











Preview text:
  lOMoAR cPSD| 46342819 BÀI LÀM  Bài 1.  
Ngày 01/10/2021, bên bán và bên mua giao kết hợp đồng mua bán máy phát 
điện, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao máy có xuất xứ Nhật Bản với các quy 
cách, chất lượng cũng như các chỉ tiêu kĩ thuật cơ bản theo thỏa thuận của 
các bên trong hợp đồng.  
Ngày 01/11/2021, bên bán giao máy phát điện có suất xứ từ Singapore. Tuy 
nhiên, ngay từ khi nhận bộ chứng từ vận tải trong đó có ghi mã xuất xứ từ 
Singapore, bên mua vẫn thanh toán 70 % giá trị hàng cho bên bán sau khi 
thông báo cho bên bán về xuất xứ của máy không đúng như thỏa thuận của 
các bên, đồng thời đã nhận máy và được chuyển giao lắp đặt vào ngày 
01/12/2021 với cam kết sẽ nghiệm thu máy sau khi lắp ráp, kiểm tra tủ điện  ATS.  
Máy phát điện được các bên xác nhận về chất lượng và các thông số kĩ thuật 
phù hợp với thỏa thuận trong hợp đồng.  
Tuy nhiên sau đó, bên mua căn cứ vào việc bên bên bán giao hàng không phù 
hợp với hợp đồng (máy phát điện có xuất xứ từ Singapore thay vì Nhật Bản), 
yêu cầu trả lại máy và đòi lại tiền. Theo Luật Thương mại 2005, nếu không đủ 
căn cứ để yêu cầu trả lại máy và đòi lại tiền, bên mua có quyền thanh toán tiền 
hàng tương ứng với giá trị của hàng hóa (máy phát điện có xuất xứ từ 
Singapore thay vì Nhật Bản) hay không?    
Sự kiện pháp lý :  
Ngày 01/10/2021, bên bán và bên mua giao kết hợp đồng 
mua bán máy phát điện nên bên bán có nghĩa vụ giao 
máy đúng theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng. 
Ngày 01/11/2021, bên bán giao máy phát điện có suất xứ 
từ Singapore nhận bộ chứng từ vận tải trong đó có ghi 
mã xuất xứ từ Singapore. 
Bên mua vẫn thanh toán 70 % giá trị hàng cho bên bán sau 
khi thông báo cho bên bán về xuất xứ của máy không 
đúng như thỏa thuận của các bên. 
Đồng thời bên mua đã nhận máy và được chuyển giao lắp 
đặt vào ngày 01/12/2021 với cam kết sẽ nghiệm thu máy 
sau khi lắp ráp, kiểm tra tủ điện ATS.      lOMoAR cPSD| 46342819
Máy phát điện được các bên xác nhận về chất lượng và 
các thông số kĩ thuật phù hợp với thỏa thuận trong hợp  đồng. 
Tuy nhiên sau đó, bên mua căn cứ vào việc bên bên bán 
giao hàng không phù hợp với hợp đồng và yêu cầu trả lại  máy và đòi lại tiền. 
Vấn đề đặt ra :  
 Vấn đề là nếu không đủ căn cứ để yêu cầu trả lại máy 
và đòi lại tiền, bên mua có quyền thanh toán tiền hàng 
tương ứng với giá trị của hàng hóa (máy phát điện có 
xuất xứ từ Singapore thay vì Nhật Bản) hay không? 
 Như thế nào được coi là hàng hóa không phù hợp với  hợp đồng ? 
 Vấn đề là trách nhiệm của bên bán đối với hàng hoá 
không phù hợp với hợp đồng ? 
 Vấn đề là làm thế nào để khắc phục trong trường hợp 
giao hàng không phù hợp với hợp đồng ? 
Pháp luật giải quyết vấn đề :  
 - Pháp luật để giải quyết trong trường hợp này là : áp 
dụng Luật Thương mại 2005. 
• Căn cứ theo điều 34 Luật Thương mại 2005 về nội 
dung giao hàng và chứng từ liên quan đến hàng  hóa. 
• Căn cứ theo điều 39 Luật Thương mại 2005 về nội 
dung hàng hóa không phù hợp với hợp đồng. 
• Căn cứ theo điều 40 Luật Thương mại 2005 về nội 
dung trách nhiệm đối với hàng hóa không phù hợp  với hợp đồng.      lOMoAR cPSD| 46342819
• Căn cứ theo điều 41 Luật Thương mại 2005 về nội 
dung khắc phục trong trường hợp giao thiếu hàng, 
giao hàng không phù hợp với hợp đồng. 
• Căn cứ theo điều 297 Luật Thương mại 2005 về nội 
dung buộc thực hiện đúng hợp đồng. 
• Căn cứ theo điều 318 Luật Thương mại 2005 về nội 
dung thời hạn khiếu nại. 
Áp dụng luật vào tình huống: 
Theo Khoản 1 điều 34 Luật Thương Mại 2005 thì bên bán và bên 
mua giao kết hợp đồng mua bán máy phát điện, theo đó bên bán có 
nghĩa vụ giao máy có xuất xứ Nhật Bản với các quy cách, chất lượng 
cũng như các chỉ tiêu kĩ thuật cơ bản theo thỏa thuận của các bên  trong hợp đồng. 
Theo Khoản 1 Điều 39 Luật Thương Mại, bên bán đã tự ý thay đổi 
bán máy phát điện theo thỏa thuận trong hợp đồng (máy phát điện có 
xuất xứ từ Singapore thay vì Nhật Bản), mà không có sự cho phép của 
bên người mua thì đó là hàng hóa không phù hợp với hợp đồng nên 
người bán đã vi phạm hợp đồng. 
Căn cứ theo khoản 2, 3 Điều 40 và Điều 318 Luật Thương Mại 
2005, thì hàng hóa mà bên bán đã giao không phù hợp với hợp đồng 
mà lúc đầu hai bên thỏa thuận nên bên bán phải chịu hoàn toàn trách 
nhiệm về hàng hóa phát sinh sau thời điểm chuyển rủi ro nếu khiếm 
khuyết đó do bên bán vi phạm hợp đồng.Đồng thời nếu còn trong thời 
hạn khiếu nại thì người mua hoàn toàn có quyền được khiếu nại bên 
bán để được hoàn trả lại sản phẩm và đòi lại tiền. 
Căn cứ theo Điều 41 và khoản 1 Điều 297 Luật Thương Mại 2005, 
khi bên bán giao máy phát điện sai theo hợp đồng đã thỏa thuận 
trước đó ( giao máy phát điện xuất xứ từ Singapore thay vì xuất xứ      lOMoAR cPSD| 46342819
Nhật Bản theo thỏa thuận) thì bên bán phải buộc thực hiện đúng hợp 
đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và 
bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh nên bên mua có quyền thanh 
toán tiền hàng tương ứng với giá trị của hàng hóa (máy phát điện có 
xuất xứ từ Singapore thay vì Nhật Bản). 
Kết kuận: Như vậy, bên bán phải chịu trách nhiệm hoàn toàn 
khi đã vi phạm hợp đồng đã thỏa thuận ban đầu (máy phát điện 
có xuất xứ từ Singapore thay vì Nhật Bản), bên mua có quyền 
khiếu nại bên bán và yêu cầu trả lại hàng và đòi tiền lại. Bên 
cạnh đó , do bên bán vi phạm trước nên phải chịu tất cả chi phí 
chênh lệch phát sinh nếu bên mua yêu cầu đổi hàng hoặc có 
quyền thanh toán tiền hàng tương ứng với giá trị của hàng hóa 
(máy phát điện có xuất xứ từ Singapore thay vì Nhật Bản). 
Bài 2. Thương nhân A bán cho thương nhân B 1.000 tấn bột mì, 
hàng hóa được giao tại kho của bên bán. Các bên thỏa thuận rằng, 
bên mua, tùy thuộc vào quyết định của mình, sẽ nhận hàng vào bất 
kỳ một thời điểm nào trong tháng 10/2021. Ngày 01/10/2021, bên bán 
đã đóng gói hàng hóa thành những gói hàng hoàn chỉnh, ghi tên 
người nhận là bên mua và lưu trong kho sẵn sàng cho việc giao 
hàng. Ngày 15/10/2021, kho hàng của bên bán bị cháy dẫn đến toàn 
bộ hàng hóa trong kho bị hư hỏng. Vậy ai phải chịu rủi ro đối với số  bột mì nói trên? 
Sự kiện pháp lý :  
• Thương nhân A bán cho thương nhân B 1.000 tấn bột mì. 
• Các bên thỏa thuận, bên mua, tùy thuộc vào quyết định của 
mình, sẽ nhận hàng vào bất kỳ một thời điểm nào trong tháng  10/2021.      lOMoAR cPSD| 46342819
• Ngày 01/10/2021, bên bán đã đóng gói hàng hóa thành những 
gói hàng hoàn chỉnh, ghi tên người nhận là bên mua và lưu trong 
kho sẵn sàng cho việc giao hàng. 
• Ngày 15/10/2021, kho hàng của bên bán bị cháy dẫn đến toàn bộ 
hàng hóa trong kho bị hư hỏng. 
Vấn đề đặt ra :  
 Vấn đề là ai phải chịu rủi ro đối với số bột mì nói trên? 
Pháp luật giải quyết vấn đề:  
 - Pháp luật để giải quyết trong trường hợp này là : áp dụng Luật  Thương Mại 2005. 
Theo Điều 57 Luật Thương Mại 2005 về nội dung chuyển rủi ro trong 
trường hợp có địa điểm giao hàng xác định. Áp dụng luật vào  tình huống: 
Vì hai bên chưa có thỏa thuận trước về vấn đề chịu rủi ro đối với hàng  hóa. 
Trong trường hợp này, nguyên nhân dẫn đến thiệt hại hàng hóa là do 
cháy. Từ nguyên nhân này có thể nói rằng đây là trường hợp thiệt hại 
do " trường hợp bất khả kháng". 
Tuy nhiên vì 2 bên đã có thỏa thuận về địa điểm giao hàng xác định 
nên theo điều 57 Luật thương mại 2005, bên B hoặc người được ủy 
quyền nhận hàng của bên B vẫn chưa nhận hàng, bên A vẫn là chủ sở 
hữu của số hàng hóa, vì vậy phải chịu hoàn toàn rủi ro về số 1.000 tấn 
bột mì trong hợp đồng.  Kết luận: 
Như vậy, nếu bên B có áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn 
chế tổn thất thì bên A cũng phải gánh chịu một phần thiệt hại  xảy ra. 
Còn nếu bên B không áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn 
chế tổn thất thì bên B chịu toàn bộ thiệt hại.        lOMoAR cPSD| 46342819     Bài 3.  
Thương nhân A bán cho thương nhân B 1.000 tấn mật rỉ đường với 
các thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng về chất lượng của hàng hóa, 
trong đó có các chỉ tiêu về độ đông đặc và hàm lượng đường. Các 
bên thỏa thuận “cùng nhau kiểm tra xác nhận số lượng và chất 
lượng hàng tại kho của bên bán; trách nhiệm của bên bán sẽ chấm 
dứt khi hàng ra khỏi kho của bên bán”. Bên mua đã thực hiện việc 
kiểm tra hàng tại kho của bên bán nhưng không phát hiện khiếm 
khuyết của hàng hóa. Khiếm khuyết của hàng hóa - cụ thể là độ đông 
đặc và hàm lượng đường, không đúng như trong thỏa thuận, được 
phát hiện khi hàng này được bán lại cho bên thứ ba. Bên bán phủ 
nhận trách nhiệm của mình khi viện dẫn thỏa thuận của các bên là 
trách nhiệm của bên bán sẽ chấm dứt khi hàng ra khỏi kho của bên 
bán. Các bên không quy định về biện pháp kiểm tra được áp dụng, 
vậy tình huống trên được giải quyết như thế nào?  Sự kiện pháp lý: 
 Thương nhân A bán cho thương nhân B 1.000 tấn mật rỉ đường 
với các thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng về chất lượng của 
hàng hóa, trong đó có các chỉ tiêu về độ đông đặc và hàm lượng  đường. 
Các bên thỏa thuận “cùng nhau kiểm tra xác nhận số lượng và 
chất lượng hàng tại kho của bên bán; trách nhiệm của bên bán 
sẽ chấm dứt khi hàng ra khỏi kho của bên bán”. 
Bên B bán lại cho bên thứ ba và phát hiện khiếm khuyết của hàng 
hóa - cụ thể là độ đông đặc và hàm lượng đường, không đúng 
như trong thỏa thuận. 
Bên bán phủ nhận trách nhiệm của mình khi viện dẫn thỏa thuận 
của các bên là trách nhiệm của bên bán sẽ chấm dứt khi hàng ra 
khỏi kho của bên bán.  Vấn đề đặt ra:      lOMoAR cPSD| 46342819
Vấn đề là giữa thương nhân A và thương nhân B, ai sẽ chịu trách 
nhiệm với số hàng hóa trên? 
Pháp luật giải quyết vấn đề:  
- Pháp luật để giải quyết trong trường hợp này là Bộ Luật Dân sự 
2015 và Luật Thương mại 2005. 
Căn cứ theo khoản 5 điều 44 Luật Thương mại 2005 về nội dung 
kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng. 
Căn cứ theo điều 40 Luật Thương mại 2005 về nội dung trách 
nhiệm đối với hàng hóa không phù hợp với hợp đồng. 
Căn cứ theo khoản 2, điều 422, Bộ luật Dân sự 2015 về nội dung 
chấm dứt hợp đồng. 
Áp dụng luật vào tình huống: 
- Xét trường hợp bên A không biết gì về các khiếm khuyết đó  trước khi giao cho bên B: 
Căn cứ theo khoản 2 điều 422 Bộ luật dân sự 2015 thì A sẽ không 
cần chịu trách nhiệm pháp lí vì cả hai bên đã có thỏa thuận trước đó 
và B sẽ tự chịu trách nhiệm cũng như tổn thất về phần hàng hóa được  giao cho bên thứ ba. 
- Xét trường hợp A có thể biết về những khiếm khuyết đó trước  khi giao cho B: 
Căn cứ theo điều 57 Luật Thương mại thì việc chịu trách nhiệm về tổn 
thất hàng hóa được chuyển cho B vì hai bên đã có thỏa thuận từ trước 
về việc khi nào sẽ chấm dứt hợp đồng. Đây cũng là lý do A từ chối 
chối chịu trách nhiệm về những khiếm khuyết của hàng hóa. Tức là có 
thể A đã biết về những khiếm khuyết đó từ trước và không thông báo  cho B. 
 Và do cả hai không có thỏa thuận về phương thức kiểm tra hàng 
hóa thì theo khoản 5 điều 44 Luật Thương mại, nếu sau khi điều tra 
được trước đó A đã biết về những khiếm khuyết đó thì A phải chịu 
trách nhiệm cũng như những tổn thất hàng hóa đó.  Kết luận:      lOMoAR cPSD| 46342819
A có thể chịu trách nhiệm về những khiếm khuyết đó nếu sau khi điều 
tra và biết được A đã biết về những khiếm khuyết đó nhưng không  thông báo cho B. 
Nếu A không biết trước về những khiếm khuyết đó thì B sẽ là người 
chịu trách nhiệm về phần hàng hóa đó cũng như trách nhiệm đối 
với bên thứ ba đã mua phải phần hàng đó. Bài 4. 
Ngày 15/03/2014, thương nhân B và thương nhân M giao kết hợp 
đồng mua bán hàng hóa trong đó các bên thỏa thuận ngày 
30/03/2014, B phải giao hàng và ngày 01 /04/2014, M phải thanh  toán tiền hàng. 
Đến hạn giao hàng, do sự kiện bất khả kháng (gặp bão) nên B không 
thực hiện việc giao hàng. M đã chuẩn bị kho bãi và các điều kiện để 
tiếp nhận hàng hóa nhưng không được nhận hàng nên đã thông báo 
ngừng thanh toán tiền hàng. Ngày 01/5/2014, M đề nghị B giao hàng 
nhưng B không thực hiện được và trả lời sẽ cố gắng giao hàng vào  ngày 01/6/2014. 
Do nhu cầu sản xuất, ngày 25/5/2014, M đã mua hàng của một 
thương nhân khác. Ngày 01/6/2014, B giao hàng và yêu cầu M thực 
hiện nghĩa vụ thanh toán. 
Căn cứ vào quy định của pháp luật thương mại hiện hành, xác định 
yêu cầu của thương nhân B đối với thương nhân M có phù hợp với 
quy định của pháp luật không? 
Ngày 15/03/2014, thương nhân B và thương nhân M giao kết hợp 
đồng mua bán hàng hóa trong đó các bên thỏa thuận ngày 
30/03/2014, B phải giao hàng và ngày 01 /04/2014, M phải thanh  toán tiền hàng. 
Đến hạn giao hàng, do sự kiện bất khả kháng (gặp bão) nên B không 
thực hiện việc giao hàng. M đã chuẩn bị kho bãi và các điều kiện để 
tiếp nhận hàng hóa nhưng không được nhận hàng nên đã thông báo 
ngừng thanh toán tiền hàng. Ngày 01/5/2014, M đề nghị B giao hàng 
nhưng B không thực hiện được và trả lời sẽ cố gắng giao hàng vào  ngày 01/06/2014. 
Do nhu cầu sản xuất, ngày 25/5/2014, M đã mua hàng của một 
thương nhân khác. Ngày 01/6/2014, B giao hàng và yêu cầu M thực 
hiện nghĩa vụ thanh toán.      lOMoAR cPSD| 46342819
Căn cứ vào quy định của pháp luật thương mại hiện hành, xác định 
yêu cầu của thương nhân B đối với thương nhân M có phù hợp với 
quy định của pháp luật không?  Sự kiện pháp lý: 
• Ngày 15/03/2014, thương nhân B và thương nhân M giao kết 
hợp đồng mua bán hàng hóa trong đó các bên thỏa thuận ngày 
30/03/2014, B phải giao hàng và ngày 01/04/2014, M phải thanh  toán tiền hàng. 
• Đến hạn giao hàng, do sự kiện bất khả kháng (gặp bão) nên B 
không thực hiện việc giao hàng. M đã chuẩn bị kho bãi và các 
điều kiện để tiếp nhận hàng hóa nhưng không được nhận hàng 
nên đã thông báo ngừng thanh toán tiền hàng. 
• Ngày 01/5/2014, M đề nghị B giao hàng nhưng B không thực 
hiện được và trả lời sẽ cố gắng giao hàng vào ngày 01/6/2014. 
• Do nhu cầu sản xuất, ngày 25/5/2014, M đã mua hàng của một 
thương nhân khác. Ngày 01/6/2014, B giao hàng và yêu cầu M 
thực hiện nghĩa vụ thanh toán.  Vấn đề đặt ra: 
 Vấn đề là yêu cầu của thương nhân B đối với thương nhân M có 
phù hợp với quy định của pháp luật không? 
 Vấn đề là thương nhân B và thương M có vi phạm pháp luật  không? 
 Vấn đề là thương nhân M có phải nhận hàng và thanh toán đầy 
đủ cho thương nhân B không? 
Pháp luật giải quyết vấn đề :  
 - Pháp luật để giải quyết trong trường hợp này là : áp 
dụng Luật Thương mại 2005. 
 Căn cứ vào Điểm b, khoản 1, Điều 294 Luật Thương Mại 2005 
về nội dung các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi  vi phạm.      lOMoAR cPSD| 46342819
 Căn cứ theo khoản 2 Điều 51 Luật Thương Mại 2005 về nội 
dung việc ngừng thanh toán tiền mua hàng. 
 Căn cứ vào điểm a, khoản 1 điều 296 Luật Thương Mại 2005 về 
nội dung kéo dài thời hạn, từ chối thực hiện hợp đồng trong 
trường hợp bất khả kháng. 
 Căn cứ theo khoản 2 và khoản 4 điều 297 Luật Thương Mại 
2005 về nội dung buộc thực hiện đúng hợp đồng. 
Áp dụng luật vào tình huống: 
“15/03/2014, B và M giao kết hợp đồng. Ngày 
30/03/2014, B phải giao hàng và ngày 01/04/2014, M 
phải thanh toán tiền hàng. Đến hạn giao hàng, do sự kiện 
bất khả kháng (gặp bão) nên B không thực hiện việc giao 
hàng”. Vậy căn cứ vào Điểm b, khoản 1, Điều 294 của 
Luật Thương Mại 2005, trong trường hợp này thì ông B 
được miễn trách nhiệm khi không giao hàng theo đúng 
thỏa thuận của hợp đồng. 
“M đã chuẩn bị kho bãi và các điều kiện để tiếp nhận 
hàng hóa nhưng không được nhận hàng nên đã thông báo 
ngừng thanh toán tiền hàng”. Căn cứ theo khoản 2 Điều 
51 Luật Thương Mại 2005, trong trường hợp này thì M 
đã tự ý ngừng thanh toán mà không có thỏa thuận trước 
với ông B. Vì vậy M đã vi phạm hợp đồng. 
“Ngày 01/5/2014, M đề nghị B giao hàng nhưng B không 
thực hiện được và trả lời sẽ cố gắng giao hàng vào ngày 
01/6/2014”. Căn cứ vào điểm a, khoản 1 điều 296 Luật 
Thương Mại 2005. Trong trường hợp trên, việc kéo dài 
thời hạn giao hàng là do điều kiện bất khả kháng nên B 
vẫn thực hiện đúng theo hợp đồng.      lOMoAR cPSD| 46342819
“Do nhu cầu sản xuất, ngày 25/5/2014, M đã mua hàng 
của một thương nhân khác.” Căn cứ theo khoản 2 điều 
297 Luật Thương Mại 2005. Trong trường hợp này, 
chưa được sự đồng ý chấp thuận của bên B, mà M đã tự ý 
mua hàng của thương nhân khác nên M đã vi phạm hợp  đồng. 
“Ngày 01/6/2014, B giao hàng và yêu cầu M thực hiện 
nghĩa vụ thanh toán.”. Căn cứ theo điểm a, khoản 1, điều 
296 Luật Thương Mại 2005. Trong trường hợp này thì B 
phải giao hàng cho M trong vòng 5 tháng trong thời gian 
xử lý yếu tố bất khả kháng. Và B đã giao đúng hạn vào 
ngày 01/06/2014. Như vậy B đúng thỏa thuận. 
Vì bên B đã giao hàng và thực hiện đúng theo hợp đồng, 
nên căn cứ theo khoản 4, điều 297 của Luật Thương 
Mại 2005, thì bên M đã vi phạm hợp đồng nên phải nhận 
hàng và thanh toán tiền hàng đầy đủ cho bên B.  KẾT LUẬN: 
Xác định yêu cầu của thương nhân B đối với thương 
nhân M là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp 
luật. Vì trong quá trình giao kết hợp đồng thì thương 
nhân B đều thực hiện đúng nghĩa vụ của mình và không  vi phạm hợp đồng.  -HẾT- 
NHÓM WE ARE GRAND “The 1 and only” 
Danh sách thành viên: 
1. Nguyễn Diệp Quang Khánh      lOMoAR cPSD| 46342819 2. Trần Tấn Lộc  3. Trần Mai Ngọc Như  4. Nguyễn Phú Minh Châu  5. Võ Kiều Minh Châu  6. Phạm Duy An  7. Đoàn Yến Nhi  8. Trần Hồng Thái