Bài Tập Lớn: Giữ Gìn Và Phát Huy Bản Sắc Văn Hóa Dân Tộc Trong Thời Kỳ Hội Nhập | Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Bài Tập Lớn: Giữ Gìn Và Phát Huy Bản Sắc Văn Hóa Dân Tộc Trong Thời Kỳ Hội Nhập | Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (PLT10A)
Trường: Học viện Ngân hàng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
1. Các vấn đề chung về bản sắc văn hóa dân tộc
1.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc - Văn hóa:
Văn hóa là toàn bộ những giá trị tinh thần và vật chất được con người tạo
dựng lên cùng bề dài lịch sử dân tộc, văn hóa là khái niệm rộng, liên quan đến
mọi lĩnh vực có trong đời sống xã hội của con người.
- Bản sắc văn hóa dân tộc:
Bản sắc văn hóa là nét tinh hoa đã được hình thành trong quá trình phát
triểnlịch sử của dân tộc đó và được con người tạo ra, thể hiện những nét riêng
củadân tộc, đồng thời gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc
gia, một địa phương nào đó.
- Đặc trưng của bản sắc văn hóa dân tộc:
Mỗi một bản sắc không chỉ góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế đất
nước mà còn ảnh hưởng đến văn hóa nước ta. Trải quan hàng nghìn năm dựng
nước và giữ nước, trong suốt thời gian ấy nền văn hóa luôn tồn tại và trở thành
tinh hoa của lịch sử với những đặc trưng tiêu biểu:
Thứ nhất, bản sắc dân tộc Việt Nam thể hiện những đặc trưng của nền văn
hóa. Là gốc hình thành văn hóa từ lâu đời, từ đó ngày càng phát triển, tạo nên
những nét riêng biệt đến nay. Từ thời phong kiến các vị vua đã luôn biết cách
giữ gìn cho văn hóa lịch sử chẳng hạn như nền văn minh lúa nước.
Thứ hai, bản sắc văn hóa dân tộc mang tính bền vững với thời gian. Thời
gian có thay đổi nhưng nét văn hóa dân tộc Việt Nam vẫn sẽ được gìn giữ,
không khác biệt với bản sắc văn hóa dân tộc ban đầu.
Thứ ba, đặc trưng cơ bản có thể nhìn nhận từ bên ngoài về bản sắc văn hóa
dân tộc là sự tôn kính, thờ cúng tổ tiên, tôn trọng tất cả các giá trị cộng đồng và
gia đình, các ngành nghề thủ công mỹ nghệ, người dân lao động cần cù. Trong
ngôi nhà của mình thì vị trí trang nghiêm nhất sẽ là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, là
hành động thể hiện việc uống nước nhớ nguồn, tưởng nhớ công ơn sinh thành và dưỡng giục.
Thứ tư, ở Việt Nam có một nền văn hóa dân tộc phong phú trong cộng
đồng 54 dân tộc, có nhiều sinh hoạt cộng đồng, tín ngưỡng, tư tưởng và tôn giáo khác nhau.
Thứ năm, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển
phụ thuộc vào đặc điểm của từng dân tộc, điều kiện lịch sử, điều kiện tự nhiên,
môi trường cư trú, chế độ chính trị giao lưu với các nền văn hóa khác.
Thứ sáu, thực tế trải qua hàng ngàn năm lịch sử đã chứng minh rằng để bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được gìn giữ tốt đẹp là nhờ vào sự gắn bó chặt
chẽ, tinh thần đoàn kết và gìn giữ của người dân Việt Nam. Lịch sử dân tộc đã
chứng minh rằng đoàn kết tạo nên sức mạnh to lớn, đưa đất nước ta, dân tộc ta
vượt qua khó khăn, thử thách, giành thắng lợi và lập nên những kỳ tích vẻ vang.
1.2. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là hành động của mỗi người hướng tới
mục tiêu gìn giữ, bảo vệ những nét đặc trưng, linh hồn của dân tộc ta hun đúc
qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là điều cần thiết và quan trọng để phát
triển lâu dài, là cách tốt nhất để toàn thể dân tộc hướng tới hành động bảo vệ hệ
thống giá trị văn hóa được hình thành trong suốt quá trình lịch sử.
1.3. Tầm quan trọng của việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong thời
kỳ hội nhập
Bản sắc văn hóa của từng dân tộc, quốc gia có vai trò rất quan trọng trong
việc xây dựng và phát triển đất nước:
- Giữ gìn bản sắc trong sự đa dạng văn hóa toàn cầu:
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, chúng ta có điều kiện tiếp
thu và vận dụng một cách có hiệu quả tinh hoa và thành tựu về văn hóa, khoa
học, công nghệ, kỹ thuật của thế giới, các kinh nghiệm quốc tế trong quản lý văn
hóa, xã hội để đất nước phát triển bền vững. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cũng
đang đặt ra những thách thức, "nguy cơ bất ổn" với nền văn hóa dân tộc. Các
phương tiện truyền thông, viễn thông, Internet đang tạo thuận lợi cho việc giao lưu văn hóa nhân loại.
- Giữ gìn bản sắc – thương hiệu văn hóa quốc gia
Chúng ta cần phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập quốc tế. Bởi nước ta có nền văn hóa, văn hiến lâu đời và có bề
dày truyền thống hàng nghìn năm. Đó là nền văn hóa có hệ giá trị, bản sắc riêng
và không thể bị đồng hóa bởi bất kỳ kẻ thù xâm lược nào. Có thể nhận thấy rằng
sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam là một nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh
tổng hợp quốc gia, gây dựng "thương hiệu quốc gia" và nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu. Vì vậy, cần có sự chỉ đạo tập trung,
thống nhất với các giải pháp toàn diện, đồng bộ để lan tỏa sức mạnh mềm văn
hóa Việt Nam trong hợp tác, giao lưu và hội nhập quốc tế.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, chúng ta có điều kiện tiếp
thu và vận dụng một cách có hiệu quả tinh hoa và thành tựu về văn hóa, khoa
học, công nghệ, kỹ thuật của thế giới, các kinh nghiệm quốc tế trong quản lý văn
hóa, xã hội để đất nước phát triển bền vững. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cũng
đang đặt ra những thách thức, "nguy cơ bất ổn" với nền văn hóa dân tộc. Các
phương tiện truyền thông, viễn thông, Internet đang tạo thuận lợi cho việc giao lưu văn hóa nhân loại.
- Giữ gìn bản sắc – thương hiệu văn hóa quốc gia
Chúng ta cần phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập quốc tế. Bởi nước ta có nền văn hóa, văn hiến lâu đời và có bề
dày truyền thống hàng nghìn năm. Đó là nền văn hóa có hệ giá trị, bản sắc riêng
và không thể bị đồng hóa bởi bất kỳ kẻ thù xâm lược nào. Có thể nhận thấy rằng
sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam là một nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh
tổng hợp quốc gia, gây dựng "thương hiệu quốc gia" và nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu. Vì vậy, cần có sự chỉ đạo tập trung,
thống nhất với các giải pháp toàn diện, đồng bộ để lan tỏa sức mạnh mềm văn
hóa Việt Nam trong hợp tác, giao lưu và hội nhập quốc tế.
Nghị quyết TW 9, khóa XI của Đảng về xây dựng văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước bền vững đã nhấn mạnh nhiệm vụ:
Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đại
hội XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt
Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần
dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát
triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tại Đại hội XIII của Đảng đã xác định các quan điểm, chủ trương mới,
toàn diện và sâu sắc về phát triển văn hóa và con người Việt Nam để thực hiện
mục tiêu xây dựng đất nước ta phồn thịnh, hạnh phúc.
Thứ nhất, lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam để làm nền tảng, sức
mạnh nội sinh bảo đảm đất nước phát triển bền vững.
Thứ hai, phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, là động lực phát triển đất nước, hội nhập quốc tế.
Đại hội XIII của Đảng đã xác định: chủ yếu dựa vào việc phát huy tối đa
nhân tố con người để phát triển đất nước nhanh và bền vững; lấy con người làm
gốc, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước.
Thứ ba, phát huy sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam. Để phát huy sức mạnh
mềm văn hóa Việt Nam, trước hết, cần đặc biệt chú trọng bảo tồn và phát huy
giá trị di sản văn hóa dân tộc. Để gia tăng sức mạnhmềm văn hóa, phải gắn kết
văn hóa với phát triển kinh tế, nhất là ngành du lịch.
Thứ tư, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Thực
hiện nghiêm túc các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương, chức vụ càng
cao càng phải gương mẫu. Đảng viên tự giác nêu gương để khẳng định vị trí
lãnh đạo, vai trò tiên phong, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy các phong trào cách mạng.
Xây dựng chuẩn mực đạo đức làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh
hành vi ứng xử trong công tác.
2. Thực trạng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở Việt Nam hiện nay
2.1. Thực trạng giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc ở nước ta hiện nay
Việt Nam có nền văn hoá đa dạng, lâu đời gắn liền với lịch sử hàng ngàn
năm hình thành và phát triển của dân tộc ta. Xuyên suốt chiều dài lịch sử, đã có
ba lớp văn hoá đan xen với nhau: lớp văn hoá bản địa, lớp văn hoá giao lưu với
Trung Quốc và các nước trong khu vực, lớp văn hoá giao lưu với phương Tây.
Ba lớp văn hóa này thể hiện ba giai đoạn phát triển của nền văn hóa Việt Nam:
từ nền Văn hóa Đông Sơn gắn liền với sự hình thành nhà nước Văn Lang – Âu
Lạc; thời kỳ chống Bắc thuộc qua các triều đại phong kiến độc lập; cuối cùng là
văn hóa Việt Nam hiện đại với nền tảng là chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Những năm
trở lại đây điều kiện sống, tiện nghi sinh hoạt, lối sống của người dân đã và đang
có sự thay đổi lớn ở cả thành thị và nông thôn. Sự thay đổi không chỉ trong đời
sống vật chất mà còn là đời sống tinh thần, suy nghĩ của con người. Trước kia
một số người đi tìm sự thoải mái phóng đãng ở nước ngoài, thì nay lối sống đó
đã xuất hiện tại Việt Nam trên nhiều lĩnh vực, lối sống đó đang làm lu mờ đi nếp
sống truyền thống của dân tộc. Nhiều phong cách sống thực sự đang xung đột
với chuẩn mực của người Việt như bạo lực, mại dâm, ...
Nghệ thuật: Nghệ thuật văn hóa truyền thống với đa dạng về thể loại, loại
hình hiện đang dần bị mai một. Thế hệ trẻ ngày nay và cả tầng lớp trung lưu
không còn thích xem chèo, tuồng, hát ca trù vì lúc nghệ sĩ biểu diễn thường diễn
ra chậm trong khi diễn tiến của cuộc sống đã có nhiều ảnh hưởng của nền kinh
tế công nghiệp hiện đại. Một số nhạc cụ độc đáo của người Việt đang ít được
chú ý bảo tồn và phát huy. Đàn đá Tây Nguyên, đã một thời tạo được ấn tượng
sâu sắc cho thính khan giả trong và ngoài nước, nay chỉ có ít người biết sử dụng.
Các nhạc cụ độc đáo của đồng bào các dân tộc miền núi cũng có nguy cơ bị mai
một trong bối cảnh nhạc hiện đại tràn lan ngày nay.
Tôn giáo tín ngưỡng: Bảo tồn có chọn lọc các lễ hội, văn hóa và tín
ngưỡng. Lễ hội là văn hóa truyền thống nhưng tình trạng ngày nay tổ chức quá
nhiều lễ hội vừa tốn kém và nguy cơ bị mê tín dị đoan hóa, hiện tượng lợi dụng
lễ hội để cầu lợi cho cá nhân.
2.2. Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế đến bản sắc văn hóa dân tộc
Trong bối cảnh hiện nay, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra
mạnh mẽ trên quy mô lớn. Toàn cầu hóa tạo cơ hội phát triển nhưng cũng chứa
đựng nhiều yếu tố gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia trên thế giới.
Trong đó Việt Nam cũng là một quốc gia chịu sự tác động lớn của quá trình này.
Bên cạnh những mặt tích cực còn tồn đọng những mặt trái cần giải quyết. Vấn
đề đặt ra là làm sao để nâng cao bản lĩnh và khả năng chắt lọc, nhằm phát huy
tốt nhất sự tiếp thu, làm giàu văn hóa dân tộc và hạn chế tối đa những hệ lụy, tiêu cực.
Ngày nay, hội nhập quốc tế là quy luật khách quan, Việt Nam cần phải
tỉnh táo, sáng suốt trong quá trình hội nhập để không bị hòa tan. Hội nhập văn
hóa trải qua các giai đoạn: Giao lưu, hợp tác và đối thoại. Đối thoại là bình đẳng
nhưng muốn đối thoại được phải có bản sắc riêng. Hội nhập văn hóa có những
đặc trưng riêng, không như hội nhập trong các lĩnh vực khác. Hội nhập văn hóa
là sự thống nhất giữa “cho” và “nhận”. “Nhận” cái mới của nước ngoài nhưng
cũng phải “cho” thế giới những điều đặc sắc trong văn hóa Việt Nam. Thực tiễn
cho thấy, chúng ta đang “nhận” nhiều mà “cho” ít. Ví dụ như trong lĩnh vực
nghệ thuật, nhiều nghệ sĩ bắt chước các yếu tố ngoại lai, ít mang dấu ấn bản sắc văn hóa Việt. - Cơ hội:
Hội nhập ở Việt Nam đã thúc đẩy và tạo ra những tiền đề rộng mở để văn
hóa Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới. Những thay đổi mạnh mẽ về tư
duy: Có lẽ chưa bao giờ trong nhận thức xã hội, các quan điểm về tự do tôn
giáo, nhân quyền, dân chủ, phát triển con người bền vững, tự do văn hóa, báo
chí, sáng tác… lại được bàn luận trên nhiều diễn đàn với các quy mô khác nhau như hiện nay.
Từ năm 1998, với Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, văn hóa được xác
định là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội. Văn hóa được xác định là một trong bốn trụ cột của phát triển
bền vững, có vị trí ngang với chính trị, kinh tế và xã hội. Từ đây, văn hóa không
chỉ có chức năng nhận thức, giáo dục, đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người
mà còn là nguồn lực nội sinh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Những đổi
mới trên phương diện quản lý văn hóa. Song song với việc xác định mô hình
phát triển của nền văn hóa Việt Nam “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, những
thay đổi mạnh mẽ trên phương diện quản lý văn hóa đã tạo ra những bước ngoặt
lớn trong hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản văn hóa; góp phần
tích cực vào việc tạo ra những sản phẩm du lịch đặc trưng, thúc đẩy phát triển
kinh tế vùng và cả nước và thúc đẩy phát triển du lịch.
Những động lực mới để văn hóa phát triển đa dạng: Quá trình đổi mới, hội
nhập và tiếp biến văn hóa trên nhiều lĩnh vực đã tạo ra những động lực mới để
phát triển đa dạng, phong phú nền văn hóa; xuất hiện nhiều loại hình văn hóa
mới. Sản phẩm văn hóa tăng đáng kể về chất và lượng, hình thành thị trường sản
phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật… Văn học, nghệ thuật đã tạo ra nhiều tác
phẩm có giá trị, phản ánh mọi lĩnh vực trong đời sống, đang nỗ lực tư duy sáng
tạo, tìm tòi cách thức mới để nâng cao năng lực khám phá cuộc sống. Hệ thống
thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ về loại hình, chất lượng, tính
hiện đại, nhanh nhạy chuyển tải văn hóa đến với công chúng rộng rãi.
Thành tựu trong đối ngoại văn hóa: Bằng việc tích cực và chủ động mở
rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, “phát triển văn hóa đối ngoại” đã trở thành
phương châm chính trong chiến lược đối ngoại của các ngành quản lý văn hóa,
du lịch, ngoại giao. Kết quả là đưa các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể của
Việt Nam đến được với bạn bè quốc tế, khiến thế giới ngạc nhiên và thán phục
về tính độc đáo của văn hóa Việt Nam. Nhiều di sản văn hóa Việt Nam đã được
công nhận là di sản văn hóa thế giới như: Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh); Quan họ
(Bắc Ninh), Ca trù, Nhã nhạc cung đình Huế… - Thách thức:
Bên cạnh những thành tựu to lớn về kinh tế, văn hóa, xã hội, quá trình hội
nhập của Việt Nam trong hơn 30 năm qua cũng dẫn đến nhiều hệ lụy cho văn
hóa, xã hội và cả kinh tế, môi trường và con người. Đó là sự hình thành ngành
công nghiệp văn hóa mà chưa có mô hình quản lý phù hợp, gây ảnh hưởng tới
thị hiếu thẩm mỹ Á Đông, nhất là khủng hoảng về đạo đức và lối sống. Có thể
thấy, bên cạnh lối sống lành mạnh, lối sống ích kỷ, vụ lợi cá nhân cũng bắt đầu
hình thành và xâm nhập vào nhiều tầng lớp xã hội. Lối sống thiên về hưởng thụ,
sống vội đang dần huỷ hoại nhân cách của nhiều người dẫn đến mai một nhiều
giá trị truyền thống. Trong khi đó, khủng hoảng niềm tin cũng là một trở ngại
lớn với việc tạo lập các quan hệ xã hội. Theo điều tra giá trị châu Á năm 2008
của Viện Nghiên cứu con người có tới 58,5% người Việt Nam cho rằng không
thể tin vào bất kỳ ai mới tiếp xúc. Bệnh “ngợp bởi vật chất” cũng khiến nhiều
người, nhất là giới trẻ hiện nay chạy theo nhu cầu về vật chất, thể hiện xu hướng thái quá.
Tệ nạn xâm hại tình dục, ngược đãi trẻ em, hành vi lệch chuẩn của học
sinh, sinh viên có xu hướng gia tăng và ngày càng trẻ hóa, điều này làm suy
giảm nhân cách, đạo đức và gia tăng sự khủng hoảng niềm tin trong xã hội.
2.3. Những nét mới trong hoạt động giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Nước ta có 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc lại có những sắc thái, bản địa
riêng, bổ sung cho nhau làm phong phú văn hóa Việt Nam và củng cố sự đoàn
kết dân tộc. Điều đó cho thấy nền văn hóa nước ta vừa thống nhất vừa đa dạng
trong cộng đồng các dân tộc. Vốn văn hóa truyền thống của dân tộc được giữu
gìn và phát triển qua các hoạt động văn hóa. Những hoạt động ấy diễn ra thường
xuyên, liên tục và trên khắp cả nước. Nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống:
tuồng, chèo, cải lương, chầu văn, ca Huế... được giữ gìn và thu hút sự quan tâm
của đông đảo quần chúng. Những lễ hội vẫn được tổ chức thường xuyên cả
trong và ngoài nước. Hàng loạt các bộ sưu tập công phu từ kho tàng văn hóa dân
gian Việt Nam qua các thế kỷ được xuất bản, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu,
bảo tồn và phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc ta. Nhiều tác giả có xu
hướng tìm cảm hứng từ kho tàng văn học dân gian cho sáng tác của mình. Một
bộ phận không thể thiếu trong thiết chế văn hóa, đặc biệt là các bảo tang gần đây
đã có những cách thức hoạt động mới có hiệu quả. Đội ngũ các nhà văn hóa dân
tộc thiểu số phát triển cả về chất và lượng, có đóng góp quan trọng trong các
lĩnh vực văn học - nghệ thuật.
Bảo vệ di sản văn hóa là nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan
tâm, vì di sản là vốn quý của dân tộc để lại cho thế hệ sau. Những việc làm thiết
thực hướng về nguồn cội, về cách mạng và kháng chiến, tưởng nhớ các anh
hùng dân tộc... được phổ biến rộng rãi trong quần chúng. Nó góp phần giữ gìn
những truyền thống tốt đẹp: lòng yêu nước, nhân ái, khoan dung..., nuôi dưỡng
tinh thần, sức sống kiên cường của người Việt Nam.
Các di tích văn hóa lịch sử đang được bảo tồn, cải tạo để các thế hệ sau có
thể tham quan, thưởng thức nhằm nâng cao vốn hiểu biết về lịch sử dân tộc.
Nước ta tự hào được UNESCO công nhận bảy di sản văn hóa thế giới: Di sản
văn hóa vật thể gồm có: Vịnh Hạ Long, Phong Nha - Kẻ Bàng, Phố cổ Hội An
Cố đô Huế, Thánh địa Mỹ Sơn. Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm: Nhã nhạc
Cung đình Huế, cồng chiêng Tây Nguyên.
Việt Nam đã khẳng định được vị thế của mình, mang lại ấn tượng tốt đẹp
với bạn bè quốc tế từ cách giao tiếp, ứng xử cho đến vốn văn hóa riêng đa dạng,
phong phú. Những bước tiến mới trong quá trình hội nhập đang đem lại các kết
quả tốt đẹp: ngày 11-1-2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của
WTO và chủ nhà APEC, được đề cử là ứng cử viên châu Á duy nhất vào ghế
không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ giúp sáng tạo
nên một nền văn hóa mới: kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc
và quốc tế. Tà áo dài truyền thống mang những nét cách tân trong kiểu dáng,
hoa văn trang trí. Nhiều bài hát, lấy cảm hứng từ văn hóa dân gian nhưng lại
được phối theo những thể loại nhạc hiện đại: Pop, Hiphop, Rock... tạo nên sự
mới lạ cho người nghe. Con người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ vẫn giữ được
nét giản dị, thuần hậu lại cực kỳ nhạy bén, có khả năng phán đoán và nắm bắt xã
hội trước nhịp sống phương Tây. Bên cạnh những phong tục đẹp của ngày tết
hay những lễ hội truyền thống, người Việt Nam vẫn háo hức tham gia những
sinh hoạt văn hóa vốn của phương Tây như Giáng Sinh, ngày lễ tình yêu, lễ hội hóa trang, ...
3. Phương hướng và giải pháp nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế
3.1. Phương hướng
Sau khi nghiên cứu về thực trạng, những ảnh hưởng của hội nhập quốc tế
và những đổi mới trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc ta đưa ra một vài
phương hướng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cụ thể như sau:
Một là, công tác giáo dục, tuyên truyền để nâng cao nhận thức của cộng
đồng về tầm quan trọng của việc hiểu biết về bản sắc văn hóa dân tộc cần được
nâng cao, hình thành ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc một cách tự giác,
tích cực và chủ động. Từ đó cốt cách dân tộc, lòng tự tôn dân tộc mới luôn giữ
vai trò hạt nhân trong quá trình phát triển kinh tế và phát triển nói chung của dân tộc.
Hai là, cần quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong tổng thể hệ thống chính sách kinh tế - xã hội.
Để chính sách đi vào được cuộc sống cần bảo đảm sự thống nhất trong tất cả các
khẩu từ xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát đến đầu tư nguồn lực phù hợp.
Ba là, các chủ thể văn hóa phải có ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
trong quá trình phát triển kinh tế thì mọi nguồn lực bên ngoài mới phát huy tác
dụng. Những giải pháp phát triển để đáp ứng những nhu cầu dân sinh, phải gắn
với nhu cầu chăm lo đời sống tinh thần và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Bốn là, khi giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc phải có phương
pháp, cách thức phù hợp, hướng vào bản chất, chống căn bệnh hình thức, chạy
theo xu thế làm phá vỡ sự đa dạng, phong phú của bản sắc văn hóa dân tộc.
Năm là, phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hoá, môi trường
văn hoá, đời sống văn hoá. Nâng cao tính sáng tạo của nền văn hóa dân tộc, mở
rộng, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo trong nhân dân, khuyến khích đội ngũ trí
thức văn nghệ sĩ, các nhà doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân tham gia vào
quá trình giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc.
Sáu là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chế định pháp lý và thiết chế văn hóa
bảo đảm xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Tiếp tục tiến hành
cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận văn hóa, bảo vệ và phát huy các
giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Bảy là, trong thời kì hội nhập sâu rộng như hiện nay, cần biết giữ gìn và
tiếp thu một cách chọn lọc. Tiếp thu toàn diện, nhưng có chọn lọc để giữ lại
những gì tinh túy phù hợp với bản sắc văn hóa Việt Nam, tiếp nhận để làm giàu
cho văn hóa mình, một nền văn hóa hợp với khoa học và hợp với cả nguyện
vọng của nhân dân. Cái gì mới mà phù hợp thì tiếp thu, còn cái mới mà lai căng,
xấu xa thì cần cương quyết loại bỏ.
3.2. Giải pháp
Từ những phương hướng được đề xuất, để khắc phục những hạn chế, yếu
kém, tiếp tục giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời đáp ứng yêu
cầu phát triển của xã hội và con người trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế,
trước mắt cần thực hiện các nhiệm vụ cơ bản, cấp thiết sau:
Một là, tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền, vận động quần chúng
nhân dân tích cực tham gia các hoạt động văn hóa. Phát hiện và biểu dương các
tấm gương có những đóng góp tiêu biểu trong việc xây dựng đời sống văn hóa.
Hai là, chú trọng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, bản sắc dân tộc.
Coi trọng sưu tầm, khai thác các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, tổ chức
ngày hội văn hóa. Gìn giữ các tác phẩm nghệ thuật, bảo vật, cổ vật và di vật có
giá trị đặc sắc. Nâng cao chất lượng các tác phẩm văn học nghệ thuật, công trình
văn hóa, tổ chức các cuộc thi sáng tác các tác phẩm văn học nghệ thuật.
Ba là, tích cực xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Huy động các
nguồn lực và sự sáng tạo để đầu tư xây dựng công trình và thiết chế văn hóa,
khuyến khích các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, đoàn thể tham gia hoạt động văn
hóa, nghệ thuật, quản lý và bảo vệ các di tích, di sản văn hóa.
Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và có biện pháp quản lý
đối với các hoạt động văn hóa. Chúng ta phải kiên quyết đấu tranh chống lại
những hiện tượng phản văn hóa, phi văn hóa.
Năm là, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn
nghiệp vụ cho cán bộ quản lý các ngành văn hóa, nhất là đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng cán bộ văn hóa là người dân tộc thiểu số.
Sáu là, phát triển kinh tế và văn hóa phải gắn với bảo vệ môi trường tự
nhiên và môi trường xã hội.
Bảy là, mở rộng hợp tác giao lưu văn hóa quốc tế. Tiếp thu một cách có
chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài. Tích cực phổ
biến rộng rãi những tinh hoa, văn hóa Việt Nam, những thành tựu to lớn trong
hơn hai mươi năm đổi mới xây dựng đất nước và chính sách hội nhập quốc tế
của Đảng và Nhà nước ta.
4. Vai trò của thế hệ trẻ trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
Hiện nay, hầu hết thanh niên Việt Nam đã phát huy vai trò xung kích trong
việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần
quan trọng vào việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Nhiều thanh niên đã nhận
thức đúng tình hình và nhiệm vụ, nêu cao chí tiến thủ, phát huy những phẩm
chất tốt đẹp, sức mạnh của tuổi trẻ, đảm đương những việc khó, chấp nhận
mọigian nan, thử thách, chủ động, sáng tạo, góp phần tạo nên những thành tựu
mới to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Nhiều tấm gương tiêu biểu hy sinh thân mình
trong cuộc sống, vượt lên khó khăn để học tập, trong lao động sản xuất, trong
hoạt động văn hóa – xã hội, cũng như trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, giữ vững
nền an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, … đã làm sâu sắc thêm niềm tự hào
của thế hệ trẻ trong thời kỳ mới. Các hoạt động của thanh niên trong những năm
gần đây tiếp tục phát triển, với các phong trào: “Thanh niên tình nguyện”, “Tuổi
trẻ giữ nước”, … đã tạo được những dấu ấn tốt đẹp trong đời sống xã hội. Các
phương thức sinh hoạt truyền thống, giáo dục đạo đức, lối sống, các hoạt động
giúp nhân dân chống bão lụt… đã thu hút đông đảo lực lượng trẻ vừa đóng góp
vào nhiệm vụ chung, vừa thiết thực chăm lo lợi ích chính đáng của thanh niên.
Tuy nhiên, họ vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế về nhận thức trong việc giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc. Trên thực tế vẫn còn một bộ phận không nhỏ trong trẻ
nhận thức về chức trách, nhiệm vụ nói chung, về lịch sử, truyền thống, về bản
sắc văn hóa dân tộc nói riêng, chưa thật sâu sắc, dẫn tới những vi phạm về phẩm
chất đạo đức và lối sống. Một bộ phận giới trẻ có những biểu hiện sai lệch về
chuẩn mực đạo đức, chính trị, lối sống. Thực trạng đó nếu không khắc phục kịp
thời sẽ gây nguy cơ xói mòn, phai nhạt và biến dạng các giá trị trong bản sắc
văn hóa dân tộc, ảnh hưởng không nhỏ đến bản chất, truyền thống của dân tộc,
sự ru nhập của lối sống tư sản, suy giảm thuần phong mỹ tục, sự chống phá của
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa.
Thanh niên là lực lượng xung kích, sáng tạo có vai trò quan trọng to lớn
trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Do đó, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc trong thế hệ trẻ trong điều kiện hiện nay chính là việc nhận thức
và hành động bảo vệ, giữ vững, phát triển và phát huy cao độ lòng yêu nước, ý
chí tự cường, tinh thần đoàn kết; lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa; cần
cù, sáng tạo trong lao động, sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc
của nhân dân, đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước theo mục tiêu đã đề
ra; lưu truyền bản sắc văn hoá dân tộc cho các thế hệ mai sau và quảng bá giá trị
văn hoá dân tộc tới bạn bè quốc tế…