Bài tập chương 2 : Cung cầu và giá cả thị trường | Môn Kinh tế vĩ mô
Sinh viên A có thu nhập là 120.000 đồng dự định mua 2 sản phẩm X và Y, hàm lợi ích của sinh viên A có dạng TU = f(X,Y) = X(Y - 2), giá của X là 10.000 đ/sp và giá của Y là 20.000 đ/sp.Tính tổng lợi ích cực đại mà sinh viên A có thể đạt được. Giả sử giá của sản phẩm X tăng lên gấp đôi, giá của sản phẩm Y giảm đi mộtnửa, các yếu tố còn lại không đổi . Tìm lại cân bằng tiêu dùng của sinh viên A. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem !
Môn: Kinh tế vĩ mô ( UEH)
Trường: Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 46988474
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Học phần: KINH TẾ VĨ MÔ Ề TÀI : Đ
PHÂN TÍCH LẠM PHÁT TỪ 2011-2021
Giảng viên hướng dẫn : GV Lê Hoàng Đức Lớp : NHA
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Minh Hải (24A4010670)
Phan Thị Trà My (24A4013233)
Nguyễn Thị Trúc Lan(24A4010843)
PHÚ YÊN , ngày 20 tháng 5 năm 2022 lOMoAR cPSD| 46988474 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài............................................................................1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT ……………….....2
1.1 Lạm phát là gì? ............................................................................................ 3
1.2. Nguyên nhân tỉ lệ lạm phát ở Việt Nam tăng CAO ......................................... 4
1.3. Một số biện pháp để chống lạm phát .............................................................. 6
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG LẠM PHÁT VÀ GIẢI PHÁP CỦA VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2011 -2021 ....................................................................... 7
2.1. Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2010-2021 ...................................... 7
2.2 .Giải pháp cho lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô ............................... 15
KẾT LUẬN........................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................20 LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự đổi thay của nền kinh tế
Việt Nam trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy
sôi động và cạnh tranh gay gắt để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thương
trường, các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng để tiếp cận,
nắm bắt những vấn đề của nền kinh tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có để kinh doanh
còn là những vấn đề nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm ấy
là lạm phát. Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề
hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian trí tuệ mới có thể mong muốn đạt
được kết quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ là việc của các nhà doanh nghiệp
mà còn là nhiệm vụ của chính phủ. Lạm phát ảnh hưởng toàn bộ đến nền kinh tế quốc lOMoAR cPSD| 46988474
dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động ở nước ta hiện nay, chống lạm phát
giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là một mục tiêu rất quan trọng trong
phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Trong thời gian gần đây, vấn
đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm, nghiên cứu và đề xuất các phương án
khác. Đã từ lâu tiền giấy xuất hiện và chẳng bao lâu sau đó diễn ra tình trạng giảm
giá tiền và dẫn đến lạm phát. Nét đặc trưng nổi bật của thực trạng nền kinh tế khi có
lạm phát, giá cả nghiên cứu lạm phát là cần thiết, cấp bách, đặc biệt thấy được tầm
quan trọng của lạm phát. Vì vậy, với lực lượng kiến thức còn hạn chế, em thiết nghĩ
nghiên cứu đề tài này cũng là một phương pháp để hiểu nó một cách thấu đáo hơn,
sâu sắc hơn tài chính tiền tệ.
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT
1.1 Lạm phát là gì?
Quan niệm cổ điển cho rằng “ lạm phát là phát hành tiền vượt quá số tiền cần
thiết trong lưu thông . Tuy nhiên hiện tượng này không giải thích được hiện tượng
lạm phát chi phí đẩy xuất hiện trên thế giới từ những năm 70 hoặc ở Việt nam năm
2005) do loại lạm phát này vẫn có thể xảy ra trong khi cung tiền tăng ổnđịnh. Nếu
chỉ coi là lạm phát khi sự tăng giá là kết quả của việc tăng mạnh cung tiền thì sẽ
dẫn đến coi thường các nguy cơ lạm phát có thể xảy ra. - Một quan điểm phổ biến
khác cho rằng: Lạm phát là hiện tượng tăng lên của mức giá chung (mức giá bình
quân, mức giá tổng hợp) theo thời gian. Tuy nhiên không phải mọi sự tăng lên của
mức giá đều đáng lo ngại. Nếu giá cả chỉ tăng tạm thời,trong ngắn hạn, chẳng hạn
như dịp gần Tết Nguyên đán ở Việt nam, sau đó lại giảm xuống thì đó là kết quả
của những biến động cung cầu tạm thời, nhiều khi có tác dụng tích cực hơn là tiêu
cực tới nền kinh tế. Những trường hợp như vậy mà đã coi là lạm phát thì sẽ dẫn
đến sự cường điệu hoá nguy cơ lạm phát. Các nhà kinh tế học theo trường phái
trọng tiền hiện đại, đứng đầu là Milton Friedman đã định nghĩa “lạm phát là hiện
tượng giá cả tăng nhanh và liên tục trong một thời gian dài”. Chính sự tăng giá
cao và liên tục từ thời gian này đến thời gian khác mới tạo ra những tác động đặc
thù của lạm phát. Cũng vì vậy, cái gọi là tỷ lệ tăng giá hàng tháng mà chúng ta có
thể nghe trên đài, báo hay vô tuyến chỉ cho biết mức giá cả đã thay đổi bao nhiêu
phần trăm so với tháng trước chứ chưa được coi là biểu hiện của lạm phát. Đó có lOMoAR cPSD| 46988474
thể chỉ là sự thay đổi xảy ra duy nhất một lần hoặc chỉ là tạm thời chứ không kéo
dài. Chỉ khi nào tỷ lệ tăng giá vẫn duy trì cao trong thời gian dài thì mới được coi
là biểu hiện của lạm phát cao
Lạm phát và sự tăng mức giá chung một cách liên tục của một hàng hoá hoặc một
dịch vụ nào đó kèm theo đó là sự mất giá trị của một loại tiền tệ nào đó. Khi mức
giá chung tăng cao, một đơn vị tiền tệ sẽ mua được ít hàng hoá, dịch vụ hơn trước
đây. Vì thế, lạm phát phản ánh sự suy giảm sức mua trên một loại đơn vị tiền tệ
Ví dụ: Năm 2018 bạn ăn một ổ bánh mì với mức giá 10.000 đồng nhưng đến
năm 2022 cùng một ổ bánh mì như thế nhưng nó có giá 20.000 đồng.
1.2. Nguyên nhân tỉ lệ lạm phát ở Việt Nam tăng cao:
Ở Việt Nam tỉ lệ lạm phát ngày càng tăng cao có thể lên đến 2-3%. Vậy nguyên
nhân gây ra tỉ lệ lạm phát ở nước ta tăng cao là gì? Lạm phát do chính sách:
Thường xảy ra do những biện pháp tiền tệ mở rộng, việc thâm hụt thu chi ngân
sách lớn, tiền tài trợ thường là cội rễ của lạm phát cao. Vào những năm 20, Áo và
Đức cũng đã diễn ra một cuộc siêu lạm phát do mở rộng tiền tệ thái quá Lạm phát do chi phí đẩy:
Chi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu
vào, máy móc, thuế,… Khi giá của một hay vài yếu tố đố tăng thì cung các xí
nghiệp sẽ tăng lên vì thế các doanh nghiệp sẽ tăng giá sản phẩm để có thể đảm bảo
lợi nhuận của mình. Nó dẫn đến mức giá chung của toàn nền kinh tế tăng lên.
Ngoài ra nó còn xảy ra ngay cả khi thất nghiệp và việc sử dụng các nguồn lực còn
thấp. Sự gia tăng lương không phù hợp với tăng trưởng năng suất cũng có thể khơi
mào cho quá trình lạm phát.
Ví dụ: Trong giai đoạn gần đây tiền xăng tăng cao nên chi phí làm ra các sản
phẩm cũng tăng. Dẫn đến mức giá của sản phẩm đó cũng tăng lên dù lượng sản xuất vẫn như cũ Lạm phát do cầu kéo: lOMoAR cPSD| 46988474
Xảy ra khi tổng cầu vượt trội đẩy mức giá chung cao lên. Đều này khiến cho
giá cả của các mặt hàng khác cũng “ leo thang”. Làm mất đi giá trị đồng tiền.
Ví dụ: Như giá xăng tăng lên thì dẫn đến giá vận chuyển tăng
Lạm phát do cầu thay đổi:
Khi thị trường giảm nhu cầu tiêu thụ về một mặt hàng nào đó, trong khi lượng
cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc
quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì
mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng
cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát.
Ngoài ra còn lạm phát do xuất, nhập khẩu; lạm phát do tiền tệ ,…Tại Việt Nam
các nguyên nhân gây ra lạm phát đều xuất hiện với những con số khác nhau vào
những thời kỳ khác nhau. Năm 2011, lạm phát ở Việt Nam ở mức 18,13% là mức
lạm phát cao nhất trong khu vực ASEAN nhưng năm 2021 CPI bình quân chỉ tăng
1,8 so với bình quân năm trước đây cũng là mức tăng thấp nhất kể từ 2016. Vậy tỉ
lệ lạm phát ở Việt Nam tăng xuất phát từ 2 nguyên nhân: nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân bên trong.
a. Nguyên nhân bên ngoài:
Do đồng USD suy yếu nên đã tạo nên cú sốc về tăng giá xăng dầu, giá vàng, giá
lương thực thực phẩm,.. Do chiến tranh giữa các nước, do giá hàng hoá nhập khẩu
tăng làm cho giá bán các sản phẩm ở trong nước cũng tăng lên. Cùng với đó là do
ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất
giá so với ngoại tệ; hay do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của
nhà nước làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát.
b. Nguyên nhân bên trong: lOMoAR cPSD| 46988474
Chính sách tài khoán không hiệu quả là nguyên nhân rất quan trọng của căn
bệnh lạm phát ở nước ta. Để hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế chính phủ đã có kế
hoạch chi tiêu nâng cấp cơ sở hạ tầng của đất nước và liên tục bội cho ngân sách
trong nhiều năm. Đầu tư cho kinh tế là điều cần thiết, nhưng đầu tư kém hiệu quả,
đầu tư dàn trải gây lãng phí lớn, gây thất thoát tiền bạc trong thời gian dài làm nên
sự nguy hiểm cho nền kinh tế nước nhà. Công tác xây dựng, thẩm định, phê duyệt
dự án, tổng dự án và thiết kế kỹ thuật quá chậm trễ, thủ tục rườm rà và phức tạp.
Việc chi tiêu thì không hiệu quả, tình trạng tham nhũng thì gia tăng đã hưởng đến
niềm tin của công chúng vào nhà nước,…
1.3. Một số biện pháp để chống lạm phát:
Ở mỗi quốc gia việc chống lạm phát được đặt lên hàng đầu để bảo vệ nền kinh tế
bị suy thoái. Ở zimbabwe bước làm thời kì siêu lạm phát ở năm 2007 đã khiến
cho kinh tế bị trì trệvà trở thành một quốc gia nghèo. Vậy những giải pháp nào có thể chống lạm phát?
a. Giảm bớt lượng tiền trong lưu thông:
- Ngừng phát hành tiền vào trong lưu thông nhằm giảm lượng tiền đưa vào
lưuthông trong xã hội- Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Đây là biện pháp nhằm giảm
lượng cung tiền vào thị trường. Biện pháp này tác động đến tất cả các ngân hàng
và bình đằng giữa các ngân hàng với nhau.
- Nâng lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tiền gửi: Biện pháp này sẽ làm hạn chếcác
ngân hàng thương mại mang các giấy tờ có giá đến ngân hàng nhà nước để chiết
khấu. Ngoài ra việc nâng lãi suất tiền gửi sẽ hút khiến người dân gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn.
- Ngân hàng trung ương áp dụng nghiệp vụ thị trường mở nhằm bán các chứngtừ
có giá cho các ngân hàng thương mại. lOMoAR cPSD| 46988474
- Ngân hàng trung ương bán vàng và ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại.
- Giảm chi ngân sách: Đó là giảm chi tiêu thường xuyên và cắt giảm đầu tưcông.
- Tăng tiền thuế tiêu dùng nhằm giảm bớt nhu cầu chi tiêu cá nhân trong xã
hội,tăng hàng hóa dịch vụ cung cấp trong xã hội.
b. Tăng quỹ hàng hoá tiêu dùng nhằm cân bằng với tiền trong lưu thông :
- Khuyến khích tự do mậu dịch - Giảm thuế
- Các biện pháp cho hàng hóa nhập khẩu
c. Đi vay viện trợ nước ngoài:
Viện trợ nước ngoài là các khoản ưu đãi tài chính, hàng hoá và dịch vụ được tài
trợ dành cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy phát triển ở các quốc gia
này, thường được thực hiện dưới hình thức hỗ trợ tài chính hoặc hỗ trợ kỹ thuật.
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG LẠM PHÁT VÀ GIẢI
PHÁP CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 -2021
2.1. Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2010-2021
Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia ( tăng trưởng
cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít và cán cân thanh toán có số dư ). Kiềm chế lạm
phát, duy trì ổn định và phát triển kinh tế đó cũng là một trong những mục tiêu
kinh tế mà chính phủ nước ta đề ra. Vấn đề luôn làm đau đầu các nhà quản lý
chính là kiểm soát lạm phát, sau giai đoạn ưu tiên cho tăng trưởng và tình trạng
thâm hụt cán cân thương mại kéo dài. Đỉnh điểm của quá trình này là tỷ lệ lạm
phát của Việt Nam trong giai đoạn 2010 – 2020 đã có sự thay đổi cực kỳ mạnh mẽ
từ lạm phát 2 con số trong năm 2011 và sau đó xuống lạm phát 1 con số và giữ ổn
định ở mức 4% ở trong giai đoạn 2016 – 2021
Bảng dưới đây thống kê chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020 lOMoAR cPSD| 46988474
Nguồn :tỉ lệ lạm phát Việt Nam qua các năm trong giao đoạn 2010-2020
Tỷ lệ lạm phát vào cuối năm 2010: năm 2010 chỉ số lạm phát ở nước ta đạt mức
9,19%. Sự cộng hưởng tác động đồng thời của việc tăng giá xăng, tăng giá điện
với mức tăng giá điện khoảng 4,9%, thì tổng chi phí tiền điện tăng thêm của toàn
xã hội sẽ khoảng 4.000 tỉ đồng, sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng GDP ước khoảng
0,2% và làm tăng chỉ số CPI cả nước khoảng 0,16%..., than, nước và giá cước vận
tải các loại…, khiến giá hàng hoá và dịch vụ có liên quan trực tiếp và gián tiếp
đang đứng trước khả năng tăng, bởi lý do phải chịu ảnh hưởng của các yếu tố tăng
giá “đầu vào”. Đây là con số khá cao ảnh hưởng đến hệ thống tài chính tín dụng.
Cụ thể vào thời điểm này, hệ thống ngân hàng giảm thiểu tình trạng vay vốn do
lãi suất tăng lên 30%/năm. Bởi vậy, hệ thống kinh tế cũng bị tác động không nhỏ
và làm cho tính thanh khoản giảm sút đến mức đáng lo ngại.
Theo đánh giá chung, giai đoạn năm 2011-2015 là thời gian khắc phục tình trạng
lạm phát hiệu quả nhất. Mặc dù năm 2011 có tỷ lệ lạm phát là 18.58% ở ngưỡng
cao kỷ lục trong giai đoạn 2010 – 2020 và cao thứ 2 (chỉ sau năm 2008) lOMoAR cPSD| 46988474
Nguồn :lạm phát của việt nam trong 10 năm gần nhất
Tỷ lệ lạm phát giai đoạn 2011-2015: Nhờ việc áp dụng đồng bộ các chính sách tài
khóa và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành chủ động, linh hoạt các công
cụ chính sách tiền tệ thắt chặt, đồng thời thúc đẩy việc sản xuất, gia tăng hàng xuất
khẩu và kiểm soát nhập siêu,… lạm phát có xu hướng giảm và đạt mức thấp kỷ
lục 0.63% vào năm 2015. Đánh dấu thời kỳ giữ lạm phát ổn định ở mức thấp nhất.
Lạm phát ổn định ở mức thấp, ổn định kinh tế vĩ mô được giữ vững, thị trường
ngoại hối, tỷ giá ổn định, dự trữ ngoại hối tăng lên mức kỷ lục, thanh khoản hệ
thống ngân hàng được cải thiện vững chắc là những yếu tố cơ bản được các tổ
chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế sử dụng làm căn cứ để nâng hệ số tín nhiệm, sự
phát triển rõ rệt của Việt Nam. Tỷ lệ 0,63% là mức thấp nhất kể từ khi Việt Nam
bắt đầu tính toán mức lạm phát. Theo Tổng cục Thống kê, mức lạm phát 2015 đã
xuống thấp như vậy, chủ yếu là nhờ giá dầu trên thế giới giảm mạnh. lOMoAR cPSD| 46988474
Nguồn : tổng cục thống kê
Tổng cục Thống kê chính thức công bố, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2016
tăng 0,23% so với tháng trước và tăng 4,74% so với tháng 12 năm trước. Lạm phát
năm 2016, theo cách tính hiện tại (so với tháng 12 năm trước) chỉ là 4,74%, thấp
hơn mục tiêu đề ra cho năm nay là 5%.
Với diễn biến giá cả thị trường tháng 12/2016, Tổng cục Thống kê cho biết, trong
11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 6 nhóm tăng giá. Cụ thể, thuốc và dịch vụ
y tế tăng 5,3%; may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,25%; đồ uống và thuốc lá tăng
0,21%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,19%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng
0,1%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,08%. Bên cạnh đó, có 4 nhóm giảm giá,
là giao thông - giảm 0,89%; bưu chính - viễn thông, giảm 0,03%; hàng ăn và dịch
vụ ăn uống - giảm 0,03%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,02%.
Như vậy, bình quân năm 2016 so với năm 2015, lạm phát chung có mức tăng cao
hơn lạm phát cơ bản, điều này phản ánh biến động giá do yếu tố thị trường có mức
tăng cao, đó là giá lương thực thực phẩm, giá xăng dầu và yếu tố điều hành giá cả
qua việc điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế và giáo dục.
Mức tăng của lạm phát cơ bản từ tháng 1 đến tháng 12 năm nay so cùng kỳ có
biên độ dao động trong khoảng khá hẹp từ 1,64% đến 1,88%, điều này thể hiện
chính sách tiền tệ đang được điều hành ổn định, giúp ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát. lOMoAR cPSD| 46988474
Theo Tổng cục Thống kê, CPI năm 2017 tăng bình quân 3,53% so với năm 2016.
Tính toán lạm phát tháng 12/2017 so với cùng kỳ năm 2016 là 2,6%. Ở một góc
độ khác, lạm phát cơ bản trong tháng 12/2017 thậm chí còn thấp hơn so với cùng
kỳ năm trước, chỉ ở mức 1,29%.
Nguyên nhân khiến lạm phát chính cao hơn lạm phát cơ bản năm 2017 chủ yếu là
do giá dịch vụ y tế cao hơn. Với mức tăng 37,3% giá dịch vụ y tế năm 2017 và
các nhóm hàng cơ bản. Sản phẩm này có tỷ trọng 3,87% trong giỏ hàng VPI, đóng
góp vào giá dịch vụ y tế ở con số trước là 2,6% khi nó ở mức khoảng 1,44%.Về
giá dịch vụ y tế, tháng 12/2017 lạm phát chỉ ở mức 1,16% so với cùng kỳ tương
ứng với lạm phát cơ bản và là mức rất thấp trong lịch sử.
Thật vậy, tỷ lệ lạm phát Việt Nam qua các năm đã ở mức thấp trong những năm
gần đây. Khi đo lường lạm phát GDP, lạm phát cơ bản và lạm phát giá sản xuất thì
lạm phát ở mức thấp (dưới 2%). Nó được công bố từ năm 2015, khi lạm phát giá
sản xuất ở mức âm trong hai năm liên tiếp (2015 và 2016).
Trong giai đoạn từ năm 2016 – 2020 tình hình giá cả Việt Nam có nhiều biến động
và chịu ảnh hưởng tiêu cực của các nhân tố: căng thảng thương mại Mỹ Trung gia
tăng, dịch Covid-19 diễn biến phức tạp tại nhiều quốc gia trong đó Việt Nam cũng
chịu nhiều ảnh hưởng bởi dịch. Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời của
Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, các mặt hàng quan trọng, thiết yếu như dịch vụ
y tế, giáo dục, xăng dầu, điện... được thực hiện điều chỉnh tiệm cận dần theo giá
thị trường, phù hợp trong từng giai đoạn, nhờ đó công tác quản lý điều hành giá,
kiểm soát lạm phát của Chính phủ đã đạt được những thành công đáng kể, chi tiêu
CPI thực hiện đều thấp hơn kế hoạch, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam luôn được giữ
ổn định ở mức 4%. Tỷ giá, thị trường ngoại hồi khá ổn định, lãi suất có xu hướng
giảm dần, cán cân thanh toán thặng dư, hệ số tín nhiệm quốc gia được cải thiện.
Tỷ lệ lạm phát giai đoạn 2020-2021:
Nhìn chung, mặt bằng giá năm 2020 tăng khá cao so với cùng kỳ năm trước, ngay
từ tháng Một đã tăng 6,43%, ảnh hưởng đến công tác quản lý, điều hành giá của
năm 2020, dẫn đến việc kiểm soát lạm phát theo mục tiêu dưới 4% Quốc hội đặt
ra gặp nhiều khó khăn, thách thức. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo, điều hành sát sao lOMoAR cPSD| 46988474
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự phối hợp của các Bộ, ngành, địa phương,
mức tăng của CPI được kiểm soát dần qua từng tháng với xu hướng giảm dần. Chỉ
số giá tiêu dùng bình quân năm 2020 tăng 3,23% so với năm trước, đạt mục tiêu
kiểm soát lạm phát, giữ CPI bình quân năm 2020 dưới 4% của Quốc Hội đề ra
trong bối cảnh một năm với nhiều biến động khó lường. CPI tháng 12/2020 tăng
0,19% so với tháng 12/2019.
Nguồn : tổng cục thống kê
CPI bình quân năm 2020 tăng do một số nguyên nhân chủ yếu sau: (i) Giá các mặt
hàng lương thực tăng 4,51% so với năm trước (làm CPI chung tăng 0,17%), trong
đó giá gạo tăng 5,14% do giá gạo xuất khẩu và nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng.
Giá các mặt hàng thực phẩm tăng 12,28% so với năm trước (làm CPI chung tăng
2,61%), trong đó riêng giá thịt lợn tăng 57,23% do nguồn cung chưa được đảm
bảo (làm CPI chung tăng 1,94%), theo đó, giá thịt chế biến tăng 21,59%, mỡ lợn
tăng 58,99%, bên cạnh đó, do ảnh hưởng của mưa bão, lũ lụt tại các tỉnh miền
Trung trong tháng 10 và tháng 11 tác động làm cho diện tích rau màu ngập nặng,
nhiều ao, hồ, chuồng trại bị hư hỏng, cuốn trôi,…làm cho giá rau tươi, khô và chế
biến tăng,giá thuốc và thiết bị y tế tăng 1,35% do dịch Covid-19 trên thế giới vẫn
diễn biến phức tạp nên nhu cầu về mặt hàng này ở mức cao. Tiếp tục thực hiện lộ
trình tăng học phí theo Nghị định số 86/2015/NĐCP làm chỉ số giá nhóm dịch vụ
giáo dục năm 2020 tăng 4,32% so với năm 2019. Giá các mặt hàng thiết yếu như
xăng, dầu giảm 23,03% so với năm trước (làm CPI chung giảm 0,83%); giá dầu
hỏa giảm 31,21%; giá gas trong nước giảm 0,95% do ảnh hưởng của giá nhiên
liệu thế giới. Nhu cầu đi lại, du lịch của người dân giảm do ảnh hưởng của dịch lOMoAR cPSD| 46988474
Covid-19 làm giá của nhóm du lịch trọn gói giảm 6,24% so với năm trước; giá
cước vận tải của các loại phương tiện như tàu hỏa, máy bay giảm. Chính phủ triển
khai các gói hỗ trợ cho người dân và người sản xuất gặp khó khăn do dịch Covid-
19 như gói hỗ trợ của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) triển khai giảm giá
điện, tiền điện cho khách hàng nên giá điện tháng 5 và tháng 6 năm nay giảm lần
lượt là 0,28% và 2,72% so với tháng trước. Các cấp, các ngành tích cực triển khai
thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để ngăn chặn diễn biến phức tạp của dịch bệnh
Covid-19, bảo đảm cân đối cung cầu và ổn định thị trường.Lạm phát cơ bản tháng
12/2020 tăng 0,07% so với tháng trước và tăng 0,99% so với cùng kỳ năm trước.
Lạm phát cơ bản bình quân năm 2020 tăng 2,31% so với bình quân năm 2019
Trong năm 2021, trên cơ sở đánh giá dự báo xu hướng các mặt hàng quan trọng
thiết yếu, kết hợp với đánh giá về lạm phát cơ bản của Ngân hàng Nhà nước, Bộ
Tài chính đưa ra dự báo về lạm phát cả năm 2021 cơ bản được kiểm soát ở mức
thấp, đảm bảo chỉ tiêu do Quốc hội đề ra. Theo đó, dự báo CPI bình quân năm
2021 so với năm 2020 tăng khoảng 2,07%-2,18%. CPI tháng 12/2021 so với tháng
12/2020 tăng khoảng 3,02%-3,28%. lOMoAR cPSD| 46988474
Nguồn : tổng cục thống kê
Năm 2021, trong bối cảnh áp lực lạm phát toàn cầu ngày càng tăng cao, giá nguyên
nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất, giá cước vận chuyển liên tục tăng nhưng chỉ
số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2021 của Việt Nam chỉ tăng 1,84% so với
năm trước, thấp nhất trong 6 năm qua, đạt mục tiêu Quốc hội đề ra, tiếp tục là năm
kiểm soát lạm phát thành công.
CPI bình quân năm 2021 tăng do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
+ Giá xăng dầu trong nước tăng 31,74% so với năm trước (làm CPI chung tăng
1,14 điểm phần trăm), giá gas tăng 25,89% (làm CPI chung tăng 0,38 điểm phần trăm);
+ Giá gạo tăng 5,79% so với năm trước (làm CPI chung tăng 0,15 điểm phần trăm)
do giá gạo trong nước tăng theo giá gạo xuất khẩu, nhu cầu tiêu dùng gạo nếp và
gạo tẻ ngon tăng trong dịp Lễ, Tết và nhu cầu tích lũy của người dân trong thời gian giãn cách xã hội;
+ Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 7,03% so với năm trước do giá xi măng, sắt,
thép, cát tăng theo giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào (làm CPI chung tăng 0,14 điểm phần trăm);
+ Giá dịch vụ giáo dục tăng 1,87% so với năm trước (làm CPI chung tăng 0,1 điểm
phần trăm) do ảnh hưởng từ đợt tăng học phí năm học mới 2020-2021 theo lộ trình
của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ. lOMoAR cPSD| 46988474
Để đạt được kết quả trên trong khi đất nước đang hết sức khó khăn bởi tác động
của dịch Covid-19 là nhờ sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, các ngành, các cấp đã
tích cực triển khai thực hi ện những giải pháp đồng bộ để ngăn chặn dịch bệnh và
ổn định giá cả thị trường.
Như vậy, trong giai đoạn 2010-2021, tốc độ tăng CPI tăng giảm theo hình sin. Tuy
nhiên, bước sang năm 2022, áp lực lạm phát được đánh giá là rất lớn. Nếu dịch
Covid-19 được kiểm soát trong năm 2022, nhu cầu sản xuất và tiêu dùng tăng lên;
lạm phát sẽ chịu tác động của vấn đề tăng giá nguyên nhiên vật liệu trên thế giới
như xăng dầu, than và giá cước vận chuyển. Việc nhập khẩu nguyên liệu với mức
giá cao sẽ ảnh hưởng đến chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm, từ đó đẩy giá hàng
hóa tiêu dùng trong nước lên cao, tạo áp lực cho lạm phát.
Bên cạnh đó, giá nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu sản xuất thức ăn
chăn nuôi tăng sẽ tác động vào giá thực phẩm. Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở được
tính trong CPI cũng sẽ tăng theo giá nguyên liệu dùng trong xây dựng. Giá dịch
vụ giáo dục tăng trở lại do một số địa phương kết thúc thời gian được miễn, giảm
học phí năm học 2021-2022 và ảnh hưởng của việc thực hiện lộ trình điều chỉnh
giá dịch vụ giáo dục theo Nghị định 81/2021/NĐ-CP quy định về cơ chế thu, quản
lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách
miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập, giá dịch vụ giáo dục trong lĩnh vực
giáo dục, đào tạo. Ngoài ra, khi dịch Covid-19 được kiểm soát, nhu cầu dịch vụ
ăn uống ngoài gia đình, dịch vụ du lịch, vui chơi, giải trí tăng trở lại cũng tác động không nhỏ tới CPI chung
2.2 .Giải pháp cho lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô:
Để đối phó với lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô, Chính phủ đã ban hành và
thực thi Nghị quyết số 11/2010/NQ-CP ngày 24 tháng 2 năm 2011 về kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Ngày 16 tháng 3 năm lOMoAR cPSD| 46988474
2011, Bộ Chính trị ra Kết luận số 02-KL/TW về tình hình kinh tế-xã hội năm 2011.
Kết luận của Bộ chính trị cũng đã nhấn mạnh đến tập trung ưu tiên hàng đầu là
việc kiềm chế lạm phát; ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội; coi đây
vừa là nhiệm vụ cấp bách ngắn hạn của năm 2011, vừa là nhiệm vụ quan trọng
của một vài năm tiếp theo. Hàng loạt các giải pháp cụ thể đã dược các bộ, ngành
và địa phương triển khai thực hiện, như: thắt chặt tín dụng, giảm cung tiền tệ, tăng
lãi suất, điều chỉnh tỷ giá, quản lý chặt chẽ thị trường vàng, quản lý, kiểm soát
chặt hoạt động thị trường ngoại tệ phi chính thức, rà soát, cắt, hoãn, giảm và điều
chuyển vốn đầu tư nhà nước, thực hiện trợ cấp cho các tầng lớp, nhóm dân cư thu
nhập thấp, ưu tiên tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho nông nghiệp và
nông thôn, cho xuất khẩu, lập danh mục hạn chế nhập, giảm nhập khẩu, giảm thâm
hụt cán cân thanh toán,.v.v…
Các giải pháp nói trên đã đạt được những kết quả ban đầu như tỷ giá có xu hướng
ổn định dần; thị trường ngoại tệ phi chính thức giảm về quy mô và mức độ hoạt
động; cung-cầu ngoại tệ bớt căng thẳng hơn; quy mô thị trường vàng tự do được
thu hẹp đáng kể, nhất là vàng miếng; việc sử dụng vàng làm phương tiện đầu cơ,
làm phương tiện thanh toán cũng giảm hẳn,.v.v... Tuy vậy, việc triển khai Nghị
quyết số 11/2011/NQ-CP và Kết Luận số 02KL/TW cho đến nay còn có một số
khiếm khuyết sau đây:- Các giải pháp về tiền tệ đã được thực hiện khá quyết liệt,
bám sát nội dung và tinh thần Nghị quyết số
11/2011/NQ-CP và Kết luận số 02-KL/TW của Bộ Chính trị.
Tuy vậy, một số giải pháp, nhất là giải pháp về lãi suất đã tỏ ra là chưa thật hợp
lý.- Khác với chính sách tiền tệ, các giải pháp về tài khóa chưa được thực hiện
đúng theo yêu cầu của Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP và Kết luận số 02-KL/TW
của Bộ Chính trị; và chưa có tác dụng đáng kể. Các địa phương, các ngành vẫn
khởi công mới hơn 5000 dự án mới với số vốn được phân bố hơn 22 nghìn tỷ
đồng. Vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước 4 tháng đầu năm vẫn tăng hơn
18% so với cùng kỳ năm ngoái. Số vốn đầu tư được báo cáo là sẽ cắt giảm, đình
hoãn và điều chuyển vẫn còn thấp hoặc chưa đủ độ tin cậy. Danh mục cụ thể các
dự án được cắt giảm vẫn chưa được xác định cụ thể và công bố công khai. Cũng
tương tự như vậy đối với danh mục các dự án sẽ được bổ sung thêm vốn từ việc lOMoAR cPSD| 46988474
điều chuyển vốn từ các dự án bị cắt giảm. Một lần nữa, có sự thiếu hụt đáng kể
trong phối hợp cần có giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong cuộc
chiến chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. - Các giải pháp được thực hiện
cho đến nay còn mang nặng tính hành chính, ngắn hạn và tình thế; chưa đặt trong
tổng thể các giải pháp đổi mới mô hình tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu kinh tế;
nên chưa hướng đến giải quyết nguyên nhân cơ bản của lạm phát
Và bất ổn kinh tế vĩ mô ở nước ta.
Nguồn :Áp lực lạm phát và bong bóng tài sản 2021
Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP của Chính phủ và Kết luận số 02-KL/TW của Bộ
chính trị được đánh giá là phù hợp để kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Thực hiện các biện pháp chống lạm phát, bên cạnh các kết quả bước đầu, cũng đã
gây ra một số khó khăn ngắn hạn đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
như lãi suất vay vốn cao, khó tiếp cận vốn tín dụng, tiêu thụ hàng hóa khó khăn,
tốc độ tăng trưởng năm nay sẽ thấp hơn so với chỉ tiêu kế hoạch..v.v.... Tuy vậy,
về trung và dài hạn, thì lạm phát thấp, ổn định kinh tế vĩ mô một cách lâu dài và
vững chắc là điều kiện cần thiết không thể thiếu cho nền kinh tế phát triển nhanh lOMoAR cPSD| 46988474
và bền vững. Vì vậy, phải tiếp tục kiên trì và nhất quán thực hiện đầy đủ nội dung,
tinh thần Nghị quyết 11 của Chính phủ và Kết luận số 02 của Bộ Chính trị không
chỉ trong năm 2011 và cả trong nhiều năm tiếp theo. Mục tiêu cụ thể trong ba năm
tới là phải giảm được lạm phát hàng năm và giữ ổn định mức lạm phát ở mức
khoảng 5%. Phải giảm chi tiêu, nhất là chi đầu tư nhà nước để giảm bội chi ngân
sách; qua đó, phối hợp và hỗ trợ tốt hơn, hiệu quả hơn với chính sách tiền tệ và tỷ
giá để chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Bên cạnh các giải pháp nói trên,
phải khởi động ngay các giải pháp kích hoạt quá trình tái cơ cấu kinh tế, chuyển
đổi mô hình tăng trưởng, trong đó, trọng tâm là đổi mới cơ chế phân bố và sử dụng
nguồn lực theo hướng nâng cao năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh. Theo
tinh thần đó, trong năm 2011 cần triển khai nghiên cứu, soạn thảo Luật Quản lý
đầu tư nhà nước, Luật sửa đổi bổ sung Luật Ngân sách nhà nước, Luật sửa đổi, bổ
sung Luật Đất đai, Luật sửa đổi bổ sung Luật Đầu tư, Đề án đổi mới toàn diện cơ
chế quản lý DNNN, thực hiện triệt để, đầy đủ và nhất quán kết quả Đề án 30 về
đơn giản hoá thủ tục hành chính trên một số lĩnh vực quản lý nhà nước. lOMoAR cPSD| 46988474 KẾT LUẬN
Trong thời gian qua, Lạm phát của Việt Nam đã trải qua nhiều đợt bùng phát và
tưởng chừng như không thể kiểm soát được. Qua việc phân tích những nguyên nhân
dẫn tới lạm phát ở Việt Nam và bằng việc điều hành quyết liệt của chính phủ qua các
chính sách kiểm soát lạm phát, mà cụ thể là Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011
của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh
tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và mới đây nhất là Nghị Quyết 01/NQ-CP ngày
03/01/2012 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2012 đã từng
bước tác động đến chỉ số lạm phát theo chiều hướng giảm. Tuy nhiên lạm phát tuy có
bước được kiềm chế nhưng vẫn ở mức cao, trong khi giá dầu thế giới tăng cao buộc
chúng ta phải điều chỉnh theo giá thị trường; lãi suất còn cao, tăng trưởng tín dụng
giảm, thanh khoản của một số ngân hàng thương mại khó khăn, việc tiếp cận vốn còn
hạn chế; sản xuất công nghiệp tăng chậm, hàng hóa tồn kho lớn, chi phí đầu vào cao,
nhiều cơ sở phải thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh (Nghị quyết số 07/NQ-CP).
Đây là thực tế khó khăn đòi hỏi chính phủ cũng như các thành phần kinh tế và tất cả
người dân phải quyết tâm và nỗ lực thì mới có thể đạt kết quả như mong muốn (giảm
lạm phát năm 2012 xuống 12% và các năm sau từ 6 % đến 7%). Tình hình kinh tế thế
giới hiện nay rất khó dự đoán, phần nào ảnh hưởng đến tình hình kinh tế trong nước,
vì vậy vấn đề nay đòi hỏi việc điều hành kinh tế phải theo sát diễn biến thị trường và
có những chính sách thay đổi linh hoạt, kịp thời. Về tình hình trong nước đòi hỏi phải
ổn định được chỉ số giá tiêu dùng, giữ ổn định giá cả các mặt hàng thiết yếu, bản thân
các thành phần kinh tế cũng phải nhận thức được bản chất của vấn đề và tham gia vào
việc kiểm soát lạm phát với chính phủ, thể hiện qua những hành động cụ thể như tiết
kiệm chi phí để không tăng giá các mặt hàng hay tăng giá có kế hoạch. Về bản thân
các Ngân hàng phải cùng với chính phủ trong công tác điều hành kiểm soát lạm phát,
đảm bảo hoạt động ổn định, tránh tăng trưởng tín dụng quá nhanh hằm tránh gây ra
sự mất ổn định thị trường tiền tệ cũng là việc góp phần vào công cuộc chống lạm phát đầy gian nan.
TÀI LIỆU THAM KHẢO lOMoAR cPSD| 46988474
1 .Số liệu lấy từ trang web www.gso.gov.vn của tổng cục thông kê
2. Kinh Tế Học Vi Mô – Robert S. Pindyck, Daniel L. Rubinfeld
3. Giáo trình kinh tế vĩ mô ,chủ biên :TS Nguyễn Như Ý , Trần Thị Trúc Dung
4. Giáo trình kinh tế vĩ mô ,NXS : HỌC VIÊN NGÂN HÀNG