp 5.3.1. Quốc hội
"Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Ai?
Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao
nhất, thể hiện trước hết Quốc hội là cơ quan nhà nước duy nhất ở nước ta do cử tri trong
cả nước trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín.
Trong cơ cấu của Quốc hội bao giờ cũng có Đại biểu đại diện cho các tầng lớp nhân dân,
cho các vùng lãnh thổ như: đại biểu là người dân tộc thiểu số, đại biểu đại diện cho các
đoàn thể, tôn giáo, đại diện cho các ngành... Nhiệm vụ gì?
Quốc hội là cơ quan tối cao có trọng trách đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân
dân, có quyền biến ý chí của nhân dân thành ý chí nhà nước, thành các quy định của Hiến
pháp, Luật. Quốc hội có nhiệm vụ quyền hạn lập hiến (ban hành Hiến pháp và sửa đổi
Hiến pháp); lập pháp (ban hành luật và sửa đổi luật); quyết định chương trình xây dựng
pháp luật, quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế-
xã hội, quốc phòng, an ninh đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước, về quan hệ nhà nước và công dân. Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm các chức vụ cao nhất của nhà nước... 9
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà
nước, thông qua xem xét báo cáo hoạt động định kỳ của các cơ quan nhà nước và hoạt
động của bản thân đại biểu Quốc hội. Nhiệm kỳ?
Nhiệm kỳ của mỗi khoá Quốc hội là năm năm.
Hai tháng trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Quốc hội khoá mới phải được bầu xong.
Thể lệ bầu cử và số đại biểu Quốc hội do luật định.
Trong trường hợp đặc biệt, nếu được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội
biểu quyết tán thành, thì Quốc hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của mình.
Cơ cấu của Quốc hội?
Cơ cấu của Quốc hội là một trong những yếu tố đảm bảm hiệu quả hoạt động của
Quốc hội. Cơ cấu của Quốc hội bao gồm: Kỳ họp Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội,
Chủ tịch Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và Đại biểu quốc hội.
Chế độ làm việc? Kỳ họp Quốc hội
Quốc hội họp mỗi năm hai kỳ do Uỷ ban thường vụ Quốc hội triệu tập.
Trong trường hợp Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba
tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu hoặc theo quyết định của mình, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội triệu tập Quốc hội họp bất thường.
Luật, nghị quyết của Quốc hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu
quyết tán thành, trừ các trường hợp Quốc hội bãi nhiệm đại biểu Quốc hội , rút ngắn hoặc
kéo dài nhiệm kỳ của Quốc hội và sửa đổi Hiến pháp, thì phải được ít nhất là hai phần ba
tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội do Quốc hội bầu
ra, chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội. Ủy ban thường vụ Quốc hội gồm
Chủ tịch Quốc hội, các phó Chủ tịch Quốc hội và các Ủy viên. Nhiệm vụ, quyền hạn của
Ủy ban thường vụ Quốc hội được quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội.
Chủ tịch Quốc hội có vị trí đặc biệt trong tổ chức Quốc hội, có nhiệm vụ chủ trì và
điều hành các hoạt động của Quốc hội, phối hợp hoạt động giữa các cơ quan của Quốc
hội. Chỉ đạo và thay mặt Quốc hội trong công tác đối ngoại.
Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội do Quốc hội bầu ra, gồm Chủ tịch,
các phó Chủ tịch và các Ủy viên.
Hội đồng dân tộc có thẩm quyền nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội
những vấn đề dân tộc, giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, các chương trình 10
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội miền núi và và vùng có đồng bào các dân tộc thiểu số...
Các Ủy ban của Quốc hội có thẩm quyền nghiên cứu, thẩm tra, kiến nghị
với Quốc hội những vấn đề chuyên môn của mỗi Ủy ban như luật pháp, ngân sách,
đối ngoại... Các thành viên của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội phải
là Đại biểu Quốc hội và không đồng thời là thành viên Chính phủ.
Đại biểu Quốc hội là những người được cử tri bầu chọn, đại diện cho nhân dân của
đơn vị bầu cử bầu ra mình và đại diện cho nhân dân cả nước ở cơ quan quyền lực cao
nhất của nhà nước. Đại biểu Quốc hội gồm đại biểu chuyên trách và đại biểu kiêm nhiệm.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Đại biểu Quốc hội được quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội.
Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội,
các Phó Chủ tịch Quốc hội và các ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính
phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phê
chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó
Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; phê chuẩn đề nghị của Chủ
tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh; bỏ phiếu tín nhiệm
đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
5.3.2. Hội đồng nhân dân các cấp
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý
chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu
trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân
được tổ chức thành 3 cấp ở địa phương: -
Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương -
Hội đồng nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh -
Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn
Nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng nhân dân bao gồm ba nội dung chủ yếu: (1)
Quyết định những chính sách và các vấn đề quan trọng, các biện
pháp để xây dựng và phát triển địa phương (2)
Đảm bảo thực hiện đúng các quy định của các cơ quan nhà nước cấp trên
Giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước cùng cấp, giám sát việc tuân theo pháp
luật của các cơ quan nhà nước, các tổ chức khác và của công dân tại địa phương. 11
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
5.4. Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp 5.4.1. Chính phủ
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cơ cấu của Chính phủ bao gồm: Thủ tướng, các phó Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ và một số thành viên khác. Các Bộ, các cơ quan ngang Bộ là
các cơ quan quản lý hành chính theo chuyên ngành trên phạm vi toàn quốc. Bên cạnh đó,
Chính phủ còn thành lập thêm các cơ quan thuộc Chính phủ để thực hiện quản lý hành
chính ở một số ngành, lĩnh vực quan trọng khác.
Hình thức hoạt động của tập thể Chính phủ là phiên họp Chính phủ. Chính phủ họp
thường kỳ mỗi tháng một lần. Thủ tướng triệu tập phiên họp bất thường của Chính phủ
theo quyết định của mình hoặc theo yêu cầu của ít nhất một phần ba tổng số thành viên Chính phủ.
5.4.2. Ủy ban nhân dân các cấp
Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra, là cơ quan chấp hành của
hội đồng nhân dân, cơ quan quản lý hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm
chấp hành Hiến pháp và luật, các văn bản của nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Về cơ cấu, Ủy ban nhân dân bao gồm: Chủ tịch, các phó Chủ tịch Ủy ban nhân
dân và các Ủy viên. Số lượng thành viên của Ủy ban nhân dân được pháp luật quy định:
Cấp tỉnh 9 đến 10 thành viên; cấp huyện từ 7 đến 9; cấp xã từ 5 đến 7 thành viên. Thành
viên Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và được cơ quan cấp trên phê chuẩn.
Chế độ làm việc của Ủy ban nhân dân bao gồm chế độ tập thể các thành viên và chế
độ Chủ tịch làm thủ trưởng. Ủy ban nhân dân phải chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt
động quản lý và chấp hành trước cơ quan nhà nước cấp trên và Hội đồng nhân dân cùng cấp.
5.5. Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân
5.5.1. Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, có nhiệm vụ xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân gia
đình,... và giải quyết các công việc khác theo quy định của pháp luật. Về cơ cấu, cơ quan Tòa án gồm có: 12
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
+Tòa án nhân dân tối cao (la cour suprême du peuple) là cơ quan xét xử cao
nhất, thực hiện chức năng giám đốc xét xử và hướng dẫn công tác xét xử....
+Tòa án nhân dân cấp tỉnh, và Tòa án nhân dân cấp huyện,
+Tòa án Quân sự gồm: Tòa quân sự trung ương, Tòa quân sự quân khu và
tương đương, Tòa quân sự khu vực.
Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự được tổ chức thành các phân tòa như Tòa dân
sự, Tòa kinh tế, Tòa hình sự, Tòa lao động, Tòa hành chính... thực hiện chức năng xét xử theo chuyên ngành.
Về tổ chức, Tòa án có Chánh án, phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Thư ký tòa án và các phòng chức năng khác. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Quốc
hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác xét xử trước Quốc
hội. Các Chánh án khác, phó Chánh án, Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm và cách
chức. Hội thẩm nhân dân do cử hoặc do bầu. Tòa án chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Việc xét xử các vụ án của Tòa án tuân theo nguyên tắc xét xử tập thể, công khai, thẩm
phán và hội thâm nhân dân độc lập và ngang nhau trong khi ra bản án, quyết định.
5.5.2. Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của các cơ quan nhà nước; thực hành quyền công tố theo quy định của pháp luật.
Quyền công tố là quyền của Nhà nước, quyền nhân danh nhà nước yêu cầu Tòa án có
thẩm quyền đưa các vụ án ra xét xử. Nó có mối quan hệ chặt chẽ với chức năng giám sát
việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát.
Về cơ cấu: Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành Viện kiểm sát nhân dân tối
cao và Viện kiểm sát nhân dân ở cấp tỉnh và cấp huyện; Viện kiểm sát Quân sự Trung
ương, và Viện kiểm sát quân sự quân khu, khu vực.
Tổ chức, mỗi Viện Kiểm sát có Viện trưởng, các phó Viện trưởng, các Kiểm sát
viên. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Những người khác do Chủ
tịch nước bổ nhiệm, bãi nhiệm.
Viện kiểm sát làm việc theo chế độ thủ trưởng dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân ở địa phương chịu sự lãnh đạo và chịu trách nhiệm
trước Viện trưởng Viện Kiểm sát cấp trên và chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp. 13
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT
1. Khái niệm, bản chất của Pháp luật
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do nhà nước ban
hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố
điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Bản chất: pháp luật mang tính giai cấp và tính xã hội sâu sắc.
Tính giai cấp: thể hiện ý chí, bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, trấn áp sự phản
kháng của giai cấp khác; là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí của giai cấp thống trị
Tính xã hội: pháp luật là sản phẩm của sự phát triển xã hội; là quy tắc xử sự giữa
người và người; là công cụ để điều chỉnh và duy trì trật tự xã hội.
Nhà nước ban hành pháp luật để quản lý xã hội, song không phải nhà nước đứng trên
pháp luật. Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng xã hội xuất hiện khi xã hội phát triển
đến một giai đoạn nhất định, có mối quan hệ mật thiết với nhau, đều là sản phẩm của đấu
tranh giai cấp và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa.
Mác và Ăngghen đã chứng minh rằng, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển
trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Pháp luật là một bộ phận thuộc thượng
tầng kiến trúc của xã hội có giai cấp. Pháp luật luôn biểu hiện ý chí của giai cấp thống
trị, ý chí đó phản ánh lợi ích chung của toàn bộ giai cấp.
Bên cạnh bản chất giai cấp, pháp luật còn thể hiện tính xã hội, xuất phát từ vai trò xã
hội của nhà nước. Không có kiểu pháp luật nào chỉ thể hiện duy nhất bản chất giai cấp và
ngược lại cũng không có kiểu pháp luật nào chỉ thể hiện riêng tính xã hội. Bản chất giai
cấp và tính xã hội luôn có quan hệ mật thiết với nhau, gắn bó với nhau thành một chỉnh
thể và mang lại sự bền vững cho pháp luật.
2. Những đặc trưng cơ bản của Pháp luật
Pháp luật mang tính ý chí, là ý chí của giai cấp thống trị, cùng với nhà nước,
pháp luật ra đời từ nhu cầu bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, thể hiện ý chí của giai
cấp đó. Ý chí của giai cấp thống trị thể hiện trong pháp luật thể hiện ở mục đích xây dựng
pháp luật, nội dung xây dựng pháp luật và dự kiến hiệu ứng thực tế của pháp luật khi
triển khai vào đời sống thực tế của xã hội.
Pháp luật mang tính quy phạm (legal framework)
Quy phạm: quy= fép tắc (legal), phạm= khuôn mẫu (framework). Khi có quan hệ
với nhau, con người phải dựa vào quy tắc đó để xem xét hành vi của mình, được làm gì,
phải làm gì và không được làm gì. Pháp luật chỉ ra các giới hạn cần thiết mà nhà nước 14
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
quy định để mọi cá nhân, tổ chức có thể xử sự một cách tự do trong khuôn khổ cho phép,
vượt quá giới hạn đó là trái pháp luật.
Quy tắc xử sự của pháp luật là bắt buộc chung. Đã là quy tắc pháp luật đề ra, thì
dù muốn hay không, mọi người cũng phải có các hành vi phù hợp với pháp luật. Tính bắt
buộc chung này còn được gọi là tính cưỡng chế của pháp luật.
Pháp luật mang tính cưỡng chế nhà nước
Tính cưỡng chế nhà nước là một đặc điểm chỉ riêng pháp luật mới có. Nhà nước
không những đặt ra pháp luật làm quy tắc xử sự của hành vi, mà còn có một hệ thống cơ
quan nhà nước đảm bảo cho những quy tắc ấy được thực hiện trong thực tế, như tòa án,
cảnh sát, nhà tù... để thực hiện sự cưỡng chế.
Trong đời sống xã hội, hành vi con người còn được điều chỉnh bởi các chuẩn mực
quy tắc xử sự khác như đạo đức, tôn giáo, phong tục tập quán... nhưng chỉ có pháp luật
được đảm bảo thực hiện bởi sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Các quy tắc xử sự của
đạo đức, tập quán, tổ chức xã hội... được mọi người tuân thủ chủ yếu nhờ vào sự tự giác,
lòng tin và được đảm bảo bởi dư luận xã hội, sự cưỡng chế bởi lương tâm của con người;
Pháp luật mang tính ổn định tương đối, là một nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã
hội cũng như góp phần tạo lập các quan hệ xã hội mới, pháp luật phải ổn định trong một
thời gian nhất định. Tính ổn định của cơ sở hạ tầng quyết định tính ổn định của pháp luật.
Chỉ khi nào lợi ích của giai cấp thống trị thực sự bị đụng chạm, hết sức cần thiết, nhà
nước mới thay đổi pháp luật để duy trì một sự ổn định mới.
3. Mối quan hệ giữa Pháp luật và các hiện tượng xã hội khác
3.1. Mối quan hệ giữa Pháp luật và Kinh tế
Kinh tế là phạm trù thuộc cơ sở hạ tầng của xã hội, pháp luật là phạm trù thuộc kiến
trúc thượng tầng. Trong mối quan hệ với kinh tế, pháp luật có tính độc lập tương đối, một
mặt pháp luật phụ thuộc vào kinh tế, mặt khác pháp luật lại có tác động mạnh trở lại đối
với kinh tế, là mối quan hệ giữa hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc. Pháp luật là một
bộ phận của thượng tầng kiến trúc, phát sinh, phát triển trên cơ sở một hạ tầng kinh tế
nhất định. Nội dung của pháp luật do các quan hệ kinh tế-xã hội quyết định, chế độ kinh
tế là cơ sở của pháp luật. Sự thay đổi của chế độ kinh tế-xã hội sớm hay muộn cũng dẫn
đến sự thay đổi của pháp luật, và pháp luật không thể cao hơn hoặc thấp hơn sự phát triển
của kinh tế. Mặt khác, pháp luật có sự tác động trở lại, có thể là tích cực hoặc tiêu cực,
đối với sự phát triển kinh tế. Điều đó phụ thuộc vào sự tiến bộ hay lạc hậu của pháp luật.
Thậm chí, pháp luật còn định hướng và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
3.2. Mối quan hệ giữa Pháp luật và Chính trị 15
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
Chính trị là phạm trù phản ánh mối quan hệ giữa các giai cấp, các lực lượng khác
nhau trong xã hội trên tất cả các lĩnh vực, phản ánh đối sánh giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Trong mối quan hệ với chính trị, pháp luật là hình thức biểu hiện cụ thể của chính trị.
Đường lối chính sách của giai cấp thống trị luôn giữ vai trò chủ đạo đối với pháp luật.
Chính trị và pháp luật là hai hiện tượng thuộc thượng tầng kiến trúc, chúng đều bị chi
phối và quy định bởi hạ tầng cơ sở. Đây là mối quan hệ tương hỗ, ngang bằng nhau.
Chính trị là biểu hiên tập trung của kinh tế, đường lối chính trị thể hiện trước hết ở các
chính sách kinh tế. Các chính sách đó được cụ thể hóa trong pháp luật thành những quy
định chung thống nhất trong toàn xã hội.
3.3. Mối quan hệ giữa Pháp luật và Nhà nước
Trong mối quan hệ với nhà nước, pháp luật là cơ sở để nhà nước triển khai thực hiện
và phát huy hiệu lực của quyền lực chính trị.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành, luôn phản ánh những
quan điểm, đường lối chính sách của lực lượng nắm quyền lực nhà nước và bảo đảm cho
quyền lực đó được triển khai nhanh, rộng trên quy mô toàn xã hội.
Ngược lại, pháp luật chỉ tồn tại và có hiệu lực dựa trên sức mạnh của quyền lực nhà
nước. Pháp luật dù do nhà nước ban hành, nhưng khi pháp luật được công bố thì trở thành
một hiện tượng có sức mạnh công khai, bắt buộc đối với mọi chủ thể, trong đó có cả nhà
nước. Nhà nước nói chung, cơ quan nhà nước nói riêng đều phải tôn trọng và thực hiện
pháp luật nghiêm chỉnh và triệt để. Đồng thời, nhà nước không thể ban hành pháp luật
một cách chủ quan, duy ý chí, không tính đến nhu cầu khách quan, phổ biến của các mối
quan hệ xã hội, đến tâm lý xã hội. Khi pháp luật có các bộ phận không còn phù hợp với
thực tiễn, nhà nước phải tiến hành sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ để ban hành quy định
phù hợp hơn với điều kiện thực tế và sự phát triển của các quan hệ xã hội.
3.4. Mối quan hệ giữa Pháp luật và Đạo đức
Đạo đức là tổng thể những quan niệm, quan điểm của con người về chân, thiện, mỹ; là
niềm tin nội tâm về thiện và ác, về sự công bằng, nghĩa vụ, trách nhiệm và danh dự giữa
những con người trong một cộng đồng.
Lực lượng thống trị do có ưu thế đặc biệt về chính trị nên có điều kiện để thể hiện
quan điểm đạo đức của mình thành pháp luật, tuy nhiên pháp luật không thể không chịu
ảnh hưởng bởi đạo đức của các lực lượng, các giai cấp khác và phải phản ánh quan điểm,
quan niệm, lợi ích của các lực lượng khác nhau trong xã hội để thích ứng và tựa hồ như 16
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
thể hiện ý chí của mọi tầng lớp trong xã hội. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, pháp luật lấy
đạo đức làm cơ sở, pháp luật không thể đưa ra những quy phạm trái đạo đức.(tính xã hội)
Với tính chất là những nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, đạo đức và pháp luật có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng đều là những hiện tượng thuộc thượng tầng kiến
trúc có mối quan hệ tương hỗ, bình đẳng với nhau. Giữa pháp luật và đạo đức có sự
tương đồng: đều mang tính giai cấp sâu sắc.
Giữa pháp luật và đạo đức cũng có những điểm khác nhau: pháp luật là hệ thống các
quy tắc xử sự do nhà nước đặt ra, biểu hiện ý chí của giai cấp thống trị. Trong lúc đó
cùng một xã hội lại tồn tại những đạo đức khác nhau, đạo đức của giai cấp thống trị, của
giai cấp bị trị, của những nghề nghiệp khác nhau... Đạo đức không chỉ ra cụ thể tỉ mỉ cho
mọi người các hành vi tốt mà chỉ yêu cầu mọi người có hành động trung thực, đúng đạo
lý. Còn pháp luật quy định rõ hành vi nào phải thực hiện, hành vi nào không được làm.
Ưu thế của pháp luật là nó hướng dẫn cụ thể xử sự của con người.
4. Kiểu pháp luật và Hình thức pháp luật
4.1. Khái niệm Kiểu pháp luật
Kiểu pháp luật là tổng thể các dấu hiệu cơ bản đặc thù của pháp luật, thể hiện bản
chất giai cấp và những điều kiện tồn tại, phát triển của pháp luật trong một hình thái
kinh tế-xã hội nhất định.
Mỗi một kiểu nhà nước có một kiểu pháp luật và do hình thái kinh tế-xã hội quy định.
Trong lịch sử xã hội đã tồn tại các kiểu pháp luật tương ứng với các hình thái kinh tế-xã hội sau đây:
Kiểu pháp luật chủ nô tương ứng với hình thái kinh tế-xã hội chiếm hữu nô lệ
Kiểu pháp luật phong kiến tương ứng hình thái kinh tế-xã hội phong kiến
Kiểu pháp luật tư sản tương ứng với hình thái kinh tế-xã hội tư bản
Kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa tương ứng với hình thái kinh tế-xã hội XHCN.
Mỗi kiểu pháp luật trên đây đều có những nét đặc trưng của nó. Kiểu pháp luật chủ nô
có đặc điểm nổi bật là củng cố và bảo vệ quyền chiếm hữu tuyệt đối của chủ nô đối với tư
liệu sản xuất, thành quả lao động và chính bản thân người lao động. Pháp luật phong kiến
thì công khai xác nhận và bảo đảm thực hiện những đặc quyền, đặc lợi của giai cấp địa
chủ và tầng lớp quý tộc; duy trì tình trạng lệ thuộc nửa tự do của tá điền, họ bị cột chặt
vào ruộng đất của địa chủ. Kiểu pháp luật tư sản thì công khai ghi nhận các quyền “tự do,
bình đẳng” của con người, nhưng thực chất chỉ là hình thức. Sự thừa nhận pháp lý về 17
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
quyền tự do chiếm hữu tư nhân về của cải vật chất, chủ yếu là quyền bất khả xâm phạm
đối với tư liệu sản xuất, thực chất là bảo vệ vững chắc quyền lợi của giai cấp tư sản khi
họ đã chiếm đại bộ phận tư liệu sản xuất, của cải vật chất trong xã hội.
Các kiểu pháp luật chủ nô, phong kiến và tư sản là ba kiểu pháp luật khác nhau nhưng
chúng đều có bản chất chung là thể hiện ý chí giai cấp bóc lột trong xã hội, bảo đảm về
mặt pháp lý sự bóc lột của giai cấp thống trị đối với nhân dân lao động. Khác về bản
chất, kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa xây dựng trên một cơ sở kinh tế-xã hội mới, chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân, bảo vệ quyền và lợi
ích của đại đa số nhân dân lao động.
4.2. Khái niệm Hình thức pháp luật
Hình thức pháp luật là cách thức mà giai cấp thống trị sử dụng để thể hiện ý chí
của giai cấp mình thành pháp luật. Lịch sử phát triển của pháp luật đã ghi nhận ba hình
thức pháp luật phổ biến được sử dụng bao gồm Tập quán pháp, Tiền lệ pháp và Văn bản quy phạm pháp luật.
a) Tập quán pháp: là hình thức pháp luật trong đó nhà nước thừa nhận một số
tập quán đã lưu truyền trong xã hội, phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, nâng
chúng lên thành những quy tắc xử sự chung được Nhà nước đảm bảo thực hiện.
Những quy tắc xử sự được hình thành trong đời sống thực tế, lưu truyền từ thế hệ
này qua thể hệ khác, thành thói quen, tập quán, khi nó phù hợp với lợi ích của giai cấp
cầm quyền, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ, coi đó là những quy tắc xử sự của pháp
luật. Loại hình thức pháp luật này được sử dụng nhiều trong nhà nước chiếm hữu nô lệ và
phong kiến. Ở một số nước tư bản hiện đại với chính thể quân chủ lập hiến vẫn còn sử
dụng hình thức pháp luật này.
b) Tiền lệ pháp: Tiền lệ pháp là hình thức Nhà nước thừa nhận trong các quyết
định của cơ quan hành chính hay cơ quan xét xử khi giải quyết một vụ việc cụ thể làm
chuẩn mực cho việc giải quyết những vụ việc tương tự về sau.
Như vậy, trong hệ thống pháp luật, có những lĩnh vực pháp luật không được hình
thành thông qua hoạt động của cơ quan lập pháp.
Trong các nhà nước tổ chức theo nguyên tắc phân quyền như Anh, Mỹ..., Tòa án
có vị trí độc lập, có vai trò và uy tín lớn đối với việc giải quyết các xung đột xã hội, thì
tiền lệ pháp được hình thành chủ yếu thông qua hoạt động xét xử (trường hợp này bản án
mẫu của tòa án được goi là án lệ). Án lệ với tư cách là một hình thức pháp luật có ý nghĩa
bắt buộc theo hai chiều, theo chiều dọc, bản án, quyết định của tòa án cấp trên có giá trị
bắt buộc đối với tòa án cấp dưới; theo chiều ngang, quyết định, bản án của một tòa án đã 18
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
tuyên có giá trị bắt buộc ngay chính tòa án này trong việc giải quyết các vụ việc tương tự sau đó.
Hình thức pháp luật này xuất hiện trong nhà nước chiếm hữu nô lệ và áp dụng
rộng rãi trong nhà nước phong kiến và hiện còn có vị trí quan trọng trong pháp luật của
nhà nước tư sản, đặc biệt là trong dân luật. Tuy nhiên, hình thức này có một yếu điểm là:
thiếu tính khái quát, việc áp dụng án lệ dễ tạo ra sự tùy tiện vì nó phụ thuộc vào sự giải
thích và vận dụng của thẩm phán. Trên thực tế, khó có sự việc, sự kiện giống hệt nhau
khi chúng diễn ra trong những thời gian khác nhau, liên quan đến các chủ thể khác nhau.
Trong các nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tiền lệ pháp cũng như tập quán pháp,
về nguyên tắc không được sử dụng. Tuy nhiên, phong tục tập quán cũng như thực tiễn xét
xử có ý nghĩa lớn đối với công tác ban hành pháp luật, việc tổng kết thực tiễn xét xử và
chỉ đạo hướng dẫn công tác xét xử có vai trò quan trọng trong đời sống pháp luật của nước ta.
c) Văn bản quy phạm pháp luật: là văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền ban hành trong đó có chứa đựng các quy tắc xử sự chung được áp dụng nhiều lần trong đời sống.
Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức pháp luật ra đời từ rất sớm, có ngay
trong nhà nước nô lệ và phong kiến. Mặc dù vậy, bên cạnh hình thức pháp luật này, ngay
cả trong các nhà nước tư sản hiện đại như Anh, Mỹ... các hình thức tập quán pháp và tiền
lệ pháp vẫn cùng tồn tại.
Ở Việt Nam, văn bản quy phạm pháp luật là hình thức pháp luật chủ yếu và quan
trọng nhất được áp dụng. Các văn bản quy phạm pháp luật là yếu tố quyết định trong việc
hiện thực hóa đường lối, chủ trương của Đảng, đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và xã hội.
5. Quy phạm pháp luật và quan hệ pháp luật 5.1. Quy phạm pháp luật
5.1.1. Khái niệm quy phạm pháp luật
Quy phạm xã hội là quy tắc xử sự được hình thành trong quá trình hoạt động xã hội
của con người (sản xuất, trao đổi, phân phối, sinh hoạt), chúng được sử dụng để điều
chỉnh quan hệ giữa người và người. Trong mỗi quy phạm xã hội thường chỉ ra: ai? ở
trong hoàn cảnh điều kiện nào? phải xử sự như thế nào? hậu quả nếu không xử sự đúng như vậy.
Thứ nhất, đều là khuôn mẫu xử sự, là thước đo hành vi của con người; 19
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
Thứ hai, được hình thành trên cơ sở nhận thức các quy luật vận động khách
quan của xã hội. Mỗi quy phạm xã hội là một quy tắc xử sự phù hợp với mục đích cá
nhân, giai cấp, nhóm xã hội hay cộng đồng xã hội nói chung;
Thứ ba, quy phạm xã hội có chức năng điều chỉnh hành vi, có cấu trúc
thông tin xác định. Thông thường cấu trúc của quy phạm xã hội bao gồm ba bộ phận:
1)bộ phận quy định về điều kiện của hành vi; 2)bộ phận quy định về trật tự của hành
vi; 3)bộ phận quy định về hậu quả của sự vi phạm quy tắc.
Quy phạm pháp luật trước hết là một loại của quy phạm xã hội. Giống như các quy
phạm đạo đức, quy phạm của các tổ chức xã hội..., quy phạm pháp luật là các chuẩn mực
quy tắc xử sự mang tính chất chung điều chỉnh hành vi của con người và được sử dụng
nhiều lần trong cuộc sống, là tiêu chuẩn để đánh giá hành vi của con người trong các quan hệ xã hội.
Quy phạm pháp luật luôn gắn liền với Nhà nước và chỉ do nhà nước đặt ra hoặc phê
chuẩn, hoặc do một tổ chức xã hội được nhà nước ủy quyền ban hành, và được đảm bảo
thi hành bằng cưỡng chế nhà nước. Nhà nước thiết lập ra một hệ thống các cơ quan
chuyên môn (bộ máy nhà nước) để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh
và triệt để. Bất kỳ một chủ thể nào vi phạm các quy định của quy phạm pháp luật, xâm
phạm đến lợi ích của các cá nhân, tổ chức khác, xâm phạm đến lợi ích, trật tự pháp lý của
nhà nước đều phải chịu các hậu quả pháp lý bất lợi. Nội dung của quy phạm pháp luật thể
hiện ở sự cho phép, cấm đoán; hoặc bắt buộc. Đó là các quy tắc xử sự trong đó chỉ ra các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ pháp luật mà nó điều chỉnh.
Quy phạm pháp luật vừa mang tính giai cấp và tính xã hội, thể hiện ý chí của giai cấp
thống trị trong xã hội, vừa mang tính xã hội rộng lớn duy trì quan hệ, đời sống cộng đồng
nói chung. Đặc điểm này mang lại tính bền vững cho pháp luật, là nhân tố điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Trong quy phạm pháp luật xã hội chủ nghĩa thì sự phân biệt giữa tính xã
hội và tính giai cấp là mờ nhạt, bởi lẽ giai cấp thống trị trong xã hội là giai cấp đa số và
đông đảo có chung một mục tiêu, một lợi ích.
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung được áp dụng nhiều
lần trong cuộc sống, quy phạm pháp luật được đặt ra không phải để áp dụng cho một chủ
thể cụ thể nào, mà là bắt buộc đối với tất cả mọi người trong xã hội, nằm trong hoàn
cảnh, điều kiện mà quy phạm pháp luật đó quy định. Đồng thời, quy phạm pháp luật được
áp dụng nhiều lần trong cuộc sống cho tất cả các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh
của nó, cho tới khi nó bị hủy bỏ hoặc thay thế bằng một quy phạm pháp luật khác.
Quy phạm pháp luật được thể hiện dưới những hình thức xác định. Quy phạm pháp
luật của nhà nước ta luôn là các quy phạm pháp luật thành văn, được thể hiện trong văn 20
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
bản quy phạm pháp luật. Yêu cầu của các quy phạm pháp luật nói chung là phải chính
xác, chặt chẽ, rõ ràng và phải luôn được hiểu và áp dụng thống nhất.
Như vậy, Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do Nhà
nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị để điều chỉnh các
quan hệ xã hội, và được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.
5.1.2. Cấu trúc của quy phạm pháp luật
Cơ cấu của quy phạm pháp luật là các bộ phận hợp thành quy phạm pháp luật. Quy
phạm pháp luật là đơn vị cơ bản của pháp luật, nhưng trong nó còn có những bộ phận nhỏ
hợp thành. Trong các tác phẩm pháp lý còn có những ý kiến khác nhau về cơ cấu của quy
phạm pháp luật. Đa số ý kiến cho rằng quy phạm pháp luật được tạo thành bởi ba bộ
phận: Giả định, Quy định, Chế tài.
a) Giả định là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên quan hệ xã hội mà quy phạm
điều chỉnh, xác định rõ tình huống, trường hợp, điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong
cuộc sống và cá nhân, hay tổ chức nào vào hoàn cảnh, điều kiện đó phải chịu sự điều
chỉnh của quy phạm pháp luật. Giả định thường quy định về thời gian, địa điểm, các chủ
thể, các hoàn cảnh cụ thể mà quy phạm pháp luật điều chỉnh.
Ví dụ: Khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự 1999 quy định "Người nào điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ
gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của
người khác thì bị phạt tiền từ năm triệu đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ
đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm", quy phạm này có bộ phận giả
định là "Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về
an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng
cho sức khỏe, tài sản của người khác".
Điều 147/1 BLHS 1999: Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng: “Người nào đang có
vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa
có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết
rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về
hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm
hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.”
Để áp dụng các quy phạm pháp luật một cách chính xác, nhất quán, phần giả định phải
được mô tả một cách rõ ràng. Những hoàn cảnh, điều kiện nêu ra phải sát với thực tế
cuộc sống. Tính xác định là tiêu chuẩn hàng đầu của một giả định. Điều kiện, hoàn cảnh
được dự liệu có thể giản đơn hoặc có thể phức tạp. Chẳng hạn, Điều 80-Hiến pháp 1992
quy định "Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích theo quy định của pháp 21
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
luật" thì phần giả định là Công dân và chỉ ra chủ thể chịu sự điều chỉnh của quy phạm là
tất cả mọi cá nhân công dân Việt Nam. Khác với Điều 80 -Hiến pháp nêu trên, Khoản 1
Điều 102 Bộ luật hình sự 1999 "Người nào thấy người khác trong tình trạng nguy hiểm
đến tính mạng, tuy có điều kiện cứu giúp mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó
chết, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng
đến hai năm" lại có phần giả định rất phức tạp, đó là "Người nào thấy người khác trong
tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện cứu giúp mà không cứu giúp dẫn
đến hậu quả người đó chết,"
b) Quy định là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu rõ cách xử sự của chủ thể pháp
luật (cá nhân hay tổ chức) ở vào hoàn cảnh điều kiện đã nêu trong phần giả định, gồm sự
cho phép hay bắt buộc phải thực hiện. Bộ phận quy định trả lời câu hỏi Phải làm gì?
Không được làm gì? và làm như thế nào?
Trong quy định, ý chí và lợi ích của nhà nước, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể được
xác định rõ ràng để mọi người khi có quan hệ với nhau phải dựa vào đó xem xét hành vi
của mình, được làm gì, phải làm gì và không được làm gì. Bởi vậy, bộ phận quy định
phải được thể hiện một cách chính xác, trực tiếp yêu cầu của quy phạm, thể hiện bản
chất, chức năng và vai trò xã hội của quy phạm pháp luật. Nắm vững bộ phận quy định là
điều kiện quan trọng để thực hiện đúng yêu cầu của quy phạm pháp luật.
Căn cứ vào tính chất, phương thức tác động lên các quan hệ xã hội, quy phạm pháp
luật có các cách quy định khác nhau. Phần quy định của quy phạm pháp luật được phân biệt thành các loại:
- Quy định mệnh lệnh, Nhà nước quy định một cách dứt khoát những điều cấm đoán,
không được làm hoặc bắt buộc phải làm. Ví dụ: Công dân "có nghĩa vụ đóng thuế và lao
động công ích theo quy định của pháp luật". Hoặc quy định của Điều 51 Luật tổ chức
Quốc hội quy định rằng: Không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời gian Quốc hội
không họp, không có sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì "không được bắt
giam, truy tố đại biểu Quốc hội và không được khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu Quốc hội".
- Quy định tùy nghi, trong quy định này nhà nước không nêu lên một cách dứt khoát
một cách xử sự nhất định nào mà nêu lên một số cách xử sự để hướng các chủ thể pháp
luật lựa chọn hoặc thỏa thuận với nhau. Nếu họ không thỏa thuận hoặc thỏa thuận trái với
sự hướng dẫn, thì cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định. Loại quy định này thường thấy
trong luật dân sự, kinh tế, thương mại,... Chẳng hạn "Việc kết hôn phải do Ủy ban nhân
dân cơ sở nơi thường trú của bên nam hoặc bên nữ công nhận và ghi vào sổ đăng ký kết
hôn theo thủ tục do Nhà nước quy định. Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị pháp lý"... 22
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
- Quy định giao quyền, trong loại này, Nhà nước quyết định giao quyền cho một cơ
quan, tổ chức hay một cá nhân được xử lý hoặc hưởng quyền lợi. Ví dụ Điều 2 - Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định: “Chính phủ quy định hành vi vi phạm hành
chính, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm
hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước; quy định chế độ áp dụng biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa
vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính.”
c) Chế tài là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những biện pháp tác động mà
nhà nước dự kiến sẽ áp dụng đối với chủ thể pháp luật đã không thực hiện theo đúng quy
tắc xử sự nêu ở bộ phận quy định của quy phạm pháp luật. Chế tài là hậu quả bất lợi đối
với chủ thể vi phạm pháp luật là một trong những phương tiện để đảm bảo thực hiện của
quy phạm pháp luật trên thực tế. Tùy theo tiêu chí phân loại, chế tài được phân chia thành nhiều loại.
- Căn cứ vào tính chất của những biện pháp mà nhà nước tác động tới các chủ thể vi
phạm pháp luật, có thể phân biệt chế tài thành các loại:
+ Chế tài hình sự là loại chế tài nghiêm khắc nhất, nhằm trừng trị những người có
hành vi vi phạm quy định của quy phạm luật hình sự, bị coi là tội phạm.
+ Chế tài hành chính, áp dụng đối với các chủ thể có hành vi vi phạm quy định của
quy phạm luật hành chính.
+ Chế tài kỷ luật, áp dụng đối với những người có hành vi vi phạm nội quy, quy chế
của cơ quan, trường học hay tập thể lao động...
+ Chế tài dân sự, áp dụng đối với các hành vi vi phạm các quy định của quy phạm pháp luật dân sự.
- Căn cứ theo mức độ xác định của chế tài, phân biệt chế tài thành các loại:
+ Chế tài xác định, là những biện pháp cố định của sự tác động. Loại chế tài này rất
phổ biến, nó sẽ hạn chế được sự tùy tiện trong việc áp dụng chế tài của cơ quan bảo vệ pháp luật.
+ Chế tài xác định tương đối, là biện pháp tác động được hạn chế bởi các giới hạn trên
và dưới. Loại chế tài này cho phép cơ quan bảo vệ pháp luật khi áp dụng được tính toán
cho phù hợp với mức độ vi phạm để xác định một mức cụ thể.
+ Chế tài lựa chọn là loại chế tài cho phép cơ quan bảo vệ pháp luật được lựa chọn
một trong số biện pháp tác động được quy định trong nội dung của chế tài. 23
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
5.1.3. Phương pháp diễn đạt quy phạm pháp luật thành điều luật trong văn bản
quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật được thể hiện thành các điều luật trong các văn bản quy phạm
pháp luật, quy phạm pháp luật là nội dung, còn điều luật là hình thức biểu hiện của các
quy phạm pháp luật. Trong nhiều trường hợp quy phạm pháp luật trùng với các điều luật.
Nhưng cũng không ít trường hợp, trong một điều luật của văn bản, bao gồm một số quy
phạm pháp luật khác nhau cùng điều chỉnh các quan hệ xã hội trong một lĩnh vực nhất
định. Có ba phương pháp diễn đạt quy phạm pháp luật thành các điều luật trong các văn
bản quy phạm pháp luật: phương pháp diễn đạt trực tiếp; phương pháp diễn đạt tham
khảo; phương pháp diễn đạt theo mẫu.
Phương pháp diễn đạt trực tiếp, theo phương pháp này, trong một điều luật trình bày
(diễn đạt) một quy phạm pháp luật trọn vẹn, có đủ các yếu tố: giả định, quy định, chế tài.
Phương pháp này có ưu điểm là dễ hiểu, dễ vận dụng, phù hợp với trình độ dân trí chưa
cao. Nhưng có nhược điểm là thường lặp đi lặp lại nhiều lần một nội dung nào đó.
Phương pháp diễn đạt tham khảo, theo phương pháp này, tại một điều luật, chỉ trình
bày một hoặc hai bộ phận của quy phạm pháp luật, phần còn lại phải tham khảo ở một
điều luật khác. Ưu điểm của phương pháp này là khắc phục được nhược điểm của
phương pháp trên, khắc phục được sự trùng lặp. Nhưng nhược điểm là khó vận dụng, đòi
hỏi trình độ dân trí cao.
Phương pháp diễn đạt theo bản mẫu, là phương pháp diễn đạt ở một điều luật chỉ
trình bày một vài bộ phận của quy phạm như ở phương pháp tham khảo, phần còn lại
không giới thiệu ở một điều luật cụ thể nào, mà chỉ đề ra một phương hướng chung để
tham khảo ở một luật nào đó đang hiện hành (tham khảo tại một văn bản quy phạm pháp luật khác).
Qua ba phương pháp diễn đạt trên, phương pháp nào là tốt nhất? Mỗi phương pháp
đều có những ưu điểm, nhược điểm của nó. Tùy theo tính chất của quan hệ xã hội do quy
phạm pháp luật điều chỉnh, tùy theo trình độ dân trí của dân cư mà các nhà làm luật chọn
phương pháp thích hợp. Tuy nhiên, dù sử dụng phương pháp nào cũng phải tuân theo một
yêu cầu chung là phải diễn đạt chính xác, rõ ràng, dễ hiểu, dễ vận dụng. Cần phải diễn đạt
sao cho cùng một vấn đề mà mọi người đều hiểu thống nhất, vận dụng thống nhất. Không
thể có một quy định của quy phạm pháp luật mà hiểu nhiều cách khác nhau.
5.1.4. Vai trò của quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật là yếu tố đầu tiên, cơ bản trong cơ chế điều chỉnh pháp luật và
xây dựng hệ thống pháp luật. Không có quy quy phạm pháp luật, không có thước đo, thì
không thể có sự điều chỉnh pháp luật, và do đó, không có cơ chế điều chỉnh pháp luật đối 24
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
với các quan hệ xã hội. Thông qua quy phạm pháp luật nhà nước quản lý xã hội. Quản lý
xã hội, theo góc độ pháp lý, là việc nhà nước dùng quy phạm pháp luật để điều chỉnh
hành vi của các thành viên trong xã hội, sao cho khi họ tham gia các quan hệ xã hội phải
xử sự thống nhất theo một quy tắc chung, theo ý chí của nhà nước đã được thể hiện trong
quy phạm pháp luật. Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật. Quy phạm
pháp luật được coi là “tế bào” của hệ thống pháp luật, là yếu tố cơ bản để xây dựng hệ
thống pháp luật của một nhà nước. Pháp luật của một nhà nước là hệ thống các quy phạm pháp luật.
Quy phạm pháp luật là cơ sở pháp lý đảm bảo sự hoạt động của Bộ máy nhà nước.
Các cơ quan nhà nước đều phải hoạt động trong phạm vi thẩm quyền được quy định cụ
thể bằng những quy phạm pháp luật. Các nhà chức trách, các nhân viên nhà nước phải
dựa vào quy phạm pháp luật để thực thi công vụ của mình. Có như vậy họ mới đủ lòng
tin để thực hiện đúng chức trách một cách có hiệu quả.
Quy phạm pháp luật là cơ sở pháp lý đối với quyền tự do, quyền dân chủ của công
dân, đối với hành vi hợp pháp của con người trong xã hội. Các quy phạm pháp luật tác
động lên con người trong quan hệ xã hội trên hai mặt, tác động giáo dục tư tưởng và tác
động pháp lý. Tác động giáo dục tư tưởng của quy phạm pháp luật thể hiện tương tự như
các biện pháp giáo dục tư tưởng khác. Khi con người biết được những quy định của pháp
luật về quyền tự do, quyền dân chủ thì trình độ nhận thức, trình độ văn hóa của họ được
nâng cao. Tác động pháp lý của quy phạm pháp luật tạo cho con người sự hiểu biết cần
thiết về pháp luật, đồng thời khẳng định những quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ. Để tạo
cho con người có kiến thức pháp luật và hiểu biết quyền và nghĩa vụ pháp lý, ngoài việc
tiến hành trên ý thức, còn phải thông qua sự điều chỉnh bằng pháp luật đối với quan hệ xã
hội. Dựa vào quy phạm pháp luật, nhà nước có khả năng bảo vệ các quan hệ xã hội đã có,
tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội mới phát sinh có điều kiện phát triển, góp phần
thanh toán, loại bỏ các quan hệ xã hội đối lập với xã hội mới.
5.1.5. Phân loại quy phạm pháp luật
Có nhiều cách phân loại quy phạm pháp luật. Thông thường có ba cách phân loại phổ biến như sau:
Căn cứ vào vai trò trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội quy phạm pháp luật được
phân biêt thành các loại: Quy phạm điều chỉnh, là quy phạm thiết lập các quyền và
nghĩa vụ pháp lý của những người tham gia quan hệ xã hội. Các quy phạm pháp luật loại
này hướng đến việc hình thành các hành vi hợp pháp. Đây là loại quy phạm phổ biến nhất
trong pháp luật xã hội chủ nghĩa. Quy phạm bảo vệ, là quy phạm xác định trước các
biện pháp tác động mang tính cưỡng chế nhà nước đối với hành vi vi phạm pháp luật.
Đây là loại quy phạm đối với hành vi không hợp pháp và luôn luôn bị tác động bởi chế 25
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
tài. Các loại quy phạm trong luật hình sự thường là loại này. Quy phạm chuyên môn,
là những quy phạm chứa đựng nội dung là những quy định nhằm bảo đam hiệu lực của
các quy phạm điều chỉnh và quy phạm bảo vệ.
Căn cứ vào nội dung và hình thức, quy phạm pháp luật được chia thành: quy phạm nội
dung (quy phạm thực định) và quy phạm hình thức (quy phạm tố tụng). Quy phạm nội
dung là quy phạm điều chỉnh mặt nội dung của quan hệ xã hội, xác định quyền và nghĩa
vụ hay trách nhiệm pháp lý của các chủ thể tham gia. Quy phạm hình thức là quy
phạm xác định trình tự, thủ tục pháp lý, hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong việc thực hiện và bảo vệ các quy phạm nội dung; quyền và lợi ích hợp pháp của
những người tham gia các quan hệ xã hội.
5.2. Quan hệ pháp luật và sự kiện pháp lý
5.2.1. Khái niệm, đặc điểm quan hệ pháp luật
Quan hệ giữa người và người - quan hệ xã hội - rất đa dạng và phong phú, phát sinh
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chúng tồn tại giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá
nhân với tổ chức, tập thể và nhà nước; giữa tổ chức với nhau hoặc với nhà nước... Các
quan hệ này được điều chỉnh bởi tổng thể những quy phạm xã hội khác nhau: quy phạm
đạo đức, quy phạm tôn giáo, quy phạm phong tục, quy tắc đoàn thể, quy phạm pháp
luật... Trong xã hội có nhà nước, các quan hệ xã hội quan trọng nhất được điều chỉnh
bằng các quy phạm pháp luật.
Với các quy phạm pháp luật, nhà nước tác động vào các quan hệ xã hội, bằng cách xác
định rõ quyền và nghĩa vụ cho các bên tham gia quan hệ. Quyền thì được hưởng, nghĩa
vụ phải gánh vác và Nhà nước sẽ bảo đảm thực hiện. Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội
được pháp luật điều chỉnh. Do đó quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý của các quan hệ
xã hội do có sự tác động điều chỉnh của quy phạm pháp luật.
Quan hệ pháp luật là hình thức biến thể của một quan hệ xã hội do một quy phạm
pháp luật điều chỉnh, trong đó quyền và nghĩa vụ được nhà nước quy định và bảo đảm
thực hiện. Quan hệ pháp luật có những đặc điểm:
- Quan hệ pháp luật là quan hệ mang tính ý chí, quan hệ pháp luật phát sinh trên cơ sở
quy phạm pháp luật, mà quy phạm pháp luật phản ánh ý chí của nhà nước. Nhiều trường
hợp, trong khuôn khổ pháp luật, quan hệ pháp luật phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt do ý
chí của các bên chủ thể tham gia, ví dụ hợp đồng, di chúc...
- Quan hệ pháp luật xuất hiện trên cơ sở quy phạm pháp luật, không có quy phạm
pháp luật thì không có quan hệ pháp luật. Quan hệ pháp luật là hình thức biến thể của một
quan hệ xã hội, một quan hệ xã hội chỉ trở thành một quan hệ pháp luật khi có một quy
phạm pháp luật được ban hành để điều chỉnh quan hệ xã hội đó. Mặt khác quan hệ pháp 26
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
luật là phương tiện để thực hiện quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật chỉ được thực
hiện trong đời sống khi có các quan hệ pháp luật phát sinh.
- Quan hệ pháp luật thuộc thượng tầng kiến trúc, Pháp luật là một hiện tượng thuộc
thượng tầng kiến trúc, quan hệ pháp luật lại xuất hiện trên cơ sở các quy phạm pháp
luật, do vậy quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc.
- Quan hệ pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước, Quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật luôn được bảo đảm bằng sự cưỡng
chế của nhà nước. Quyền được nhà nước bảo đảm và bảo vệ, nghĩa vụ nhà nước buộc phải thực hiện.
5.2.2. Cơ cấu của quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật được hợp thành bởi các yếu tố: Chủ thể của quan hệ pháp luật,
khách thể của quan hệ pháp luật và nội dung của quan hệ pháp luật.
5.2.2.1. Chủ thể quan hệ pháp luật
Chủ thể pháp luật có đặc trưng đặc biệt là nhà nước trao cho họ năng lực chủ thể,
tức là khả năng tham gia vào các quan hệ pháp luật và để trở thành chủ thể quan hệ
pháp luật, mà khả năng đó được nhà nước thừa nhận và bảo đảm. Năng lực chủ thể
gồm hai yếu tố: năng lực pháp luật và năng lực hành vi
Năng lực pháp luật là khả năng của chủ thể được tham gia quan hệ pháp luật để
hưởng quyền và gánh chịu nghĩa vụ pháp lý. Như vậy, chủ thể pháp luật, dù là cá nhân
hay tổ chức, bắt buộc phải có năng lực pháp luật.
Năng lực hành vi là khả năng của chủ thể bằng hành vi (hành động hoặc không
hành động) của bản thân tham gia một quan hệ pháp luật để tạo ra quyền và nghĩa vụ
và chịu trách nhiệm pháp lý trước hành vi đó.
Năng lực pháp luật và năng lực hành vi không phải là thuộc tính tự nhiên của chủ
thể pháp luật mà xuất hiện trên cơ sở pháp luật, phụ thuộc vào ý chí của nhà nước.
Năng lực pháp luật và năng lực hành vi là những thuộc tính pháp lý có mối quan hệ
với nhau. Chủ thể pháp luật chỉ có năng lực pháp luật mà không có năng lực hành vi
thì không thể trở thành chủ thể quan hệ pháp luật trực tiếp, chủ động được. Ngược lại,
một người có năng lực hành vi nói chung nhưng không năng lực pháp luật ở lĩnh vực
nào đó thì không thể tham gia quan hệ pháp luật ở những lĩnh vực đó. Một cá nhân
hoặc tổ chức muốn trở thành chủ thể pháp luật: điều kiện cần là năng lực pháp luật;
điều kiện đủ là năng lực hành vi.
Năng lực pháp luật là phạm trù mang tính giai cấp sâu sắc. Mỗi kiểu nhà nước, tùy
theo giai cấp được nhà nước ấy đại diện, có quy định khác nhau về năng lực pháp luật. 27
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
Chẳng hạn trong xã hội chiếm hữu nô lệ, nô lệ không được thừa nhận là chủ thể pháp
luật, tức là không có năng lực pháp luật... Theo pháp luật của nhà nước ta, công dân
Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch sống trên lãnh thổ Việt Nam và
các tổ chức là chủ thể pháp luật nếu có năng lực chủ thể.
1) Chủ thể quan hệ pháp luật là những cá nhân mang quốc tịch Việt Nam (công
dân, thể nhân Việt Nam).
Năng lực chủ thể của công dân xuất hiện từ lúc mới sinh ra, vì từ thời điểm đó họ
được công nhận là chủ thể pháp luật. Cuộc sống, tự do, danh dự, nhân phẩm... của họ
được pháp luật bảo đảm. Năng lực chủ thể đó phát triển cùng với sự trưởng thành và
đến một độ tuổi nhất định thì đầy đủ. Trong hai yếu tố của năng lực chủ thể, trong
nhiều lĩnh vực năng lực pháp luật có ngay từ lúc mới sinh ra, còn năng lực hành vi thì
xuất hiện dần với độ tuổi trưởng thành. Năng lực hành vi phụ thuộc vào độ tuổi, sức
khỏe, trình độ văn hóa, tâm lý...
2) Người nước ngoài, người không quốc tịch trở thành chủ thể pháp luật Việt Nam
theo điều kiện áp dụng cho công dân Việt Nam. Tuy nhiên trong một số lĩnh vực, năng
lực pháp luật của họ bị hạn chế hoặc một số trường hợp cá biệt lại được mở rộng hơn.
3) Các tổ chức: Nhà nước nói chung, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội khác
cũng là chủ thể phổ biến của quan hệ pháp luật.
Nhà nước là chủ thể pháp luật đặc biệt trong một số lĩnh vực, là chủ thể của luật
quốc tế, của ngành luật nhà nước. Các tổ chức khác là chủ thể pháp luật có đặc điểm: (1)
Có cơ cấu tổ chức thống nhất được quy định trong quy chế, điều lệ
hoặc trong các văn bản của nhà nước; (2)
Có năng lực pháp luật xác định; Năng lực pháp luật và năng lực
hành vi được nhà nước quy định, xuất hiện đồng thời với việc chính thức
thành lập các tổ chức ấy, được chỉ ra trong các điều lệ, quy chế hoặc văn bản
của nhà nước. Bởi vậy, khi đề cập tới chủ thể pháp luật là một tổ chức chỉ nói
tới năng lực pháp luật mà không cần đề cập tới năng lực hành vi, bởi trong đó
đã bao hàm năng lực hành vi; (3)
Hành vi của tổ chức được thực hiện thông qua người đại diện (giám
đốc, ban chủ nhiệm, thủ trưởng cơ quan,...) (4)
Hoạt động của các tổ chức gắn với những lĩnh vực nhất định, do đó,
năng lực chủ thể của tổ chức gắn liền với mục đích thành lập và lĩnh vực hoạt động của tổ chức. 28
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
Trong lĩnh vực dân sự, kinh tế..., tổ chức phải có tư cách pháp nhân mới trở thành
chủ thể độc lập của các quan hệ luật dân sự, luật kinh tế... Tư cách pháp nhân của một
tổ chức do pháp luật quy định.
5.2.2.2. Nội dung của quan hệ pháp luật
Một trong những cấu thành của quan hệ pháp luật là nội dung của nó, đó là các
quyền và nghĩa vụ của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật. Quyền chủ thể và nghĩa vụ
pháp lý của chủ thể là những hình thức pháp lý cụ thể được nhà nước sử dụng tác động
tới cách xử sự của con người nhằm điều chỉnh và bảo vệ các quan hệ xã hội.
Quyền chủ thể, trong quan hệ pháp luật, là khả năng xử sự của chủ thể được pháp
luật quy định và bảo đảm. Quyền chủ thể không phải là bản thân xử sự (hành vi) mà
chỉ là khả năng xử sự. Nếu khả năng này được chủ thể thực hiện trên thực tế thì mới
xuất hiện sự thực hiện quyền chủ thể. Quyền chủ thể có các đặc điểm:
Khả năng chủ thể được thực hiện hành vi trong khuôn khổ quy phạm pháp luật;
Khả năng yêu cầu bên kia (chủ thể cùng tham gia quan hệ pháp luật) thực
hiện nghĩa vụ của họ;
Khả năng yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp
cưỡng chế cần thiết đối với chủ thể bên kia để họ thực hiện nghĩa vụ, trong trường
hợp quyền chủ thể của mình bị vi phạm.
Nghĩa vụ của chủ thể trong quan hệ pháp luật là cách xử sự bắt buộc được quy
phạm pháp luật quy định trước mà một bên chủ thể phải thực hiện nhằm đáp ứng việc
thực hiện quyền chủ thể bên cùng tham gia quan hệ pháp luật.
Nghĩa vụ chủ thể không phải là khả năng xử sự, mà là sự cần thiết, bắt buộc phải xử
sự. Nghĩa vụ chủ thể pháp luật có các đặc điểm:
Là sự bắt buộc phải có những xử sự nhất định do quy phạm pháp luật định trước
Cách xử sự này nhằm thực hiện quyền chủ thể của bên cùng tham gia quan hệ
Trong trường hợp cần thiết, nghĩa vụ pháp lý sẽ được bảo đảm bằng sự
cưỡng chế của nhà nước.
Trong quan hệ pháp luật xã hội chủ nghĩa, quyền chủ thể và nghĩa vụ chủ thể thống
nhất với nhau. Quyền một chủ thể này được thực hiện bởi việc thực hiện nghĩa vụ của
một chủ thể khác, và ngược lại. 29
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
5.2.2.3. Khách thể của quan hệ pháp luật
Cá nhân, tổ chức khi tham gia vào một quan hệ pháp luật nào đó đều nhằm thỏa mãn
những nhu cầu nhất định về vật chất, tinh thần, về chính trị, văn hóa... Tuy nhiên, không
phải mọi nhu cầu đó đều được pháp luật cho phép thực hiện do lợi ích, an toàn quốc gia,
an toàn xã hội, chẳng hạn như sự trả thù bằng cách giết người, hoặc tìm kiếm lợi ích kinh
tế bằng việc mua bán, vận chuyển các chất ma túy... Lợi ích mà các chủ thể muốn đạt
được là yếu tố không thể thiếu của quan hệ pháp luật và cũng chính điều đó mà pháp luật
xác định những quan hệ xã hội nào pháp luật cần điều chỉnh. Những lợi ích mà các chủ
thể hướng tới hoặc mong muốn đạt được chính là khách thể của quan hệ pháp luật. Đặc
điểm của khách thể quy định tính chất của quan hệ pháp luật là quan trọng hay ít quan
trọng và từ đó, Nhà nước còn xác định các phương pháp điều chỉnh khác nhau đối với các
quan hệ xã hội khác nhau.
Khách thể của quan hệ pháp luật là những lợi ích mà vì chúng các chủ thể tham gia
vào các quan hệ pháp luật, là đối tượng mà trên đó xuất hiện quyền và nghĩa vụ chủ thể.
5.2.3. Sự kiện pháp lý và căn cứ phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật
Sự kiện pháp lý là những sự việc, tình huống, hoàn cảnh thực tế xảy ra phù hợp
với những quy phạm pháp luật, làm phát sinh, thay đổi chấm dứt một quan hệ pháp luật.
Sự kiện pháp lý là các sự kiện trong số các sự kiện thực tế có mang ý nghĩa pháp lý. Ý
nghĩa pháp lý của một sự kiện thực tế chính là tính chất khi nó được một quy phạm pháp
luật đề cập tới và dự liệu nó nằm trong phạm vi tác động của quy phạm pháp luật. Một sự
kiện chỉ có là sự kiện pháp lý khi pháp luật xác định rõ điều đó. Sự kiện pháp lý được
chia thành sự biến và hành vi:
+Sự biến pháp lý là các hiện tượng (sự cố) tự nhiên, xảy ra ngoài ý chí, dự định và
khả năng kiểm soát của con người; pháp luật gắn các các sự kiện đó với việc hình thành,
thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý.
+ Hành vi pháp lý là những xử sự có ý thức của con người mà gắn với nó là sự
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ pháp lý. Hành vi là xử sự có ý thức bao
gồm hành động và không hành động. Những hành động vô thức không được gọi là hành
vi và không mang tính chất pháp lý. Căn cứ vào mức độ phù hợp với các quy định của
pháp luật chúng ta có thể xác định được những hành vi hợp pháp và những hành vi không
hợp pháp. Những hành vi không hợp pháp là những hành vi vi phạm, không tuân thủ
pháp luật một cách đầy đủ, chính xác, tuyệt đối. Ngoài hành vi không hợp pháp, những
hành vi pháp lý khác được coi là hợp pháp. 30
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
Như vậy, sự kiện pháp lý là một vấn đề có liên quan đến sự tồn tại, phát sinh, thay
đổi chấm một quan hệ pháp luật. Cùng với sự kiện pháp lý, các điều kiện khác làm phát
sinh, thay đổi, chấm dứt một quan hệ pháp luật còn gồm: quy phạm pháp luật, chủ thể.
- Quy phạm pháp luật là cơ sở làm phát sinh quan hệ pháp luật. Thiếu quy phạm pháp
luật điều chỉnh một quan hệ xã hội nào đó thì không thể xuất hiện quan hệ pháp luật tương ứng.
- Sự hiện diện của chủ thể có năng lực chủ thể (năng lực pháp luật và năng lực hành vi
do pháp luật quy định) là điều kiện không thể thiếu cho sự xuất hiện quan hệ pháp luật.
- Quan hệ pháp luật xuất hiện, thay đổi hoặc chấm dứt khi có sự kiện pháp lý phù hợp
với quy phạm pháp luật. Sự kiện pháp lý được coi là điều kiện đủ để làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt một quan hệ pháp luật.
6. Vi phạm pháp luật, trách nhiệm pháp lý và thực hiện pháp luật
6.1. Vi phạm pháp luật
6.1.1. Khái niệm và dấu hiệu vi phạm pháp luật Khái niệm :
Vi phạm pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) trái pháp luật, có
lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại hoặc đe dọa xâm hại
các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ
Dấu hiệu của vi phạm pháp luật :
- Là hành vi xác định của con người : Chỉ những hành vi (biểu hiện dưới dạng hành
động hoặc không hành động) cụ thể mới có thể bị coi là những hành vi vi phạm pháp
luật; những ý nghĩ dù xấu cũng không thể coi là những vi phạm pháp luật. - Trái pháp luật - Có lỗi
- Do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện
6.1.2. Cấu thành vi phạm pháp luật
Là một sự kiện pháp lý, vi phạm pháp luật được cấu thành bởi : mặt khách quan, mặt
chủ quan, chủ thể và khách thể vi phạm pháp luật.
a. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật :
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện ra bên ngòai của vi phạm
pháp luật mà con người có thể nhận thức bằng trực quan
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật bao gồm những yếu tố sau :
Hành vi trái pháp luật. 31
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
- Bất kỳ một hành vi vi phạm pháp luật nào cũng được cấu thành bởi hành vi trái
pháp lụât, nghĩa là nếu trong thực tế không tồn tại hành vi trái pháp lụât của cá nhân
hoặc họat động trái pháp luật của tổ chức cụ thể nào đó thì không có hành vi vi
phạm pháp luật xảy ra.
- Hành vi trái pháp luật được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động.
- Tính trái pháp luật được biểu hiện dưới các hình thức như :
+ Thực hiện hành vi mà pháp luật cấm.
+ Thực hiện hành vi vượt quá giới hạn pháp luật cho phép.
+ Không làm hoặc làm khác đi so với yêu cầu của pháp luật.
Hậu quả do hành vi trái pháp luật gây ra:
Hành vi trái pháp luật ở những mức độ khác nhau đều nguy hiểm và gây hại
cho xã hội. Tính nguy hiểm của hành vi trái pháp luật thể hiện ở chỗ nó đã hoặc có
nguy cơ gây ra những thiệt hại về vật chất, về tinh thần và những thiệt hại khác cho xã
hội. Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi trái pháp luật được xác định phụ thuộc
vào tính chất và mức độ thiệt hại thực tế hoặc nguy cơ gây hại cho xã hội mà hành vi
trái pháp luật đó gây ra.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả mà nó gây ra
cho xã hội (la causalité entre cet acte et la conséquence qui affecte la société).
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả mà nó gây ra cho
xã hội thể hiện ở chỗ sự thiệt hại cho xã hội là hậu quả tất yếu của hành vi trái pháp luật.
- Nếu giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại của xã hội không có mối quan hệ
nhân quả thì sự thiệt hại cho xã hội không phải do hành vi trái pháp luật đó trực tiếp
gây ra mà có thể là do nguyên nhân khác.
Ngoài ra trong mặt khách quan của hành vi vi phạm pháp luật còn có các yếu
tố khác như công cụ thực hiện hành vi vi phạm, thời gian, địa điểm, cách thức vi phạm...
b. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật:
mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện tâm lý bên trong của của
chủ thể vi phạm pháp luật, bao gồm các yếu tố sau :
Lỗi của chủ thể vi phạm pháp luật :
- Lỗi là trạng thái tâm lý phản ánh thái độ tiêu cực của chủ thể đối với hành vi
trái pháp luật của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra.
- Dựa vào mức độ tiêu cực trong thái độ của chủ thể, khoa học pháp lý chia lỗi ra
thành hai loại : lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián
tiếp, lỗi vô ý có thể là vô ý do quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả.
+ Lỗi cố ý trực tiếp : 32
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
Về mặt lý trí : chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội và thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra
Về mặt ý chí : chủ thể vi phạm mong muốn hậu quả xảy ra.
+ Lỗi cố ý gián tiếp :
Về mặt lý trí : chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi vi phạm của mình là
nguy hiểm cho xã hội và thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra.
Về mặt ý chí : chủ thể tuy không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng lại
có thái độ bàng quang để mặc cho hậu quả xảy ra.
+ Lỗi vô ý do quá tự tin :
Về mặt lý trí: chủ thể vi phạm nhận thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã
hội do hành vi của mình gây ra
Về mặt ý chí: chủ thể không mong muốn hậu quả xảy ra và tin tưởng
rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
+ Lỗi vô ý do cẩu thả:
Về mặt lý trí: do khinh suất, cẩu thả nên chủ thể vi phạm không nhận
thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra mặc
dù có thể hoặc cần phải thấy trước hậu quả đó.
Về mặt ý chí: không đặt ra vấn đề ý chí.
Động cơ vi phạm: Động cơ đựợc hiểu là cái thúc đẩy chủ thể thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật. Thông thường khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
chủ thể thường được thúc đẩy bởi một động cơ nhất định nào đó. Động cơ đó có
thể là vụ lợi, trả thù, đê hèn...
Mục đích vi phạm: mục đích là kết quả cuối cùng mà trong suy nghĩ của
mình chủ thể mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Mục
đích vi phạm của chủ thể cũng thể hiện tính chất nguy hiểm của hành vi. Tuy
nhiên không phải lúc nào kết quả mà chủ thể vi phạm đạt được trên thực tế cũng
trùng với mục đích mà họ mong muốn đạt được.
c. Chủ thể vi phạm pháp luật:
- Là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý.
- Năng lực trách nhiệm pháp lý: là khả năng của chủ thể tự chịu trách nhiệm về hành
vi của mình trước nhà nước
d. Khách thể của vi phạm pháp luật:
Khách thể của vi phạm pháp lụật là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ,
nhưng bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại.
6.2. Trách nhiệm pháp lý 33
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
6.2.1. Khái niệm, căn cứ truy cứu trách nhiệm pháp lý và phân loại trách nhiệm pháp lý
a. Khái niệm trách nhiệm pháp lý :
+ Trong lĩnh vực chính trị đạo đức trách nhiệm được hiểu theo nghĩa bổn phận vai
trò, nó luôn mang nghĩa tích cực.
+ Trong lĩnh vực pháp lý thuật ngữ trách nhiệm được sử dụng theo hai nghĩa : theo
nghĩa tích cực, trách nhiệm được hiểu là nghĩa vụ ; trách nhiệm theo nghĩa thứ hai là phải
gánh chịu những hậu quả bất lợi vì đã vi phạm pháp luật. Ở đây chúng ta nghiên cứu về
trách nhiệm pháp lý theo nghĩa hậu quả bất lợi. Theo đó, trách nhiệm pháp lý được hiểu
như sau : « trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi đối với chủ thể vi phạm pháp luật, thể
hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa nhà nước với chủ thể vi phạm pháp luật, được các quy
phạm pháp luật xác lập và điều chỉnh, trong đó chủ thể vi phạm pháp luật phải gánh chịu
những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế được quy định ở chế tài các quy phạm pháp luật ».
b. Các căn cứ truy cứu trách nhiệm pháp lý :
Để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với tổ chức hay cá nhân nào đó cần phải xác
định được cơ sở thực tiễn và cơ sở pháp lý làm căn cứ cho việc truy cứu.
Cơ sở thực tiến của trách nhiệm pháp lý là vi phạm pháp luật
Trách nhiệm pháp lý chỉ xuất hiện khi trong thực tế xảy ra vi phạm pháp luật. Nếu
trong thực tế không có vi phạm pháp luật thì không được truy cứu trách nhiệm pháp lý
Cơ sở pháp lý của trách nhiệm pháp lý là những quy định pháp luật hiện
hành có liên quan đến vi phạm pháp đó và thẩm quyền, trình tự, thủ tục để giải quyết vụ việc đó.
c. Phân loại trách nhiệm pháp lý :
Căn cứ vào việc phân loại vi phạm pháp luật, có bốn loại trách nhiệm pháp lý : - Trách nhiệm hình sự
- Trách nhiệm hành chính - Trách nhiệm dân sự - Trách nhiệm kỷ luật
6.2.2. Công tác phòng chống vi phạm pháp luật
a. Những nguyên nhân dẫn tới tình trạng vi phạm pháp luật trong xã hội ta
Nguyên nhân khách quan :
+ Những tàn dư của xã hội cũ để lại trong kinh tế và sinh hoạt
+ Ảnh hưởng của lối sống và sinh hoạt không lành mạnh từ các nước khác
+ Xã hội phát triển chưa cao, năng suất lao động còn thấp nên dẫn tới tình trạng
nghèo nàn lạc hậu của một số không nhỏ những người lao động trong xã hội 34
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
+ Sự chống phá của các thế lực thù địch...
Nguyên nhân chủ quan :
+ Sự yếu kém trong công tác quản lý xã hội
+ Hệ thống pháp luật chưa thực sự hoàn thiện và đồng bộ
+ Công tác giáo dục chính trị, pháp luật và đạo đức chưa tốt
+ Tện nạn và các hiện tượng tiêu cực trong xã hội còn nhiều
+ Hoạt động của các cơ quan chuyên môn đấu tranh phòng chống tội phạm và
những hiện tượng tiêu cực trong xã hội còn thiếu sót và hiệu quả thấp. + Những nguyên nhân khác
b. Những phương hướng cơ bản để phòng và chống vi phạm pháp luật trong xã hội ta :
Nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích những nguyên nhân, những điều kiện dẫn
tới tình trạng nảy sinh hiện tượng vi phạm pháp luật trong xã hội để từng bước có
kế hoạch xoá bỏ những nguyên nhân và điều kiện đó.
Củng cố nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung tâm, các viện nghiên
cứu về khoa học pháp lý nói chung, nghiên cứu về tội phạm học và các loại vi
phạm pháp luật nói riêng.
Thường xuyên xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật .
Đấy mạnh hoạt động phổ biến, giáo dục, giải thích, hướng dẫn việc thi hành pháp luật.
Tăng cường công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện pháp luật, phát hiện
và xử lý kịp thời các hiện tượng vi phạm pháp luật.
Kiện toàn và củng cố các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Tạo ra môi trường xã hội, tập thể và gia đình lành mạnh, an toàn, mang
tính nhân văn cao..........
6.3. Thực hiện pháp luật
6.3.1. Khái niệm thực hiện pháp luật và các hình thức thực hiện pháp luật a. Khái niệm :
Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy
định của pháp luật đi vào cuộc sống trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật
b. Các hình thức thực hiện pháp luật :
Tuân theo pháp luật :
+ Nội dung : chủ thể kiềm chế mình không thực hiện điều pháp luật cấm
+ Dạng hành vi : không hành động
+ Quy phạm tương ứng : quy phạm cấm
+ Loại chủ thể thực hiện : mọi chủ thể 35
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
Thi hành pháp luật :
+ Nội dung : chủ thể bằng hành vi của mình tích cực thực hiện điều pháp luật yêu cầu.
+ Dạng hành vi : hành động
+ Quy phạm tương ứng : quy phạm bắt buộc
+ Loại chủ thể : mọi chủ thể
Sử dụng pháp luật :
+ Nội dung : chủ thể thực hiện cách thức xử sự pháp luật cho phép.
+ Dạng hành vi : hành động hoặc không hành động
+ Quy phạm tương ứng : quy phạm cho phép
+ Loại chủ thể thực hiện : mọi chủ thể
Áp dụng pháp luật :
+ Nội dung : là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước, thông qua
cơ quan, cán bộ nhà nước có thẩm quyền, hoặc tổ chức xã hội được nhà nước
trao quyền, tổ chức cho các chủ thể thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp luật quy định.
+ Dạng hành vi : hành động
+ Quy phạm tương ứng : các loại quy phạm
+ Loại chủ thể thực hiện : cơ quan, cán bộ nhà nước có thẩm quyền, hoặc tổ
chức xã hội được nhà nước trao quyền
6.3.2.Hoạt động áp dụng pháp luật
a. Khái niệm áp dụng pháp luật :
Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước, thông qua cơ quan, cán bộ nhà
nước có thẩm quyền, hoặc tổ chức xã hội được nhà nước trao quyền, tổ chức cho các chủ
thể thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp luật quy định. b. Đặc điểm :
Mang tính tổ chức, quyền lực nhà nước:
+ Do cơ quan nhà nước thực hiện (hoặc được trao quyền) + Mang tính tổ chức
+ Là trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan nhà nước
Có hình thức, thủ tục chặt chẽ :
+ Theo quy trình, thủ tục nhất định. Để đảm bảo tính khách quan trong hoạt
động áp dụng pháp luật các thủ tục được pháp luật quy định cụ thể và chặt chẽ,
nếu cơ quan có thẩm quyền thực hiện sai, tuỳ tiện bị xác định vi phạm thủ tục
(thủ tục giải quyết vụ án dân sự trong Bộ luật tố tụng dân sự, thủ tục giải quyết
vụ án hình sự trong Bộ luật tố tụng hình sự). 36
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
+ Theo cách thức, hình thức nhất định : hình thức của họat động áp dụng
pháp luật là văn bản áp dụng pháp luật
Mang tính cá biệt, cụ thể :
+ Có chủ thể xác định
+ Nội dung hoạt động cụ thể
Có tính sáng tạo : Pháp luật là những quy tắc xử sự chung không thể chỉ ra
từng trường hợp cụ thể, do vậy khi áp dụng pháp luật, các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, người có thẩm quyền phải nghiên cứu kỹ lưỡng vụ việc, làm sáng tỏ
cấu thành pháp lý của nó để từ đó lựa chọn quy phạm, ra văn bản áp dụng pháp
luật và tổ chức thi hành.
c. Các trường hợp cần áp dụng pháp luật :
Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước đối với các chủ thể
có hành vi vi phạm pháp luật.
Khi các quyền và nghĩa vụ của chủ thể không thể mặc nhiên phát sinh, thay
đổi, chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước
Khi có tranh chấp mà các chủ thể không thể tự giải quyết được và yêu cầu nhà nước can thiệp
Khi Nhà nước thấy cần tham gia để kiểm tra, giám sát các bên trong quan
hệ pháp luật hoặc để xác nhận sự tồn tại hay không của một sự kiện thực tế nào đó.
Chẳng hạn toà án tuyên bố mất tích, tuyên dố chết đối với một người; tuyên bố
không công nhận vợ chồng đối với nam nữ sống chung với nhau không có đăng ký
kết hôn hoặc đăng ký kết hôn tại cơ quan không có thẩm quyền.
6.3.3.Văn bản áp dụng pháp luật
- Hình thức thể hiện chủ yếu của hoạt động áp dụng pháp luật là văn bản áp dụng
pháp luật. Văn bản áp dụng pháp luật là văn bản pháp lý cá biệt, mang tính quyền lực do
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các tổ chức xã hội được nhà
nước uỷ quyền ban hành trên cơ sở những quy phạm pháp luật, nhằm xác định các quyền
và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể cụ thể hoặc xác định những biện pháp trách nhiệm
pháp lý đối với chủ thể vi phạm pháp luật
- Văn bản pháp luật có các đặc điểm sau :
+ Một là, văn bản áp dụng pháp luật do những cơ quan (nhà chức trách, tổ chức) có
thẩm quyền ban hành và được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.
+ Hai là, văn bản áp dụng pháp luật có tính chất cá biệt, chỉ áp dụng một lần đối với
các cá nhân, tổ chức cụ thể trong những trường hợp xác định.
+ Ba là, văn bản áp dụng pháp luật phải hợp pháp và phù hợp với thực tế. Nó phải
phù hợp với luật và dựa trên những quy phạm pháp luật cụ thể, nếu không phù hợp thì
văn bản áp dụng pháp luật sẽ bị đình chỉ hoặc hủy bỏ. 37
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com) lOMoARcPSD|35919223
+ Bốn là, văn bản áp dụng pháp luật được thể hiện trong những hình thức pháp lý
xác định như: bản án, quyết định, lệnh,...
+ Năm là, văn bản áp dụng pháp luật là một yếu tố của sự kiện pháp lý phức tạp,
thiếu nó nhiều quy phạm pháp luật không thể thực hiện được. 38
Downloaded by V?n Lê Ti?n (vanlehcp1152001@gmail.com)