Bài tập lớp cuối môn - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Tôn Đức Thắng

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam được thể hiện xuyên suốt trong các tác phẩm của Người, từ Đường Kách Mệnh đến Chánh cương vắn tắt và những bài viết sau này. Đó là tiến trình cách mạng giải phóng dân tộc; xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

BÀI TẬP LỚN
MÔN : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
CÂU 1: Chứng minh nhận định: "Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội" là
nội dung xuyên suốt của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trước tiên ta cần hiểu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam được thể hiện xuyên
suốt trong các tác phẩm của Người, từ Đường Kách Mệnh đến Chánh cương vắn tắt và
những bài viết sau này. Đó là tiến trình cách mạng giải phóng dân tộc; xây dựng chế độ
dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tức là, cách mạng nước ta sẽ trải qua hai
giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin trong các tác phẩm kinh điển đã dành sự quan
tâm đặc biệt đến vấn đề dân tộc và độc lập dân tộc; chỉ rõ con đường đấu tranh để giải
phóng dân tộc. V.I.Lênin đã phát triển luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen "vô sản toàn
thế giới liên hiệp lại" thành "vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại",
trở thành khẩu hiệu của phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc của các nước bị áp
bức trên toàn thế giới.
Hồ Chí Minh đã khẳng định tư tưởng về dân tộc và giải phóng dân tộc là một
trong những vấn đề bản chất nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã nêu rõ mối
quan hệ biện chứng giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa,
đặt nền tảng cho sự quá độ từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội
chủ nghĩa.
Độc lập dân tộc là quyền tự chủ, tự quyết của một dân tộc, quốc gia trong việc tổ
chức các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…
trong phạm vi lãnh thổ của mình, không chịu sự tác động, ép buộc, chi phối, thao túng
của nước ngoài. Độc lập dân tộc phải trên cơ sở bảo đảm chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, bình đẳng trong quan hệ quốc tế, được luật pháp quốc tế thừa nhận và trên thực
tế phải được khẳng định. Độc lập dân tộc là thành quả của cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc. Đối với Việt Nam, độc lập dân tộc không chỉ dừng lại ở độc lập dân tộc dưới chế
độ phong kiến, vì vị trí của người lao động vẫn không thay đổi. Độc lập dân tộc theo tư
tưởng Hồ Chí Minh là một nền độc lập thật sự. Người nhấn mạnh: phải đấu tranh giành
cho được độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ "độc lập giả hiệu",
"độc lập nửa vời", "độc lập hình thức". Người đã kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa
thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới để giành độc lập thật sự cho dân tộc, cho đất
nước. Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ và
ấm no, hạnh phúc cho nhân dân lao động; gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Tư
tưởng đó đã trở thành mục tiêu của cách mạng, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tiếp theo ta tiến tới mối liên hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội:
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hai chặng đường nối tiếp nhau của một tiến
trình cách mạng. Hay nói cách khác, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hai mục tiêu
cụ thể của hai cuộc cách mạng trong đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong đó, độc lập dân tộc là mục tiêu của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện
người cày có ruộng, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân. Đây là nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng dân tộc, dân chủ, làm tiền đề để thực hiện các mục tiêu khác, như quyền lực
chính trị, dân chủ, vấn đề ruộng đất, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao
trình độ dân trí… xây dựng một thể chế chính trị do dân làm chủ, xây dựng nền dân chủ
nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội…. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
là giai đoạn tiếp theo của tiến trình cách mạng Việt Nam, sau khi kết thúc giai đoạn trước
là cách mạng dân tộc, dân chủ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ mối liên hệ biện chứng giữa đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng này là cơ sở quá độ từ cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chính cách mạng xã hội chủ nghĩa đã
kế thừa, khẳng định và bảo đảm vững chắc thành quả của cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân. Sự phát triển này là quy luật tất yếu của lịch sử. Các giai đoạn của tiến
trình cách mạng là những bước đi không thể tách rời nhau dù mỗi giai đoạn có những
mục tiêu cụ thể riêng.
Quá trình phát triển nhận thức của Đảng và thực tiễn cách mạng nước ta là minh chứng
lịch sử cho mối liên hệ biện chứng trên:
Giai đoạn 1930 - 1945 : Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, thông qua cương lĩnh vắn
tắt, sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Trong
đó, Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố sẽ làm cách mạng tư sản dân quyền
và cách mạng ruộng đất, đấu tranh xây dựng một xã hội tự do tổ chức, nam nữ
bình quyền, phổ cập giáo dục. Đảng xác định mục tiêu đánh đổ thực dân Pháp và
chế độ phong kiến, lấy ruộng đất chia cho dân nghèo.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, 20 triệu nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc, đỉnh cao là cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám 1945 thành
công, chấm dứt chế độ phong kiến kéo dài hàng nghìn năm, chấm dứt sự đô hộ của thực
dân Pháp sau gần một thế kỷ. Thắng lợi vĩ đại này của dân tộc Việt Nam đã đưa nước ta
bước sang một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Giai đoạn 1945 - 1954 : Đảng lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ
chấn động địa cầu.
Mục tiêu của giai đoạn này là tiến hành thành công cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc, giành độc lập, tự do, cụ thể hóa tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, mục tiêu này mới đạt được ở miền Bắc. Sau
hiệp định Giơnevơ (20/7/1954) nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc.
Sau khi hòa bình lập lại, miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, trở thành hậu
phương lớn cho cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam. Đường lối độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn này là hai chiến lược cách mạng: cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam.
Giai đoạn 1954 - 1975: cả nước dốc lòng cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc đã khơi dậy truyền thống dựng nước
và giữ nước của ông cha, truyền thống chiến thắng giặc ngoại xâm của dân tộc. Cả nước
xuống đường, cả nước hướng về miền Nam ruột thịt theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta "Tất cả cho tiền tuyến". Lịch sử Việt Nam chưa lúc nào được chứng
kiến sự kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên phạm vi, quy mô lớn như
thời điểm này của cách mạng. Sau chiến dịch Hồ Chí Minh trong cuộc tổng tiến công và
nổi dậy mùa xuân 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả
nước bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả
nước - kỷ nguyên của độc lập, tự do, thống nhất và chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh đất nước gặp muôn vàn khó khăn,
thách thức to lớn: đất nước bị chiến tranh tàn phá; Mỹ và phương Tây tiến hành bao vây,
cô lập, cấm vận Việt Nam; các thế lực phản động quốc tế phát động kiểu "chiến tranh phá
hoại nhiều mặt"chống phá Việt Nam; nền kinh tế nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng
nghiêm trọng kéo dài nhiều năm. Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đã từng bước hồi sinh
đất nước về mọi mặt. Trước những bối cảnh mới của tình hình, Đảng ta luôn xác định
phải giương cao ngọn cờ "Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội". Công cuộc đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là một chủ trương chiến lược đúng đắn, phù hợp với quy
luật khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tạo điều kiện, tiền đề cho chủ
nghĩa xã hội. Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta vẫn kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong mối liên hệ gắn kết biện chứng.
CÂU 2: Phân tích điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về quy luật ra đời Đảng cộng
sản:
Một là, Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quy luật ra đời Đảng cộng sản của chủ
nghĩa Mác - Lênin và chỉ ra quy luật ra đời đặc thù của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc tích cực
hoạt động nhằm truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị mọi mặt cho
việc thành lập Đảng. Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, hoạt động tích cực
trong Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo “Người cùng khổ” để tuyên truyền chủ nghĩa
Mác - Lênin vào các nước thuộc địa. Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đi Liên Xô dự Đại hội
V của Quốc tế Cộng sản nhiều hoạt động tích cực tại Quốc tế Cộng sản như: tham
dự Đại hội Quốc tế Nông dân, Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Công hội đỏ,… Năm 1925,
Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở
lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí. Những bài giảng của Người được tập hợp
thành cuốn sách “Đường cách mệnh” xuất bản năm 1927. Trong tác phẩm Người nêu
rõ: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì
vận động tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức sản giai
cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm láivững
thuyền mới chạy”.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, được
tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác
- Lênin, đó là: nguyên tắc tập trung dân chủ, phải đoàn kết thống nhất, lấy tự phê bình và
phê bình làm quy luật phát triển và phải có kỷ luật nghiêm minh... Người khẳng định vấn
đề ý nghĩa quyết định trong xây dựng Đảng là: “Đảng muốn vững thì phải chủ
nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng
không chủ nghĩa cũng như người không trí khôn, tàu không bàn chỉ nam. Bây
giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất,
cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm của
sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Vận dụng sáng tạo quy
luật nàymột nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nghèo nàn lạc hậu như Việt Nam,
Hồ Chí Minh khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân
phong trào yêu nước đã dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đây chính sáng tạo nổi bật nhất của Hồ Chí Minh trong quá trình vận động
thành lập Đảng. Người trung thành với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật
ra đời của Đảng, đồng thời có bổ sung, sáng tạo vào quy luật ấy với điều kiện cụ thể của
Việt Nam, đó phong trào yêu nước. Hồ Chí Minh đã phân tích rất kỹ tính chất hội,
cơ cấu giai cấp của xã hội Việt Nam để chỉ ra quy luật này.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp, số lượng ít, chủ yếu công nhân khai thác mỏ, đồn điền chưa phải công
nhân đại công nghiệp như phương Tây. Tuy vậy, giai cấp công nhân Việt Nam cũng
giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, có tinh thần cách mạng triệt để nhất,
có mối liên hệ mật thiết với nông dân, là lực lượng lãnh đạo cách mạng. Phong trào công
nhân diễn ra nhưng quy mô còn nhỏ, tổ chức chưa chặt chẽ. Bên cạnh đó, phong trào yêu
nước Việt Nam diễn ra sôi nổi, rộng khắp, thu hút được đông đảo các giai cấp, tầng lớp
tham gia. Vì vậy, phong trào công nhân phong trào yêu nước cần phải hỗ trợ nhau để
thu hút lực lượng đông đảo trong xã hội, nhất là nông dân.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa “chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh
nhất”, cần phải được truyền bá, thẩm thấu vào phong trào công nhân phong trào yêu
nước để tạo nên sự chuyển biến về chất, trở thành hành động cách mạng của dân tộc Việt
Nam. Chính sáng tạo của Hồ Chí Minh về quy luật ra đời đặc thù của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã tập hợp được lực lượng đông đảo trong nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân mà đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam làm nên những thắng lợi vẻ
vang của cách mạng Việt Nam.
Bằng nhiều hình thức tuyên truyền, nhất thông qua tổ chức hoạt động của
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, chủ nghĩa Mác - Lênin đã thẩm thấu vào phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Thời kỳ 1927 - 1929 là thời kỳ chuyển biến
của cách mạng Việt Nam. Phong trào công nhân Việt Nam chuyển mạnh từ tự phát đến tự
giác, phong trào yêu nước phát triển với chất lượng mới. Qua đó, tạo nên làn sóng cách
mạng dân tộc, dân chủ mạnh mẽ, tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Với sự ra đời của 03 tổ chức cộng sản vào cuối năm 1929, đầu năm 1930
cho thấy việc thành lập Đảng đã được chuẩn bị chu đáo về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Với nhãn quan chính trị nhạy bén, nhằm thống nhất thành một Đảng duy nhất để lãnh đạo
cách mạng, Nguyễn Ái Quốc với vai trò phái viên của Quốc tế cộng sản đã triệu tập Hội
nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930).
Hai là, Hồ Chí Minh xác định: giải phóng dân tộc nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng Việt Nam.
Trong các văn kiện thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (Chính cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt) do Hồ Chí Minh soạn thảo xác định: “Chủ trương làm sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới hội cộng sản”, “Đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Đây là
đường lối đúng đắn của cách mạng Việt Nam với hai giai đoạn: Giải phóng dân tộc đem
lại độc lập cho dân tộc được đặt lên hàng đầu, tiếp đó cách mạng phải tiến lên giai đoạn
hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa để thực sự giải phóng giai cấp, giải phóng con
người, đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, con người được phát triển toàn
diện. Đây là hai giai đoạn không có sự phân biệt về không gian và thời gian, nó gắn liền
với nhau, mối liên hệ chặt chẽ với nhau, giải phóng dân tộc tiền đề, điều kiện để
giải phóng giai cấp, giải phóng con người và giải phóng giai cấp, giải phóng con người sẽ
bảo đảm cho độc lập dân tộc được vững chắc, “độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ
nghĩa xã hội”.
Ba là, sáng tạo của Hồ Chí Minh về việc xác định lực lượng tiến hành cách mạng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông
dân động lực của cách mạng sản. Vận dụng sáng tạo quan điểm đó vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: , bên cạnhCông nông chủ cách mệnh
đó Người cũng chỉ ra: học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ bầu bạn cách mệnh của công
nông. Trong “Sách lược vắn tắt”, Hồ Chí Minh xác định về từng lực lượng cách
mạng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận
giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng. Đảng phải thu phục
cho được đại bộ phận dân cày phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách
mạng đánh trúc bọn đại địa chủ phong kiến… Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu
sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp.
Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ bản An Nam chưa mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra
mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ”.
Đây chính chủ trương tập hợp tất cả các giai cấp, tầng lớp, lực lượng tinh
thần yêu nước, tinh thần cách mạng đứng về phe công nông, tạo nên sức mạnh tổng hợp
cho cách mạng, đồng thời phân hóa, lập kẻ thù, là sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh
trong huy động sức mạnh toàn dân làm cách mạng.
Để thực hiện được việc tập hợp lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh nhấn mạnh
đến tính tiên phong vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tính tiên phong của Đảng,
theo Người thể hiện đường lối chính trị đúng đắn. Người nêu rõ: “Đảng đội tiên
phong của đạo quânsản gồm một số lớn của giai cấp công nhân làm cho họ có đủ
năng lực lãnh đạo quần chúng”. Trong Lời kêu gọi nhân thành lập Đảng, Người cũng chỉ
rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng
sẽ dìu dắt giai cấp sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho
toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta”. Các văn kiện thông qua tại Hội nghị
thành lập Đảng, các bài viết cũng như thư gửi Trung ương Đảng Quốc tế Cộng sản
trong những năm 30 thế kỷ XX, Hồ Chí Minh dùng rất nhiều từ như: “thu phục”, “lôi
kéo”, “liên lạc”, “dìu dắt”, v.v.. nhằm khẳng định tính tiên phong vai trò lãnh đạo của
Đảng trong việc tổ chức, tập hợp, đoàn kết dân tộc đấu tranh cho quyền lợi của dân tộc và
của giai cấp.
Bốn là, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc đặt tên Đảng chủ trương giải quyết
vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước Đông Dương.
Trong khi Quốc tế Cộng sản có chỉ thị thành lập một Đảng Cộng sản chung cho ba
dân tộc Đông Dương. Trong thảo luận tại Hội nghị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh giải
thích: “Cái từ Đông Dương rất rộng và theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề
dân tộc vấn đề rất nghiêm túc, người ta không thể bắt buộc các dân tộc khác gia nhập
Đảng, làm như thế là trái với nguyên lý của chủ nghĩa Lênin. Còn cái từ An Nam thì hẹp,
mà nước ta có ba miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ.
Do đó, từ Việt Nam hợp với cả ba miềncũng không trái với nguyên lý của chủ
nghĩa Lênin về vấn đề dân tộc”, nên Hội nghị nhất trí với cách giải thích của Người
đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ trương đó của Người tuân thủ những nguyên lý
xây dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, tính đến yếu tố dân tộc, nhằm
thức tỉnh ý thức dân tộc, khơi dậy sức mạnh của ba dân tộc Đông Dương, đồng thời tạo ra
sự tin cậy về chính trị để đoàn kết, giúp đỡ nhau một cách tự nguyện, bình đẳng
hiệu quả.
Những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ở một
nước thuộc địa đã được thực tế cách mạng Việt Nam cách mạng thế giới trong thế kỷ
XX kiểm chứng đúng đắn khoa học. Đây sự cống hiến quan trọng của Hồ Chí
Minh vào kho tàng luận Mác - Lênin. Trải qua gần 90 năm xây dựng, chiến đấu
trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của một đảng cách
mạng chân chính, luôn gắn mật thiết với nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam với sự
sáng lập rèn luyện của Hồ Chí Minh đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành những
thắng lợi vẻ vang, có ý nghĩa lịch sử to lớn. Ngày nay, những tư tưởng của Người vẫn còn
nguyên giá trị, soi sáng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa hội bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hội chủ nghĩa mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
| 1/5

Preview text:

BÀI TẬP LỚN
MÔN : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
CÂU 1: Chứng minh nhận định: "Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội" là
nội dung xuyên suốt của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trước tiên ta cần hiểu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam được thể hiện xuyên
suốt trong các tác phẩm của Người, từ Đường Kách Mệnh đến Chánh cương vắn tắt và
những bài viết sau này. Đó là tiến trình cách mạng giải phóng dân tộc; xây dựng chế độ
dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tức là, cách mạng nước ta sẽ trải qua hai
giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin trong các tác phẩm kinh điển đã dành sự quan
tâm đặc biệt đến vấn đề dân tộc và độc lập dân tộc; chỉ rõ con đường đấu tranh để giải
phóng dân tộc. V.I.Lênin đã phát triển luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen "vô sản toàn
thế giới liên hiệp lại" thành "vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại",
trở thành khẩu hiệu của phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc của các nước bị áp
bức trên toàn thế giới.
Hồ Chí Minh đã khẳng định tư tưởng về dân tộc và giải phóng dân tộc là một
trong những vấn đề bản chất nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã nêu rõ mối
quan hệ biện chứng giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa,
đặt nền tảng cho sự quá độ từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Độc lập dân tộc là quyền tự chủ, tự quyết của một dân tộc, quốc gia trong việc tổ
chức các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…
trong phạm vi lãnh thổ của mình, không chịu sự tác động, ép buộc, chi phối, thao túng
của nước ngoài. Độc lập dân tộc phải trên cơ sở bảo đảm chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, bình đẳng trong quan hệ quốc tế, được luật pháp quốc tế thừa nhận và trên thực
tế phải được khẳng định. Độc lập dân tộc là thành quả của cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc. Đối với Việt Nam, độc lập dân tộc không chỉ dừng lại ở độc lập dân tộc dưới chế
độ phong kiến, vì vị trí của người lao động vẫn không thay đổi. Độc lập dân tộc theo tư
tưởng Hồ Chí Minh là một nền độc lập thật sự. Người nhấn mạnh: phải đấu tranh giành
cho được độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ "độc lập giả hiệu",
"độc lập nửa vời", "độc lập hình thức". Người đã kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa
thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới để giành độc lập thật sự cho dân tộc, cho đất
nước. Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ và
ấm no, hạnh phúc cho nhân dân lao động; gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Tư
tưởng đó đã trở thành mục tiêu của cách mạng, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tiếp theo ta tiến tới mối liên hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội:
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hai chặng đường nối tiếp nhau của một tiến
trình cách mạng. Hay nói cách khác, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hai mục tiêu
cụ thể của hai cuộc cách mạng trong đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong đó, độc lập dân tộc là mục tiêu của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện
người cày có ruộng, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân. Đây là nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng dân tộc, dân chủ, làm tiền đề để thực hiện các mục tiêu khác, như quyền lực
chính trị, dân chủ, vấn đề ruộng đất, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao
trình độ dân trí… xây dựng một thể chế chính trị do dân làm chủ, xây dựng nền dân chủ
nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội…. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
là giai đoạn tiếp theo của tiến trình cách mạng Việt Nam, sau khi kết thúc giai đoạn trước
là cách mạng dân tộc, dân chủ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ mối liên hệ biện chứng giữa đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng này là cơ sở quá độ từ cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chính cách mạng xã hội chủ nghĩa đã
kế thừa, khẳng định và bảo đảm vững chắc thành quả của cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân. Sự phát triển này là quy luật tất yếu của lịch sử. Các giai đoạn của tiến
trình cách mạng là những bước đi không thể tách rời nhau dù mỗi giai đoạn có những mục tiêu cụ thể riêng.
Quá trình phát triển nhận thức của Đảng và thực tiễn cách mạng nước ta là minh chứng
lịch sử cho mối liên hệ biện chứng trên: • Giai đoạn 1930 - 1945
: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, thông qua cương lĩnh vắn
tắt, sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Trong
đó, Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố sẽ làm cách mạng tư sản dân quyền
và cách mạng ruộng đất, đấu tranh xây dựng một xã hội tự do tổ chức, nam nữ
bình quyền, phổ cập giáo dục. Đảng xác định mục tiêu đánh đổ thực dân Pháp và
chế độ phong kiến, lấy ruộng đất chia cho dân nghèo.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, 20 triệu nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc, đỉnh cao là cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám 1945 thành
công, chấm dứt chế độ phong kiến kéo dài hàng nghìn năm, chấm dứt sự đô hộ của thực
dân Pháp sau gần một thế kỷ. Thắng lợi vĩ đại này của dân tộc Việt Nam đã đưa nước ta
bước sang một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. • Giai đoạn 1945 - 1954
: Đảng lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.
Mục tiêu của giai đoạn này là tiến hành thành công cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc, giành độc lập, tự do, cụ thể hóa tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, mục tiêu này mới đạt được ở miền Bắc. Sau
hiệp định Giơnevơ (20/7/1954) nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc.
Sau khi hòa bình lập lại, miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, trở thành hậu
phương lớn cho cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam. Đường lối độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn này là hai chiến lược cách mạng: cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam.
Giai đoạn 1954 - 1975: cả nước dốc lòng cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc đã khơi dậy truyền thống dựng nước
và giữ nước của ông cha, truyền thống chiến thắng giặc ngoại xâm của dân tộc. Cả nước
xuống đường, cả nước hướng về miền Nam ruột thịt theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta "Tất cả cho tiền tuyến". Lịch sử Việt Nam chưa lúc nào được chứng
kiến sự kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên phạm vi, quy mô lớn như
thời điểm này của cách mạng. Sau chiến dịch Hồ Chí Minh trong cuộc tổng tiến công và
nổi dậy mùa xuân 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả
nước bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả
nước - kỷ nguyên của độc lập, tự do, thống nhất và chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh đất nước gặp muôn vàn khó khăn,
thách thức to lớn: đất nước bị chiến tranh tàn phá; Mỹ và phương Tây tiến hành bao vây,
cô lập, cấm vận Việt Nam; các thế lực phản động quốc tế phát động kiểu "chiến tranh phá
hoại nhiều mặt"chống phá Việt Nam; nền kinh tế nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng
nghiêm trọng kéo dài nhiều năm. Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đã từng bước hồi sinh
đất nước về mọi mặt. Trước những bối cảnh mới của tình hình, Đảng ta luôn xác định
phải giương cao ngọn cờ "Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội". Công cuộc đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là một chủ trương chiến lược đúng đắn, phù hợp với quy
luật khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tạo điều kiện, tiền đề cho chủ
nghĩa xã hội. Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta vẫn kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong mối liên hệ gắn kết biện chứng.
CÂU 2: Phân tích điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về quy luật ra đời Đảng cộng sản:
Một là, Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quy luật ra đời Đảng cộng sản của chủ

nghĩa Mác - Lênin và chỉ ra quy luật ra đời đặc thù của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc tích cực
hoạt động nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị mọi mặt cho
việc thành lập Đảng. Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, hoạt động tích cực
trong Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo “Người cùng khổ” để tuyên truyền chủ nghĩa
Mác - Lênin vào các nước thuộc địa. Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đi Liên Xô dự Đại hội
V của Quốc tế Cộng sản và có nhiều hoạt động tích cực tại Quốc tế Cộng sản như: tham
dự Đại hội Quốc tế Nông dân, Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Công hội đỏ,… Năm 1925,
Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở
lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí. Những bài giảng của Người được tập hợp
thành cuốn sách “Đường cách mệnh” xuất bản năm 1927. Trong tác phẩm Người nêu
rõ: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì
vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai
cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy”.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, được
tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác
- Lênin, đó là: nguyên tắc tập trung dân chủ, phải đoàn kết thống nhất, lấy tự phê bình và
phê bình làm quy luật phát triển và phải có kỷ luật nghiêm minh... Người khẳng định vấn
đề có ý nghĩa quyết định trong xây dựng Đảng là: “Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà
không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây
giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất,
cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm của
sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Vận dụng sáng tạo quy
luật này ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nghèo nàn lạc hậu như Việt Nam,
Hồ Chí Minh khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước đã dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đây chính là sáng tạo nổi bật nhất của Hồ Chí Minh trong quá trình vận động
thành lập Đảng. Người trung thành với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật
ra đời của Đảng, đồng thời có bổ sung, sáng tạo vào quy luật ấy với điều kiện cụ thể của
Việt Nam, đó là phong trào yêu nước. Hồ Chí Minh đã phân tích rất kỹ tính chất xã hội,
cơ cấu giai cấp của xã hội Việt Nam để chỉ ra quy luật này.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp, số lượng ít, chủ yếu là công nhân khai thác mỏ, đồn điền mà chưa phải là công
nhân đại công nghiệp như ở phương Tây. Tuy vậy, giai cấp công nhân Việt Nam cũng là
giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, có tinh thần cách mạng triệt để nhất,
có mối liên hệ mật thiết với nông dân, là lực lượng lãnh đạo cách mạng. Phong trào công
nhân diễn ra nhưng quy mô còn nhỏ, tổ chức chưa chặt chẽ. Bên cạnh đó, phong trào yêu
nước Việt Nam diễn ra sôi nổi, rộng khắp, thu hút được đông đảo các giai cấp, tầng lớp
tham gia. Vì vậy, phong trào công nhân và phong trào yêu nước cần phải hỗ trợ nhau để
thu hút lực lượng đông đảo trong xã hội, nhất là nông dân.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa “chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh
nhất”, cần phải được truyền bá, thẩm thấu vào phong trào công nhân và phong trào yêu
nước để tạo nên sự chuyển biến về chất, trở thành hành động cách mạng của dân tộc Việt
Nam. Chính sáng tạo của Hồ Chí Minh về quy luật ra đời đặc thù của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã tập hợp được lực lượng đông đảo trong nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân mà đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam làm nên những thắng lợi vẻ
vang của cách mạng Việt Nam.
Bằng nhiều hình thức tuyên truyền, nhất là thông qua tổ chức và hoạt động của
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, chủ nghĩa Mác - Lênin đã thẩm thấu vào phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Thời kỳ 1927 - 1929 là thời kỳ chuyển biến
của cách mạng Việt Nam. Phong trào công nhân Việt Nam chuyển mạnh từ tự phát đến tự
giác, phong trào yêu nước phát triển với chất lượng mới. Qua đó, tạo nên làn sóng cách
mạng dân tộc, dân chủ mạnh mẽ, tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Với sự ra đời của 03 tổ chức cộng sản vào cuối năm 1929, đầu năm 1930
cho thấy việc thành lập Đảng đã được chuẩn bị chu đáo về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Với nhãn quan chính trị nhạy bén, nhằm thống nhất thành một Đảng duy nhất để lãnh đạo
cách mạng, Nguyễn Ái Quốc với vai trò phái viên của Quốc tế cộng sản đã triệu tập Hội
nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930).
Hai là, Hồ Chí Minh xác định: giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng Việt Nam.
Trong các văn kiện thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (Chính cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt) do Hồ Chí Minh soạn thảo xác định: “Chủ trương làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, “Đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Đây là
đường lối đúng đắn của cách mạng Việt Nam với hai giai đoạn: Giải phóng dân tộc đem
lại độc lập cho dân tộc được đặt lên hàng đầu, tiếp đó cách mạng phải tiến lên giai đoạn
xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa để thực sự giải phóng giai cấp, giải phóng con
người, đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, con người được phát triển toàn
diện. Đây là hai giai đoạn không có sự phân biệt về không gian và thời gian, nó gắn liền
với nhau, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, giải phóng dân tộc là tiền đề, là điều kiện để
giải phóng giai cấp, giải phóng con người và giải phóng giai cấp, giải phóng con người sẽ
bảo đảm cho độc lập dân tộc được vững chắc, “độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Ba là, sáng tạo của Hồ Chí Minh về việc xác định lực lượng tiến hành cách mạng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông
dân là động lực của cách mạng vô sản. Vận dụng sáng tạo quan điểm đó vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Công nông là chủ cách mệnh, bên cạnh
đó Người cũng chỉ ra: học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ là bầu bạn cách mệnh của công
nông. Trong “Sách lược vắn tắt”, Hồ Chí Minh xác định về từng lực lượng cách
mạng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận
giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng. Đảng phải thu phục
cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách
mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến… Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư
sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp.
Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra
mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ”.
Đây chính là chủ trương tập hợp tất cả các giai cấp, tầng lớp, lực lượng có tinh
thần yêu nước, tinh thần cách mạng đứng về phe công nông, tạo nên sức mạnh tổng hợp
cho cách mạng, đồng thời phân hóa, cô lập kẻ thù, là sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh
trong huy động sức mạnh toàn dân làm cách mạng.
Để thực hiện được việc tập hợp lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh nhấn mạnh
đến tính tiên phong và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tính tiên phong của Đảng,
theo Người là thể hiện ở đường lối chính trị đúng đắn. Người nêu rõ: “Đảng là đội tiên
phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ
năng lực lãnh đạo quần chúng”. Trong Lời kêu gọi nhân thành lập Đảng, Người cũng chỉ
rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng
sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho
toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta”. Các văn kiện thông qua tại Hội nghị
thành lập Đảng, các bài viết cũng như thư gửi Trung ương Đảng và Quốc tế Cộng sản
trong những năm 30 thế kỷ XX, Hồ Chí Minh dùng rất nhiều từ như: “thu phục”, “lôi
kéo”, “liên lạc”, “dìu dắt”, v.v.. nhằm khẳng định tính tiên phong và vai trò lãnh đạo của
Đảng trong việc tổ chức, tập hợp, đoàn kết dân tộc đấu tranh cho quyền lợi của dân tộc và của giai cấp.
Bốn là, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc đặt tên Đảng và chủ trương giải quyết
vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước Đông Dương.
Trong khi Quốc tế Cộng sản có chỉ thị thành lập một Đảng Cộng sản chung cho ba
dân tộc Đông Dương. Trong thảo luận tại Hội nghị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh giải
thích: “Cái từ Đông Dương rất rộng và theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề
dân tộc là vấn đề rất nghiêm túc, người ta không thể bắt buộc các dân tộc khác gia nhập
Đảng, làm như thế là trái với nguyên lý của chủ nghĩa Lênin. Còn cái từ An Nam thì hẹp,
mà nước ta có ba miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ.
Do đó, từ Việt Nam hợp với cả ba miền và cũng không trái với nguyên lý của chủ
nghĩa Lênin về vấn đề dân tộc”, nên Hội nghị nhất trí với cách giải thích của Người và
đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ trương đó của Người tuân thủ những nguyên lý
xây dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, có tính đến yếu tố dân tộc, nhằm
thức tỉnh ý thức dân tộc, khơi dậy sức mạnh của ba dân tộc Đông Dương, đồng thời tạo ra
sự tin cậy về chính trị để đoàn kết, giúp đỡ nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và có hiệu quả.
Những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ở một
nước thuộc địa đã được thực tế cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới trong thế kỷ
XX kiểm chứng là đúng đắn và khoa học. Đây là sự cống hiến quan trọng của Hồ Chí
Minh vào kho tàng lý luận Mác - Lênin. Trải qua gần 90 năm xây dựng, chiến đấu và
trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của một đảng cách
mạng chân chính, luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam với sự
sáng lập và rèn luyện của Hồ Chí Minh đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành những
thắng lợi vẻ vang, có ý nghĩa lịch sử to lớn. Ngày nay, những tư tưởng của Người vẫn còn
nguyên giá trị, soi sáng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.