Bài kiểm tra tự luận môn Tư pháp quốc tế - Pháp luật đại cương | Trường Đại học Mở Hà Nội
Bài kiểm tra tự luận môn Tư pháp quốc tế - Pháp luật đại cương | Trường Đại học Mở Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Pháp luật đại cương (BLAW0001)
Trường: Đại học Mở Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD|44744371 lOMoARcPSD|44744371
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO E-LEARNING
BÀI KIỂM TRATỰ LUẬN
HỌC PHẦN: TƯ PHÁP QUỐC TẾ
ĐỀ 1. Anh (chị) hãy làm rõ các trường hợp ảnh hưởng tới hiệu lực
của quy phạm pháp luật xung đột
1. Bảo lưu trật tự công cộng
- Nội dung: Pháp luật nước ngoài sẽ không được áp dụng, dù được quy
phạm xung đột dẫn chiếu tới, nếu việc áp dụng dẫn tới hậu quả trái với những
nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội, phong tục tốt đẹp và pháp luật của nước sở
tại (nước tiến hành áp dụng pháp luật nước ngoài).
- Đây là vấn đề đôi khi bắt gặp trong quá trình áp dụng pháp luật nước
ngoài. Hậu quả là, pháp luật nước ngoài (một hoặc một số quy phạm nhất định)
sẽ không được áp dụng.
Ở Việt Nam, bảo lưu trật tự công cộng được ghi nhận ở Khoản 4 Điều 759
BLDS 2005“…nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”. Như
vậy, trật tự công được pháp luật Việt Nam thừa nhận là những nguyên tắc cơ bản
của pháp luật Việt Nam, ghi nhận trong Hiến pháp và ở một số VBPL khác. Tuy
nhiên, việc áp dụng nguyên tắc bảo lưu trật tự công cộng chỉ áp dụng đối với
những quy định liên quan trái với trật tự công mà không phải là phủ nhận toàn
bộ hệ thống pháp luật nước ngoài.
Nguyên nhân chính đặt ra vấn đề bảo lưu trật tự công cộng trong Tư pháp
Quốc tế đó là việc sử dụng quy phạm xung đột và nội dung pháp luật các nước
có quy định khác nhau về cùng một vấn đề hay chính xác là việc bảo vệ trật tự
công ở mỗi quốc gia là khác nhau. Tư pháp quốc tế điều chỉnh những QHDS có
yếu tố nước ngoài, dẫn đến việc có thể sử dụng pháp luật nước ngoài để giải lOMoARcPSD|44744371
quyết vụ việc. Các quy phạm xung đột chỉ đưa ra những nguyên tắc chung để
chọn luật áp dụng giữa những hệ thống pháp luật liên quan mà không trực tiếp
quy định cách giải quyết vụ việc. Việc lựa chọn này hoàn toàn khách quan,
mang tính chất dẫn chiếu và điều chỉnh gián tiếp, dẫn đến việc cơ quan có thẩm
quyền khi được dẫn chiễu áp dụng luật nước ngoài, hoặc các nguồn luật quốc tế
nhưng lại không lường trước được nội dung của quy định đó. Trường hợp pháp
luật nước ngoài có quy định trái với trật tự công của quốc gia mình thì khi đó
phải “bảo lưu trật tự công cộng”.
Khi bảo lưu trật tự công cộng, luật nước ngoài sẽ bị gạt bỏ không được áp
dụng. Do đó, hiệu lực của quy phạm xung đột sẽ bị triệt tiêu. Quy phạm xung
đột dẫn chiếu tới hệ thống pháp luật nước ngoài, nhưng luật nước ngoài không
được áp dụng bởi nó trái với trật tự công thì việc dẫn chiếu đó là vô nghĩa, hay
chính là việc chọn một hệ thống pháp luật không áp dụng được trên thực tế.
Điều đó làm quy phạm xung đột mất hiệu lực.
Ví dụ: Khi đăng ký kết hôn giữa một nữ công dân Việt Nam (A) và nam
công dân Iran (B). Iran là quốc gia hồi giáo, pháp luật nước này công nhận chế
độ hôn nhân đa thê. Theo Khoản 1 Điều 122 Luật HNGĐ 2014, thì các quy định
của pháp luật về HNGĐ của Việt Nam được áp dụng đối với quan hệ HNGĐ có
yếu tố nước ngoài, trừ trường hợp Luật này có quy định khác. Trong trường hợp
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của
Luật này thì áp dụng quy định của ĐƯQT đó.
Giả định công dân B đáp ứng đầy đủ quy định của pháp luật nước B kể cả
việc công nhận anh B có quyền kết hôn đa thê. Trong tình huống này nếu áp
dụng quy định tại khoản 1 Điều 122 Luật HNGĐ sẽ dẫn đến hậu quả là cơ quan
có thẩm quyền sẽ áp dụng hệ thống pháp luật nước ngoài có nội dung vi phạm
“các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, vì pháp luật HNGĐ Việt Nam
chỉ công nhận chế độ hôn nhân tiến bộ, một vợ một chồng (Khoản 1 Điều 2 Luật
HNGĐ), do vậy, trong trường hợp này cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có
thể từ chối không áp dụng pháp luật nước ngoài đó để bảo vệ trật tự công của
Việt Nam, do tại khoản 2 Điều 122 Luật HNGĐ có quy định: “… dẫn lOMoARcPSD|44744371
chiếu về việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật nước ngoài được áp
dụng, nếu việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản được quy định
tại Điều 2 của Luật này”.
Hậu quả của bảo lưu trật tự công là cơ quan tài phán sẽ không áp dụng
pháp luật nước ngoài lẽ ra phải được áp dụng theo sự dẫn chiếu của quy phạm
xung đột mà áp dụng nội luật của mình trong tình huống pháp lý cụ thể. Nói
cách khác là trong trường hợp xét thấy cần bảo vệ trật tự công quốc gia thì sẽ áp
dụng ngay pháp luật của quốc gia để giải quyết mà không cần thông qua quy
phạm xung đột. Ví dụ: cơ quan có thẩm quyền sẽ không áp dụng pháp luật nước
ngoài quy định công nhận hôn nhân đa thê.
2. Dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ
ba a. Dẫn chiếu ngược
- Khái niệm: Là hiện tượng quy phạm xung đột của nước này dẫn chiếu
đến pháp luật của một nước khác. Pháp luật của nước được dẫn chiếu tới lại có
quy phạm xung đột dẫn chiếu ngược trở lại pháp luật của nước dẫn chiếu ban đầu.
- Cách giải quyết hiện tượng này là áp dụng pháp luật nước dẫn chiếu ban đầu.
Ở Việt Nam, Theo Khoản 3 Điều 759 BLDS: “… trường hợp pháp luật
nước đó dẫn chiếu trở lại pháp luật Cộng hoà XHCN Việt Nam thì áp dụng pháp
luật Cộng hoà XHCN Việt Nam.”
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 4 Nghị định 138/2006/NĐ-CP thì dẫn
chiếu ngược trở lại và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba được chấp nhận ở
Việt Nam. Vấn đề này trên thực tế rất hiếm gặp, do các quy phạm xung đột cũng
có giới hạn và nhìn chung các quy phạm xung đột của tư pháp quốc tế là thống
nhất. Đa phần phụ thuộc vào cách giải thích và ý chí của tòa án thụ lý vụ việc.
Chấp nhận dẫn chiếu cũng là tôn trọng ý chí của nhà lập pháp nước ngoài đã xây
dựng nên quy phạm này. Nếu không chấp nhận dễ gây khó khăn trong việc thụ
lý giải quyết vụ ciệc của tòa án. lOMoARcPSD|44744371
Như vậy, khi gặp hiện tượng dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật
nước thứ ba, việc áp dụng pháp luật như thế nào sẽ căn cứ theo tư pháp quốc tế
các nước trên thế giới. Còn riêng trong tư pháp quốc tế của Việt Nam, thì vấn đề
này được khẳng định là chấp nhận hiện tượng dẫn chiếu.
b. Dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba
- Khái niệm: là hiện tượng quy phạm xung đột của một nước dẫn chiếu tới
pháp luật của một nước khác. Pháp luật của nước được dẫn chiếu tới lại có quy
phạm xung đột tiếp tục dẫn chiếu tới pháp luật của nước thứ ba.
- Lưu ý: Hiện tượng dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật của nước
thứ ba chỉ xảy ra trong tư pháp quốc tế của những nước quy định việc dẫn chiếu
đến pháp luật của một nước là dẫn chiếu đến toàn bộ hệ thống pháp luật của
nước đó (bao gồm cả quy phạm xung đột và thực chất).
Theo quy định tại khoản 3 điều 676 Luật dân sự 2015 có quy định:”
Trường hợp pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện giao dịch dân sự tại Việt
Nam thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài đó được xác định
theo pháp luật Việt Nam”. Ví dụ như doanh nghiệp A là doanh nghiệp nước
ngoài và thành lập tại Pháp. Vậy pháp luật Pháp là pháp luật điều chỉnh năng lực
pháp luật dân sự của doanh nghiệp A. Nhưng theo pháp luật Pháp, vấn đề này
được điều chỉnh bởi pháp luật nơi doanh nghiệp có trụ sở thực tiễn và trong thực
tế thì doanh nghiệp A có trụ sở tại Bỉ. Do đó, pháp luật Pháp dẫn đến pháp luật
Bỉ. Vậy hiện tượng dẫn chiếu đến pháp luật nước thừ ba có thể xảy ra ở Việt Nam.
3. Lẩn tránh pháp luật
- Khái niệm: Là hiện tượng đương sự trong quan hệ đã dùng các thủ đoạn
như thay đổi quốc tịch, nơi cư trú, nơi thực hiện hành vi, thay đổi tính chất của
tài sản v.v. nhằm hướng sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột tới một hệ thống
pháp luật khác có lợi hơn cho mình.
Mỗi quốc gia đều có hệ thống quy phạm xung đột riêng, vì vậy, tuy cùng
một vụ việc nhưng cách giải quyết ở các quốc gia sẽ rất khác nhau. Khi nhận
thấy hệ thống pháp luật thực chất do quy phạm xung đột dẫn chiếu đến có khả lOMoARcPSD|44744371
năng sẽ gây bất lợi cho mình, một bên trong quan hệ sẽ tìm cách tránh để không
phải chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật đó và hướng đến một hệ thống
pháp luật khác có lợi hơn trên cơ sở vận dụng các quy phạm xung đột sao cho có
lợi nhất. Đây chính là cơ sở làm phát sinh hiện tượng lẩn tránh pháp luật trong
tư pháp quốc tế. Để tránh áp dụng hệ thống pháp luật bất lợi cho mình và áp
dụng hệ thống pháp luật có lợi hơn, chủ thể của quan hệ này thường áp dụng các
thủ đoạn như: di chuyển trụ sở, thay đổi nơi cư trú, thay đổi quốc tịch, chuyển
động sản thành bất động sản hoặc ngược lại từ nước này sang nước khác,…
Hầu hết các quốc gia đều xem đây là một hiện tượng không bình thường
và đều tìm cách hạn chế hoặc ngăn cấm. Ở Việt Nam, mọi hành vi lẩn tránh
pháp luật là vi phạm và không được chấp nhận. Thực tiễn ở nước ta về hiện
tượng “lẩn tránh pháp luật” trong tư pháp quốc tế hầu như chưa có, nhưng trong
các VBPL đã quy định về vấn đề này như: Luật HNGĐ 2014, Nghị định
126/2014/NĐ – CP hay Điều 758 BLDS quy định về QHDS có yếu tố nước
ngoài. Tuy nhiên, các quy định này cũng chỉ mới được thể hiện một vài khía
cạnh, chưa đưa ra được cơ sở pháp lý chung để xử lý hiện tượng “lẩn tránh pháp
luật” trong quan hệ có yếu tố nước ngoài.