Bài giảng Triết học về Tồn tại xã hội | Đại học Sư phạm Hà Nội

Bài giảng Triết học về Tồn tại xã hội của Đại học Sư phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!

TỒN TẠI XÃ HỘI
DẪN DẮT VÀO BÀI:
Trước khi tìm hiểu nội dung bài học hôm nay nhóm mình có một câu hỏi muốn đặt
ra cho cả lớp: “Theo bạn, đời sống xã hội gồm mấy lĩnh vực? Đó là những lĩnh vực
nào?” (Gọi trả lời). Trước khi chúng mình đưa ra đáp án cho câu hỏi, chúng mình
muốn nghe ý kiến của mọi người rằng: chúng ta bắt gặp rất nhiều “đời sống” như
là: đời sống văn hóa, đời sống pháp luật, đời sống văn học, đời sống nghệ thuật,
đời sống chính trị, đời sống tôn giáo; đời sống sản xuất; đời sống sinh hoạt; v.v.
Vậy thì đó phải những lĩnh vực khác ngoài 2 lĩnh vực (bạn trả lời) đã nêu
trên không ?
Nếu các bạn trả lời là Có (hoặc không) thì Thật ra thì (Đúng vậy):
+Đời sống văn hóa, đời sống pháp luật, đời sống văn học, đời sống nghệ thuật, đời
sống chính trị, đời sống tôn giáo (tâm linh), đời sống đạo đức….>>tất cả đều thuộc
vào lĩnh vực tinh thần.
+Đời sống sản xuất, đời sống sinh hoạt,…>>thuộc vào lĩnh vực vật chất.
Như vậy câu trả lời của nhóm mình chính là: đời sống xã hội gồm hai lĩnh vực. Đó
là lĩnh vực vật chất và lĩnh vực tinh thần.
đi sâu tìm hiểu vào lĩnh vực vật chất chính yếu tố tồn tại hội chúng ta
sẽ tìm hiểu trong bài thuyết trình của nhóm ngày hôm nay. Bài thuyết trình gồm hai
phần : Khái niệm tồn tại xã hội và những yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội.
Trước hết là tìm hiểu về KHÁI NIỆM tồn tại xã hội
- Tồn tại xã hội một phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ sinh hoạt vật chất
những điều kiện sinh hoạt vật chất của hội trong những giai đoạn lịch sử nhất
định.
VD:
Trong điều kiện địa tự nhiên nhiệt đới, gió mùa, nhiều sông ngòi,... tất yếu làm
hình thành nên phương thức canh tác lúa nước là thích hợp nhất đối với người Việt
Nam trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm qua. Để tiến hành được phương
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
thức đó, người Việt buộc phải co cụm lại thành tổ chức dân làng, xã, tính ổn
định bền vững,...
phương Tây, bao gồm toàn bộ châu Âu, do điều kiện khí hậu lạnh khô, địa hình
chủ yếu thảo nguyên, xứ sở của những đồng cỏ, thích hợp chăn nuôi hình thành
phương thức sản xuất truyền thống của dân phương Tây cổ xưa vàvăn hóa gốc
du mục.
- (Giải thích)
+ Khi đề cập đến tồn tại xã hộiđề cập tới đời sống vật chất. Nói tới đời sống vật
chất của hội trước hết chính hoạt động sống của con người trong sản xuất
tiểu dùng của cải của vật chất của xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu cho con người.
Như vậy trước hết phải nói tới hoạt động sản xuất vật chất của con người (là
những hoạt động ăn, mặc, ở, đi lại,…) tiêu dùng các của cải vật chất người
ta đã sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cho con người.
Chúng ta dã được tìm hiểu phần này qua bài sản xuất vật chất và vai trò của sản
xuất vật chất. Mác đã nói rằng: Người ta có thể làm khoa học, làm nghệ thuật, làm
tôn giáo và làm nhiều cái khác nhưng trước hết người ta phải thỏa mãn được những
nhu cầu vật chất tối thiểu (ăn, mặc, ở, đi lại,..). Và ta cũng biết được rằng sản xuất
hội 3 loại hình bản: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần sản xuất ra
chính bản thân con người. Trong đó sản xuất vật chất đóng vai trò quyết định, quan
trọng nhất.
+ Tồn tạihội là quá trình tái sinhkhông ngừng mở rộng các quan hệ vật chất
của con người. Gồm hai quan hệ chính
Thứ nhất quan hệ giữa con người với tự nhiên. Thiên nhiên không thể đáp ứng
hết tất cả các nhu cầu phong phú của con người nên con người luôn luôn phải
chinh phục tự nhiên. Cách con người nhận thức cải tạo tự nhiên ở mỗi giai đoạn
lịch sử khác nhau. Mối quan hệ giữa con người tự nhiên thực chất chính
LLSX
Thứ hai là quan hệ giữa con người với con người, là quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất, quan hệ về tổ chức quản quan hệ phân phối sản phẩm. Đó chính quan
hệ sản xuất hay nói cách khác là quan hệ kinh tế - vật chất.
DẪN DẮT SANG CÁC YÊU TỐ CƠ BẢN CỦA TỒN TẠI XÃ HỘI
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
Sau khi dã tìm hiểu được tồn tại xã hội là gì vậy thì các bạn có biết các xã hội trong
lịch sử muốn tồn tại và phát triển thì cần phải làm gì ?
(Trả lời): Các hội trong lịch sử muốn tồn tại phát triển thì cần phải lao động
sản xuất để làm ra của cải vật chất nuôi sống hội. Muốn lao động sản xuất,
hội cần phải một số người nhất định (dân số) thì mới nguồn lực lao động,
con người phải gắn với môi trường tự nhiên, tác động vào tự nhiên để tạo ra của
cải vật chất. Trong quá trình sản xuất ấy bao giờ con người cũng phải tiến hành
theo một cách thức nào đó (phương thức sản xuất vật chất). Như vậy, môi trường
tự nhiên, dân số PTSX vật chất chính 3 yếu tố không thể thiếu của tồn tại
hội
CÁC YẾU TỐ CƠ BẢN CỦA TỒN TẠI XÃ HỘI
a, Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên bao gồm:
· Những điều kiện địa lí tự nhiên: đất đai, rừng núi, sông ngòi, khí hậu,...
· Của cải trong thiên nhiên: tài nguyên, khoáng sản, thú rừng, hải sản,...
· Những nguồn năng lượng tự nhiên: sức gió, sức nước, ánh sáng mặt trời,...
(Vai trò): Môi trường tự nhiên điều kiện sinh sống tất yếu thường xuyên
của sự tồn tại và phát triển xã hội.
Nó có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây ra những khó khăn cho quá trình sản
xuất của con người .Thật vậy những nơi có môi trường tự nhiên đa dạng phong phú
thì nơi đó con người gặp thuận lợi trong việc phát triển kinh tế nâng cao đời
sống .Ngược lại ,ở những nơi hoàn cảnh địa khắc nghiệt thì chẳng những nơi đó
khó phát triển ngành nghề phân công lao động hội ,mà hao phí trong quá trình
sản xuất cũng tăng lên.
VD: Ở miền Trung Bộ Việt Nam:
Mùa mưa lũ: lượng mưa chiếm 68 - 75% lượng mưa trong năm, cùng với điều kiện
địa hình hiểm trở nên thường phát sinh lụt lớn, gây thiệt hại đến sản xuất, tài
sản, tính mạng con người, tác động tiêu cực tới môi trường sinh thái.
(Video về đợt lũ ở miền Trung tháng 10/2021)
Mùa ít mưa: nước không đủ cung cấp cho sinh thái sản xuất của một số địa
phương trong vùng.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
=> Như vậy, môi trường tự nhiên ảnh hưởng quan trọng đến đời sống của
con người sự tiến bộ của hội ,nhưng mức ảnh hưởng của đến đâu lại phụ
thuộc vào trình độ văn hóa ,khoa học thuật của con người ,tùy thuộc vào tính
chất của các chế độ xã hội
Sự tác động trở lại của con người vào tự nhiên thể làm cho tự nhiên biến
đổi theo hai hướng
+ Nếu con người tác động vào tự nhiên 1 cách hợp =>sẽ làm cho tự nhiên ngày
càng phong phú
+ Ngược lại ,nếu con người chỉ biết khai thác 1 cách tùy tiện ,không biết cải tạo thế
giới tự nhiên =>sẽ làm chongày 1 nghèo nàn ,cạn kiệt ,sự cân bằng sinh thái bị
phá vỡ gây hiểm họa cho cuộc sống của con người
Câu hỏi: Trên thế giới những nước rất khan hiếm tài nguyên, khoáng sản
nhưng lại có nền kinh tế phát triển, theo bạn tại sao?
Khách quan nhìn nhận, do những nước khan hiếm tài nguyên, khoáng sản lại
sở hữu nền kinh tế vượt bậc, là bởi: “Con người là nhân tố ảnh hưởng đến sự phát
triển đất nước”.
Thực tế đã chứng minh cho chúng ta thấy: Nhật Bản từ một quốc gia đông
dân, nền kinh tế bị tàn phá trong Chiến tranh thế giới thứ 2, lại nghèo nàn về tài
nguyên phải thường xuyên phải hứng chịu thảm họa thiên nhiên; thế nhưng 30
năm sau, đất nước ấy đã thành công viết nên câu chuyện “Thần Nhật Bản” bằng
“tinh thần Bushido”. Bởi vậy, với mệnh danh “Đất nước mặt trời mọc”, năm 2019,
Nhật Bản được đánh giá là nền kinh tế lớn thứ 3 trên thế giới với GDP ước tính đạt
5.154 tỷ USD. Và còn rất rất nhiều thành tựu đáng ngưỡng mộ của “Xứ sở hoa anh
đào” đã đạt được nhờ nhân tố con người tự lực tự cường.
b, Dân số
- (Khái niệm)Dân số tập hợp của những con người đang sống một vùng
địa hoặc một không gian nhất định, là nguồn lao động quý báu cho sự phát
triển kinh tế hội, thường được đo bằng cuộc điều tra dân số biểu hiện
bằng tháp dân số.
- (Các phương diện bản của dân số)Dân số gồm ba phương diện bản, phổ
biến nhất là quy mô dân số, phân bố dân số và cơ cấu dân số. Trong đó quy mô dân
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
số tổng số dân sinh sống (cư trú) trong những vùng lãnh thổ nhất định vào
những thời điểm xác định. Phân bố dân số sự sắp xếp số dân trên một vùng lãnh
thổ phù hợp với điều kiện sống của người dân với các yêu cầu nhất định của
hội. Còn cấu dân được chia làm hai nhóm chính cấu dân số theo giới:
biểu thị tương quan giữa giới nam so với giới nữ hoặc so với tổng số dân và cơ cấu
dân số theo độ tuổi: từ 0-14t, 15-59t từ 60t trở lên, qua đó cho chúng ta biết
được rằng quốc gia đó đang trong giai đoạn cấu dân số trẻ, hay cấu dân số
già.
- (Vai trò) Dân số điều kiện tất yếu thường xuyên của sự tồn tại phát triển
của hội. Dân số góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các quốc
gia nhất là trong độ tuổi lao động, bên cạnh đó người dân còn có vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ đất nước nhất là bảo vệ chủ quyền trên đất liền cũng như hải đảo.
Dân số tốc độ phát triển dân số của mỗi nước ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển mọi mặt của nước đó. những nước điều kiện tự nhiên tương tự nhau
nhưng số lượng và chất lượng dân số khác nhau sẽảnh hưởng khác nhau đến sự
phát triển của xã hội.
Câu hỏi: Theo bạn phải những nước đông dân số, hội sẽ phát triển cao
ngược lại hay không? Tại sao?
Không hoàn toàn đúng. Bởi vì, con người tuy đóng vai trò quan trọng, vượt trội
hơn các yếu tố khác vì con người là mục tiêu và động lực của phát triển nhưng con
người không phải là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội mà để
hội phát triển cần nhiều yếu tố khác như: sự sẵn của liệu sản xuất, khả năng
tiếp cận giáo dục dịch vụ y tế, thiết chế truyền thống quản trị địa phương,....
Muốn được sự phát triển thì phải đảm bảo kết hợp được tất cả các yếu tố một
cách phù hợp. Trái lại, nếu như dân số đông đi kèm với sự phát triển giáo dục trí
tuệ và cải thiện được năng suất lao động thì nó cũng sẽ thúc đẩy xã hội phát triển
VD: + Cộng hòa nhân dân Congo với số dân hơn 90 triệu người (đứng thứ 16 thế
giới) nhưng kinh tế lại nằm trong số nghèo nhất thế giới.
+ Ngược lại, Trung Quốc với số dân đông nhất thế giới thì hiện nay đã vươn
lên với vị trí đứng đầu cả về kinh tế.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
DẪN DẮT SANG PHẦN PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT VẬT CHẤT
Như vậy, tuy môi trường tự nhiên dân cư đềunhững điều kiện tất yếu của tồn
tại hội nhưng không phải nhân tố quyết định sự tồn tại phát triển của
hội. chỉ còn lại một yếu tố cuối cùng cấu thành nên tồn tại hội chính
phương thức sản xuất vật chất – cũng chính là yếu tố cơ bản nhất, chi phối các yếu
tố còn lại và quyết định sự tồn tại của xã hội
c, Phương thức sản xuất vật chất
- (Khái lược lại về PTSX)
(Khái niệm)Như đã được học, PTSX cách thức con người tiến hành quá trình
sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
(Cấu trúc) Phương thức sản xuất sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với
một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
Con người tác động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất quan hệ này được biểu
hiện lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động liệu
sản xuất. Trong đó người lao động là yếu tố quan trọng của llsx ở đó được nói đến
sức lao động, tay nghề, năng, trình độ. Và liệu sản xuất thì bao gồm 2 yếu
tố là tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong đó tư liệu lao động bao gồm có
công cụ lao động (như công cụ, máy móc, hệ thống bình chứa.,…) và phương tiện
lao động (kết cấu hạ tầng giao thông, cầu đường, trạm xá,…). Đối tượng lao động
các yếu tố sẵn trong tự nhiên (đất trồng, quặng kim loại, than,..). đây ta
thấy được sự thống nhất giữa người sản xuất liệu sản xuất để tạo ra của cải
vật chất ấy.
Đồng thời con người cũng phải kết hợp với nhau để hoạt động chung trao đổi
hoạt động với nhau biểu hiện quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất quan hệ
giữa người với người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, bao gồm các
quan hệ sở hữu, quản lí và phân phối.
Mác gọi đây mối quan hệ “song trùng”: mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên, quan hệ giữa con người với con người luôn tồn tại gắn với nhau tạo
thành PTSX. Trong phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất mặt luôn phát
triển, quan hệ sản xuất thay đổi chậm hơn. Mâu thuẫn xẩy ra khi lực lượng sản
xuất phát triển quan hệ sản xuất không còn phù hợp với nó. Để giải quyết
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
mâu thuẫn sự chấm dứt phương thức sản xuất đã lỗi thời thay thế bằng
phương thức sản xuất mới, phương thức sản xuất mới ra đời khi quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất
Mời các bạn xem đồ nhóm em đãf tóm tắt mối quan hệ các giữa
lực lượng sản xuất và qua hệ sản xuất trong PTSX:
- Tại sao lại nói rằng PTSX là yếu tố cơ bản, quyết định nhất ?
+ Thứ nhất, trong các yếu tố của tồn tại hội thì PTSX vật chất yêu tố quyết
định, chi phối các yếu tố còn lại.
các yếu tố tự nhiên điều kiện dân đều những yếu tố tiền đề cho việc
xác lập một PTSX nhất định, đồng thời những yếu tố đó cũng biến đổi theo yêu
cầu khách quan của sự vận động, phát triển của các PTSX trong lịch sử.
Khi PTSX có sự phát triển nhờ những tiến bộ về thuật, công nghệ sản xuất; tất
yếu s dẫn tới biến đổi trong việc sử dụng nguồn lực tự nhiên cả sự biến đổi
trong cơ cấu phân bố dân cư để đảm bảo quá trình xác lập PTSX mới.
VD: Xuất phát từ tính chất đặc thù về điều kiện tự nhiên của đất nước, người Việt
Nam trong lịch sử đã tiến hành quá trình sản xuất theo phương thức canh nông lúa
nước. Để tiến hành quá trình đó nhất định con người phải liên kết lại dưới hình
thức tổ chức lao động gia đình tổ chức dân theo nh làng ổn định,
bền vững. Sự kết hợp giữa ba yếu tố cơ bản đó tạo thành điều kiện khách quan cho
sự sinh tồn phát triển của người Việt Nam. Đó cũng chính sở hiện thực
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
quy định những nội dung tính chất bản nhất trong đời sống tinh thần, truyền
thống của người Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình công nghệ hóa, hiện đại hóa trong
sản xuất nông nghiệp hiện nay tất yếu dẫn tới sự biến đổi trong việc sử dụng các
nguồn lực tự nhiên truyền thống và làm thay đổi cấu trúc nông thôn Việt Nam sang
một hình thức mới, trênsở đó dẫn tới sự biến đổi, phát triển đời sống văn hóa
tinh thần của nông thôn mới và con người mới.
+ Thứ hai, PTSX vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội
Trong mỗi hội, phương thức sản xuất thống trị như thế nào thì tính chất của
chế độ hội như thế ấy; kết cấu giai cấp tính chất của các mối quan hệ giữa
các giai cấp, cũng như các quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học
v.v.., đều do phương thức sản xuất quyết định.
Phương thức sản xuất quyết định sự chuyển biến của hội loài người qua các
giai đoạn lịch sử. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, thay thế phương thức
sản xuất cũ đã lỗi thời thì mọi mặt của đời sống xã hội cũng có sự thay đổi căn bản
từ kết cấu kinh tế đến kết cấu giai cấp, từ các quan điểm tư tưởng xã hội đến các tổ
chức hội. Lịch sử hội loài người đã biết đến năm phương thức sản xuất kế
tiếp nhau từ thấp lên cao, tương ứng với nónăm xã hội cụ thể: cộng sản nguyên
thuỷ, lệ, phong kiến, bản chủ nghĩa cộng sản chủ nghĩa (mà chủ nghĩa
hội giai đoạn thấp). Do đó, lịch sử hội loài người trước hết lịch sử của sản
xuất, lịch sử của các phương sản xuất kế tiếp nhau trong quá trình phát triển.
Phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản và trực tiếp quy định sự sinh tồn, phát triển
của mỗi con người cũng như của toàn bộ cộng đồng hội, quy định trực tiếp
phương thức hoạt động vật chất của mỗi xã hội. Phương thức sản xuất nào cũng
hai phương diện, đó mặt vật chất thuật của quá trình sản xuất (biểu hiện tập
trung ở trình độ phát triển phương thức kĩ thuật, công nghệ) và mặt kinh tế - xã hội
của quá trình ấy (thể hiện tiêu biểu trình độ phát triển của phương thức tổ chức
kinh tế). Trong hai mặt đó, mặt kinh tế -hội phụ thuộc tất yếu vào trình độ phát
triển của mặt vật chất thuật; trực tiếp quy định tính chất trình độ phát
triển của một tồn tại xã hội nhất định.
như: Từ một đảo quốc hầu như không tài nguyên thiên nhiên, nguồn
nguyên liệu đều phải nhập từ bên ngoài, Singapore đã bước phát triển ngoạn
mục trong hơn 50 năm qua, trở thành một trong những quốc giaGDP bình quân
đầu người cao nhất thế giới. Sự phát triển của Singapore kết quả của chính sách
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
xây dựng nền kinh tế tri thức, sử dụng kiến thức để tạo ra hàng hóa dịch vụ với
phần lớn lao động kỹ năng. từ đấy, những phương thức sản xuất hiện đại
được áp dụng để đem lại bước tiến mới cho nhiều ngành kinh tế (từ nông nghiệp
đến dịch vụ thương mại,…), đi kèm theo chính sách cải cách hệ thống giáo dục.
Chính thế, các yếu tố tự nhiên bị hạn chế, nhưng nền kinh tế vẫn những
bước phát triển nhảy vọt, còn bởi: những phương thức sản xuất vật chất tân tiến,
hợp lí, kết hợp với nền tri thức hiện đại của con người.
(HAI KHẲNG ĐỊNH CỦA MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN)
Thật vậy, trong Lời tựa cuốn “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị” C. Mác
viết: Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt
hội, chính trị tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết
định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”.
Với khẳng định này C. Mác đã khắc phục triệt để chủ nghĩa duy tâm, xây
dựng quan điểm duy vật lịch sử về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội ý thức
hội, về vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội.
Tương tự như vậy, trong “ Hệ tư tưởng Đức, C. Mác và Ph Awngghen đã đi đến kết
luận rằng, toàn bộ gốc rễ của sự phát triển hội loài người, kể cả ý thức con
người, đều nằm trong và bị quy định bởi sự phát triển của các điều kiện kinh tế-
hội, nghĩa không pharii ý thức quyết định đời sống chính đời sống quyết
định ý thức”, do đó ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội,vẫn là như
vậy chừng nào con người còn tồn tại”.
Đây chính điểm cốt lõi của nguyên tồn tại hội quyết định ý thức
hội.
Tồn tại hội không chỉ quyết định sự hình thành của ý thức hội còn quyết
định cả nội dung hình thức biểu hiện của nó. Mỗi yếu tố của tồn tại hội
thể được các hình thái ý thức hội khác nhau phản ánh từ các góc độ khác nhau
theo những cách thức khác nhau. Tuy nhiên, đến lượt mình, các hình thái ý thức
này cũng sẽ tác động, ảnh hưởng ngược trở lại tồn tại hội. Đó chính tính độc
lập tương đối của ý thức hội. mối quan hệ biện chứng này sẽ được làm
hơn ở những bài học sau.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
Ý THỨC XÃ HỘI
I. KHÁI NIỆM
-Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội bao gồm những tư tưởng,
quan điểm, tình cảm, tâm trạng, thói quen, truyền thống … nảy sinh từ tồn tại xã
hội và phản ánh tồn tại xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định.
(Ta cần thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân)
-Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của những con người riêng biệt, cụ thể. Ý thức
của các cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với những mức độ khác nhau do đó nó
hiển nhiên là mang tính xã hội. Song ý thức cá nhân không phải bao giờ cũng thể
hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm phổ biến của một cộng đồng, một tập đoàn xã
hội, một thời đại xã hội nhất định.
Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với
nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú cho nhau. (Ý thức xã hội gồm những
hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những hình thái khác nhau phản ánh tồn tại
xã hội bằng những phương thức khác nhau.
VD: - Ý thức xã hội: Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam
- Ý thức nhân: Sự gần gũi gắn bó, lòng yêu quê hương, đất nước của mỗi
cá nhân, công dân Việt
=> Mối quan hệ hữu cơ, biện chứng giữa Ý thứcnhân và Ý thức xã hội
thuộc về hai trình độ khác nhau
II. KẾT CẤU CỦA Ý THỨC XÃ HỘI
(Tùy theo góc độ xem xét ta có thể phân loại ý thức xã hội thành các loại sau đây)
1.Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận
*Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của con người
hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ
thống hóa, khái quát hóa.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
VD:Thời xa xưa khi chưa có những kĩ thuật, công cụ quan sát thiên văn, khí tượng,
dân gian đúc kết một số câu ca dao về thời tiết dựa trên sự quan sát thực tiễn như:
1.Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm.
2.Sao dày thì mưa, sao thưa thì nắng.
3.Ráng mỡ gà, có nhà thì giữ.
Câu tục ngữ
Œ
t kinh nghiê
Œ
m quý báu về dự báo thời tiết. Ráng mỡ ráng
vàng tươi óng ánh. ráng mỡ xuất hiê
Œ
n trên bầu trời, nhân dân ta biết trời
sắp nói gió to, sắp bão, cần phải chuẩn bị giữ gìn, chằng buô
Œ
c, chống đỡ, nhất
nhà gianh vách.
*Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hóa, khái quát hóa
thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái nieemj, phạm
trù, quy luật,...
(Ý thức xã hội thông thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt cuộc sống
hàng ngày, thường xuyên chi phối cuộc sống đó. Trình độ ý thức thông thường tuy
thấp hơn ý thức lý luận nhưng tri thức kinh nghiệm phong phú của nó là tiền đề
quan trọng trong việc hình thành các lý thuyết khoa học. Ý thức lý luận lý luận
khoa học có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc
và chính xác vạch ra mối liên hệ bản chất của các sự vật và hiện tượng.)
VD: Khi nghiên cứu về một số quy luật trong sinh thái học, có một quy luật là quy
luật tác động qua lại giữa sinh vật và môi trường Trong mối quan hệ tương hỗ giữa
quần thể, quần xã sinh vật với môi trường, không những các yếu tố sinh thái của
môi trường tác động lên chúng, mà các sinh vật cũng có ảnh hưởng đến các yếu tố
sinh thái của môi trường và có thể làm thay đổi tính chất của các yếu tố sinh thái
đó.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
2.Tâm lý xã hội
a.Khái niệm:
-Tâm lý xã hội là khái niệm chỉ toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập
quán...của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội hình thành dưới
ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó.
VD: Tâm trạng hân hoan của học sinh khi được trở lại trường sau dịch, phong tục
ăn trầu của người Việt Nam, thói quen tập thể dục buổi sáng ,v.v...
b.Đặc điểm của tâm lý xã hội
*Phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sống hàng ngày của con người
*Là sự phản ánh có tính tự phát, thường ghi lại những mặt bề ngoài của tồn tại xã
hội
*Không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan hệ xã
hội của con người
*Còn mang tính kinh nghiệm, chưa được thể hiện về mặt lý luận, còn yếu tố trí tuệ
thì đan xen với yếu tố tình cảm
(Tuy nhiên không thể phủ nhận vai trò quan trọng của tâm lý xã hội trong sự phát
triển của ý thức xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin rất coi trọng
nghiên cứu trạng thái tâm lý xã hội của nhân dân để hiểu nhân dân, giáo dục nhân
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
dân, đưa nhân dân tham gia tích cực, tự giác vào cuộc đấu tranh cho một xã hội tốt
đẹp hơn.)
3.Hệ tư tưởng
a.Khái niệm:
-Hệ tư tưởng là khái niệm chỉ trình độ cao ý thức xã hội, được hình thành khi con
người nhận thức sâu sắc về những điều kiện sinh hoạt vật chất của mình.
Ví dụ : hệ tư tưởng phong kiến, hệ tư tưởng chính trị, hệ tư tưởng giai cấp,…
b.Đặc điểm của hệ tư tưởng
-Được hình thành khi con người nhận thức sâu sắc về sự vật, hiện tượng
-Có khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ xã hội
-Được hình thành tự giác bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp nhất định và
truyền bá trong xã hội
-Hệ tư tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan điểm,
tư tưởng, kết quả sự khái quát hóa những kinh nghiệm xã hội.
c.Cần phân biệt hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa học, thậm chí
phản động.
(Hệ tư tưởng không khoa học tuy cũng phản ánh những mối vật chất của xã hội
nhưng dưới một hình thức sai lầm, hư ảo, xuyên tạc với tính cách là một bộ phận
của ý thức xã hội) Hệ tư tưởng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của khoa học.
dụ: Hệ tưởng Mác - Lenin không trực tiếp ra đời từ tâm hội của giai
đoạn giai cấp công nhân lúc đó đang tự phát đấu tranh chống giai cấpsản, mà là
từ các tri thức của nhân loại, từ những kinh nghiệm của cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân,kế thừa trực tiếp của học tập kinh tế,hội tri thức học vào cuối
thể kỷ 18, đầu thế kỷ 19, hệ tưởng này đã phản ánh các mối quan hệ, các quá
trình, hiện tượng hội một cách khách quan, chính xác. Cũng do đó Đảng
nhà nước ta đã coi hệ tư tưởng này là kim chỉ nam cho mọi hành động các mạng.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
(Các khoa học tự nhiên đã cho thấy tác dụng quan trọng của hệ tư tưởng đặc biệt là
hệ tư tưởng triết học đối với quá trình khái quát những tài liệu khoa học)
dụ: Hệ tưởng phong kiến. Cũng như nhiều nước khác, giai cấp phong kiến
Việt Nam giai cấp đã giữ vai trò thống trị hội hàng bao nhiêu thế kỷ. Hệ
tưởng chính thống của Nho giáo, du nhập từ Trung Quốc sang, cùng với lực
lượng xâm lược từ phương Bắc tới. Tuy một học thuyết triết học - chính trị
nhưng nó được xem như một thứ tôn giáo và mang cái tên là Nho giáo. Chính vì hệ
tư tưởng này cổ hủ, lạc hậu này đã kìm hãm sự phát triển của nước ta về nhiều mặt
ở thời kì đó.
4.Mối quan hệ giữa tâm lí xã hội và hệ tư tưởng
-(Tuy là 2 trình độ 2 phương thức phản ánh khác nhau của ý thức xã hội
nhưng)Tâm lý xẫ hội và hệ tư tưởng có mối liên hệ tác động qua lại với nhau.
Chúng có chung nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội.
-Tâm lý xã hội có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc cản trở cho sự hình thành, truyền
bá, sự tiếp thu của con người đối với một hệ tư tưởng nhất định.
-(Mối liên hệ chặt chẽ giữa tư tưởng đặc biệt là hệ tư tưởng khoa học tiến bộ với
tâm lý xã hội, với thực tiễn cuộc sống hết sức sinh động và phong phú sẽ giúp cho
hệ tư tưởng xã hội cho lý luận bớt sơ cứng, bớt sai lầm) Trái lại, hệ tư tưởng, lý
luận xã hội làm gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã hội. (Hệ tư tưởng khoa học
thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng đúng đắn, lành mạnh, có lợi cho
tiến bộ xã hội.)
-(Hệ tư tưởng phản động, kích động những yếu tố tiêu cực của tâm lý xã hội) Tuy
nhiên hệ tư tưởng không ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hôi, không phải là s biểu
hiện trực tiếp của tâm lý xã hội.
-(Không phải sự biểu hiện trục tiếp của tâm lý xã hội) Bất kỳ tư tưởng nào khi
phản ánh các mối quan hệ đương thời thì đồng thời cũng kế thừa những học thuyết
xã hội, những tư tưởng và quan điểm đã tồn tại trước đó.
Ví dụ: Hệ tư tưởng Mác – Lênin không trực tiếp ra đời từ tâm lý xã hội của giai
cấp công nhân lúc đó đang tự phát đấu tranh chống giai cấp tư sản, mà là sự khái
quát lý luận từ tổng số những tri thức của nhân loại, từ những kinh nghiệm của
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, và kế thừa trực tiếp các học thuyết kinh tế,
xã hội và triết học vào cuối thể kỷ 18, đầu thế kỷ 19
Như vậy, hệ tưởng liên hệ hữu cơ với tâm lý xã hội, chịu sự tác động của tâm lý
xã hội, nhưng nó không phải đơn giản là sự “cô đặc” của tâm lý xã hội.
III. TÍNH GIAI CẤP CỦA Ý THỨC XÃ HỘI
- Trong xã hội, các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất khác nhau,
những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội mỗi giai cấp quy định. Vì vậy ý thức xã
hội của các giai cấp có nội dung và hình thức phát triển khác nhau hoặc đối lập
nhau.
- Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội, cũng như (là) ở hệ tư
tưởng xã hội.
- Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp
thống trị về kinh tế và chính trị ở thời đại đó.
- (Theo) chủ nghĩa Mác – Lênin, là hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của giai
cấp công nhân, ngọn cờ giải phóng của quần chúng bị áp bức, bóc lột.
- Hiện nay các thế lực thù địch đang không ngừng tấn công vào chủ nghĩa Mác –
Lênin, muốn phủ nhận, xóa bỏ nó.
- Do vậy, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện thế giới ngày
nay là một nhiệm vụ quan trọng của cuộc đấu tranh vì mục tiêu độc lập, dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng, ý thức của các giai cấp trong xã hội có sự tác
động qua lại với nhau.
- Giai cấp bị trị chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị. Tuy nhiên (lại) có
tác động ngược trở lại.
< Dẫn: Sau đây là ví dụ: …. >
VD: Ví dụ 1. Trong xã hội phong kiến
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
+Giai cấp địa chủ giai cấp thống trị nên điều kiện vật chất tốt, giàu có,chiếm
đoạt nhiều ruộng đất, có quyền lực, sống sang trọng, ngại lao động chân tay.
+Giai cấp nông dân giai cấp bị trị, bị mất ruộng đất trở nên nghèo túng, sống
chân chất,làm thuê ruộng của địa chủ , yêu lao động.
>>> Giai cấp nông dân hoàn toàn chịu ảnh hưởng của thế lực thống trị
dụ 2. Trong hội bản chủ nghĩa,giai cấp sản giai cấp sản do khác
nhau về vị trí,vai trò trong hệ thống sản xuất hội,dẫn đến đối lập nhau về địa vị
trong chế độ kinh tế-xã hội trở thành hai giai cấp thống trị-bị trị.
Ví dụ 3.
Trong hội TBCN, cuộc đấu tranh của giai cấp sản (công nhân) - giai cấp bị
trị giai cấp sản - giai cấp thống trị dâng cao. Trong hoàn cảnh đó, Mác
Ănghen những người xuất thân từ tầng lớp trên nhưng nhờ tưởng tiến bộ, hai
ông đã hiểu sâu sắc cuộc sống khốn khổ của giai cấp công nhân nhân dân lao
động nên hai ông đã quyết định đứng trên lợi ích của giai cấp công nhân, xây dựng
hệ thống luận để cung cấp cho giai cấp công nhân : 1 công cụ sắc bén để nhận
thức và cải tạo thế giới đưa họ thoát khỏi sự áp bức bất công.
- Trong xã hội có phân chia giai cấp thì ý thức cá nhân về bản chất, là biểu hiện
mức độ này hay mức độ khác ý thức giai cấp.
- Tuy nhiên, nếu quá nhấn mạnh điều kiện sinh hoạt của cá nhân, sẽ dẫn tới hiểu sai
bản chất của ý thức cá nhân.
- Trong ý thức xã hội, ngoài tâm lý và hệ tư tưởng của xã hội giai cấp, còn bao
gồm tâm lý dân tộc, tình cảm, ước muốn, tập quán, thói quen, tính cách,… của dân
tộc, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tạo thành truyền thống dân tộc.
- Tâm lý dân tộc có mối liên hệ hữu cơ với ý thức giai cấp.
- Giai cấp công nhân được vũ trang bằng hệ tư tưởng Mác – Lênin luôn luôn quan
tâm sâu sắc đến việc bảo vệ và phát triển những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
< Dẫn: Tiếp theo đến phần Hình thái chủ yếu của ý thức xã hội, … >
IV. CÁC HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI
Ý thức hội tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau nhưng những hình thái chủ
yếu của ý thức xã hội bao gồm ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức,
ý thức nghệ thuật (hay còn gọi ý thức thẩm mỹ), ý thức tôn giáo, ý thức ý luận
(hay còn gọi ý thức khoa học) ý thức triết học. Tính phong phú đa dạng của
các hình thái ý thức xã hội phản ánh tính phong phú, đa dạng của bản thân đời sống
hội. Trong các hình thái ý thức hội những hình thái gần với sở kinh tế
của tồn tại xã hội hơn, có những hình thái ý thức xã hội xa cơ sở kinh tế hơn so với
các hình thái ý thức hội khác. vậy các hình thái ý thức chính trị ý thức
pháp quyền gần gũi với cơ sở kinh tế hơn cả.
1. Ý thức chính trị
Đầu tiên hình thái ý thức chính trị. Hình thái ý thức chính trị hình thái ý thức
chỉ xuất hiện tồn tại trong các hội giai cấp nhà nước. phản ánh các
quan hệ chính trị, kinh tế, hội giữa các giai cấp, các dân tộc các quốc gia
cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước. Ý thức chính trị
thực tiễn thông thường hình thành từ trực tiếp từ các hoạt động thực tiễn trong môi
trường chính trị của xã hội. trạng thái tâmxã hội, những cảm xúc và tâm trạng
về chính trị của quần chúng cảm xúc tâm trạng về chính trị của quần chúng
thường thiếu bền vững không ổn định. Song, những trạng thái tâm hội như
vậy lại đóng vai trò to lớn trực tiếp đối với hành vi chính trị của quần chúng
đông đảo. Thông qua đó hệ tưởng chính trị tác động vào đời sống chính trị của
hội. Hệ tưởng của một giai cấp chính trị nhất định phản ánh trực tiếp tập
trung lợi ích giai cấp của giai cấp ấy. Ý thức chính trị được thể hiện trong đường
lối, cương lĩnh chính trị của các chính đảng của các giai cấp khác nhau cũng như
trong luật pháp chính sách nhà nước công cụ của giai cấp thống trị, hệ tưởng
chính trị được hình thành một cách tự giác. được các nhà tưởng của giai cấp
xây dựng truyền bá. Hệ tưởng chính tr gắn với các tổ chức chính trị, thông
qua các tổ chức chính trị một giai cấp nào đó tiến hành cuộc đấu tranh giành ý
thức. Vì lợi ích của giai cấp của mình, ý thức chính trị đặc biệt là hệ tư tưởng chính
trị vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển hội. Thông qua tổ chức nhà
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
nước nó tác động trở lại cơ sở kinh tế và có thể trong những giới hạn nhất định làm
thay đổi sở kinh tế. Hệ tưởng chính trị cũng giữ vai trò chủ đạo trong đời
sống tinh thần của hội, thâm nhập vào các hình thái ý thức hội khác, tác
động tích cực hoặc tiêu cực của hệ tưởng chính trị cũng như ý thức chính trị nói
chung phụ thuộc vào tính tiến bộ, cách mạng hoặc phản tiến bộ, phản cách mạng
của giai cấp mang hệ tư tưởng đó. Khi giai cấp đó tiến bộ, cách mạng tiêu biểu làm
cho xu thế phát triển đi lên của lịch sử thì hệ tưởng chính trị của tác động
tích cực đến sự phát triển xã hội. Khi giai cấp đó trở thành lạc hậu, phản cách động
thì hệ tưởng chính trị của tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của
hội
Ví dụ:
Chủ nghĩa Mác-Lênin tưởng Hồ Chí Minh nền tảng tưởng,
kim chỉ nam hoạt động của Đảng cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa
Mác-Lênin khoa học về các quy luật phát triển của tự nhiên hội,
khoa học về cách mạng của quần chúng bị áp bức bị bóc lột, khoa học
về sự thắng lợi của chủ nghĩa hội chủ nghĩa cộng sản. Đảng ta,
khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm kim chỉ nam cho hành động
nêu cao tuởng Hồ Chí Minh. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác-
Lênin tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột người.
vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội của nhân dân ta tất
nhiên phải lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm kim chỉ nam cho hoạt động của
Đảng cách mạng Việt Nam. tưởng Hồ Chí Minh sự vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh điều kiện cụ thể của nước
ta; cốt lõi sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công
nhân và chủ nghĩa yêu nước của nhân dân ta.
2. Ý thức pháp quyền
Tiếp theo đó ý thức pháp quyền. Ý thức pháp quyền toàn bộ các tưởng,
quan điểm của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa
vụ của nhà nước, các tổ chức hội công dân, về tính hợp pháp không hợp
pháp của hành vi con người trong hội, cùng với nhận thức tình cảm của con
người trong việc thực thi pháp luật của Nhà nước.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
Cũng như ý thức chính trị, ý thức pháp quyền ra đời cùng với nhà nước. Giữa hai
hình thái này có sự gần nhau về cả nội dung và hình thức. Ý thức pháp quyền phản
ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế của xã hội, trước hết là các quan hệ sản xuất được
thể hiện trong hệ thống pháp luật. Pháp luật ý chí của giai cấp thống trị được thể
hiện thành luật lệ do đó Pháp luật ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện
thành luật lệ, do đó mỗi chế độ xã hội, mỗi nhà nước chỉ có một hệ thống pháp luật
của giai cấp nắm chính quyền. Nhưng trong hội các giai cấp đối kháng, các
giai cấp khác nhau lại những ý thức khác nhau về pháp luật, phản ánh lợi ích
của giai cấp mình. Do đó, hiệu lực của pháp luật không những phụ thuộc vào sức
mạnh cưỡng chế của nhà nước còn phụ thuộc vào trình độ hiểu biết tâm
pháp luật của xã hội.
VD:
Việt Nam hiện nay, ý thức pháp quyền của hội ta ý thức pháp
quyền hội chủ nghĩa. Sự thống nhất cao về mặt lợi ích bản giữa giai
cấp công nhân nhân dân lao động đã tạo nên hệ thống pháp luật do Nhà
nước ban hành. Việc thể hiện ý chí của giai cấp công nhân cũng đồng thời
phản ảnh thể hiện lợi ích dân tộc trong công cuộc đối mới tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng hội chủ nghĩa
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
3. Ý thức đạo đức
Thứ 3 ý thức đạo đức. Ý thức đạo đức toàn bộ những quan niệm, tri thức
các trạng thái cảm xúc, tâm chung của các cộng đồng người về các giá tr thiện,
ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng, v.v… và về những quy tắc đánh
giá, những chuẩn mực hành vi cùng cách ứng xử giữa các cá nhân với nhau và giữa
các cá nhân với xã hội.
Ý thức đạo đức một trong các hình thái ý thức ra đời từ rất sớm. Trong lịch sử,
ngay từ xã hội nguyên thủy sự ý thức về lương tâm, danh dự lòng tự trọng phản
ánh khả năng tự chủ của con người là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản
quy định gương mặt đạo đức của con người, cũng biểu hiện bản chất của con
người.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
Từ ý nghĩa đó, sự phát triển đạo đức nhân tố biểu hiện tiến bộ hội. Trong ý
thức đạo đức, yếu tố tình cảm đạo đức yếu tố đặc biệt quan trọng. Nếu thiếu
thì những khái niệm, phạm trù đạo đức và mọi tri thức đạo đức thu nhận được bằng
con đường tính không thể chuyển hóa thành hành vi đạo đức. Trong tiến trình
phát triển của xã hội đã hình thành những giá trị đạo đức mang tính toàn nhân loại,
tồn tại trong mọihội và ở các hệ thống đạo đức khác nhau. Đó là những quy tắc
ứng xử đơn giản nhằm điều chỉnh hành vi các sinh hoạt thường ngày của con
người trong cộng đồng xã hội.
Tuy nhiên, trong một hội sự phân chia giai cấp thì nội dung chủ yếu của đạo
đức phản ánh quan hệ giai cấp nên nó có tính giai cấp. Trong các phạm trù đạo đức
luôn luôn phản ánh địa vị lợi ích của giai cấp. Mỗi giai cấp trong những giai
đoạn phát triển nhất định của lịch sử hội đều những quan niệm đạo đức của
riêng mình. Giai cấp tiêu biểu cho sự phát triển đi lên của hội thì đại diện cho
một nền đạo đức tiến bộ. Còn các giai cấp phản động thì đại diện cho một đạo đức
suy thoái
Vd: Từ xa xưa, ông cha ta đã đúc rút ra những bài học về đạo đức để răn dạy con
người, thể hiện qua những câu ca dao, tục ngữ như:
+Về đạo làm con:
Cá không ăn muối cá ươn
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.
Công cha nghĩa mẹ ơn thầy,
Ngày sau khôn lớn ơn dày biển sâu.
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
+Về quy tắc ăn nói, giao tiếp, cư xử:
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
Kính trên, nhường dưới
Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành.
Một điều nhịn, chín điều lành
4. Ý thức khoa học
Tiếp đến là phần 4 – Ý thức khoa học. Ý thức khoa học vừa là một hình thái ý thức
hội vừa một hiện tượng hội đặc biệt. Xem xét khoa học như một hình thái
ý thức hội không thể tách rời, xem xét như một hiện tượng hội. Ý thức
khoa học với tính chất một hình thái hội hệ thống phản ánh tri thức chân
thực dưới dạng logic trừu tượng về thế giới đã được kiểm nghiệm thông qua thực
tiễn. Đối tượng phản ánh của ý thức khoa học bao quát mọi lĩnh vực của tự nhiên,
hội duy trong khi các hình thái ý thức hội khác chỉ phản ánh một mặt
một khía cạnh nào đó của đời sống hội thôi. Đó một trong những điểm
khác biệt của ý thức khoa học với các hình thái ý thức hội khác. Khoa học
thể tồn tại dưới dạng hệ thống luận chung nhất hoặc dưới dạng cụ thể các tri
thức chuyên ngành. Hình thức biểu hiện chủ yếu của ý thức khoa học các phạm
trù, định luật, quy luật và là ngôn ngữ chuyên môn hoá, là công cụ của tư duy khoa
học.
Tri thức khoa học thâm nhập vào các hình thái ý thức hội khác, hình thành các
khoa học tương ứng từng hình thái ý thức đó. (ví dụ như ý thức chính trị chính
trị học, ý thức đạo đức và đạo đức học, ý thức nghệ thuật và nghệ thuật học, v.v…).
Nhờ tri thức khoa học con người không ngừng vươn tới cái mới để tạo ra một
thế giới mới ngày càng thể hiện vị thế làm chủ tự nhiên, làm chủ hội
làm chủ bản thân mình.
Xét về đối tượng, khoa học chia thành khoa học tự nhiên – kỹ thuật nghiên cứu các
quy luật của tự nhiên, các phương thức chinh phục cải tạo tự nhiên khoa học
hội nghiên cứu những hiện tượng hội khác nhau, các quy luật vận động, phát
triển của chúng cả bản thân con người như một thực thể hội. Triết học
cũng được coi một khoa học bởi nghiên cứu những quy luật chung nhất của
mọi tồn tại trong tự nhiên, xã hội và tư duy, xây dựng nên phương pháp luận chung
cho việc nghiên cứu tự nhiên, xã hội và tư duy.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
Trong mỗi khoa học có thể phân chia thành các cấp độ kinh nghiệm và lý luận (hay
thuyết). Cấp độ kinh nghiệm những liệu hiện thực đã tích lũy được qua sự
tổng hợp quan sát, thí nghiệm; luận sự khái quát kinh nghiệm thể hiện trong
những thuyết về quy luật nguyên tương ứng. Cấp độ luận của các khoa
học cụ thể kết hợp với nhau trong sự giải thích các nguyên quy luật chung
được phát hiện tầm nghiên cứu triết học, hình thành thế giới quan phương
pháp luận của toàn bộ nhận thức khoa học.
Nguồn gốc sâu xa của khoa học là do nhu cầu phát triển sản xuất. Cùng với sự phát
triển của sản xuất thực tiễn hội, khoa học cũng không ngừng phát triển.
Trong quá trình đó, vai trò của khoa học trong đời sống hội ngày càng tăng lên.
Ngày nay, trong sự tự động hóa sản xuất, tri thức khoa học được kết tinh trong mọi
nhân tố của lực lượng sản xuất - trong đối tượng lao động, kỹ thuật, quá trình công
nghệ cả trong những hình thức tổ chức tương ứng của sản xuất; người lao động
không còn nhân tố thao tác trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật chủ yếu vận
dụng tri thức khoa học để điều khiển quá trình sản xuất; khoa học cho phép hoàn
thiện các phương pháp sản xuất, hoàn thiện việc quản lý kinh tế. Hơn nữa khoa học
còn trở thành một ngành hoạt động sản xuất với quy ngày càng lớn, bao hàm
hàng loạt các viện, phòng thí nghiệm, trạm, trại, nghiệp với số cán bộ khoa học
ngày càng tăng, vốn đầu ngày càng lớn, hiệu quả đầu ngày càng cao. Do
những biến đổi căn bản về vai trò của khoa học đối với sản xuất khoa học trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
VD: Các định luật của Newton về chuyển động là tập hợp của 3 định luật cơ học
phát biểu bởi nhà bác học Isaac Newton, đặt nền tảng cho cơ học cổ điển (còn gọi
là cơ học Newton). Nội dung 3 định luật:
Định luật 1 Newton: Nếu một vật không chịu tác dụng của lực nào hoặc
chịu tác dụng của các lực có hợp lực bằng không thì nó giữ nguyên trạng thái
đứng yên hoặc chuyển động thẳng đều.
Định luật 2 Newton: Gia tốc của một vật cùng hướng với lực tác dụng lên
vật. Độ lớn của gia tốc tỉ lệ thuận với độ lớn của lực và tỉ lệ nghịch với khối
lượng của vật.
Định luật 3 Newton: Trong mọi trường hợp, khi vật A tác dụng lên vật B
một lực, thì vật B cũng tác dụng lại vật A một lực. Hai lực này có cùng giá trị,
cùng độ lớn, nhưng ngược chiều.
5. Ý thức thẩm mĩ
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
Đối với phần ý thức thẩm mĩ, thì đây sự phản ánh hiện thực vào ý thức con
người trong quan hệ với nhu cầu thưởng thức sáng tạo cái Đẹp. Trong các hoạt
động thưởng thức sáng tạo cái đẹp nghệ thuật biểu hiện cao nhất của ý thức
thẩm mĩ.
dụ: với cách một hình thái ý thức hội, khi phản ánh về con người nói
chung, khoa học chỉ quan tâm về những mà nó vốn (cấu tạo thể con người
gồm những bộ phận nào; chức năng cụ thể của từng bộ phận này ra sao; ….) còn
các nghệ thì lại quan tâm phản ánh đến đời sống tâm hồn, tâm tình cảm con
người; đặc biệt là đi sâu tìm tòi phát hiện ra những vẻ đẹp tiềm ẩn từ sâu bên trong
những con người bình dị, đời thường
Nghệ thuật ra đời từ rất sớm, ngay từ khi xã hội chưa phân chia thành giai cấp, quá
trình hình thành nghệ thuật gắn liền với lao động của con người, với thực tiễn
hội. Những dấu vết đầu tiên của nghệ thuật thuộc về thời khi con người biết sản
xuất ra những công cụ bằng đá, bằng xương, bằng sừng.
Cũng như các hình thái ý thức hội khác, ý thức thẩm bắt nguồn từ tồn tại
hội. Khác với khoa học triết học phản ánh thế giới bằng khái niệm, phạm trù,
quy luật; nghệ thuật phản ánh thế giới phản ánh thế giới một cách sinh động, cụ
thể, bằng những hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật tuy phản ánh cái
bản chất của đời sống hiện thực nhưng phản ánh thông qua cái cá biệt, cụ thể - cảm
tính, sinh động. Hình tượng nghệ thuật cũng nhận thức cái chung trong cái riêng,
cái bản chất trong cái hiện tượng, nhận thức cái phổ biến trong cái cá biệt. Song cái
cá biệt trong nghệ thuật phảicái điển hình. Và nếu nhà nghệ thuật tạo ra cái điển
hình thì phải là cái điển hình đã được cá biệt hóa.
Sự phát triển của nghệ thuật về cả nội dung hình thức không thể tách khỏi sự
phát triển của tồn tại hội nhưng nghệ thuật tính độc lập tương đối rất nét
trong sự phát triển của mình. Không phải bao giờ nghệ thuật cũng phản ánh tồn tại
một cách trực tiếp, dễ thấy. Do đó, Mác đã viết: “Đối với nghệ thuật, người ta biết
rằng những thời kỳ hưng thịnh nhất của nó hoàn toàn không tương ứng với sự phát
triển chung của xã hội, do đó cũng không tương ứng với sự phát triển của cơ sở vật
chất của hội, sở này dường như cấu thành cái xương sống của tổ chức
hội” .
Và nghệ thuật chân chính bao giờ cũng gắnmật thiết với đời sống hiện thực
của nhân n, có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ hội, đáp ứng ngày
càng cao nhu cầu thẩm mỹ của con nguời: quan niệm “Nghệ thuật vị nhân
sinh”, Chao ôi, nghệ thuật không cần phải ánh trăng lừa dối, cũng không
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
nên ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ thể tiếng đau khổ kia, thoát ra từ
những kiếp lầm than…” (trích tác phẩm “Trăng sáng” của Nam Cao)
Khi phản ánh thế giới hiện thực trong các hình tượng nghệ thuật chân thực
giá trị thẩm cao, nghệ thuật đã tác động đến trí tình cảm của con người,
kích thích tính tích cực của con người, sẽ nuôi dưỡng cho con người những hành vi
đạo đức tốt đẹp.
Trong hội có sự phân chia giai cấp, bao giờ nghệ thuật cũng mang tính giai cấp.
Tính giai cấp của nghệ thuật biểu hiện trước hết chỗ không thể không chịu sự
tác động của thế giới quan, các quan điểm chính trị của một giai cấp, không thể
đứng ngoài chính trị các quan hệ kinh tế. Trong hội chia thành các giai cấp
phủ nhận mối liên hệ của nghệ thuật với chính trị thì hoàn toàn sai lầm. Khi
nhấn mạnh tính giai cấp của nghệ thuật, trong hội giai cấp, quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin không phủ nhận tính nhân loại chung của nó, không ít tác
phẩm nghệ thuật giá trị của chúng được lưu truyền khắp thế giới qua các thời
đại mặctác giả là đại biểu của một giai cấp nhất định. Có những nền nghệ thuật
của một dân tộc nhất định nhưng đã trở thành những giá trị văn hóa tiểu biểu của
cả nhân loại. Tính giai cấp của nghệ thuật, cách mạng tiến bộ không những
không mâu thuẫn với tính nhân loại ngược lại còn làm sâu sắc giá trị toàn
nhân loại.
VD: Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn đánh giá cao vai
trò của văn nghệ, của các văn nghệ sĩ, đồng thời cũng đòi hỏi văn nghệ văn
nghệ tinh thần trách nhiệm cao cả đối với sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ
quốc.
6. Ý thức tôn giáo
Phần tiếp theo đó chính ý thức tôn giáo. Nói về bản chất của tôn giáo, Ăng ghen
viết: Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ s phản ánh ảo vào trong đầu óc
con người – của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ,
chỉ sự phản ánh trong đó những lực lượng trần thế đã mang những hình thức
siêu trần thế”.
Nguồn gốc của tôn giáo phải tìm trong tồn tại xã hội, trong quan hệ giữa con người
với tự nhiên lẫn trong các quan hệ hội của con người. Khi những công cụ lao
động phương tiện sản xuất còn kém phát triển, con người dễ cảm thấy yếu đuối
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
bất lực trước giới tự nhiên. Sự bất lực sợ hãi của con người trước những sức
mạnh của giới tự nhiên là một trong những nguồn gốc của tôn giáo. Nguồn gốc của
tôn giáo còn nằm trong những mối quan hệ hội. Trong điều kiện hội áp
bức giai cấp tính tự phát còn những đặc trưng của sự phát triển hội.
Những quy luật hội biểu hiện như những thế lực mù quáng, trói buộc con người
thường xuyên quyết định đến số phận của họ khiến con người sợ hãi đó một
trong những nguồn gốc của tôn giáo
Ý thức tôn giáo với tính cách hình thái hội gồm tâm tôn giáo hệ
tưởng tôn giáo. Tâm tôn giáo toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm trạng
thói quen của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo. Hệ tưởng tôn giáo là hệ thống
giáo do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra truyền trong hội. Đứng về
mặt lịch sử, tâm lí tôn giáo và hệtưởng tôn giáohai giai đoạn phát triển của ý
thức tôn giáo nhưng chúng liên hệ tác động qua lại bổ sung nhau. Tâm tôn
giáo đem lại cho hệ tưởng tôn giáo một tính chất đặc trưng, một sắc thái tình
cảm riêng. Hệ tưởng tôn giáo thuyết minh những hiện tượng tâm tôn giáo,
khái quát chúng làm cho chúng biến đổi theo một chiều hướng nhất định. Ý
thức tôn giáo một hình thái ý thức hội thực hiện chủ yếu chức năng chủ yếu
của mình chức năng đềnảo trong một xã hội cần đến sự đềnhư ảo.
Chức năng đó làm cho ý thức tôn giáo một đời sống lâu dài, một vị trí đặc biệt
trong xã hội. Chức năng đền bù hư ảo nói lên chức khả năng của tôn giáo có thể bù
đắp, bổ sung một cách hư ảo cái hiện thực mà trong đó con người bất lực trước sức
mạnh của tự nhiên những điều kiện khách quan của đời sống hội. Những
mâu thuẫn của đời sống hiện thực, những bất lực trong thực tiễn của con người
được giải quyết một cách hư ảo trong ý thức của họ. Vì vậy tôn giáo luôn được các
giai cấp thống trị sử dụng như một công cụ áp bức tinh thần, một phương tiện củng
cố địa vị thống trị của họ.
Nếu như ý thức tôn giáo hướng con người vào thế giới những ảo tưởng, siêu tự
nhiên thì trái lại, ý thức khoa học lại mang một nhiệm vụ cao cả hướng con
người việc biến đổi hiện thực, cải tạo thế giới để để phục vụ nhu cầu cuộc sống
ngày nhiều mặt ngày càng tốt hơn, cao hơn của con người. Chủ nghĩa c-
Lênin cho rằng điều kiện tiên quyết để khắc phục tôn giáo như một hình thái ý thức
tính chất tiêu cực phải xóa bỏ nguồn gốc hội của nó, nghĩa phải tiến
hành một cuộc cách mạng hội triệt để nhằm cải tạo cả tồn tại hội lẫn ý thức
xã hội. Bằng hoạt động cách mạng tích cực của mình, quần chúng không những cải
tạo hội còn cải tạo bản thân, giải phóng ý thức mình khỏi những quan niệm
sai lầm; kể cả những quan niệm tôn giáo.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
VD: Nội dung cơ bản của đạo Bà la môn - đạo Hindu
+Thừa nhận thế giới do thần tạo ra sự bất tử của linh hồn .Thừa nhận Thuyết
luân hồi
+ Cho rằng một thực thể tinh thần tối cao tồn tại vĩnh viễn Braman. Linh hồn
thể là Át man là một bộ phận của Braman
+ Con người có sống chết nhưng linh hồn thì tồn tại mãi và luôn hồi qua nhiều kiếp
khác nhau chỉ khi nào Át man hoà nhập với Braman thì mới chấm dứt được thuyết
luân hồi
7. Ý thức triết học
Cuối cùng đó chính ý thức Triết học. Đây loại ý thức đặc biệt cao nhất của
tri thức cũng như của các ý thức xã hội. Triết học nhất là Triết học Mác-Lênin cung
cấp cho con người tri thức về thế giới như một chỉnh thể thông qua việc tổng kết
toàn bộ lịch sử phát triển của khoa học chính bản thân triết học. Khi đánh giá
mối liên hệ của tinh thần với triết học, Hêghen khẳng định: “Xét từ góc độ tinh
thần, chúng ta có thể gọi Triết học là cái cần thiết nhất.” Với Mác thì “mọi triết học
chân chính đều tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình” nên nhất định sẽ
thời triết học, không chỉ về bên trong, theo nội dung của về cả bên
ngoài, theo sự biểu hiện của nó, sẽ tiếp xúc tác động qua lại với thế giới hiện
thực của thời đại mình. “Lúc đó triết học s khong còn một hệ thống nhất định
đối với các hệ thống nhất định khác, trở thành triết học nói chung đối với thế
giới, trở thành triết học của thế giới hiện đại. Những biểu hiện bên ngoài chứng
minh rằng triết học đã ý nghĩa khiến cho trở thành linh hồn sống của văn
hóa…”
Đồng thời, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học nói chung và nhất
triết học duy vật biện chứng nói riêng, sứ mệnh trở thành thế giới quan,
sở hạt nhân của thế giới quan đó tri thức. Chính thế giới quan đó giúp con
người trả lời cho các câu hỏi được nhân loại từ xưa tới nay thường xuyên đặt ra
cho mình. Chẳng hạn, thế giới xung quan ta gì? Thế giới ấy điểm bắt đầu
điểm kết thúc hay không? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại và sự biến đổi đó? Con
người là gì sinh ra từ đâuquan hệ như thế nào với thế giới ấy? Cuộc sống
của con người ý nghĩa gì? Con người vị trí nào trong thế giới đó? v.v… Như
vậy, thế giới quan triết học bao hàm trong cả nhân sinh quan. Trong thời đại
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
hiện nay, thế giới quan khoa học chân chính nhất thế giới quan triết học duy vật
biện chứng. Triết học duy vật biện chứng có vai trò to lớn để nhận thức đúng đắn ý
nghĩa vai trò của các hình thái ý thức hội khác; để xác định đúng đắn vị trí
của những hình thái ấy trong cuộc sống trong hội để nhận thức tính quy luật
cùng những đặc điểm và sự phát triển của chúng.
VD: Ý thức được sự vận động phát triển của hội việt nam từ chế độ phong
kiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ý thức được mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất trong
hội. Như trong quá trình khai thác than, nếu mỗi người làm việc tách biệt nhau,
không có sự phối hợp giữa các nhân, không nghe lời chỉ đạo…tức không tồn tại
mqh giữa những con người (qhsx) thì không thể khai thác than hiệu quả.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)
lOMoARcPSD|36340008
| 1/27

Preview text:

lOMoARcPSD|36340008 TỒN TẠI XÃ HỘI DẪN DẮT VÀO BÀI:
Trước khi tìm hiểu nội dung bài học hôm nay nhóm mình có một câu hỏi muốn đặt
ra cho cả lớp: “Theo bạn, đời sống xã hội gồm mấy lĩnh vực? Đó là những lĩnh vực
nào?” (Gọi trả lời). Trước khi chúng mình đưa ra đáp án cho câu hỏi, chúng mình
muốn nghe ý kiến của mọi người rằng: chúng ta bắt gặp rất nhiều “đời sống” như
là: đời sống văn hóa, đời sống pháp luật, đời sống văn học, đời sống nghệ thuật,
đời sống chính trị, đời sống tôn giáo; đời sống sản xuất; đời sống sinh hoạt; v.v.
Vậy thì đó có phải là những lĩnh vực khác ngoài 2 lĩnh vực mà (bạn trả lời) đã nêu trên không ?
Nếu các bạn trả lời là Có (hoặc không) thì Thật ra thì (Đúng vậy):
+Đời sống văn hóa, đời sống pháp luật, đời sống văn học, đời sống nghệ thuật, đời
sống chính trị, đời sống tôn giáo (tâm linh), đời sống đạo đức….>>tất cả đều thuộc vào lĩnh vực tinh thần.
+Đời sống sản xuất, đời sống sinh hoạt,…>>thuộc vào lĩnh vực vật chất.
Như vậy câu trả lời của nhóm mình chính là: đời sống xã hội gồm hai lĩnh vực. Đó
là lĩnh vực vật chất và lĩnh vực tinh thần.
Và đi sâu tìm hiểu vào lĩnh vực vật chất chính là yếu tố tồn tại xã hội mà chúng ta
sẽ tìm hiểu trong bài thuyết trình của nhóm ngày hôm nay. Bài thuyết trình gồm hai
phần : Khái niệm tồn tại xã hội và những yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội.
Trước hết là tìm hiểu về KHÁI NIỆM tồn tại xã hội
- Tồn tại xã hội là một phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ sinh hoạt vật chất và
những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. VD:
Trong điều kiện địa lý tự nhiên nhiệt đới, gió mùa, nhiều sông ngòi,... tất yếu làm
hình thành nên phương thức canh tác lúa nước là thích hợp nhất đối với người Việt
Nam trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm qua. Để tiến hành được phương
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
thức đó, người Việt buộc phải co cụm lại thành tổ chức dân cư làng, xã, có tính ổn định bền vững,...
Ở phương Tây, bao gồm toàn bộ châu Âu, do điều kiện khí hậu lạnh khô, địa hình
chủ yếu là thảo nguyên, xứ sở của những đồng cỏ, thích hợp chăn nuôi hình thành
phương thức sản xuất truyền thống của cư dân phương Tây cổ xưa vàvăn hóa gốc du mục. - (Giải thích)
+ Khi đề cập đến tồn tại xã hội là đề cập tới đời sống vật chất. Nói tới đời sống vật
chất của xã hội trước hết chính là hoạt động sống của con người trong sản xuất và
tiểu dùng của cải của vật chất của xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu cho con người.
Như vậy trước hết là phải nói tới hoạt động sản xuất vật chất của con người (là
những hoạt động ăn, mặc, ở, đi lại,…) và tiêu dùng các của cải vật chất mà người
ta đã sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cho con người.
Chúng ta dã được tìm hiểu phần này qua bài sản xuất vật chất và vai trò của sản
xuất vật chất. Mác đã nói rằng: Người ta có thể làm khoa học, làm nghệ thuật, làm
tôn giáo và làm nhiều cái khác nhưng trước hết người ta phải thỏa mãn được những
nhu cầu vật chất tối thiểu (ăn, mặc, ở, đi lại,..). Và ta cũng biết được rằng sản xuất
xã hội có 3 loại hình cơ bản: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra
chính bản thân con người. Trong đó sản xuất vật chất đóng vai trò quyết định, quan trọng nhất.
+ Tồn tại xã hội là quá trình tái sinh và không ngừng mở rộng các quan hệ vật chất
của con người. Gồm hai quan hệ chính
 Thứ nhất là quan hệ giữa con người với tự nhiên. Thiên nhiên không thể đáp ứng
hết tất cả các nhu cầu phong phú của con người nên con người luôn luôn phải
chinh phục tự nhiên. Cách con người nhận thức và cải tạo tự nhiên ở mỗi giai đoạn
lịch sử là khác nhau. Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên thực chất chính là LLSX
 Thứ hai là quan hệ giữa con người với con người, là quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất, quan hệ về tổ chức quản lí và quan hệ phân phối sản phẩm. Đó chính là quan
hệ sản xuất hay nói cách khác là quan hệ kinh tế - vật chất.
DẪN DẮT SANG CÁC YÊU TỐ CƠ BẢN CỦA TỒN TẠI XÃ HỘI
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
Sau khi dã tìm hiểu được tồn tại xã hội là gì vậy thì các bạn có biết các xã hội trong
lịch sử muốn tồn tại và phát triển thì cần phải làm gì ?
(Trả lời): Các xã hội trong lịch sử muốn tồn tại và phát triển thì cần phải lao động
sản xuất để làm ra của cải vật chất nuôi sống xã hội. Muốn lao động sản xuất, xã
hội cần phải có một số người nhất định (dân số) thì mới có nguồn lực lao động, và
con người phải gắn với môi trường tự nhiên, tác động vào tự nhiên để tạo ra của
cải vật chất. Trong quá trình sản xuất ấy bao giờ con người cũng phải tiến hành
theo một cách thức nào đó (phương thức sản xuất vật chất). Như vậy, môi trường
tự nhiên, dân số và PTSX vật chất chính là 3 yếu tố không thể thiếu của tồn tại xã hội
CÁC YẾU TỐ CƠ BẢN CỦA TỒN TẠI XÃ HỘI
a, Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên bao gồm
:
· Những điều kiện địa lí tự nhiên: đất đai, rừng núi, sông ngòi, khí hậu,...
· Của cải trong thiên nhiên: tài nguyên, khoáng sản, thú rừng, hải sản,...
· Những nguồn năng lượng tự nhiên: sức gió, sức nước, ánh sáng mặt trời,...
(Vai trò): Môi trường tự nhiên là điều kiện sinh sống tất yếu và thường xuyên
của sự tồn tại và phát triển xã hội.
Nó có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây ra những khó khăn cho quá trình sản
xuất của con người .Thật vậy những nơi có môi trường tự nhiên đa dạng phong phú
thì nơi đó có con người gặp thuận lợi trong việc phát triển kinh tế nâng cao đời
sống .Ngược lại ,ở những nơi hoàn cảnh địa lí khắc nghiệt thì chẳng những nơi đó
khó phát triển ngành nghề phân công lao động xã hội ,mà hao phí trong quá trình sản xuất cũng tăng lên.
VD: Ở miền Trung Bộ Việt Nam:
Mùa mưa lũ: lượng mưa chiếm 68 - 75% lượng mưa trong năm, cùng với điều kiện
địa hình hiểm trở nên thường phát sinh lũ lụt lớn, gây thiệt hại đến sản xuất, tài
sản, tính mạng con người, tác động tiêu cực tới môi trường sinh thái.
(Video về đợt lũ ở miền Trung tháng 10/2021)
Mùa ít mưa: nước không đủ cung cấp cho sinh thái và sản xuất của một số địa phương trong vùng.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
=> Như vậy, môi trường tự nhiên có ảnh hưởng quan trọng đến đời sống của
con người và sự tiến bộ của xã hội ,nhưng mức ảnh hưởng của nó đến đâu lại phụ
thuộc vào trình độ văn hóa ,khoa học kĩ thuật của con người ,tùy thuộc vào tính
chất của các chế độ xã hội
Sự tác động trở lại của con người vào tự nhiên có thể làm cho tự nhiên biến đổi theo hai hướng
+ Nếu con người tác động vào tự nhiên 1 cách hợp lí =>sẽ làm cho tự nhiên ngày càng phong phú
+ Ngược lại ,nếu con người chỉ biết khai thác 1 cách tùy tiện ,không biết cải tạo thế
giới tự nhiên =>sẽ làm cho nó ngày 1 nghèo nàn ,cạn kiệt ,sự cân bằng sinh thái bị
phá vỡ gây hiểm họa cho cuộc sống của con người
Câu hỏi: Trên thế giới có những nước rất khan hiếm tài nguyên, khoáng sản
nhưng lại có nền kinh tế phát triển, theo bạn tại sao?

Khách quan nhìn nhận, lý do những nước khan hiếm tài nguyên, khoáng sản lại
sở hữu nền kinh tế vượt bậc, là bởi: “Con người là nhân tố ảnh hưởng đến sự phát
triển đất nước”
.
Thực tế đã chứng minh cho chúng ta thấy: Nhật Bản từ một quốc gia đông
dân, nền kinh tế bị tàn phá trong Chiến tranh thế giới thứ 2, lại nghèo nàn về tài
nguyên và phải thường xuyên phải hứng chịu thảm họa thiên nhiên; thế nhưng 30
năm sau, đất nước ấy đã thành công viết nên câu chuyện “Thần kì Nhật Bản” bằng
“tinh thần Bushido”. Bởi vậy, với mệnh danh “Đất nước mặt trời mọc”, năm 2019,
Nhật Bản được đánh giá là nền kinh tế lớn thứ 3 trên thế giới với GDP ước tính đạt
5.154 tỷ USD. Và còn rất rất nhiều thành tựu đáng ngưỡng mộ của “Xứ sở hoa anh
đào” đã đạt được nhờ nhân tố con người tự lực tự cường. b, Dân số
- (Khái niệm)Dân số là tập hợp của những con người đang sống ở một vùng
địa lý hoặc một không gian nhất định, là nguồn lao động quý báu cho sự phát
triển kinh tếxã hội, thường được đo bằng cuộc điều tra dân số và biểu hiện bằng tháp dân số.
- (Các phương diện cơ bản của dân số)Dân số gồm ba phương diện cơ bản, phổ
biến nhất là quy mô dân số, phân bố dân số và cơ cấu dân số. Trong đó quy mô dân
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
số là tổng số dân sinh sống (cư trú) trong những vùng lãnh thổ nhất định vào
những thời điểm xác định. Phân bố dân số là sự sắp xếp số dân trên một vùng lãnh
thổ phù hợp với điều kiện sống của người dân và với các yêu cầu nhất định của xã
hội. Còn cơ cấu dân cư được chia làm hai nhóm chính là cơ cấu dân số theo giới:
biểu thị tương quan giữa giới nam so với giới nữ hoặc so với tổng số dân và cơ cấu
dân số theo độ tuổi: từ 0-14t, 15-59t và từ 60t trở lên, qua đó cho chúng ta biết
được rằng quốc gia đó đang trong giai đoạn cơ cấu dân số trẻ, hay cơ cấu dân số già.
- (Vai trò) Dân số là điều kiện tất yếu và thường xuyên của sự tồn tại và phát triển
của xã hội. Dân số góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các quốc
gia nhất là trong độ tuổi lao động, bên cạnh đó người dân còn có vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ đất nước nhất là bảo vệ chủ quyền trên đất liền cũng như hải đảo.
Dân số và tốc độ phát triển dân số của mỗi nước có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển mọi mặt của nước đó. Ở những nước có điều kiện tự nhiên tương tự nhau
nhưng số lượng và chất lượng dân số khác nhau sẽ có ảnh hưởng khác nhau đến sự phát triển của xã hội.
Câu hỏi: Theo bạn có phải những nước đông dân số, xã hội sẽ phát triển cao và
ngược lại hay không? Tại sao?

Không hoàn toàn đúng. Bởi vì, con người tuy đóng vai trò quan trọng, vượt trội
hơn các yếu tố khác vì con người là mục tiêu và động lực của phát triển nhưng con
người không phải là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội mà để xã
hội phát triển cần nhiều yếu tố khác như: sự sẵn có của tư liệu sản xuất, khả năng
tiếp cận giáo dục và dịch vụ y tế, thiết chế truyền thống và quản trị địa phương,....
Muốn có được sự phát triển thì phải đảm bảo kết hợp được tất cả các yếu tố một
cách phù hợp. Trái lại, nếu như dân số đông đi kèm với sự phát triển giáo dục trí
tuệ và cải thiện được năng suất lao động thì nó cũng sẽ thúc đẩy xã hội phát triển
VD: + Cộng hòa nhân dân Congo với số dân hơn 90 triệu người (đứng thứ 16 thế
giới) nhưng kinh tế lại nằm trong số nghèo nhất thế giới.
+ Ngược lại, Trung Quốc với số dân đông nhất thế giới thì hiện nay đã vươn
lên với vị trí đứng đầu cả về kinh tế.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
DẪN DẮT SANG PHẦN PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT VẬT CHẤT
Như vậy, tuy môi trường tự nhiên và dân cư đều là những điều kiện tất yếu của tồn
tại xã hội nhưng không phải là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã
hội. Và chỉ còn lại một yếu tố cuối cùng cấu thành nên tồn tại xã hội chính là
phương thức sản xuất vật chất – cũng chính là yếu tố cơ bản nhất, chi phối các yếu
tố còn lại và quyết định sự tồn tại của xã hội
c, Phương thức sản xuất vật chất
- (Khái lược lại về PTSX)
(Khái niệm)Như đã được học, PTSX là cách thức con người tiến hành quá trình
sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
(Cấu trúc) Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với
một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
Con người tác động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất – quan hệ này được biểu
hiện ở lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và tư liệu
sản xuất. Trong đó người lao động là yếu tố quan trọng của llsx ở đó được nói đến
là sức lao động, tay nghề, kĩ năng, trình độ. Và tư liệu sản xuất thì bao gồm 2 yếu
tố là tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong đó tư liệu lao động bao gồm có
công cụ lao động (như công cụ, máy móc, hệ thống bình chứa.,…) và phương tiện
lao động (kết cấu hạ tầng giao thông, cầu đường, trạm xá,…). Đối tượng lao động
là các yếu tố có sẵn trong tự nhiên (đất trồng, quặng kim loại, than,..). Ở đây ta
thấy được sự thống nhất giữa người sản xuất và tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất ấy.
Đồng thời con người cũng phải kết hợp với nhau để hoạt động chung và trao đổi
hoạt động với nhau – biểu hiện ở quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất là quan hệ
giữa người với người trong quá trình sản xuất là ra của cải vật chất, bao gồm các
quan hệ sở hữu, quản lí và phân phối.
Mác gọi đây là mối quan hệ “song trùng”: mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên, quan hệ giữa con người với con người luôn tồn tại gắn bó với nhau tạo
thành PTSX. Trong phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là mặt luôn phát
triển, quan hệ sản xuất thay đổi chậm hơn. Mâu thuẫn xẩy ra khi lực lượng sản
xuất phát triển và quan hệ sản xuất cũ không còn phù hợp với nó. Để giải quyết
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
mâu thuẫn là sự chấm dứt phương thức sản xuất cũ đã lỗi thời và thay thế bằng
phương thức sản xuất mới, phương thức sản xuất mới ra đời khi quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất
Mời cô và các bạn xem Sơ đồ mà nhóm em đãf tóm tắt mối quan hệ các giữa
lực lượng sản xuất và qua hệ sản xuất trong PTSX:
- Tại sao lại nói rằng PTSX là yếu tố cơ bản, quyết định nhất ?
+ Thứ nhất, trong các yếu tố của tồn tại xã hội thì PTSX vật chất là yêu tố quyết
định, chi phối các yếu tố còn lại.
 Vì các yếu tố tự nhiên và điều kiện dân cư đều là những yếu tố tiền đề cho việc
xác lập một PTSX nhất định, đồng thời những yếu tố đó cũng biến đổi theo yêu
cầu khách quan của sự vận động, phát triển của các PTSX trong lịch sử.
 Khi PTSX có sự phát triển nhờ những tiến bộ về kĩ thuật, công nghệ sản xuất; tất
yếu sẽ dẫn tới biến đổi trong việc sử dụng nguồn lực tự nhiên và cả sự biến đổi
trong cơ cấu phân bố dân cư để đảm bảo quá trình xác lập PTSX mới.
VD: Xuất phát từ tính chất đặc thù về điều kiện tự nhiên của đất nước, người Việt
Nam trong lịch sử đã tiến hành quá trình sản xuất theo phương thức canh nông lúa
nước. Để tiến hành quá trình đó nhất định con người phải liên kết lại dưới hình
thức tổ chức lao động gia đình và tổ chức dân cư theo mô hình làng xã ổn định,
bền vững. Sự kết hợp giữa ba yếu tố cơ bản đó tạo thành điều kiện khách quan cho
sự sinh tồn và phát triển của người Việt Nam. Đó cũng chính là cơ sở hiện thực
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
quy định những nội dung và tính chất cơ bản nhất trong đời sống tinh thần, truyền
thống của người Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình công nghệ hóa, hiện đại hóa trong
sản xuất nông nghiệp hiện nay tất yếu dẫn tới sự biến đổi trong việc sử dụng các
nguồn lực tự nhiên truyền thống và làm thay đổi cấu trúc nông thôn Việt Nam sang
một hình thức mới, trên cơ sở đó dẫn tới sự biến đổi, phát triển đời sống văn hóa –
tinh thần của nông thôn mới và con người mới.
+ Thứ hai, PTSX vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội
 Trong mỗi xã hội, phương thức sản xuất thống trị như thế nào thì tính chất của
chế độ xã hội như thế ấy; kết cấu giai cấp và tính chất của các mối quan hệ giữa
các giai cấp, cũng như các quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học
v.v.., đều do phương thức sản xuất quyết định.
 Phương thức sản xuất quyết định sự chuyển biến của xã hội loài người qua các
giai đoạn lịch sử. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, thay thế phương thức
sản xuất cũ đã lỗi thời thì mọi mặt của đời sống xã hội cũng có sự thay đổi căn bản
từ kết cấu kinh tế đến kết cấu giai cấp, từ các quan điểm tư tưởng xã hội đến các tổ
chức xã hội. Lịch sử xã hội loài người đã biết đến năm phương thức sản xuất kế
tiếp nhau từ thấp lên cao, tương ứng với nó có năm xã hội cụ thể: cộng sản nguyên
thuỷ, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa (mà chủ nghĩa xã
hội là giai đoạn thấp). Do đó, lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử của sản
xuất, lịch sử của các phương sản xuất kế tiếp nhau trong quá trình phát triển.
 Phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản và trực tiếp quy định sự sinh tồn, phát triển
của mỗi con người cũng như của toàn bộ cộng đồng xã hội, quy định trực tiếp
phương thức hoạt động vật chất của mỗi xã hội. Phương thức sản xuất nào cũng có
hai phương diện, đó là mặt vật chất – kĩ thuật của quá trình sản xuất (biểu hiện tập
trung ở trình độ phát triển phương thức kĩ thuật, công nghệ) và mặt kinh tế - xã hội
của quá trình ấy (thể hiện tiêu biểu ở trình độ phát triển của phương thức tổ chức
kinh tế). Trong hai mặt đó, mặt kinh tế - xã hội phụ thuộc tất yếu vào trình độ phát
triển của mặt vật chất – kĩ thuật; nó trực tiếp quy định tính chất và trình độ phát
triển của một tồn tại xã hội nhất định.
Ví như: Từ một đảo quốc hầu như không có tài nguyên thiên nhiên, nguồn
nguyên liệu đều phải nhập từ bên ngoài, Singapore đã có bước phát triển ngoạn
mục trong hơn 50 năm qua, trở thành một trong những quốc gia có GDP bình quân
đầu người cao nhất thế giới. Sự phát triển của Singapore là kết quả của chính sách
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
xây dựng nền kinh tế tri thức, sử dụng kiến thức để tạo ra hàng hóa và dịch vụ với
phần lớn lao động có kỹ năng. Và từ đấy, những phương thức sản xuất hiện đại
được áp dụng để đem lại bước tiến mới cho nhiều ngành kinh tế (từ nông nghiệp
đến dịch vụ thương mại,…), đi kèm theo là chính sách cải cách hệ thống giáo dục.
Chính vì thế, dù các yếu tố tự nhiên bị hạn chế, nhưng nền kinh tế vẫn có những
bước phát triển nhảy vọt, còn bởi: những phương thức sản xuất vật chất tân tiến,
hợp lí, kết hợp với nền tri thức hiện đại của con người.
(HAI KHẲNG ĐỊNH CỦA MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN)
Thật vậy, trong Lời tựa cuốn “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị” C. Mác
viết: “ Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt
xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết
định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”.
Với khẳng định này C. Mác đã khắc phục triệt để chủ nghĩa duy tâm, xây
dựng quan điểm duy vật lịch sử về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội, về vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội.
Tương tự như vậy, trong “ Hệ tư tưởng Đức, C. Mác và Ph Awngghen đã đi đến kết
luận rằng, toàn bộ gốc rễ của sự phát triển xã hội loài người, kể cả ý thức con
người, đều nằm trong và bị quy định bởi sự phát triển của các điều kiện kinh tế- xã
hội, nghĩa là “ không pharii ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống quyết
định ý thức”, “ do đó ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là như
vậy chừng nào con người còn tồn tại”.
Đây chính là điểm cốt lõi của nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
Tồn tại xã hội không chỉ quyết định sự hình thành của ý thức xã hội mà còn quyết
định cả nội dung và hình thức biểu hiện của nó. Mỗi yếu tố của tồn tại xã hội có
thể được các hình thái ý thức xã hội khác nhau phản ánh từ các góc độ khác nhau
theo những cách thức khác nhau. Tuy nhiên, đến lượt mình, các hình thái ý thức
này cũng sẽ tác động, ảnh hưởng ngược trở lại tồn tại xã hội. Đó chính là tính độc
lập tương đối của ý thức xã hội. Và mối quan hệ biện chứng này sẽ được làm rõ
hơn ở những bài học sau.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008 Ý THỨC XÃ HỘI I. KHÁI NIỆM
-Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội bao gồm những tư tưởng,
quan điểm, tình cảm, tâm trạng, thói quen, truyền thống … nảy sinh từ tồn tại xã
hội và phản ánh tồn tại xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định.
(Ta cần thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân)
-Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của những con người riêng biệt, cụ thể. Ý thức
của các cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với những mức độ khác nhau do đó nó
hiển nhiên là mang tính xã hội. Song ý thức cá nhân không phải bao giờ cũng thể
hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm phổ biến của một cộng đồng, một tập đoàn xã
hội, một thời đại xã hội nhất định.
Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với
nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú cho nhau. (Ý thức xã hội gồm những
hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những hình thái khác nhau phản ánh tồn tại
xã hội bằng những phương thức khác nhau.
VD: - Ý thức xã hội: Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam
- Ý thức cá nhân: Sự gần gũi gắn bó, lòng yêu quê hương, đất nước của mỗi cá nhân, công dân Việt
=> Mối quan hệ hữu cơ, biện chứng giữa Ý thức cá nhân và Ý thức xã hội dù
thuộc về hai trình độ khác nhau
II. KẾT CẤU CỦA Ý THỨC XÃ HỘI
(Tùy theo góc độ xem xét ta có thể phân loại ý thức xã hội thành các loại sau đây)
1.Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận
*Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của con người
hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ
thống hóa, khái quát hóa.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
VD:Thời xa xưa khi chưa có những kĩ thuật, công cụ quan sát thiên văn, khí tượng,
dân gian đúc kết một số câu ca dao về thời tiết dựa trên sự quan sát thực tiễn như:
1.Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm.
2.Sao dày thì mưa, sao thưa thì nắng.
3.Ráng mỡ gà, có nhà thì giữ.
Câu tục ngữ là mô ̣t kinh nghiê ̣m quý báu về dự báo thời tiết. Ráng mỡ gà là ráng
vàng tươi óng ánh. Có ráng mỡ gà xuất hiê ̣n ở trên bầu trời, nhân dân ta biết trời
sắp nói gió to, sắp bão, cần phải chuẩn bị giữ gìn, chằng buô ̣c, chống đỡ, nhất là nhà gianh vách.
*Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hóa, khái quát hóa
thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái nieemj, phạm trù, quy luật,...
(Ý thức xã hội thông thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt cuộc sống
hàng ngày, thường xuyên chi phối cuộc sống đó. Trình độ ý thức thông thường tuy
thấp hơn ý thức lý luận nhưng tri thức kinh nghiệm phong phú của nó là tiền đề
quan trọng trong việc hình thành các lý thuyết khoa học. Ý thức lý luận lý luận
khoa học có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc
và chính xác vạch ra mối liên hệ bản chất của các sự vật và hiện tượng.)
VD: Khi nghiên cứu về một số quy luật trong sinh thái học, có một quy luật là quy
luật tác động qua lại giữa sinh vật và môi trường Trong mối quan hệ tương hỗ giữa
quần thể, quần xã sinh vật với môi trường, không những các yếu tố sinh thái của
môi trường tác động lên chúng, mà các sinh vật cũng có ảnh hưởng đến các yếu tố
sinh thái của môi trường và có thể làm thay đổi tính chất của các yếu tố sinh thái đó.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008 2.Tâm lý xã hội a.Khái niệm:
-Tâm lý xã hội là khái niệm chỉ toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập
quán...của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội hình thành dưới
ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó.
VD: Tâm trạng hân hoan của học sinh khi được trở lại trường sau dịch, phong tục
ăn trầu của người Việt Nam, thói quen tập thể dục buổi sáng ,v.v...
b.Đặc điểm của tâm lý xã hội
*Phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sống hàng ngày của con người
*Là sự phản ánh có tính tự phát, thường ghi lại những mặt bề ngoài của tồn tại xã hội
*Không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan hệ xã hội của con người
*Còn mang tính kinh nghiệm, chưa được thể hiện về mặt lý luận, còn yếu tố trí tuệ
thì đan xen với yếu tố tình cảm
(Tuy nhiên không thể phủ nhận vai trò quan trọng của tâm lý xã hội trong sự phát
triển của ý thức xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin rất coi trọng
nghiên cứu trạng thái tâm lý xã hội của nhân dân để hiểu nhân dân, giáo dục nhân
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
dân, đưa nhân dân tham gia tích cực, tự giác vào cuộc đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp hơn.) 3.Hệ tư tưởng a.Khái niệm:
-Hệ tư tưởng là khái niệm chỉ trình độ cao ý thức xã hội, được hình thành khi con
người nhận thức sâu sắc về những điều kiện sinh hoạt vật chất của mình.
Ví dụ : hệ tư tưởng phong kiến, hệ tư tưởng chính trị, hệ tư tưởng giai cấp,…
b.Đặc điểm của hệ tư tưởng
-Được hình thành khi con người nhận thức sâu sắc về sự vật, hiện tượng
-Có khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ xã hội
-Được hình thành tự giác bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp nhất định và truyền bá trong xã hội
-Hệ tư tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan điểm,
tư tưởng, kết quả sự khái quát hóa những kinh nghiệm xã hội.
c.Cần phân biệt hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa học, thậm chí phản động.
(Hệ tư tưởng không khoa học tuy cũng phản ánh những mối vật chất của xã hội
nhưng dưới một hình thức sai lầm, hư ảo, xuyên tạc với tính cách là một bộ phận
của ý thức xã hội) Hệ tư tưởng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của khoa học.
Ví dụ: Hệ tư tưởng Mác - Lenin không trực tiếp ra đời từ tâm lý xã hội của giai
đoạn giai cấp công nhân lúc đó đang tự phát đấu tranh chống giai cấp tư sản, mà là
từ các tri thức của nhân loại, từ những kinh nghiệm của cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân, và kế thừa trực tiếp của học tập kinh tế, xã hội và tri thức học vào cuối
thể kỷ 18, đầu thế kỷ 19, hệ tư tưởng này đã phản ánh các mối quan hệ, các quá
trình, hiện tượng xã hội một cách khách quan, chính xác. Cũng do đó mà Đảng và
nhà nước ta đã coi hệ tư tưởng này là kim chỉ nam cho mọi hành động các mạng.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
(Các khoa học tự nhiên đã cho thấy tác dụng quan trọng của hệ tư tưởng đặc biệt là
hệ tư tưởng triết học đối với quá trình khái quát những tài liệu khoa học)
Ví dụ: Hệ tư tưởng phong kiến. Cũng như ở nhiều nước khác, giai cấp phong kiến
Việt Nam là giai cấp đã giữ vai trò thống trị xã hội hàng bao nhiêu thế kỷ. Hệ tư
tưởng chính thống của nó là Nho giáo, du nhập từ Trung Quốc sang, cùng với lực
lượng xâm lược từ phương Bắc tới. Tuy là một học thuyết triết học - chính trị
nhưng nó được xem như một thứ tôn giáo và mang cái tên là Nho giáo. Chính vì hệ
tư tưởng này cổ hủ, lạc hậu này đã kìm hãm sự phát triển của nước ta về nhiều mặt ở thời kì đó.
4.Mối quan hệ giữa tâm lí xã hội và hệ tư tưởng
-(Tuy là 2 trình độ 2 phương thức phản ánh khác nhau của ý thức xã hội
nhưng)Tâm lý xẫ hội và hệ tư tưởng có mối liên hệ tác động qua lại với nhau.
Chúng có chung nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội.
-Tâm lý xã hội có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc cản trở cho sự hình thành, truyền
bá, sự tiếp thu của con người đối với một hệ tư tưởng nhất định.
-(Mối liên hệ chặt chẽ giữa tư tưởng đặc biệt là hệ tư tưởng khoa học tiến bộ với
tâm lý xã hội, với thực tiễn cuộc sống hết sức sinh động và phong phú sẽ giúp cho
hệ tư tưởng xã hội cho lý luận bớt sơ cứng, bớt sai lầm) Trái lại, hệ tư tưởng, lý
luận xã hội làm gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã hội. (Hệ tư tưởng khoa học
thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng đúng đắn, lành mạnh, có lợi cho tiến bộ xã hội.)
-(Hệ tư tưởng phản động, kích động những yếu tố tiêu cực của tâm lý xã hội) Tuy
nhiên hệ tư tưởng không ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hôi, không phải là sự biểu
hiện trực tiếp của tâm lý xã hội.
-(Không phải sự biểu hiện trục tiếp của tâm lý xã hội) Bất kỳ tư tưởng nào khi
phản ánh các mối quan hệ đương thời thì đồng thời cũng kế thừa những học thuyết
xã hội, những tư tưởng và quan điểm đã tồn tại trước đó.
Ví dụ: Hệ tư tưởng Mác – Lênin không trực tiếp ra đời từ tâm lý xã hội của giai
cấp công nhân lúc đó đang tự phát đấu tranh chống giai cấp tư sản, mà là sự khái
quát lý luận từ tổng số những tri thức của nhân loại, từ những kinh nghiệm của
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, và kế thừa trực tiếp các học thuyết kinh tế,
xã hội và triết học vào cuối thể kỷ 18, đầu thế kỷ 19
Như vậy, hệ tưởng liên hệ hữu cơ với tâm lý xã hội, chịu sự tác động của tâm lý
xã hội, nhưng nó không phải đơn giản là sự “cô đặc” của tâm lý xã hội.
III. TÍNH GIAI CẤP CỦA Ý THỨC XÃ HỘI
- Trong xã hội, các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất khác nhau,
những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội mỗi giai cấp quy định. Vì vậy ý thức xã
hội của các giai cấp có nội dung và hình thức phát triển khác nhau hoặc đối lập nhau.
- Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội, cũng như (là) ở hệ tư tưởng xã hội.
- Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp
thống trị về kinh tế và chính trị ở thời đại đó.
- (Theo) chủ nghĩa Mác – Lênin, là hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của giai
cấp công nhân, ngọn cờ giải phóng của quần chúng bị áp bức, bóc lột.
- Hiện nay các thế lực thù địch đang không ngừng tấn công vào chủ nghĩa Mác –
Lênin, muốn phủ nhận, xóa bỏ nó.
- Do vậy, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện thế giới ngày
nay là một nhiệm vụ quan trọng của cuộc đấu tranh vì mục tiêu độc lập, dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng, ý thức của các giai cấp trong xã hội có sự tác động qua lại với nhau.
- Giai cấp bị trị chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị. Tuy nhiên (lại) có
tác động ngược trở lại.
< Dẫn: Sau đây là ví dụ: …. >
VD: Ví dụ 1. Trong xã hội phong kiến
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
+Giai cấp địa chủ là giai cấp thống trị nên có điều kiện vật chất tốt, giàu có,chiếm
đoạt nhiều ruộng đất, có quyền lực, sống sang trọng, ngại lao động chân tay.
+Giai cấp nông dân là giai cấp bị trị, bị mất ruộng đất trở nên nghèo túng, sống
chân chất,làm thuê ruộng của địa chủ , yêu lao động.
>>> Giai cấp nông dân hoàn toàn chịu ảnh hưởng của thế lực thống trị
Ví dụ 2. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa,giai cấp tư sản và giai cấp vô sản do khác
nhau về vị trí,vai trò trong hệ thống sản xuất xã hội,dẫn đến đối lập nhau về địa vị
trong chế độ kinh tế-xã hội trở thành hai giai cấp thống trị-bị trị. Ví dụ 3.
Trong xã hội TBCN, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản (công nhân) - giai cấp bị
trị và giai cấp tư sản - giai cấp thống trị dâng cao. Trong hoàn cảnh đó, Mác và
Ănghen là những người xuất thân từ tầng lớp trên nhưng nhờ tư tưởng tiến bộ, hai
ông đã hiểu sâu sắc cuộc sống khốn khổ của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động nên hai ông đã quyết định đứng trên lợi ích của giai cấp công nhân, xây dựng
hệ thống lí luận để cung cấp cho giai cấp công nhân : 1 công cụ sắc bén để nhận
thức và cải tạo thế giới đưa họ thoát khỏi sự áp bức bất công.
- Trong xã hội có phân chia giai cấp thì ý thức cá nhân về bản chất, là biểu hiện
mức độ này hay mức độ khác ý thức giai cấp.
- Tuy nhiên, nếu quá nhấn mạnh điều kiện sinh hoạt của cá nhân, sẽ dẫn tới hiểu sai
bản chất của ý thức cá nhân.
- Trong ý thức xã hội, ngoài tâm lý và hệ tư tưởng của xã hội giai cấp, còn bao
gồm tâm lý dân tộc, tình cảm, ước muốn, tập quán, thói quen, tính cách,… của dân
tộc, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tạo thành truyền thống dân tộc.
- Tâm lý dân tộc có mối liên hệ hữu cơ với ý thức giai cấp.
- Giai cấp công nhân được vũ trang bằng hệ tư tưởng Mác – Lênin luôn luôn quan
tâm sâu sắc đến việc bảo vệ và phát triển những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
< Dẫn: Tiếp theo đến phần Hình thái chủ yếu của ý thức xã hội, … >
IV. CÁC HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI
Ý thức xã hội tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau nhưng những hình thái chủ
yếu của ý thức xã hội bao gồm ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức,
ý thức nghệ thuật (hay còn gọi là ý thức thẩm mỹ), ý thức tôn giáo, ý thức ý luận
(hay còn gọi là ý thức khoa học) và ý thức triết học. Tính phong phú đa dạng của
các hình thái ý thức xã hội phản ánh tính phong phú, đa dạng của bản thân đời sống
xã hội. Trong các hình thái ý thức xã hội có những hình thái gần với cơ sở kinh tế
của tồn tại xã hội hơn, có những hình thái ý thức xã hội xa cơ sở kinh tế hơn so với
các hình thái ý thức xã hội khác. Vì vậy các hình thái ý thức chính trị và ý thức
pháp quyền gần gũi với cơ sở kinh tế hơn cả. 1. Ý thức chính trị
Đầu tiên là hình thái ý thức chính trị. Hình thái ý thức chính trị là hình thái ý thức
chỉ xuất hiện và tồn tại trong các xã hội có giai cấp và nhà nước. Nó phản ánh các
quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia
cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước. Ý thức chính trị
thực tiễn thông thường hình thành từ trực tiếp từ các hoạt động thực tiễn trong môi
trường chính trị của xã hội. Ở trạng thái tâm lí xã hội, những cảm xúc và tâm trạng
về chính trị của quần chúng cảm xúc và tâm trạng về chính trị của quần chúng
thường thiếu bền vững và không ổn định. Song, những trạng thái tâm lí xã hội như
vậy lại đóng vai trò to lớn và trực tiếp đối với hành vi chính trị của quần chúng
đông đảo. Thông qua đó hệ tư tưởng chính trị tác động vào đời sống chính trị của
xã hội. Hệ tư tưởng của một giai cấp chính trị nhất định phản ánh trực tiếp tập
trung lợi ích giai cấp của giai cấp ấy. Ý thức chính trị được thể hiện trong đường
lối, cương lĩnh chính trị của các chính đảng của các giai cấp khác nhau cũng như
trong luật pháp chính sách nhà nước – công cụ của giai cấp thống trị, hệ tư tưởng
chính trị được hình thành một cách tự giác. Nó được các nhà tư tưởng của giai cấp
xây dựng và truyền bá. Hệ tư tưởng chính trị gắn với các tổ chức chính trị, thông
qua các tổ chức chính trị mà một giai cấp nào đó tiến hành cuộc đấu tranh giành ý
thức. Vì lợi ích của giai cấp của mình, ý thức chính trị đặc biệt là hệ tư tưởng chính
trị có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Thông qua tổ chức nhà
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
nước nó tác động trở lại cơ sở kinh tế và có thể trong những giới hạn nhất định làm
thay đổi cơ sở kinh tế. Hệ tư tưởng chính trị cũng giữ vai trò chủ đạo trong đời
sống tinh thần của xã hội, nó thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác, tác
động tích cực hoặc tiêu cực của hệ tư tưởng chính trị cũng như ý thức chính trị nói
chung phụ thuộc vào tính tiến bộ, cách mạng hoặc phản tiến bộ, phản cách mạng
của giai cấp mang hệ tư tưởng đó. Khi giai cấp đó tiến bộ, cách mạng tiêu biểu làm
cho xu thế phát triển đi lên của lịch sử thì hệ tư tưởng chính trị của nó có tác động
tích cực đến sự phát triển xã hội. Khi giai cấp đó trở thành lạc hậu, phản cách động
thì hệ tư tưởng chính trị của nó có tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của xã hội Ví dụ:
Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam hoạt động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa
Mác-Lênin là khoa học về các quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội,
khoa học về cách mạng của quần chúng bị áp bức và bị bóc lột, khoa học
về sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đảng ta,
khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm kim chỉ nam cho hành động và
nêu cao tư tuởng Hồ Chí Minh. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác-
Lênin là tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột người.
Vì vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta tất
nhiên phải lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm kim chỉ nam cho hoạt động của
Đảng và cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh điều kiện cụ thể của nước
ta; mà cốt lõi là sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công
nhân và chủ nghĩa yêu nước của nhân dân ta.
2. Ý thức pháp quyền
Tiếp theo đó là ý thức pháp quyền. Ý thức pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng,
quan điểm của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa
vụ của nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân, về tính hợp pháp và không hợp
pháp của hành vi con người trong xã hội, cùng với nhận thức và tình cảm của con
người trong việc thực thi pháp luật của Nhà nước.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
Cũng như ý thức chính trị, ý thức pháp quyền ra đời cùng với nhà nước. Giữa hai
hình thái này có sự gần nhau về cả nội dung và hình thức. Ý thức pháp quyền phản
ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế của xã hội, trước hết là các quan hệ sản xuất được
thể hiện trong hệ thống pháp luật. Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể
hiện thành luật lệ do đó Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện
thành luật lệ, do đó mỗi chế độ xã hội, mỗi nhà nước chỉ có một hệ thống pháp luật
của giai cấp nắm chính quyền. Nhưng trong xã hội có các giai cấp đối kháng, các
giai cấp khác nhau lại có những ý thức khác nhau về pháp luật, phản ánh lợi ích
của giai cấp mình. Do đó, hiệu lực của pháp luật không những phụ thuộc vào sức
mạnh cưỡng chế của nhà nước mà còn phụ thuộc vào trình độ hiểu biết và tâm lí pháp luật của xã hội. VD:
Ở Việt Nam hiện nay, ý thức pháp quyền của xã hội ta là ý thức pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Sự thống nhất cao về mặt lợi ích cơ bản giữa giai
cấp công nhân và nhân dân lao động đã tạo nên hệ thống pháp luật do Nhà
nước ban hành. Việc thể hiện ý chí của giai cấp công nhân cũng đồng thời
phản ảnh và thể hiện lợi ích dân tộc trong công cuộc đối mới tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
3. Ý thức đạo đức
Thứ 3 là ý thức đạo đức. Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm, tri thức và
các trạng thái cảm xúc, tâm lí chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện,
ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng, v.v… và về những quy tắc đánh
giá, những chuẩn mực hành vi cùng cách ứng xử giữa các cá nhân với nhau và giữa
các cá nhân với xã hội.
Ý thức đạo đức là một trong các hình thái ý thức ra đời từ rất sớm. Trong lịch sử,
ngay từ xã hội nguyên thủy sự ý thức về lương tâm, danh dự và lòng tự trọng phản
ánh khả năng tự chủ của con người là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản
quy định gương mặt đạo đức của con người, cũng là biểu hiện bản chất của con người.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
Từ ý nghĩa đó, sự phát triển đạo đức là nhân tố biểu hiện tiến bộ xã hội. Trong ý
thức đạo đức, yếu tố tình cảm đạo đức là yếu tố đặc biệt quan trọng. Nếu thiếu nó
thì những khái niệm, phạm trù đạo đức và mọi tri thức đạo đức thu nhận được bằng
con đường lí tính không thể chuyển hóa thành hành vi đạo đức. Trong tiến trình
phát triển của xã hội đã hình thành những giá trị đạo đức mang tính toàn nhân loại,
tồn tại trong mọi xã hội và ở các hệ thống đạo đức khác nhau. Đó là những quy tắc
ứng xử đơn giản nhằm điều chỉnh hành vi và các sinh hoạt thường ngày của con
người trong cộng đồng xã hội.
Tuy nhiên, trong một xã hội có sự phân chia giai cấp thì nội dung chủ yếu của đạo
đức phản ánh quan hệ giai cấp nên nó có tính giai cấp. Trong các phạm trù đạo đức
luôn luôn phản ánh địa vị và lợi ích của giai cấp. Mỗi giai cấp trong những giai
đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội đều có những quan niệm đạo đức của
riêng mình. Giai cấp tiêu biểu cho sự phát triển đi lên của xã hội thì đại diện cho
một nền đạo đức tiến bộ. Còn các giai cấp phản động thì đại diện cho một đạo đức suy thoái
Vd: Từ xa xưa, ông cha ta đã đúc rút ra những bài học về đạo đức để răn dạy con
người, thể hiện qua những câu ca dao, tục ngữ như: +Về đạo làm con:
Cá không ăn muối cá ươn
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.
Công cha nghĩa mẹ ơn thầy,
Ngày sau khôn lớn ơn dày biển sâu. Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
+Về quy tắc ăn nói, giao tiếp, cư xử:
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008 Kính trên, nhường dưới
Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành.
Một điều nhịn, chín điều lành 4. Ý thức khoa học
Tiếp đến là phần 4 – Ý thức khoa học. Ý thức khoa học vừa là một hình thái ý thức
xã hội vừa là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Xem xét khoa học như một hình thái
ý thức xã hội không thể tách rời, xem xét nó như một hiện tượng xã hội. Ý thức
khoa học với tính chất là một hình thái xã hội là hệ thống phản ánh tri thức chân
thực dưới dạng logic trừu tượng về thế giới đã được kiểm nghiệm thông qua thực
tiễn. Đối tượng phản ánh của ý thức khoa học bao quát mọi lĩnh vực của tự nhiên,
xã hội và tư duy trong khi các hình thái ý thức xã hội khác chỉ phản ánh một mặt
một khía cạnh nào đó của đời sống xã hội mà thôi. Đó là một trong những điểm
khác biệt của ý thức khoa học với các hình thái ý thức xã hội khác. Khoa học có
thể tồn tại dưới dạng hệ thống lý luận chung nhất hoặc dưới dạng cụ thể là các tri
thức chuyên ngành. Hình thức biểu hiện chủ yếu của ý thức khoa học là các phạm
trù, định luật, quy luật và là ngôn ngữ chuyên môn hoá, là công cụ của tư duy khoa học.
Tri thức khoa học thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác, hình thành các
khoa học tương ứng từng hình thái ý thức đó. (ví dụ như ý thức chính trị và chính
trị học, ý thức đạo đức và đạo đức học, ý thức nghệ thuật và nghệ thuật học, v.v…).
Nhờ tri thức khoa học mà con người không ngừng vươn tới cái mới để tạo ra một
thế giới mới và ngày càng thể hiện rõ vị thế làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình.
Xét về đối tượng, khoa học chia thành khoa học tự nhiên – kỹ thuật nghiên cứu các
quy luật của tự nhiên, các phương thức chinh phục và cải tạo tự nhiên và khoa học
xã hội nghiên cứu những hiện tượng xã hội khác nhau, các quy luật vận động, phát
triển của chúng và có cả bản thân con người như là một thực thể xã hội. Triết học
cũng được coi là một khoa học bởi nó nghiên cứu những quy luật chung nhất của
mọi tồn tại trong tự nhiên, xã hội và tư duy, xây dựng nên phương pháp luận chung
cho việc nghiên cứu tự nhiên, xã hội và tư duy.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
Trong mỗi khoa học có thể phân chia thành các cấp độ kinh nghiệm và lý luận (hay
lí thuyết). Cấp độ kinh nghiệm là những tư liệu hiện thực đã tích lũy được qua sự
tổng hợp quan sát, thí nghiệm; lý luận là sự khái quát kinh nghiệm thể hiện trong
những lý thuyết về quy luật và nguyên lý tương ứng. Cấp độ lý luận của các khoa
học cụ thể kết hợp với nhau trong sự giải thích các nguyên lý và quy luật chung
được phát hiện ở tầm nghiên cứu triết học, hình thành thế giới quan và phương
pháp luận của toàn bộ nhận thức khoa học.
Nguồn gốc sâu xa của khoa học là do nhu cầu phát triển sản xuất. Cùng với sự phát
triển của sản xuất và thực tiễn xã hội, khoa học cũng không ngừng phát triển.
Trong quá trình đó, vai trò của khoa học trong đời sống xã hội ngày càng tăng lên.
Ngày nay, trong sự tự động hóa sản xuất, tri thức khoa học được kết tinh trong mọi
nhân tố của lực lượng sản xuất - trong đối tượng lao động, kỹ thuật, quá trình công
nghệ và cả trong những hình thức tổ chức tương ứng của sản xuất; người lao động
không còn là nhân tố thao tác trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật mà chủ yếu là vận
dụng tri thức khoa học để điều khiển quá trình sản xuất; khoa học cho phép hoàn
thiện các phương pháp sản xuất, hoàn thiện việc quản lý kinh tế. Hơn nữa khoa học
còn trở thành một ngành hoạt động sản xuất với quy mô ngày càng lớn, bao hàm
hàng loạt các viện, phòng thí nghiệm, trạm, trại, xí nghiệp với số cán bộ khoa học
ngày càng tăng, vốn đầu tư ngày càng lớn, hiệu quả đầu tư ngày càng cao. Do
những biến đổi căn bản về vai trò của khoa học đối với sản xuất mà khoa học trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
VD: Các định luật của Newton về chuyển động là tập hợp của 3 định luật cơ học
phát biểu bởi nhà bác học Isaac Newton, đặt nền tảng cho cơ học cổ điển (còn gọi
là cơ học Newton). Nội dung 3 định luật: 
Định luật 1 Newton: Nếu một vật không chịu tác dụng của lực nào hoặc
chịu tác dụng của các lực có hợp lực bằng không thì nó giữ nguyên trạng thái
đứng yên hoặc chuyển động thẳng đều.

Định luật 2 Newton: Gia tốc của một vật cùng hướng với lực tác dụng lên
vật. Độ lớn của gia tốc tỉ lệ thuận với độ lớn của lực và tỉ lệ nghịch với khối lượng của vật. 
Định luật 3 Newton: Trong mọi trường hợp, khi vật A tác dụng lên vật B
một lực, thì vật B cũng tác dụng lại vật A một lực. Hai lực này có cùng giá trị,
cùng độ lớn, nhưng ngược chiều
. 5. Ý thức thẩm mĩ
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
Đối với phần ý thức thẩm mĩ, thì đây là sự phản ánh hiện thực vào ý thức con
người trong quan hệ với nhu cầu thưởng thức và sáng tạo cái Đẹp. Trong các hoạt
động thưởng thức và sáng tạo cái đẹp nghệ thuật là biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mĩ.
Ví dụ: với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, khi phản ánh về con người nói
chung, khoa học chỉ quan tâm về những gì mà nó vốn có (cấu tạo cơ thể con người
gồm những bộ phận nào; chức năng cụ thể của từng bộ phận này ra sao; ….) còn
các nghệ sĩ thì lại quan tâm phản ánh đến đời sống tâm hồn, tâm tư tình cảm con
người; đặc biệt là đi sâu tìm tòi phát hiện ra những vẻ đẹp tiềm ẩn từ sâu bên trong
những con người bình dị, đời thường
Nghệ thuật ra đời từ rất sớm, ngay từ khi xã hội chưa phân chia thành giai cấp, quá
trình hình thành nghệ thuật gắn liền với lao động của con người, với thực tiễn xã
hội. Những dấu vết đầu tiên của nghệ thuật thuộc về thời kì khi con người biết sản
xuất ra những công cụ bằng đá, bằng xương, bằng sừng.
Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, ý thức thẩm mĩ bắt nguồn từ tồn tại xã
hội. Khác với khoa học và triết học – phản ánh thế giới bằng khái niệm, phạm trù,
quy luật; nghệ thuật phản ánh thế giới phản ánh thế giới một cách sinh động, cụ
thể, bằng những hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật tuy phản ánh cái
bản chất của đời sống hiện thực nhưng phản ánh thông qua cái cá biệt, cụ thể - cảm
tính, sinh động. Hình tượng nghệ thuật cũng nhận thức cái chung trong cái riêng,
cái bản chất trong cái hiện tượng, nhận thức cái phổ biến trong cái cá biệt. Song cái
cá biệt trong nghệ thuật phải là cái điển hình. Và nếu nhà nghệ thuật tạo ra cái điển
hình thì phải là cái điển hình đã được cá biệt hóa.
Sự phát triển của nghệ thuật về cả nội dung và hình thức không thể tách khỏi sự
phát triển của tồn tại xã hội nhưng nghệ thuật có tính độc lập tương đối rất rõ nét
trong sự phát triển của mình. Không phải bao giờ nghệ thuật cũng phản ánh tồn tại
một cách trực tiếp, dễ thấy. Do đó, Mác đã viết: “Đối với nghệ thuật, người ta biết
rằng những thời kỳ hưng thịnh nhất của nó hoàn toàn không tương ứng với sự phát
triển chung của xã hội, do đó cũng không tương ứng với sự phát triển của cơ sở vật
chất của xã hội, cơ sở này dường như cấu thành cái xương sống của tổ chức xã hội” .
Và nghệ thuật chân chính bao giờ cũng gắn bó mật thiết với đời sống hiện thực
của nhân dân, có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ xã hội, đáp ứng ngày
càng cao nhu cầu thẩm mỹ của con nguời: quan niệm “Nghệ thuật vị nhân
sinh”, “Chao ôi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, và cũng không
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ
những kiếp lầm than…” (trích tác phẩm “Trăng sáng” của Nam Cao)
Khi phản ánh thế giới hiện thực trong các hình tượng nghệ thuật chân thực và có
giá trị thẩm mĩ cao, nghệ thuật đã tác động đến lí trí và tình cảm của con người,
kích thích tính tích cực của con người, sẽ nuôi dưỡng cho con người những hành vi đạo đức tốt đẹp.
Trong xã hội có sự phân chia giai cấp, bao giờ nghệ thuật cũng mang tính giai cấp.
Tính giai cấp của nghệ thuật biểu hiện trước hết ở chỗ nó không thể không chịu sự
tác động của thế giới quan, các quan điểm chính trị của một giai cấp, không thể
đứng ngoài chính trị và các quan hệ kinh tế. Trong xã hội chia thành các giai cấp
mà phủ nhận mối liên hệ của nghệ thuật với chính trị thì hoàn toàn sai lầm. Khi
nhấn mạnh tính giai cấp của nghệ thuật, trong xã hội có giai cấp, quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin không phủ nhận tính nhân loại chung của nó, không ít tác
phẩm nghệ thuật mà giá trị của chúng được lưu truyền khắp thế giới qua các thời
đại mặc dù tác giả là đại biểu của một giai cấp nhất định. Có những nền nghệ thuật
của một dân tộc nhất định nhưng đã trở thành những giá trị văn hóa tiểu biểu của
cả nhân loại. Tính giai cấp của nghệ thuật, cách mạng và tiến bộ không những
không mâu thuẫn với tính nhân loại mà ngược lại còn làm rõ sâu sắc giá trị toàn nhân loại.
VD: Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn đánh giá cao vai
trò của văn nghệ, của các văn nghệ sĩ, đồng thời cũng đòi hỏi ở văn nghệ và văn
nghệ sĩ tinh thần trách nhiệm cao cả đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 6. Ý thức tôn giáo
Phần tiếp theo đó chính là ý thức tôn giáo. Nói về bản chất của tôn giáo, Ăng ghen
viết: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc
con người – của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ,
chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang những hình thức siêu trần thế
”.
Nguồn gốc của tôn giáo phải tìm trong tồn tại xã hội, trong quan hệ giữa con người
với tự nhiên lẫn trong các quan hệ xã hội của con người. Khi những công cụ lao
động và phương tiện sản xuất còn kém phát triển, con người dễ cảm thấy yếu đuối
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
bất lực trước giới tự nhiên. Sự bất lực và sợ hãi của con người trước những sức
mạnh của giới tự nhiên là một trong những nguồn gốc của tôn giáo. Nguồn gốc của
tôn giáo còn nằm trong những mối quan hệ xã hội. Trong điều kiện xã hội có áp
bức giai cấp và có tính tự phát còn là những đặc trưng của sự phát triển xã hội.
Những quy luật xã hội biểu hiện như những thế lực mù quáng, trói buộc con người
và thường xuyên quyết định đến số phận của họ khiến con người sợ hãi đó là một
trong những nguồn gốc của tôn giáo
Ý thức tôn giáo với tính cách là hình thái xã hội gồm có tâm lí tôn giáo và hệ tư
tưởng tôn giáo. Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm trạng
thói quen của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo. Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống
giáo lý do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra và truyền bá trong xã hội. Đứng về
mặt lịch sử, tâm lí tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo là hai giai đoạn phát triển của ý
thức tôn giáo nhưng chúng liên hệ tác động qua lại và bổ sung nhau. Tâm lí tôn
giáo đem lại cho hệ tư tưởng tôn giáo một tính chất đặc trưng, một sắc thái tình
cảm riêng. Hệ tư tưởng tôn giáo thuyết minh những hiện tượng tâm lí tôn giáo,
khái quát chúng và làm cho chúng biến đổi theo một chiều hướng nhất định. Ý
thức tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội thực hiện chủ yếu chức năng chủ yếu
của mình là chức năng đền bù – hư ảo trong một xã hội cần đến sự đền bù – hư ảo.
Chức năng đó làm cho ý thức tôn giáo có một đời sống lâu dài, một vị trí đặc biệt
trong xã hội. Chức năng đền bù hư ảo nói lên chức khả năng của tôn giáo có thể bù
đắp, bổ sung một cách hư ảo cái hiện thực mà trong đó con người bất lực trước sức
mạnh của tự nhiên và những điều kiện khách quan của đời sống xã hội. Những
mâu thuẫn của đời sống hiện thực, những bất lực trong thực tiễn của con người
được giải quyết một cách hư ảo trong ý thức của họ. Vì vậy tôn giáo luôn được các
giai cấp thống trị sử dụng như một công cụ áp bức tinh thần, một phương tiện củng
cố địa vị thống trị của họ.
Nếu như ý thức tôn giáo hướng con người vào thế giới những ảo tưởng, siêu tự
nhiên thì trái lại, ý thức khoa học lại mang một nhiệm vụ cao cả là hướng con
người và việc biến đổi hiện thực, cải tạo thế giới để để phục vụ nhu cầu cuộc sống
ngày nhiều mặt và ngày càng tốt hơn, cao hơn của con người. Chủ nghĩa Mác-
Lênin cho rằng điều kiện tiên quyết để khắc phục tôn giáo như một hình thái ý thức
có tính chất tiêu cực là phải xóa bỏ nguồn gốc xã hội của nó, nghĩa là phải tiến
hành một cuộc cách mạng xã hội triệt để nhằm cải tạo cả tồn tại xã hội lẫn ý thức
xã hội. Bằng hoạt động cách mạng tích cực của mình, quần chúng không những cải
tạo xã hội mà còn cải tạo bản thân, giải phóng ý thức mình khỏi những quan niệm
sai lầm; kể cả những quan niệm tôn giáo.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
VD: Nội dung cơ bản của đạo Bà la môn - đạo Hindu
+Thừa nhận thế giới do thần tạo ra và sự bất tử của linh hồn .Thừa nhận Thuyết luân hồi
+ Cho rằng một thực thể tinh thần tối cao tồn tại vĩnh viễn là Braman. Linh hồn cá
thể là Át man là một bộ phận của Braman
+ Con người có sống chết nhưng linh hồn thì tồn tại mãi và luôn hồi qua nhiều kiếp
khác nhau chỉ khi nào Át man hoà nhập với Braman thì mới chấm dứt được thuyết luân hồi
7. Ý thức triết học
Cuối cùng đó chính là ý thức Triết học. Đây là loại ý thức đặc biệt và cao nhất của
tri thức cũng như của các ý thức xã hội. Triết học nhất là Triết học Mác-Lênin cung
cấp cho con người tri thức về thế giới như một chỉnh thể thông qua việc tổng kết
toàn bộ lịch sử phát triển của khoa học và chính bản thân triết học. Khi đánh giá
mối liên hệ của tinh thần với triết học, Hêghen khẳng định: “Xét từ góc độ tinh
thần, chúng ta có thể gọi Triết học là cái cần thiết nhất.” Với Mác thì “mọi triết học
chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình” nên nhất định sẽ có
thời kì mà triết học, không chỉ về bên trong, theo nội dung của nó mà về cả bên
ngoài, theo sự biểu hiện của nó, sẽ tiếp xúc và tác động qua lại với thế giới hiện
thực của thời đại mình. “Lúc đó triết học sẽ khong còn là một hệ thống nhất định
đối với các hệ thống nhất định khác, nó trở thành triết học nói chung đối với thế
giới, trở thành triết học của thế giới hiện đại. Những biểu hiện bên ngoài chứng
minh rằng triết học đã có ý nghĩa khiến cho nó trở thành linh hồn sống của văn hóa…”
Đồng thời, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học nói chung và nhất là
triết học duy vật biện chứng nói riêng, có sứ mệnh trở thành thế giới quan, mà cơ
sở và hạt nhân của thế giới quan đó là tri thức. Chính thế giới quan đó giúp con
người trả lời cho các câu hỏi được nhân loại từ xưa tới nay thường xuyên đặt ra
cho mình. Chẳng hạn, thế giới xung quan ta là gì? Thế giới ấy có điểm bắt đầu và
điểm kết thúc hay không? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại và sự biến đổi đó? Con
người là gì và sinh ra từ đâu và có quan hệ như thế nào với thế giới ấy? Cuộc sống
của con người có ý nghĩa gì? Con người có vị trí nào trong thế giới đó? v.v… Như
vậy, thế giới quan triết học bao hàm trong nó cả nhân sinh quan. Trong thời đại
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com) lOMoARcPSD|36340008
hiện nay, thế giới quan khoa học chân chính nhất là thế giới quan triết học duy vật
biện chứng. Triết học duy vật biện chứng có vai trò to lớn để nhận thức đúng đắn ý
nghĩa và vai trò của các hình thái ý thức xã hội khác; để xác định đúng đắn vị trí
của những hình thái ấy trong cuộc sống và trong xã hội để nhận thức tính quy luật
cùng những đặc điểm và sự phát triển của chúng.
VD: Ý thức được sự vận động phát triển của xã hội việt nam từ chế độ phong
kiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ý thức được mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong
xã hội. Như trong quá trình khai thác than, nếu mỗi người làm việc tách biệt nhau,
không có sự phối hợp giữa các cá nhân, không nghe lời chỉ đạo…tức không tồn tại
mqh giữa những con người (qhsx) thì không thể khai thác than hiệu quả.
Downloaded by Di?u H?ng (nguyendieuhang45@gmail.com)