Bài kiểm tra cá nhân - Luật Hình Sự | Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

Bài kiểm tra cá nhân - Luật Hình Sự | Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Họ và tên: Đặng Thị Minh Châu
Lớp: K68LKD-A
MSV: 23063028
BÀI KIỂM TRA CÁ NHÂN SỐ 1
Phân tích các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS năm 2015
I, KHÁI QUÁT VỀ LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ.
1, Trách nhiệm hình sự là gì?
Có thể hiểu trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý bất
lợi mà người phạm tội phải gánh chịu trước Nhà nước do việc người đó thực hiện tội
phạm.
2, Cơ sở của trách nhiệm hình sự
Có thể khẳng định rằng, các trường hợp loại trừ TNHS chỉ có thể được quy định trên cơ
sở các quy định về TNHS. Điều 2 BLHS năm 2015 quy định: “Chỉ người nào phạm một
tội đã được LHS quy định mới phải chịu TNHS”.
TNHS do Nhà nước áp dụng đối với người phạm tội trên cơ sở hành vi của họ thỏa mãn
các yếu tố cấu thành tội phạm quy định trong LHS (bao gồm cấu thành tội phạm cơ bản,
cấu thành tội phạm tăng nặng, cấu thành tội phạm giảm nhẹ và cấu thành tội phạm bổ
sung). Điều đó có nghĩa là TNHS chỉ đặt ra với một người đã thực hiện hành vi có tính
chất nguy hiểm cho xã hội, hội đủ các dấu hiệu của LHS quy định. Vì thế, tội phạm là
chế định trung tâm của LHS, nó là cơ sở để quy định các chế định khác của LHS, đồng
thời để quy định các tội phạm cụ thể trong LHS.
3, Loại trừ trách nhiệm hình sự
Loại trừ TNHS là trường hợp có hành vi gây thiệt hại khách quan về hình sự nhưng
không bị truy cứu TNHS do không thỏa mãn yếu tố lỗi và được quy định trong Luật Hình
sự.
Sự phân tích trên cho chúng ta thấy rằng lỗi được hình thành bởi hai điều kiện: Sự phát
triển bình thường của hệ thần kinh, là điều kiện khách quan và phải đạt đến một trình độ
nhận thức nhất định, là điều kiện chủ quan.
Do vậy, những tình tiết được loại trừ TNHS đều không thỏa mãn dấu hiệu lỗi của tội
phạm và dựa vào đó có thể phân chia thành ba nhóm tình tiết loại trừ TNHS là: Thứ nhất,
những tình tiết thiếu điều kiện của lỗi có 2 trường hợp: không có năng lực TNHS và chưa
đủ tuổi chịu TNHS; Thứ hai, tình tiết thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội do sự kiện
bất ngờ; Thứ ba, những tình tiết loại trừ tính chất lỗi do mục đích của hành vi: Phòng vệ
chính đáng (Điều 22); Tình thế cấp thiết (Điều 23); Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người
phạm tội (Điều 24); Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học và
công nghệ (Điều 25) và trường hợp thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên
(Điều 26).
II, CÁC TRƯỜNG HỢP LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015.
1. Sự kiện bất ngờ ( Điều 20 )
1.1. Khái niệm và điều luật
Sự kiện bất ngờ là trường hợp đã gây ra hậu quả thiệt hại nhưng người có hành vi gây
thiệt hại không phải chịu trách nhiệm hình sự vì họ không buộc phải thấy trước hoặc
không thể thấy trước hậu quả thiệt hại của hành vi của mình hay nói cách khác vì họ
không có lỗi.
Đây chính là một trong những căn cứ để loại trừ trách nhiệm hình sự, điều này có nghĩa
là mặc dù có hành vi gây hại cho xã hội và phạm vào các tội mà Bộ Luật Hình sự quy
định nhưng sẽ không được coi là tội phạm.
Sự kiện bất ngờ được quy định tại Điều 11 của BLHS năm 1999 và được thiết kế trong
chương các trường hợp loại trừ TNHS của BLHS năm 2015 ( Chương IV ) tại điều 20 :
“Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể
thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu
trách nhiệm hình sự.”
1.2. Các căn cứ xác định sự kiện bất ngờ
a, Điều kiện thứ nhất
Người gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội không thể thấy trước được hành vi của mình
là nguy hiểm cho xã hội, không thấy trước được hậu quả nguy hại xảy ra. Đây là trường
hợp “giới hạn” của nhận thức được đề cập trong lý luận nhận thức, theo đó, ở những điều
kiện, hoàn cảnh khách quan nhất định con người không thể nhận thức được sự nguy hại
của hành vi mà mình thực hiện, cũng như tính chất pháp lý hành vi đó nên đã gây hậu quả
nguy hại cho xã hội. Do đó, sự không nhận được tính chất của hành vi mang tính quy
luật, đặt bất cứ ai trong điều kiện, hoàn cảnh đó cũng không thể thấy trước được hành vi
của mình sẽ gây hậu quả nguy hại cho xã hội. Đây là điều kiện khách quan của sự kiện
bất ngờ, không phụ thuộc và các yếu tố chủ quan của người thực hiện hành vi gây ra hậu
quả nguy hại cho xã hội.
– Lưu ý: Trường hợp sự kiện bất ngờ và trường hợp có lỗi vô ý vì cẩu thả có điểm giống
nhau là chủ thể thực hiện đều không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi
của mình đã gây ra. Nhưng ở trường hợp vô ý vì cẩu thả, người phạm tội có nghĩa vụ
phải thấy trước và có đủ điều kiện để thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành
vi của mình. Người phạm tội đã không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành
vi của mình là do cẩu thả. Còn trong trường hợp sự kiện bất ngờ, chủ thể không có nghĩa
vụ phải thấy trước hậu quả gây nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình hoặc tuy có
nghĩa vụ phải thấy trước nhưng không có đủ điều kiện để thấy trước hậu quả đó. Như
vậy, trong trường hợp sự kiện bất ngờ, việc chủ thể đã không thấy trước hậu quả nguy
hiểm cho xã hội mà hành vi của mình gây ra là do khách quan.
b, Điều kiện thứ hai
Do việc không thấy trước được hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội có tính quy luật
mà con người không thể vượt qua nên LHS quy định không buộc phải biết trước hậu quả
nguy hại hại cho xã hội xảy ra khi thực hiện hành vi. Nói cách khác, chỉ khi nào thuộc
trong các trường hợp luật quy định hoặc trong trường hợp tất yếu không thể thấy trước
được hậu quả nguy hại cho xã hội của hành vi mới được coi là sự kiện bất ngờ. Thỏa mãn
những điều kiện nêu trên hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội mới được coi là hành
vi trong sự kiện bất ngờ.
1.3. Những dấu hiệu của sự kiện pháp lý
a, Chủ thể thực hiện hành vi phải là chủ thể đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
Nếu không đáp ứng điều kiện này thì họ "vô tội" không phải vi yếu tố Sự kiện bất ngờ mà
vì họ không có năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
b, Hành vi phải xâm hại đến lợi ích mà Luật Hình sự bảo vệ, tức là trong giới hạn "nguy
hiểm" mà Luật hình sự quy định. Mà thực tế là nó phải gây hại cho xã hội.
Lưu ý rằng đây là hành vi gây hậu quả nguy hại chứ không phải là hành vi nguy hiểm
như trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm. Bản chất của hành vi nguy hại và hành
vi nguy hiểm là khác nhau và hậu quả pháp lý cũng vậy. Hành vi gây hậu quả nguy hại,
tức nhà làm luật chú trọng và tập trung vào cái hậu quả nguy hại chứ không phải là hành
vi. Hành vi gây nguy hại có thể là những hành vi hợp pháp hoặc hành vi bất hợp pháp.
c, Về ý chí (mong muốn) của người thực hiện hành vi:
Người thực hiện hành vi thực tế không mong muốn hậu quả của hành vi đó sẽ xảy ra.
Điều này trong Điều 20 không mô tả, nhưng đây là một điều kiện để chứng minh rằng
mặc dù người thực hiện hành vi nguy hiểm nhưng được miễn trừ trách nhiệm hình sự.
d, Về lý trí (ý thức) của người thực hiện hành vi:
Họ không nhận thức rằng khi thực hiện hành vi thì sẽ có hậu quả, hay là không thấy được
hậu quả và họ cũng không có nghĩa vụ phải biết điều đó. Nếu họ có nghĩa vụ phải biết
điều đó và có điều kiện để biết điều đó thì họ có thể bị truy cứu vì lỗi vô ý do cẩu thả đối
với một tội phạm nào đó tương ứng.
Trên đây là 04 dấu hiệu để nhận biết Sự kiện bất ngờ.
Ví dụ một tình huống cụ thể:
Đường ở nông thôn thì có rất nhiều rơm mà người dân phơi giữa đường. Mọi người lái xe
đi trên đường đều cán qua những đống rơm nay vì rơm phơi phủ kín đường.
Tuy nhiên, hôm nay lại có 01 cậu bé nằm núp dưới một trong những đống rơm đó và ngủ
quên. Ông A lá xe qua và cán chết cậu bé đó.
Nếu xét qua 04 dấu hiệu nêu trên thì Ông A vô tội theo Điều 20 BLHS 2015.
1.4. Bình luận
Điều luật này có thể được phân tích như sau để dễ dàng nắm bắt nội dung hơn:
Điều kiện giả định bao gồm:(1) hành vi gây hậu quả nguy hại + (2) không thể thấy trước
hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả
Hệ quả: Không phải chịu trách nhiệm hình sự
Phần hệ quả đã quá rõ ràng nên sau đây tác giả chỉ tập trung phân tích (1) (2)
(1) Hành vi gây hậu quả nguy hại
Lưu ý rằng đây là hành vi gây hậu quả nguy hại chứ không phải là hành vi nguy hiểm
như trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm. Tác giả nhấn mạnh nội dung này vì
bản chất của chúng là khác nhau và hậu quả pháp lý cũng vậy. Hành vi gây hậu quả nguy
hại, tức nhà làm luật chú trọng và tập trung vào cái hậu quả nguy hại chứ không phải là
hành vi. Hành vi gây nguy hại có thể là những hành vi hợp pháp hoặc hành vi bất hợp
pháp. Nghe có vẻ phi lý vì sao hành vi hợp pháp nhưng lại có thể gây nguy hại được và
sự kiện bất ngờ là một minh chứng rõ ràng nhất.
Ví dụ: A đang lưu thông trên đường đúng quy định của pháp luật giao thông đường bộ
(làn đường, tốc độ di chuyển và các biện pháp an toàn khác…) (hành vi hợp pháp), bỗng
nhiên có 1 người xuất hiện đột ngột trước đầu xe với khoảng cách gần đến mức không thể
xử lý việc dừng xe, do đó đã tông người này và người này tử vong ngay lập tức (hậu quả
nguy hại). Như vậy chúng ta có thể thấy rất rõ người điều khiển phương tiện đã thực hiện
một hành vi hợp pháp nhưng lại gây ra một hậu quả nguy hại cho xã hội.
Như vậy một câu hỏi đặt ra nếu hành vi đó phạm pháp gây hậu quả nguy hại và thỏa mãn
điều kiện (2) thì có loại trừ trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi hay không?
Câu trả lời là không. Bởi lẽ, không có hành vi phạm pháp luật hình sự nào mà chủ thể đó
không nhận thấy trước được hậu quả có thể xảy ra và pháp luật cũng không bắt buộc họ
phải nhìn thấy trước, bản chất của hành vi vi phạm đã hàm chứa trong nó về một hậu quả
nguy hại cho xã hội. Vì thế có thể hiểu hành vi trong trường hợp trên là hành vi hợp
pháp.
(2)Không thể thấy trước hậu quả hoặc không bắt buộc phải nhìn thấy trước hậu quả. Vẫn
với ví dụ trên, chúng ta thấy rằng việc người điều khiển phương tiện tham gia giao thông
đúng với các quy định của pháp luật giao thông thì không có lý do gì để anh ta có thể
thấy hậu quả của việc chết người xảy ra từ việc lái xe đúng quy định của mình và pháp
luật cũng không bắt buộc anh ta phải thấy, lường trước hậu quả có một người nào đó lại
bỗng nhiên xuất hiện trước đầu xe để rồi gây ra hậu quả chết người.
Phân tích thêm một chút để chúng ta hiểu thêm về trường hợp pháp luật bắt buộc phải
nhìn thấy trước hậu quả:
Trong một số trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng
ý chí chủ quan của người đó không nhận thấy trước hậu quả có thể xảy ra từ hành vi nguy
hiểm của mình. Ví dụ: B giăng bẫy điện dân dụng để diệt chuột tại nơi đông dân cư qua
lại thường xuyên. Trong trường hợp này có thể B không thấy trước được hậu quả chết
người có thể xảy ra khi bị giật điện nhưng pháp luật bắt buộc B phải thấy được điều này.
Nếu hậu quả chết người xảy ra thì đã thỏa mãn yếu tố mặt khách quan (hành vi nguy
hiểm), nếu thỏa mãn các yếu tố cầu thành còn lại thì B phải chịu trách nhiệm hình sự của
hành vi giăng điện bẫy chuột này.
2. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
2.1. Khái niệm và điều luật.
Tình trạng không có năng lực TNHS là khi thực hiện hành vi nguy hiểm gây hậu quả
nguy hại cho xã hội nhưng không có đủ một trong các cơ sở của lỗi.
Lỗi là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm và là “thái độ tâm lý của chủ thể hành vi nguy
hiểm cho xã hội không phải sau sự kiện thực hiện hành vi mà trong quá trình thực hiện
nó, đồng thời với quá trình thực hiện hành vi’”. Do đó, thái độ chủ quan của người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi và hậu quả của hành vi đó là một quá
trình hình thành các yếu tố: Đạt đến một độ tuổi nhất định và có năng lực TNHS; những
yếu tố này tạo nên bản chất của dấu hiệu lỗi, đó là “sự phủ định chủ quan (thái độ phủ
định) của chủ thể đối với các lợi ích của xã hội, sự phủ định chủ quan này của chủ thể
được phản ánh qua việc thực hiện hành vi gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được Luật
Hình sự bảo vệ”
Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng không có
năng lực TNHS không bị coi là tội phạm và được coi là một trong các tình tiết loại trừ
TNHS.
Ở đây cần phân biệt người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (theo
Điều 21 bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017) với người không có năng
lực trách nhiệm hình sự. Người không có năng lực trách nhiệm hình sự có thể là người
trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (theo Điều 21 bộ luật hình sự
năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017) hoặc là người chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình
sự (theo Điều 12 bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
Điều 21 BLHS năm 2015 đưa ra định nghĩa về tình trạng không có năng lực TNHS như
sau: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần,
một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình,
thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”.
2.2. Các căn cứ xác định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự.
a, Điều kiện về y học
Khoa học đã khẳng định ý thức con người chỉ có thể hình thành và phát triển khi cá nhân
đó có não bộ bình thường, đó là điều kiện có tính chất nền tảng. Vì vậy, người mắc một
trong các bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi sẽ rơi vào trong tình trạng không hoặc suy kiệt ý thức.
b, Điều kiện về pháp lý
Điều kiện pháp lý đã chỉ ra, việc mắc một trong các bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác
phải đến mức làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình
mới được coi là trong tình trạng không có năng lực TNHS. Mắc một trong các bệnh tâm
thần hoặc một bệnh khác là điều kiện cần và mất khả năng nhận thức, điều khiển hành vi
của người mắc bệnh là điều kiện đủ của tình trạng không có năng lực TNHS. Vì vậy, nếu
mắc một trong các bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác nhưng chưa đến mức làm mất khả
năng nhận thức, điều khiển hành vi của người mắc bệnh thì không được coi là tình trạng
không có năng lực TNHS.
- Lưu ý với các trường hợp mất khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của người
do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác do nguyên nhân mất khả năng
nhận thức, điều khiển hành vi. Nếu như bệnh tật là nguyên nhân của tình trạng
không có năng lực TNHS có tính chất bệnh lý, sinh học là quy luật khách quan thì
việc dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh lại là nguyên nhân chủ quan do lỗi
của người sử dụng dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh. Vì vậy, người gây ra
hậu quả về hình sự trong tình trạng không có năng lực TNHS được coi là tình tiết
loại trừ TNHS còn trong trường hợp dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh thì
phải chịu TNHS. “Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích
mạnh khác, thì vẫn phải chịu TNHS” (Điều 13 BLHS).
2.3. Dấu hiệu xác định tình trạng không có năng lực TNHS
- Về dấu hiệu y học: Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
là người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần.
- Về dấu hiệu tâm lý: Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
là người không có (hoặc không còn) năng lực nhận thức đòi hỏi của xã hội liên
quan đến hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội đã thực hiện, là người không có
năng lực đánh giá hành vi đã thực hiện là đúng hay sai, nên làm hay không nên
làm. Như vậy, họ cũng không thể có được năng lực kiềm chế thực hiện hành vi đó.
Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự còn có thể là người
tuy có năng lực nhận thức, tuy có khả năng đánh giá được tính chất xã hội của
hành vi của mình nhưng do bệnh lí không thể kiềm chế được việc thực hiện hành
vi đó.
Chỉ được coi là trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự khi đồng thời
cả hai dấu hiệu: y học và tâm lí đều thoả mãn. Hai dấu hiệu này tuy có quan hệ với
nhau (trong đó dấu hiệu y học có vai trò là nguyên nhân và dấu hiệu tâm lí có vai trò
là kết quả) nhưng không có nghĩa đã mắc bệnh tâm thần là đều dẫn đến việc mất năng
lực nhận thức hoặc mất năng lực điều khiển.
Việc xác định hai dấu hiệu này đều thuộc nội dung của giám định tâm thần tư pháp.
Kết luận giám định tâm thần tư pháp không chỉ xác định người thực hiện hành vi có
tính chất gây thiệt hại cho xã hội có mắc bệnh tâm thần và có trong trạng thái bệnh
khi thực hiện hành vi đó hay không mà còn xác định ảnh hưởng của bệnh đã mắc (nếu
có) đối với năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi của người bệnh.
2.4. Bình luận
Điều luật trên được trình bày giản tiện lại để dễ phân tích:
Điều kiện giả định:(1) Hành vi nguy hiểm cho xã hội +(2) mắc bệnh tâm thần, một bệnh
khác =>(3) làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
Hậu quả:Không phải chịu trách nhiệm hình sự
Dễ dàng để nhận thấy đây là trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự do không thỏa mãn
được yếu tố mặt chủ thể trong cấu thành tội phạm. Cụ thể là chủ thể đã không đáp ứng
được điều kiện “..do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện…”. Cụ thể:
(1) Hành vi nguy hiểm cho xã hội: Hành vi nguy hiểm ở đây được hiểu là những hành vi
có thể hoặc đã gây tổn hại đến các mối quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Nói
cách khác, hành vi đó phải là hành vi thuộc mặt khách quan của ít nhất một tội được quy
định cụ thể trong Bộ Luật này. Đây là tiền đề để dẫn nhập vào các nội dung sau, bản thân
nó không có giá trị trong việc có loại trừ trách nhiệm hình sự của chủ thể thực hiện hành
vi hay không và dấu hiệu hành vi khách quan này không phải là mấu chốt của vấn đề.
(2)Trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác: Đầu tiên cần phải chú ý đến cụm
“trong khi đang”. Trước tiên cần xác định như thế nào là đang mắc bệnh tâm thần hoặc
bệnh khác. Cơ sở nào để xác định một ai đó có đang mắc bệnh tâm thần hay không? Có 2
trường hợp có thể xảy ra
Trường hợp 1: Người đó đã có Giấy xác nhận của cơ quan Y tế có thẩm quyền về bệnh
tâm thần đang mắc phải và (hoặc) tuyên bố mất năng lực hành vi của Tòa án.
Trường hợp 2: Chưa có bất kỳ một giấy tờ nào từ cơ quan có thầm quyền chứng minh
tình trạng bệnh lý của người thực hiện hành vi.
Trường hợp 1 thông thường sẽ rất dễ dàng trong việc xác định người đó có bị mắc bệnh
tâm thần hay không, tuy nhiên trong trường hợp 2 thì việc này sẽ trở nên khó khăn hơn
khi phải tiến hành việc giám định bệnh tâm thần sau khi hành vi đã được thực hiện trong
thực tế. Và cái khó khăn nhất là làm rõ được 2 chữ “trong khi”. Ngành Y học đã chứng
minh có một số bệnh tâm thần mà biểu hiện của bệnh lý không diễn ra một cách liên tục,
cái mà nhân gian hay gọi 3 hồi tỉnh 3 hồi say nghĩa là mặc dù bị mắc bệnh nhưng tỉnh
thoảng họ vẫn tỉnh táo nhận thức một cách bình thường. Đối chiếu theo đúng quy định
của điều luật trong trường hợp đó họ sẽ không được loại trừ trách nhiệm hình sự. Tuy
nhiên thực tế để xác định việc có loại trừ hay không trong những trường hợp này rất khó
khăn. Và điều luật này cũng nhiều lần bị lợi dụng nhằm trốn tránh trách nhiệm bằng cách
xin giấy chứng nhận bị bệnh tâm thần mà báo chí hay gọi là kim bài miễn tử.
(3)Làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi:mục (2) chỉ là điều
kiện cần mà thôi, để đảm bảo điều kiện đủ, bệnh tâm thần hay bệnh khác nào đó phải dẫn
đến mất khả năng nhận thức (không thể biết được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
hội) hoặc mất khả năng điều khiển hành vi (vẫn ý thức được nhưng không thể điều khiển
được do bệnh lý – thông thường là các bệnh liên quan đến hệ thần kinh vận động). Lưu ý
ở đây là mất chứ không phải là hạn chế, nghĩa là trường hợp hạn chế khả năng nhận thức
và hạn chế khả năng điều khiển hành vi thì vẫn không thuộc trường hợp được loại trừ
theo quy định tại điều luật này mà hạn chế đó có thể được dùng làm căn cứ để giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự.
3. Phòng vệ chính đáng ( Điều 22)
3.1. Khái niệm và điều luật
BLHS năm 2015 quy định phòng vệ chính đáng tại khoản 1 Điều 22 như sau: “Phòng vệ
chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của
người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách
cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng
không phải là tội phạm”.
Phòng vệ chính đáng là quyền của công dân, Nhà nước quy định cho công dân được thực
hiện quyền phòng vệ để bảo vệ lợi ích hợp pháp khi có hành vi tấn công, quyền này công
dân được thực hiện mọi lúc mọi nơi và ngay trong cả trường hợp còn cách khác để bảo vệ
lợi ích hợp pháp. Khi thực hiện quyền này, công dân không cần phải xin phép, thỉnh thị
nhà chức trách mà tự mình quyết định. Phòng vệ chính đáng là quyền nhưng không phải
là nghĩa vụ pháp lý của công dân, mà nó chỉ là nghĩa vụ đạo đức. Vì vậy, đứng trước sự
tấn công xâm hại lợi ích hợp pháp, công dân không thực hiện hành vi chống trả để lợi ích
hợp pháp bị xâm hại thì cũng không thể truy cứu TNHS đối với họ ( trừ một số trường
hợp đặc biệt, do tính chất nghề nghiệp hoặc do trách nhiệm của chức trách được giao mà
một người có nghĩa vụ pháp lý phải thực hiện nghĩa vụ chống trả lại hành vi tấn công bảo
vệ lợi ích hợp pháp như: Chiến sĩ công an làm nhiệm vụ đấu tranh chống tội phạm... thì
họ phải có nghĩa vụ pháp lý chống trả hành vi tấn công bảo vệ lợi ích hợp pháp, nếu
không thực hiện nghĩa vụ này họ phải chịu TNHS.)
Phòng vệ chính đáng là quyền của công dân và không phải chịu TNHS nên pháp luật quy
định giới hạn về nội dung của hành vi phòng vệ chính đáng mà ngoài giới hạn đó sẽ bị
coi là hành vi phạm tội, khoản 2 Điều 22 BLHS quy đinh :
“ 2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần
thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự
theo quy định của Bộ luật này.”
Giới hạn này được biểu hiện cụ thể bằng các điều kiện thuộc về diễn biến khách quan của
hành vi tấn công và điều kiện chủ quan thuộc về bản thân người phòng vệ.
3.2. Điều kiện của phòng vệ chính đáng
a, điều kiện 1: hành vi tấn công xâm hại lợi ích hợp pháp – cơ sở làm phát sinh quyền
phòng vệ chính đáng.
Lợi ích hợp pháp là những quyền của Nhà nước, tổ chức và công dân được pháp luật quy
định, như các quyền sống, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, về tài sản... Nói cách khác, đó
là những quyền và lợi ích về vật chất, tinh thần được pháp luật quy định, bảo vệ. Điều 22
BLHS năm 2015 xác định khi lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, lợi ích hợp pháp của
bản thân người phòng vệ hoặc của người khác bị hành vi tấn công xâm hại thì cơ sở của
quyền phòng vệ chính đáng xuất hiện.
Vì vậy, hành vi chống trả để bảo vệ một lợi ích bất hợp pháp sẽ không được coi là phòng
vệ chính đáng và phải chịu TNHS, chẳng hạn: hành vi chống lại lệnh bắt để tạm giam bị
can của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền...
Hành vi tấn công xâm hại lợi ích hợp pháp được quy định trong LHS bao gồm: hành vi
phạm tội và những hành vi nguy hiểm cho xã hội khác như hành vi của người chưa đủ
tuổi chịu TNHS, hành vi của người người không có năng lực TNHS, những hành vi nguy
hiểm cho xã hội chưa đến mức bị coi là tội phạm...
b, Điều kiện 2: Hành vi tấn công phải có thật và đang diễn ra chứ không phải do suy đoán
tưởng tượng.
Sự tấn công phải có thật, nghĩa là sự xâm hại đối với những lợi ích được pháp luật bảo vệ
phải tồn tại khách quan chứ không phải do suy đoán, tưởng tượng. Người có hành vi
phòng vệ tưởng tượng phải chịu TNHS vì trên thực tế lợi ích hợp pháp không bị xâm hại
hoặc bị đe dọa xâm hại, trong khi hành vi phòng vệ tưởng tượng lại xâm hại đến lợi ích
được pháp luật bảo vệ nên họ phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do hành vi của họ gây
nên. Nói cách khác, phòng vệ tưởng tượng là trường hợp người thực hiện hành vi chống
trả khi không có cơ sở làm xuất hiện quyền phòng vệ chính đáng là hành vi tấn công xâm
hại lợi ích hợp pháp, nên người có hành vi phòng vệ tưởng tượng phải chịu TNHS. Tuy
bị truy cứu TNHS nhưng do người phòng vệ tưởng tượng có động cơ muốn bảo vệ lợi ích
hợp pháp nên họ được giảm nhẹ TNHS.
Hành vi tấn công xâm hại lợi ích hợp pháp phải đang xảy ra thì hành vi phòng vệ mới
được coi là hợp pháp và là phòng vệ chính đáng. Được coi là hành vi tấn công đang xảy
ra khi hành vi đó đã xâm hại đến lợi ích được pháp luật bảo vệ và chưa kết thúc.
Sở dĩ LHS coi hành vi tấn công đang xảy ra mới là phòng vệ chính đáng vì chỉ có như
vậy mục đích ngăn chặn hành vi tấn công, bảo vệ lợi ích hợp pháp của phòng vệ chính
đáng mới đạt được. Vì vậy, trường hợp hành vi tấn công chưa xảy ra, người tấn công mới
chỉ có hành vi chuẩn bị và trường hợp hành vi tấn công đã kết thúc, lợi ích hợp pháp đã bị
xâm hại, nếu có hành vi chống trả sẽ không được coi là phòng vệ chính đáng. Cả hai
trường hợp này đều không có cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ, hoặc là sự tấn công
xâm hại lợi ích hợp pháp chưa xảy ra hoặc là sự tấn công đã kết thúc, lợi ích hợp pháp đã
bị xâm hại.
c, Điều kiện 3: Phòng vệ chính đáng phải gây thiệt hại cho chính người đang có hành vi
tấn công.
Hành vi của người phòng vệ chỉ được chống trả gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe cho
người có hành vi tấn công chứ không được gây thiệt hại cho các lợi ích khác của người
đang có hành vi tấn công. Vì vậy, LHS không coi các trường hợp gây thiệt hại về tài sản,
danh dự, nhân phẩm... cho người đang có hành vi tấn công là phòng vệ chính đáng.
| 1/25

Preview text:

Họ và tên: Đặng Thị Minh Châu Lớp: K68LKD-A MSV: 23063028
BÀI KIỂM TRA CÁ NHÂN SỐ 1
Phân tích các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS năm 2015
I, KHÁI QUÁT VỀ LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ.
1, Trách nhiệm hình sự là gì?
Có thể hiểu trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý bất
lợi mà người phạm tội phải gánh chịu trước Nhà nước do việc người đó thực hiện tội phạm.
2, Cơ sở của trách nhiệm hình sự
Có thể khẳng định rằng, các trường hợp loại trừ TNHS chỉ có thể được quy định trên cơ
sở các quy định về TNHS. Điều 2 BLHS năm 2015 quy định: “Chỉ người nào phạm một
tội đã được LHS quy định mới phải chịu TNHS”.
TNHS do Nhà nước áp dụng đối với người phạm tội trên cơ sở hành vi của họ thỏa mãn
các yếu tố cấu thành tội phạm quy định trong LHS (bao gồm cấu thành tội phạm cơ bản,
cấu thành tội phạm tăng nặng, cấu thành tội phạm giảm nhẹ và cấu thành tội phạm bổ
sung). Điều đó có nghĩa là TNHS chỉ đặt ra với một người đã thực hiện hành vi có tính
chất nguy hiểm cho xã hội, hội đủ các dấu hiệu của LHS quy định. Vì thế, tội phạm là
chế định trung tâm của LHS, nó là cơ sở để quy định các chế định khác của LHS, đồng
thời để quy định các tội phạm cụ thể trong LHS.
3, Loại trừ trách nhiệm hình sự
Loại trừ TNHS là trường hợp có hành vi gây thiệt hại khách quan về hình sự nhưng
không bị truy cứu TNHS do không thỏa mãn yếu tố lỗi và được quy định trong Luật Hình sự.
Sự phân tích trên cho chúng ta thấy rằng lỗi được hình thành bởi hai điều kiện: Sự phát
triển bình thường của hệ thần kinh, là điều kiện khách quan và phải đạt đến một trình độ
nhận thức nhất định, là điều kiện chủ quan.
Do vậy, những tình tiết được loại trừ TNHS đều không thỏa mãn dấu hiệu lỗi của tội
phạm và dựa vào đó có thể phân chia thành ba nhóm tình tiết loại trừ TNHS là: Thứ nhất,
những tình tiết thiếu điều kiện của lỗi có 2 trường hợp: không có năng lực TNHS và chưa
đủ tuổi chịu TNHS; Thứ hai, tình tiết thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội do sự kiện
bất ngờ; Thứ ba, những tình tiết loại trừ tính chất lỗi do mục đích của hành vi: Phòng vệ
chính đáng (Điều 22); Tình thế cấp thiết (Điều 23); Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người
phạm tội (Điều 24); Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học và
công nghệ (Điều 25) và trường hợp thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên (Điều 26).
II, CÁC TRƯỜNG HỢP LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015.
1. Sự kiện bất ngờ ( Điều 20 ) 1.1.
Khái niệm và điều luật
Sự kiện bất ngờ là trường hợp đã gây ra hậu quả thiệt hại nhưng người có hành vi gây
thiệt hại không phải chịu trách nhiệm hình sự vì họ không buộc phải thấy trước hoặc
không thể thấy trước hậu quả thiệt hại của hành vi của mình hay nói cách khác vì họ không có lỗi.
Đây chính là một trong những căn cứ để loại trừ trách nhiệm hình sự, điều này có nghĩa
là mặc dù có hành vi gây hại cho xã hội và phạm vào các tội mà Bộ Luật Hình sự quy
định nhưng sẽ không được coi là tội phạm.
Sự kiện bất ngờ được quy định tại Điều 11 của BLHS năm 1999 và được thiết kế trong
chương các trường hợp loại trừ TNHS của BLHS năm 2015 ( Chương IV ) tại điều 20 :
“Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể
thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.” 1.2.
Các căn cứ xác định sự kiện bất ngờ a, Điều kiện thứ nhất
Người gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội không thể thấy trước được hành vi của mình
là nguy hiểm cho xã hội, không thấy trước được hậu quả nguy hại xảy ra. Đây là trường
hợp “giới hạn” của nhận thức được đề cập trong lý luận nhận thức, theo đó, ở những điều
kiện, hoàn cảnh khách quan nhất định con người không thể nhận thức được sự nguy hại
của hành vi mà mình thực hiện, cũng như tính chất pháp lý hành vi đó nên đã gây hậu quả
nguy hại cho xã hội. Do đó, sự không nhận được tính chất của hành vi mang tính quy
luật, đặt bất cứ ai trong điều kiện, hoàn cảnh đó cũng không thể thấy trước được hành vi
của mình sẽ gây hậu quả nguy hại cho xã hội. Đây là điều kiện khách quan của sự kiện
bất ngờ, không phụ thuộc và các yếu tố chủ quan của người thực hiện hành vi gây ra hậu
quả nguy hại cho xã hội.
– Lưu ý: Trường hợp sự kiện bất ngờ và trường hợp có lỗi vô ý vì cẩu thả có điểm giống
nhau là chủ thể thực hiện đều không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi
của mình đã gây ra. Nhưng ở trường hợp vô ý vì cẩu thả, người phạm tội có nghĩa vụ
phải thấy trước và có đủ điều kiện để thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành
vi của mình. Người phạm tội đã không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành
vi của mình là do cẩu thả. Còn trong trường hợp sự kiện bất ngờ, chủ thể không có nghĩa
vụ phải thấy trước hậu quả gây nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình hoặc tuy có
nghĩa vụ phải thấy trước nhưng không có đủ điều kiện để thấy trước hậu quả đó. Như
vậy, trong trường hợp sự kiện bất ngờ, việc chủ thể đã không thấy trước hậu quả nguy
hiểm cho xã hội mà hành vi của mình gây ra là do khách quan. b, Điều kiện thứ hai
Do việc không thấy trước được hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội có tính quy luật
mà con người không thể vượt qua nên LHS quy định không buộc phải biết trước hậu quả
nguy hại hại cho xã hội xảy ra khi thực hiện hành vi. Nói cách khác, chỉ khi nào thuộc
trong các trường hợp luật quy định hoặc trong trường hợp tất yếu không thể thấy trước
được hậu quả nguy hại cho xã hội của hành vi mới được coi là sự kiện bất ngờ. Thỏa mãn
những điều kiện nêu trên hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội mới được coi là hành
vi trong sự kiện bất ngờ. 1.3.
Những dấu hiệu của sự kiện pháp lý
a, Chủ thể thực hiện hành vi phải là chủ thể đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
Nếu không đáp ứng điều kiện này thì họ "vô tội" không phải vi yếu tố Sự kiện bất ngờ mà
vì họ không có năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
b, Hành vi phải xâm hại đến lợi ích mà Luật Hình sự bảo vệ, tức là trong giới hạn "nguy
hiểm" mà Luật hình sự quy định. Mà thực tế là nó phải gây hại cho xã hội.
Lưu ý rằng đây là hành vi gây hậu quả nguy hại chứ không phải là hành vi nguy hiểm
như trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm. Bản chất của hành vi nguy hại và hành
vi nguy hiểm là khác nhau và hậu quả pháp lý cũng vậy. Hành vi gây hậu quả nguy hại,
tức nhà làm luật chú trọng và tập trung vào cái hậu quả nguy hại chứ không phải là hành
vi. Hành vi gây nguy hại có thể là những hành vi hợp pháp hoặc hành vi bất hợp pháp.
c, Về ý chí (mong muốn) của người thực hiện hành vi:
Người thực hiện hành vi thực tế không mong muốn hậu quả của hành vi đó sẽ xảy ra.
Điều này trong Điều 20 không mô tả, nhưng đây là một điều kiện để chứng minh rằng
mặc dù người thực hiện hành vi nguy hiểm nhưng được miễn trừ trách nhiệm hình sự.
d, Về lý trí (ý thức) của người thực hiện hành vi:
Họ không nhận thức rằng khi thực hiện hành vi thì sẽ có hậu quả, hay là không thấy được
hậu quả và họ cũng không có nghĩa vụ phải biết điều đó. Nếu họ có nghĩa vụ phải biết
điều đó và có điều kiện để biết điều đó thì họ có thể bị truy cứu vì lỗi vô ý do cẩu thả đối
với một tội phạm nào đó tương ứng.
Trên đây là 04 dấu hiệu để nhận biết Sự kiện bất ngờ.
Ví dụ một tình huống cụ thể:
Đường ở nông thôn thì có rất nhiều rơm mà người dân phơi giữa đường. Mọi người lái xe
đi trên đường đều cán qua những đống rơm nay vì rơm phơi phủ kín đường.
Tuy nhiên, hôm nay lại có 01 cậu bé nằm núp dưới một trong những đống rơm đó và ngủ
quên. Ông A lá xe qua và cán chết cậu bé đó.
Nếu xét qua 04 dấu hiệu nêu trên thì Ông A vô tội theo Điều 20 BLHS 2015. 1.4. Bình luận
Điều luật này có thể được phân tích như sau để dễ dàng nắm bắt nội dung hơn:
Điều kiện giả định bao gồm:(1) hành vi gây hậu quả nguy hại + (2) không thể thấy trước
hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả
Hệ quả: Không phải chịu trách nhiệm hình sự
Phần hệ quả đã quá rõ ràng nên sau đây tác giả chỉ tập trung phân tích (1) (2)
(1) Hành vi gây hậu quả nguy hại
Lưu ý rằng đây là hành vi gây hậu quả nguy hại chứ không phải là hành vi nguy hiểm
như trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm. Tác giả nhấn mạnh nội dung này vì
bản chất của chúng là khác nhau và hậu quả pháp lý cũng vậy. Hành vi gây hậu quả nguy
hại, tức nhà làm luật chú trọng và tập trung vào cái hậu quả nguy hại chứ không phải là
hành vi. Hành vi gây nguy hại có thể là những hành vi hợp pháp hoặc hành vi bất hợp
pháp. Nghe có vẻ phi lý vì sao hành vi hợp pháp nhưng lại có thể gây nguy hại được và
sự kiện bất ngờ là một minh chứng rõ ràng nhất.
Ví dụ: A đang lưu thông trên đường đúng quy định của pháp luật giao thông đường bộ
(làn đường, tốc độ di chuyển và các biện pháp an toàn khác…) (hành vi hợp pháp), bỗng
nhiên có 1 người xuất hiện đột ngột trước đầu xe với khoảng cách gần đến mức không thể
xử lý việc dừng xe, do đó đã tông người này và người này tử vong ngay lập tức (hậu quả
nguy hại). Như vậy chúng ta có thể thấy rất rõ người điều khiển phương tiện đã thực hiện
một hành vi hợp pháp nhưng lại gây ra một hậu quả nguy hại cho xã hội.
Như vậy một câu hỏi đặt ra nếu hành vi đó phạm pháp gây hậu quả nguy hại và thỏa mãn
điều kiện (2) thì có loại trừ trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi hay không?
Câu trả lời là không. Bởi lẽ, không có hành vi phạm pháp luật hình sự nào mà chủ thể đó
không nhận thấy trước được hậu quả có thể xảy ra và pháp luật cũng không bắt buộc họ
phải nhìn thấy trước, bản chất của hành vi vi phạm đã hàm chứa trong nó về một hậu quả
nguy hại cho xã hội. Vì thế có thể hiểu hành vi trong trường hợp trên là hành vi hợp pháp.
(2)Không thể thấy trước hậu quả hoặc không bắt buộc phải nhìn thấy trước hậu quả. Vẫn
với ví dụ trên, chúng ta thấy rằng việc người điều khiển phương tiện tham gia giao thông
đúng với các quy định của pháp luật giao thông thì không có lý do gì để anh ta có thể
thấy hậu quả của việc chết người xảy ra từ việc lái xe đúng quy định của mình và pháp
luật cũng không bắt buộc anh ta phải thấy, lường trước hậu quả có một người nào đó lại
bỗng nhiên xuất hiện trước đầu xe để rồi gây ra hậu quả chết người.
Phân tích thêm một chút để chúng ta hiểu thêm về trường hợp pháp luật bắt buộc phải
nhìn thấy trước hậu quả:
Trong một số trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng
ý chí chủ quan của người đó không nhận thấy trước hậu quả có thể xảy ra từ hành vi nguy
hiểm của mình. Ví dụ: B giăng bẫy điện dân dụng để diệt chuột tại nơi đông dân cư qua
lại thường xuyên. Trong trường hợp này có thể B không thấy trước được hậu quả chết
người có thể xảy ra khi bị giật điện nhưng pháp luật bắt buộc B phải thấy được điều này.
Nếu hậu quả chết người xảy ra thì đã thỏa mãn yếu tố mặt khách quan (hành vi nguy
hiểm), nếu thỏa mãn các yếu tố cầu thành còn lại thì B phải chịu trách nhiệm hình sự của
hành vi giăng điện bẫy chuột này.
2. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự 2.1.
Khái niệm và điều luật.
Tình trạng không có năng lực TNHS là khi thực hiện hành vi nguy hiểm gây hậu quả
nguy hại cho xã hội nhưng không có đủ một trong các cơ sở của lỗi.
Lỗi là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm và là “thái độ tâm lý của chủ thể hành vi nguy
hiểm cho xã hội không phải sau sự kiện thực hiện hành vi mà trong quá trình thực hiện
nó, đồng thời với quá trình thực hiện hành vi’”. Do đó, thái độ chủ quan của người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi và hậu quả của hành vi đó là một quá
trình hình thành các yếu tố: Đạt đến một độ tuổi nhất định và có năng lực TNHS; những
yếu tố này tạo nên bản chất của dấu hiệu lỗi, đó là “sự phủ định chủ quan (thái độ phủ
định) của chủ thể đối với các lợi ích của xã hội, sự phủ định chủ quan này của chủ thể
được phản ánh qua việc thực hiện hành vi gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ”
Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng không có
năng lực TNHS không bị coi là tội phạm và được coi là một trong các tình tiết loại trừ TNHS.
Ở đây cần phân biệt người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (theo
Điều 21 bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017) với người không có năng
lực trách nhiệm hình sự. Người không có năng lực trách nhiệm hình sự có thể là người
trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (theo Điều 21 bộ luật hình sự
năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017) hoặc là người chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình
sự (theo Điều 12 bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
Điều 21 BLHS năm 2015 đưa ra định nghĩa về tình trạng không có năng lực TNHS như
sau: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần,
một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình,
thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”. 2.2.
Các căn cứ xác định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. a, Điều kiện về y học
Khoa học đã khẳng định ý thức con người chỉ có thể hình thành và phát triển khi cá nhân
đó có não bộ bình thường, đó là điều kiện có tính chất nền tảng. Vì vậy, người mắc một
trong các bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi sẽ rơi vào trong tình trạng không hoặc suy kiệt ý thức.
b, Điều kiện về pháp lý
Điều kiện pháp lý đã chỉ ra, việc mắc một trong các bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác
phải đến mức làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình
mới được coi là trong tình trạng không có năng lực TNHS. Mắc một trong các bệnh tâm
thần hoặc một bệnh khác là điều kiện cần và mất khả năng nhận thức, điều khiển hành vi
của người mắc bệnh là điều kiện đủ của tình trạng không có năng lực TNHS. Vì vậy, nếu
mắc một trong các bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác nhưng chưa đến mức làm mất khả
năng nhận thức, điều khiển hành vi của người mắc bệnh thì không được coi là tình trạng không có năng lực TNHS.
- Lưu ý với các trường hợp mất khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của người
do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác do nguyên nhân mất khả năng
nhận thức, điều khiển hành vi. Nếu như bệnh tật là nguyên nhân của tình trạng
không có năng lực TNHS có tính chất bệnh lý, sinh học là quy luật khách quan thì
việc dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh lại là nguyên nhân chủ quan do lỗi
của người sử dụng dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh. Vì vậy, người gây ra
hậu quả về hình sự trong tình trạng không có năng lực TNHS được coi là tình tiết
loại trừ TNHS còn trong trường hợp dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh thì
phải chịu TNHS. “Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích
mạnh khác, thì vẫn phải chịu TNHS” (Điều 13 BLHS). 2.3.
Dấu hiệu xác định tình trạng không có năng lực TNHS
- Về dấu hiệu y học: Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
là người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần.
- Về dấu hiệu tâm lý: Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
là người không có (hoặc không còn) năng lực nhận thức đòi hỏi của xã hội liên
quan đến hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội đã thực hiện, là người không có
năng lực đánh giá hành vi đã thực hiện là đúng hay sai, nên làm hay không nên
làm. Như vậy, họ cũng không thể có được năng lực kiềm chế thực hiện hành vi đó.
Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự còn có thể là người
tuy có năng lực nhận thức, tuy có khả năng đánh giá được tính chất xã hội của
hành vi của mình nhưng do bệnh lí không thể kiềm chế được việc thực hiện hành vi đó.
Chỉ được coi là trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự khi đồng thời
cả hai dấu hiệu: y học và tâm lí đều thoả mãn. Hai dấu hiệu này tuy có quan hệ với
nhau (trong đó dấu hiệu y học có vai trò là nguyên nhân và dấu hiệu tâm lí có vai trò
là kết quả) nhưng không có nghĩa đã mắc bệnh tâm thần là đều dẫn đến việc mất năng
lực nhận thức hoặc mất năng lực điều khiển.
Việc xác định hai dấu hiệu này đều thuộc nội dung của giám định tâm thần tư pháp.
Kết luận giám định tâm thần tư pháp không chỉ xác định người thực hiện hành vi có
tính chất gây thiệt hại cho xã hội có mắc bệnh tâm thần và có trong trạng thái bệnh
khi thực hiện hành vi đó hay không mà còn xác định ảnh hưởng của bệnh đã mắc (nếu
có) đối với năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi của người bệnh. 2.4. Bình luận
Điều luật trên được trình bày giản tiện lại để dễ phân tích:
Điều kiện giả định:(1) Hành vi nguy hiểm cho xã hội +(2) mắc bệnh tâm thần, một bệnh
khác =>(3) làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
Hậu quả:Không phải chịu trách nhiệm hình sự
Dễ dàng để nhận thấy đây là trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự do không thỏa mãn
được yếu tố mặt chủ thể trong cấu thành tội phạm. Cụ thể là chủ thể đã không đáp ứng
được điều kiện “..do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện…”. Cụ thể:
(1) Hành vi nguy hiểm cho xã hội: Hành vi nguy hiểm ở đây được hiểu là những hành vi
có thể hoặc đã gây tổn hại đến các mối quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Nói
cách khác, hành vi đó phải là hành vi thuộc mặt khách quan của ít nhất một tội được quy
định cụ thể trong Bộ Luật này. Đây là tiền đề để dẫn nhập vào các nội dung sau, bản thân
nó không có giá trị trong việc có loại trừ trách nhiệm hình sự của chủ thể thực hiện hành
vi hay không và dấu hiệu hành vi khách quan này không phải là mấu chốt của vấn đề.
(2)Trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác: Đầu tiên cần phải chú ý đến cụm
“trong khi đang”. Trước tiên cần xác định như thế nào là đang mắc bệnh tâm thần hoặc
bệnh khác. Cơ sở nào để xác định một ai đó có đang mắc bệnh tâm thần hay không? Có 2
trường hợp có thể xảy ra
Trường hợp 1: Người đó đã có Giấy xác nhận của cơ quan Y tế có thẩm quyền về bệnh
tâm thần đang mắc phải và (hoặc) tuyên bố mất năng lực hành vi của Tòa án.
Trường hợp 2: Chưa có bất kỳ một giấy tờ nào từ cơ quan có thầm quyền chứng minh
tình trạng bệnh lý của người thực hiện hành vi.
Trường hợp 1 thông thường sẽ rất dễ dàng trong việc xác định người đó có bị mắc bệnh
tâm thần hay không, tuy nhiên trong trường hợp 2 thì việc này sẽ trở nên khó khăn hơn
khi phải tiến hành việc giám định bệnh tâm thần sau khi hành vi đã được thực hiện trong
thực tế. Và cái khó khăn nhất là làm rõ được 2 chữ “trong khi”. Ngành Y học đã chứng
minh có một số bệnh tâm thần mà biểu hiện của bệnh lý không diễn ra một cách liên tục,
cái mà nhân gian hay gọi 3 hồi tỉnh 3 hồi say nghĩa là mặc dù bị mắc bệnh nhưng tỉnh
thoảng họ vẫn tỉnh táo nhận thức một cách bình thường. Đối chiếu theo đúng quy định
của điều luật trong trường hợp đó họ sẽ không được loại trừ trách nhiệm hình sự. Tuy
nhiên thực tế để xác định việc có loại trừ hay không trong những trường hợp này rất khó
khăn. Và điều luật này cũng nhiều lần bị lợi dụng nhằm trốn tránh trách nhiệm bằng cách
xin giấy chứng nhận bị bệnh tâm thần mà báo chí hay gọi là kim bài miễn tử.
(3)Làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi:mục (2) chỉ là điều
kiện cần mà thôi, để đảm bảo điều kiện đủ, bệnh tâm thần hay bệnh khác nào đó phải dẫn
đến mất khả năng nhận thức (không thể biết được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
hội) hoặc mất khả năng điều khiển hành vi (vẫn ý thức được nhưng không thể điều khiển
được do bệnh lý – thông thường là các bệnh liên quan đến hệ thần kinh vận động). Lưu ý
ở đây là mất chứ không phải là hạn chế, nghĩa là trường hợp hạn chế khả năng nhận thức
và hạn chế khả năng điều khiển hành vi thì vẫn không thuộc trường hợp được loại trừ
theo quy định tại điều luật này mà hạn chế đó có thể được dùng làm căn cứ để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
3. Phòng vệ chính đáng ( Điều 22) 3.1.
Khái niệm và điều luật
BLHS năm 2015 quy định phòng vệ chính đáng tại khoản 1 Điều 22 như sau: “Phòng vệ
chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của
người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách
cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng
không phải là tội phạm”.
Phòng vệ chính đáng là quyền của công dân, Nhà nước quy định cho công dân được thực
hiện quyền phòng vệ để bảo vệ lợi ích hợp pháp khi có hành vi tấn công, quyền này công
dân được thực hiện mọi lúc mọi nơi và ngay trong cả trường hợp còn cách khác để bảo vệ
lợi ích hợp pháp. Khi thực hiện quyền này, công dân không cần phải xin phép, thỉnh thị
nhà chức trách mà tự mình quyết định. Phòng vệ chính đáng là quyền nhưng không phải
là nghĩa vụ pháp lý của công dân, mà nó chỉ là nghĩa vụ đạo đức. Vì vậy, đứng trước sự
tấn công xâm hại lợi ích hợp pháp, công dân không thực hiện hành vi chống trả để lợi ích
hợp pháp bị xâm hại thì cũng không thể truy cứu TNHS đối với họ ( trừ một số trường
hợp đặc biệt, do tính chất nghề nghiệp hoặc do trách nhiệm của chức trách được giao mà
một người có nghĩa vụ pháp lý phải thực hiện nghĩa vụ chống trả lại hành vi tấn công bảo
vệ lợi ích hợp pháp như: Chiến sĩ công an làm nhiệm vụ đấu tranh chống tội phạm... thì
họ phải có nghĩa vụ pháp lý chống trả hành vi tấn công bảo vệ lợi ích hợp pháp, nếu
không thực hiện nghĩa vụ này họ phải chịu TNHS.)
Phòng vệ chính đáng là quyền của công dân và không phải chịu TNHS nên pháp luật quy
định giới hạn về nội dung của hành vi phòng vệ chính đáng mà ngoài giới hạn đó sẽ bị
coi là hành vi phạm tội, khoản 2 Điều 22 BLHS quy đinh :
“ 2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần
thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự
theo quy định của Bộ luật này.”
Giới hạn này được biểu hiện cụ thể bằng các điều kiện thuộc về diễn biến khách quan của
hành vi tấn công và điều kiện chủ quan thuộc về bản thân người phòng vệ. 3.2.
Điều kiện của phòng vệ chính đáng
a, điều kiện 1: hành vi tấn công xâm hại lợi ích hợp pháp – cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng.
Lợi ích hợp pháp là những quyền của Nhà nước, tổ chức và công dân được pháp luật quy
định, như các quyền sống, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, về tài sản... Nói cách khác, đó
là những quyền và lợi ích về vật chất, tinh thần được pháp luật quy định, bảo vệ. Điều 22
BLHS năm 2015 xác định khi lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, lợi ích hợp pháp của
bản thân người phòng vệ hoặc của người khác bị hành vi tấn công xâm hại thì cơ sở của
quyền phòng vệ chính đáng xuất hiện.
Vì vậy, hành vi chống trả để bảo vệ một lợi ích bất hợp pháp sẽ không được coi là phòng
vệ chính đáng và phải chịu TNHS, chẳng hạn: hành vi chống lại lệnh bắt để tạm giam bị
can của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền...
Hành vi tấn công xâm hại lợi ích hợp pháp được quy định trong LHS bao gồm: hành vi
phạm tội và những hành vi nguy hiểm cho xã hội khác như hành vi của người chưa đủ
tuổi chịu TNHS, hành vi của người người không có năng lực TNHS, những hành vi nguy
hiểm cho xã hội chưa đến mức bị coi là tội phạm...
b, Điều kiện 2: Hành vi tấn công phải có thật và đang diễn ra chứ không phải do suy đoán tưởng tượng.
Sự tấn công phải có thật, nghĩa là sự xâm hại đối với những lợi ích được pháp luật bảo vệ
phải tồn tại khách quan chứ không phải do suy đoán, tưởng tượng. Người có hành vi
phòng vệ tưởng tượng phải chịu TNHS vì trên thực tế lợi ích hợp pháp không bị xâm hại
hoặc bị đe dọa xâm hại, trong khi hành vi phòng vệ tưởng tượng lại xâm hại đến lợi ích
được pháp luật bảo vệ nên họ phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do hành vi của họ gây
nên. Nói cách khác, phòng vệ tưởng tượng là trường hợp người thực hiện hành vi chống
trả khi không có cơ sở làm xuất hiện quyền phòng vệ chính đáng là hành vi tấn công xâm
hại lợi ích hợp pháp, nên người có hành vi phòng vệ tưởng tượng phải chịu TNHS. Tuy
bị truy cứu TNHS nhưng do người phòng vệ tưởng tượng có động cơ muốn bảo vệ lợi ích
hợp pháp nên họ được giảm nhẹ TNHS.
Hành vi tấn công xâm hại lợi ích hợp pháp phải đang xảy ra thì hành vi phòng vệ mới
được coi là hợp pháp và là phòng vệ chính đáng. Được coi là hành vi tấn công đang xảy
ra khi hành vi đó đã xâm hại đến lợi ích được pháp luật bảo vệ và chưa kết thúc.
Sở dĩ LHS coi hành vi tấn công đang xảy ra mới là phòng vệ chính đáng vì chỉ có như
vậy mục đích ngăn chặn hành vi tấn công, bảo vệ lợi ích hợp pháp của phòng vệ chính
đáng mới đạt được. Vì vậy, trường hợp hành vi tấn công chưa xảy ra, người tấn công mới
chỉ có hành vi chuẩn bị và trường hợp hành vi tấn công đã kết thúc, lợi ích hợp pháp đã bị
xâm hại, nếu có hành vi chống trả sẽ không được coi là phòng vệ chính đáng. Cả hai
trường hợp này đều không có cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ, hoặc là sự tấn công
xâm hại lợi ích hợp pháp chưa xảy ra hoặc là sự tấn công đã kết thúc, lợi ích hợp pháp đã bị xâm hại.
c, Điều kiện 3: Phòng vệ chính đáng phải gây thiệt hại cho chính người đang có hành vi tấn công.
Hành vi của người phòng vệ chỉ được chống trả gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe cho
người có hành vi tấn công chứ không được gây thiệt hại cho các lợi ích khác của người
đang có hành vi tấn công. Vì vậy, LHS không coi các trường hợp gây thiệt hại về tài sản,
danh dự, nhân phẩm... cho người đang có hành vi tấn công là phòng vệ chính đáng.