Bài tập nhóm: Nguyên lý tiền lương - Quản trị nhận lực | Trường Đại học Lao động - Xã hội

Bài tập nhóm: Nguyên lý tiền lương - Quản trị nhận lực | Trường Đại học Lao động - Xã hội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

TRNG ĐI HC LAO ĐNG – X HI (C S II)
KHOA QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC
BÀI TẬP NHÓM
MÔN: NGUYÊN LÝ TIỀN LƯƠNG
ĐỀ TÀI:
LỊCH SỬ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU Ở VIỆT NAM. DỰA TRÊN
KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH TIỀN
LƯƠNG TỐI THIỂU CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY. TIỀN LƯƠNG TỐI
THIỂU CỦA VIỆT NAM CẦN CÓ NHỮNG ĐIỀU CHỈNH GÌ VÀ TẠI SAO.
GVHD: Hoàng Thị Thương
Nhóm thực hiện: Nhóm 6
Ngành: Bảo hiểm-Tài chính
Lớp: NLTL0222H_22BT_HK1_D2_Lớp1
TP. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2023
NHẬN XPT CỦA GIẢNG VIÊN
- Về hình thức: ............................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
- Mở đầu: ....................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
- Nội dung: .................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
- Kết luận: ...................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
Tổng:
MỞ ĐẦU
Thế giới bước sang một thiên niên kỷ mới đang dần đi hết thập kỷ đầu của
thiên kỷ mới này. Tất cả đều đổi thay, đất nước ta cũng có nhiều sự thay đổi. Xu thế
thế giới hội nhập toàn cầu. Hoà chung xu thế ấy, Việt Nam cũng đang thay đổi,
tạo điều kiện để đất nước hội nhập tốt hơn, theo kịp bạn năm châu. Cũng như
góp phần phát triển đất nước nói riêng , tạo ra sự phát triển chung cùng với bạn
quốc tế.Giúp cuộc sống mọi người ngày càng được phát triển, phúc lợi hội ngày
càng được nâng cao. Thời thế hội nhập tạo rất nhiều điều kiện thuận lợi cho Việt
Nam trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Nền kinh tế những năm
qua không ngừng tăng trưởng nhanh, và rất nhanh, tốc độ tăng trưởng khá cao, vượt
chỉ tiêu đề ra rất nhiều. Bên cạnh đó, trình độ khoa học kỹ thuật của đất nước cũng
không ngừng tăng nhanh, bắt kịp với khoa học thế giới. Công nghệ khoa học
thuật không ngừng cải tiến phát triển , giúp đất nước ngày càng tiến bộ bắt kịp
với xu thế toàn cầu hoá hiện nay. Thời đại công nghệ tiến bộ được nâng caophát
triển.
Xu thế hội nhập đã tạo nhiều thuận lợi để nước ta phát triển, nhưng bên cạnh những
thuận lợi ấy cũng không tránh khỏi nhiều khó khăn chúng ta gặp phải, như :
Mức sống của người dân còn thấp, chỉ trên 640 USD/ người/ năm. So với thế giới,
mức thu nhập rất thấp. Bên cạnh đó, tình trạng lạm phát vẫn còn tồn tại, mức
sống và mức tiêu dùng tối thiểu so với thu nhập thực tế là rất cao. Đó là điều bất lợi
với nền kinh tế, kìm hãm rất nhiều cho sự phát triển của kinh tế đất nước. Ảnh
hưởng đến đời sống phát triển của người dân nói riêng đất nước nói chung, kìm
hãm cả sự phát triểntoàncầu.
Thêm vào đó, các công ty nước ngoài vào đầu tư tại Việt Nam ngày càng nhiều.
Để thu hút lao động trình độ, họ không ngại đưa ra chính sách tiền lương hấp
dẫn. Gây khó khăn không nhỏ cho chính sách lao động của các doanh nghiệp trong
nước. Mức thu nhập thấp cũng một nguyên nhân gâyn vấn đề chảy máu chất
xám những năm vừa qua, vấn đề khá đau đầu với Đảng Nhà nước Việt Nam.
Một vấn đề nan giải vẫn chưa dấu hiệu dừng lại, cần phải đưa ra biện pháp phù
hợp để giải quyết vần đề này càng sớm càng tốt.
Trước tình hình ấy, để phù hợp với điều kiện kinh tế - hội trong nước và tình
hình chung của thế giới, Đảng Nhà nước đã không ngừng thay đổi ban hành
mới các quy định về tiền lương tối thiểu. thể nói, tiền lương tối thiểu một
trong những vấn đề quan trọng được các ngành, các cấp, đoàn thể, người lao động
người sử dụng lao động trong cả nước quan tâm. Một chính sách tiền lương tối
thiểu hợp sẽ điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước,
cũng như tiến trình hội nhập và đưa ra quyết định về tiền lương tối thiểu giúp chúng
ta tìm ra biện pháp cho những vấn đề chưa có lời giải đáp. Để phát huy về quy định
tiền lương tối thiểu chúng ta cần phải học hỏi bạn quốc tế từ đó xác định được
những yếu tố tác động, một số khuyến nghị nhằm đảm bảo việc tăng tiền lương
tối thiểu mang lại hiệu quả tích cực.
TRÌNH BÀY LỊCH SỬ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU Ở VIỆT NAM
Tại Việt Nam, khái niệm “lương tối thiểu” được đề cập lần đầu tiên trong Sắc
lệnh số 29-SL, ngày 12/3/1947. Theo đó, tiền công tối thiểu, được định nghĩa “là số
tiền công do chính phủ ấn định theo giá sinh hoạt, để một công nhân không chuyên
nghiệp sinh sống một mình, trong một ngày, ở một khu vực nhất định”, nhằm “làm
định lương cho các hạng công nhân”. Khái niệm đầu tiên này đã mang những đặc
điểm và tính chất của tiền lương tối thiểu theo cách hiểu hiện nay.
Sắc lệnh số 188-SL ngày 29/5/1948 quy định về việc lập một chế độ công chức
mới một thang lương chung cho các ngạch các hạng công chức Việt Nam.
Mặc dù không quy định rõ mức tiền lương tối thiểu để tính toán các bậc lương, điều
5 của Sắc lệnh này nêu “Nếu lương các khoản phụ cấp kể trên của một công
chức dưới 220 đồng một tháng, thì công chức ấy được lĩnh 220 đồng”. Như vậy,
220 đồng/tháng có thể được hiểumức tiền lương tối thiểu đối với một công chức.
Nghị định số 270-TTg ngay 31/5/1958 quy định chế độ lương cho khu vực hanh
chính, sự nghiệp. Theo đó, Điều 3 của Nghị định quy định lương thấp nhất định
27.300 đồng/tháng.
Từ năm 1960 đến năm 1985, khi nền kinh tế Việt Nam được định hướng phát
triển theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, mọi vấn đề về lao động đều được quy định
theo kế hoạch của Nhà nước được triển khai thực hiện bằng mệnh lệnh nh
chính. Đối với lĩnh vực công, mức tiền lương cụ thể cho từng loại công việc, thời
gian trả lương, hình thức trả lương, nâng bậc lương các vấn đề liên quan đều do
Nhà nước định sẵn thông qua hệ thống các bậc lương hoàn toàn phụ thuộc vào
ngân sách Nhà nước. Tuy Nha nước không tiến hanh cải cách tiền lương và công bố
mức lương tối thiểu, trên thực tế, lương danh nghĩa đã được tăng nhiều lần thông
qua các hình thức trợ cấp tạm thời, tiền thưởng, khuyến khích lương sản phẩm,
lương khoan va điều chỉnh mức phụ cấp khu vực đối với cac địa phương. Trong giai
đoạn này, mặc tiền lương tối thiểu không được đề cập trong các văn bản pháp
luật lao động, lương bậc một mức lương khởi điểm được trả cho người lao động
với công việc yêu cầu trình độcường độ lao động thấp nhất của từng ngành vẫn
được xem là mức lương tối thiểu của từng ngành.
Từ năm 1985 đến năm 1992, với sự chuyển dịch từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng hội chủ nghĩa, Chính phủ
quyết định bãi bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá lỗ, chuyển sang chế độ trả
lương bằng tiền theo nguyên tắc phân phối theo lao động, xoá bỏ bao cấp, bảo đảm
tính thống nhất của chế độ tiền lương trong cả nước, ổn định và từng bước cải thiện
đời sống của công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang. Nghị định số 235/NĐ-
HĐBT ngày 18/9/1985 quy định mức lương tối thiểu là 220 đồng/tháng. Đây là mức
lương được dùng để trả công cho những người làm công việc lao động giản đơn
nhất và với điều kiện lao động bình thường tại vùng có mức giá sinh hoạt thấp nhất.
Khi mức giá thay đổi hoặc những vùng chi phí sinh hoạt cao hơn, tiền lương
được tính thêm phụ cấp chênh lệch giá sinh hoạt.
Sau khi công cuộc Đổi Mới toàn diện được thực hiện từ năm 1986, giá cả sinh
hoạt ngay cang tang nhanh lam cho tiền lương thực tế giảm sút nhanh chóng. Để
phù hợp với tình hình thực tế, tháng 9/1987, Hội đồng Bộ trưởng đã Quyết định
điều chỉnh lại tiền lương (trong đó mức lương tối thiểu) với các mức tăng khác
nhau đối với đơn vị sản xuất kinh doanh; công nhân, viên chức hành chính sự
nghiệp, cán bộ xã, phường; lực lượng trang (Quyết định số 147/HĐBT). Đến
tháng 4/1988, một hệ số được áp dụng thống nhất cho các nhóm lao động và chế độ
trợ cấp được áp dụng trong các tháng tiếp theo.
Ngày 28/12/1988, Hội đồng Bộ trưởng Quyết định số 202/HĐBT về tiền
lương công nhân, viên chức sản xuất, kinh doanh khu vực quốc doanh va cong ty
hợp doanh va Quyết định số 203/HĐBT về tiền lương công nhân, viên chức hanh
chính, sự nghiệp, lực lượng trang va cac đối tượng hưởng chính sách hội,
nâng mức lương tối thiểu lên 22.500 đồng/tháng. Như vậy, khu vực sản xuất đã
được tách khỏi khu vực hành chính sự nghiệp khi áp dụng lương tối thiểu. Tuy
nhiên, mức tiền lương tối thiểu được quy định cho hai khu vực này là như nhau.
m 1987, Luật Đầu nước ngoài tại Việt Nam được thông qua, một thành
phần kinh tế mới được hình thành là khu vực kinh tế có vốn đầunước ngoài. Với
đặc điểm công việc yêu cầu trình độ chuyên môncường độ lao động cao hơn so
với công việc tại các doanh nghiệp trong nước, lao động làm việc trong khu vực
vốn đầu nước ngoài cần được quy định riêng về tiền lương tối thiểu nhằm đảm
bảo tính công bằng đánh giá đúng giá trị sức lao động. Quyết định số 356-
LĐTBXH/QĐ ban hành ngày 29/8/1990 đã ấn định mức lương tối thiểu đối với
người lao động làm công việc giản đơn trong điều kiện lao động bình thường của
các nghiệp vốn đầu nước ngoài 50 USD/tháng. Tuy nhiên, việc áp dụng
chung một mức lương tối thiểu chung cho toàn bộ các doanh nghiệp trên toàn quốc,
không phân biệt theo vùng miền hay ngành nghề đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế.
Trước tình hình đó, Quyết định số 242-LĐTBXH/QĐ được ban hành ngày 5/5/1992
đã quy định rõ mức lương tối thiểu trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là từ 30
đến 35 USD/tháng tuỳ thuộc vào từng địa phương đặc trưng của từng ngành
nghề.
Ngày 23/5/1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 25-CP quy định tạm thời chế
độ tiền lương mới của công chức, viên chức hanh chính, sự nghiệp va lực lượng
trang va Nghị định số 26-CP quy định tạm thời chế độ tiền lương mới trong doanh
nghiệp. Mức lương tối thiểu được áp dụng đồng thời cho cả hai khu vực trên
120.000 đồng/tháng.
Bộ Luật Lao động năm 1994 đã ghi nhận một cách đầy đủ, toàn diện về tiền
lương tối thiểu. Theo đó, mức lương tối thiểu được ấn định theo giá sinh hoạt, bảo
đảm cho người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình
thường bù đắp sức lao động giản đơn và một phần tích luỹ tái sản xuất sức lao động
mở rộng, được dùng làm căn c để tính các mức lương cho các loại lao động
khác. Mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu vùng mức lương tối thiểu
ngành cho từng thời kỳ được Chính phủ quyết định công bố sau khi lấy ý kiến
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đại diện của người sử dụng lao động. Mức
lương tối thiểu được điều chỉnh để đảm bảo tiền lương thực tế khi chỉ s giá sinh
hoạt tăng lên – tiền lương thực tế củangười lao động bị giảm sút đáp ứng được nhu
cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ.
Nghị định 197/CP ngày 31/12/1994 sau đó Thông số 11-LĐTBXH/TT
ngày 3/5/1995 đã được ban hành nhằm cụ thể hoá hướng dẫn thi hành các quy
định về tiền lương, tiền lương tối thiểu đối với lao động Việt Nam làm việc trong
các doanh nghiệp vốn đầu nước ngoài các quan, tổ chức nước ngoài
hoặc quốc tế tại Việt Nam. Theo Thông này, mức lương tối thiểu 35
USD/tháng đối với các doanh nghiệp vốn đầu nước ngoài đóng trên địa bàn
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh; 30 USD/tháng đối với các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài đóng trên các địa phương còn lại hoặc các doanh nghiệp sử dụng
nhiều lao động đơn giản thuộc các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ
sản. Đối với các ngành, nghề đã được thoả thuận mức lương tối thiểu cao hơn thì
tiếp tục thực hiện mức lương tối thiểu đó cho đến khi có quyết định mới.
Sau một thời gian thực hiện chính sách tiền lương tối thiểu năm 1993, mức lương
tối thiểu không đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của người lao động. Trước tình
hình đó, ngày 21/1/1997 Chính phủ ra Nghị định số 06/CP về việc giải quyết tiền
lương trợ cấp năm 1997 đối với công chức, viên chức hành chính - sự nghiệp,
người nghỉ hưu, nghỉ mất sức, lực lượng trang cán bộ xã, phường một số đối
tượng hưởng chính sách hội. Mức lương tối thiểu được nâng từ 120.000
đồng/tháng lên 144.000 đồng/tháng.
Tiếp đến, ngay 15/12/1999, Chính phủ tiếp tục điều chỉnh mức tiền lương tối
thiểu cho các đối tượng hưởng lương từ ngan sach nha nước từ 144.000 đồng/tháng
lên 180.000 đồng/thang (Theo Nghị định số 175/1999/NĐ-CP). Đến 15/12/2000,
mức tiền lương tối thiểu được điều chỉnh lên 210.000 đồng/tháng, áp dụng cho cả
khu vực doanh nghiệp va hanh chính, sự nghiệp (Nghị định số 77/2000/NĐ-CP).
Theo thời gian, tiền lương tối thiểu đã được điều chỉnh nhiều lần nhằm đáp ứng
nhu cầu thiết yếu và nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao động và gia đình.
Tuy nhiên, nếu như lương tối thiểu theo vùng chính thức được pháp luật quy định từ
năm 1995, lương tối thiểu theo vùng chỉ được áp dụng đối với người lao động lam
việc trong các doanh nghiệp vốn đầu nước ngoai, quan nước ngoai va tổ
chức quốc tế tại Việt Nam; trong khi đó, không sự phân biệt theo vùng mức
lương tối thiểu áp dụng cho người lao động làm việc tại các doanh nghiệp trong
nước. Chỉ đến năm 2006, lương tối thiểu áp dụng cho lao động làm việc tại các
doanh nghiệp trong nước mới có sự phân biệt theo vùng.
DỰA TRÊN KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG VIỆC XÁC
ĐỊNH TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY. TIỀN
LƯƠNG TỐI THIỂU CỦA VIỆT NAM CẦN CÓ NHỮNG ĐIỀU CHỈNH GÌ
VÀ TẠI SAO
Dựa trên kinh nghiệm của một số nước trong việc xác định tiền lương
tối thiểu.
Tại Thái Lan, chính phủ không xây dựng mức lương tối thiểu toàn quốc áp
dụng lương tối thiểu theo từng vùng. Lương tối thiểu thành phố cao hơn nông
thôn, nhằm bù đắp chi phí đắt đỏ của thành phố. Mục đích của chính sách này nhằm
khuyến khích các DN đầu tư ở khu vực ngoài đô thị với chi phí tiền lương thấp hơn.
Như vậy sẽ giảm được các vấn đề về tắc nghẽn giao thông, cơ sở hạ tầng, ô nhiễm
không khí ở Bangkok. Lương công chức ở Thái Lan được trả theo vị trí công tác (vị
trí điều hành, vị trí quản lý, nhân viên trí thức và vị trí chung), và mỗi vị trí lại chia
theo các cấp bậc.
Tại Hàn Quốc, tiền lương tối thiểu được xác định điều chỉnh định kỳ bởi Uỷ
ban tiền lương tối thiểu (MWC), một quan vấn do Bộ Lao động thành lập.
Tiền lương trả cho công chức Hàn Quốc gồm lương bản, trợ cấp các khoản
phúc lợi. Công chức Hàn Quốc được chia thành 9 cấp bậc. Bậc cao nhất là trợ lý Bộ
trưởng và bậc thấp nhất, bậc 9 là công chức mới làm việc. Chính phủ Hàn Quốc bảo
đảm cho công chức mức lương bằng khoảng 90% mức trung bình của doanh
nghiệp.
Tại Trung Quốc, các chính quyền địa phương được quy định mức lương tối thiểu
khác với mức lương tối thiểu do chính quyền Trung ương quy định.
Hầu hết các nước sử dụng các tiêu chuẩn tương tự để xác định lương tối thiểu
gồm: nhu cầu bản của công nhân, lương trung bình, năng suất lao động, lạm
phát, mức độ việc làm, lợi nhuận cho chủ lao động.  Mỹ, các nhà lập pháp còn xét
đến cả yếu tố cận nghèo.  Trung Quốc, lương tối thiểu được xác định cao hơn tổng
tổng trợ cấp của quỹ viện trợ hội bảo hiểm thất nghiệp, nhưng thấp hơn tiền
lương bình quân.
Việc xử phạt đối với các vi phạm về mức lương tối thiểu được giám sát và thực
thi bởi các cơ quan quản lý lao động địa phương. Các biện pháp xử phạt hành chính
được áp dụng đối với các trường hợp vi phạm trả lương tối thiểu, thực hiện báo cáo
không minh bạch… Riêng Mỹ Hàn Quốc, việc vi phạm lương tối thiểu thể
bị phạt tù.
Theo bảng so sánh về mức lương tối thiểu ở 12 quốc gia tiêu biểu các khu vực
là Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, Chi lê, Nam Phi, Pháp, Mỹ, Nhật..., Việt Nam
mức lương tối thiểu thấp nhất cả về mức tiền lương, tỷ lệ lương trên GDP bình
quân đầu người tỷ lệ lương trên sức mua tương đương. Lương tối thiểu/CDP
bình quân đầu người các nước trong khu vực Đông Á trung bình khoảng 40
50%.
Nhận xét tiền lương tối thiểu của Việt Nam hiện nay.
Mức lương tối thiểu của Việt Nam hiện nay thấp so với các nước trong khu
vực. Theo bảng so sánh, mức lương tối thiểu vùng I của Việt Nam chỉ bằng khoảng
2/3 mức lương tối thiểu Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, chỉ bằng khoảng
1/2 mức lương tối thiểu Mỹ, Nhật Bản. Điều này cho thấy, tiền lương tối thiểu
của Việt Nam chưa đảm bảo được nhu cầu sống tối thiểu của người lao động, nhất
là ở các khu vực thành thị.
Tỷ lệ lương tối thiểu trên GDP bình quân đầu người của Việt Nam cũng thấp
so với các nước trong khu vực. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, GDP bình
quân đầu người của Việt Nam năm 2022 khoảng 3.700 USD. Tỷ lệ lương tối
thiểu trên GDP bình quân đầu người của Việt Nam chỉ bằng khoảng 10%, thấp hơn
nhiều so với các nước trong khu vực. Điều này cho thấy, tiền lương tối thiểu của
Việt Nam chưa tương xứng với mức sống chung của người dân.
Tỷ lệ lương tối thiểu trên sức mua tương đương của Việt Nam cũng thấp so
với các nước trong khu vực. Theo thống của Tổ chức Lao động Quốc tế, sức
mua tương đương của Việt Nam năm 2022 khoảng 6.000 USD. Tỷ lệ lương tối
thiểu trên sức mua tương đương của Việt Nam chỉ bằng khoảng 20%, thấp hơn
nhiều so với các nước trong khu vực. Điều này cho thấy, tiền lương tối thiểu của
Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu sống tối thiểu của người lao động, nhất
các khu vực thành thị.
Với những nhận xét trên,thể thấy, tiền lương tối thiểu của Việt Nam hiện nay cần được
điều chỉnh tăng lên để đảm bảo được nhu cầu sống tối thiểu của người lao động, nhất
các khu vực thành thị. Việc điều chỉnh tăng lương tối thiểu cần được thực hiện một cách
hợp lý, cân nhắc giữa nhu cầu của người lao động, khả năng của doanh nghiệp và tình hình
kinh tế - xã hội của đất nước.
Cụ thể, việc điều chỉnh tăng lương tối thiểu cần được thực hiện theo các nguyên tắc sau:
Đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu của người lao động. Mức lương tối thiểu phải
đủ để người lao động trang trải các chi phí sinh hoạt bản như ăn, ở, đi lại, giáo
dục, y tế,...
Khả năng của doanh nghiệp. Mức lương tối thiểu phải phù hợp với khả năng của
doanh nghiệp, không gây khó khăn cho sản xuất, kinh doanh.
Tình hình kinh tế - hội của đất nước. Mức lương tối thiểu phải phù hợp với
tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, tránh gây lạm phát.
Trên sở các nguyên tắc trên, thể đề xuất một sgiải pháp cụ thể để điều chỉnh tăng
lương tối thiểu của Việt Nam như sau:
Tăng lương tối thiểu theo từng vùng. Mức lương tối thiểuthành phố cao hơn
nông thôn, nhằm bù đắp chi phí đắt đỏ của thành phố.
Tăng lương tối thiểu theo các ngành nghề. Mức lương tối thiểu đối với các ngành
nghề đòi hỏi kỹ năng, trình độ cao hơn sẽ cao hơn so với các ngành nghề đòi hỏi kỹ
năng, trình độ thấp.
Tăng lương tối thiểu theo thời gian. Mức lương tối thiểu cần được tăng lên
thường xuyên, theo mức lạm phát để đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
Việc điều chỉnh tăng lương tối thiểu cần được thực hiện một cách khoa học, hợp lý, đảm
bảo được lợi ích của cả người lao động, doanh nghiệp và xã hội.
Tiền lương tối thiểu của Việt Nam cần có những điều chỉnh gì ? Tại sao ?
- Theo đó, mức lương tối thiểu được điều chỉnh dựa trên:
+ Mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ.
+ Tương quan giữa mức lương tối thiểu và mức lương trên thị trường.
+ Chỉ số giá tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng kinh tế.
+ Quan hệ cung, cầu lao động.
+ Việc làm và thất nghiệp.
+ Năng suất lao động.
+ Khả năng chi trả của doanh nghiệp.
Mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ
Để đảm bảo quyền lợi của người lao động. Mức lương tối thiểu mức
lương thấp nhất người sử dụng lao động phải trả cho người lao động làm việc
theo hợp đồng lao động. Mức lương tối thiểu được xác định trên cơ sở nhu cầu sống
tối thiểu của người lao động gia đình họ. Do đó, việc điều chỉnh mức sống tối
thiểu nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động, đảm bảo cho người lao động có
thể đáp ứng các nhu cầu bản của cuộc sống như ăn, mặc, ở, đi lại, giáo dục, y
tế,...
Để nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao động gia đình họ.
Mức lương tối thiểu được điều chỉnh tăng lên sẽ giúp người lao động thêm thu
nhập, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống của họ. Người lao động thêm thu
nhập sẽ có thể cải thiện điều kiện sống, mua sắm các nhu cầu thiết yếu, chăm lo cho
con cái học hành,...
Để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Người lao động có mức sống tốt sẽ
động lực làm việc, nâng cao năng suất lao động. Năng suất lao động được nâng
cao sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Cụ thể, việc điều chỉnh mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ
sẽ mang lại những lợi ích sau:
Giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động. Mức
lương tối thiểu được điều chỉnh tăng lên sgiúp người lao động thêm thu nhập,
từ đó thể đáp ứng tốt hơn các nhu cầu bản của cuộc sống, góp phần giảm
nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động.
Nâng cao năng suất lao động. Người lao động mức sống tốt sẽ động
lực làm việc, nâng cao năng suất lao động. Năng suất lao động được nâng cao sẽ
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tăng cường an ninh, trật tự hội. Mức sống tối thiểu được điều chỉnh
tăng lên sẽ giúp người lao động cuộc sống ổn định, hạn chế các vấn đề hội
như trộm cắp, tệ nạn xã hội,...
Tuy nhiên, việc điều chỉnh mức sống tối thiểu cũng cần được thực hiện một cách
hợp lý, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và khả năng chi trả của
doanh nghiệp.
Tương quan giữa mức lương tối thiểu và mức lương trên thị trường.
Để đảm bảo tính công bằng trong thị trường lao động. Mức lương tối
thiểu mức lương thấp nhất người sử dụng lao động phải trả cho người lao
động làm việc theo hợp đồng lao động. Mức lương trên thị trường là mức lương
người lao động có thể được trả tùy thuộc vào năng lực, trình độ, kinh nghiệm,...
Nếu mức lương tối thiểu quá thấp so với mức lương trên thị trường, sẽ dẫn đến
tình trạng người lao động bị bóc lột sức lao động. Ngược lại, nếu mức lương tối
thiểu quá cao so với mức lương trên thị trường, sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp,
khó khăn cho doanh nghiệp.
Việc điều chỉnh tương quan giữa mức lương tối thiểu mức lương trên thị
trường sẽ giúp đảm bảo tính công bằng trong thị trường lao động, đảm bảo quyền
lợi của người lao động và doanh nghiệp.
Để thúc đẩy phát triển kinh tế -hội. Người lao động mức lương cao
sẽ động lực làm việc, nâng cao năng suất lao động. Năng suất lao động được
nâng cao sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Việc điều chỉnh tương quan giữa mức lương tối thiểu mức lương trên thị
trường sẽ giúp nâng cao mức lương của người lao động, từ đó thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Cụ thể, việc điều chỉnh tương quan giữa mức lương tối thiểu mức lương
trên thị trường sẽ mang lại những lợi ích sau:
Giảm tình trạng bóc lột sức lao động. Mức lương tối thiểu được điều chỉnh
tăng lên sẽ giúp người lao động thu nhập cao hơn, từ đó giảm tình trạng bóc lột
sức lao động.
Thúc đẩy phát triển thị trường lao động. Mức lương tối thiểu được điều
chỉnh phù hợp sẽ giúp thị trường lao động phát triển ổn định, thu hút lao động chất
lượng cao.
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mức lương tối thiểu được điều chỉnh tăng
lên sẽ giúp người lao động thêm thu nhập, từ đó tăng tiêu dùng, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh tương quan giữa mức lương tối thiểu mức lương
trên thị trường cũng cần được thực hiện một cách hợp lý, phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội của đất nước và khả năng chi trả của doanh nghiệp.
Chỉ số giá tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) chỉ số đo lường mức thay đổi giá cả của một
giỏ ng hóa dịch vụ tiêu dùng trong một thời gian nhất định. CPI được
sử dụng để đo lường lạm phát, hay mức độ tăng giá chung của giá cả.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế mức độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) trong một thời gian nhất định. GDPtổng giá trị của tất cả hàng
hóa dịch vụ cuối cùng được sản xuất trong một quốc gia trong một thời
gian nhất định.
Việc điều chỉnh CPI tốc độ tăng trưởng kinh tế cần được thực hiện những
lý do sau:
Để phản ánh đúng tình hình thực tế. CPI tốc độ tăng trưởng kinh tế
những chỉ số quan trọng để đánh giá tình hình kinh tế - hội của một quốc gia.
Nếu CPI tốc độ tăng trưởng kinh tế không được điều chỉnh kịp thời sẽ không
phản ánh đúng tình hình thực tế, dẫn đến những quyết định sai lầm trong việc hoạch
định chính sách kinh tế.
Để đảm bảo tính công bằng. CPItốc độ tăng trưởng kinh tế có tác động
đến đời sống của người dân doanh nghiệp. Nếu CPI tăng cao sẽ dẫn đến lạm
phát, làm giảm sức mua của người dân tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao sẽ tạo ra nhiều việc m, tăng thu nhập cho người
dân và doanh nghiệp.
Để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. CPI tốc độ tăng trưởng kinh tế
những chỉ số quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế - hội. Nếu CPI được
điều chỉnh hợp sẽ giúp ổn định giá cả, tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
sẽ tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần của người dân.
Cụ thể, việc điều chỉnh CPI và tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ mang lại những
lợi ích sau:
Ổn định giá cả, tăng sức mua của người dân. CPI được điều chỉnh hợp
sẽ giúp ổn định giá cả, tạo điều kiện cho người dân mua sắm hàng hóa dịch vụ,
góp phần tăng sức mua của người dân.
Thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo việc làm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao sẽ tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần thúc đẩy sản
xuất kinh doanh.
Cải thiện đời sống vật chất tinh thần của người dân. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao sẽ tạo ra nhiều của cải vật chất, góp phần cải thiện đời sống vật
chất của ngườin. Thêm vào đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao sẽ tạo ra nhiều
hội việc làm, góp phần cải thiện đời sống tinh thần của người dân.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh CPI và tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng cần được thực
hiện một cách hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế của từng quốc gia.
Quan hệ cung, cầu lao động.
Để đảm bảo cân bằng thị trường lao động. Cung lao động số lượng
người lao động có khả năng và sẵn sàng làm việc trong một thời gian nhất định. Cầu
lao động số lượng lao động các doanh nghiệp cần để sản xuất trong một thời
gian nhất định.
Nếu cung lao động lớn hơn cầu lao động, sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp.
Ngược lại, nếu cung lao động nhỏ hơn cầu lao động, sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hụt
lao động.
Việc điều chỉnh quan hệ cung, cầu lao động sẽ giúp đảm bảo cân bằng thị
trường lao động, từ đó đảm bảo quyền lợi của người lao động và doanh nghiệp.
Để đảm bảo quyền lợi của người lao động. Người lao động có quyền được
làm việc và được trả lương tương xứng với năng lực và trình độ của mình.
Việc điều chỉnh quan hệ cung, cầu lao động sẽ giúp đảm bảo quyền lợi của
người lao động, từ đó góp phần nâng cao đời sống của người lao động.
Để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Người lao động là một trong những
yếu tố quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Việc điều chỉnh quan hệ cung, cầu lao động sẽ giúp đảm bảo nguồn lao động
chất lượng cao cho doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Cụ thể, việc điều chỉnh quan hệ cung, cầu lao động sẽ mang lại những lợi ích
sau:
Giảm thiểu thất nghiệp. Điều chỉnh quan hệ cung, cầu lao động theo hướng
giảm cung lao động hoặc tăng cầu lao động sẽ giúp giảm thiểu thất nghiệp, tạo việc
làm cho người lao động.
Tăng thu nhập cho người lao động. Điều chỉnh quan hệ cung, cầu lao động
theo hướng tăng cầu lao động sẽ giúp tăng thu nhập cho người lao động.
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Người lao động một trong những yếu tố
quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Điều chỉnh quan hệ cung, cầu lao động
theo hướng đảm bảo nguồn lao động chất lượng cao sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh quan hệ cung, cầu lao động cũng cần được thực hiện
một cách hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế của từng quốc gia.
Việc làm và thất nghiệp.
Để đảm bảo quyền lợi của người lao động. Người lao động có quyền được
làm việc và được trả lương tương xứng với năng lực và trình độ của mình.
Tình trạng thất nghiệp sẽ dẫn đến việc người lao động không có việc làm, không
thu nhập, không đảm bảo được cuộc sống. Điều này ảnh hưởng đến quyền lợi
của người lao động, làm giảm chất lượng cuộc sống của người lao động.
Để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Người lao động là một trong những
yếu tố quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Thất nghiệp sẽ làm giảm khả năng sản xuất của doanh nghiệp, giảm GDP của
quốc gia, từ đó ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội.
Cụ thể, việc điều chỉnh việc làm và thất nghiệp sẽ mang lại những lợi ích sau:
Giảm thiểu thất nghiệp. Điều chỉnh việc làm và thất nghiệp theo hướng tạo
việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp sẽ giúp đảm bảo quyền lợi của người lao động, góp
phần nâng cao đời sống của người lao động.
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Người lao động một trong những yếu tố
quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Điều chỉnh việc làm và thất nghiệp theo
hướng tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh việc làm thất nghiệp cũng cần được thực hiện một
cách hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế của từng quốc gia.
Một số giải pháp điều chỉnh việc làm và thất nghiệp:
Tăng cường đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Hỗ trợ doanh nghiệp tạo việc làm.
Thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư nước ngoài.
Năng suất lao động.
Để đảm bảo lợi ích của người lao động.ng suất lao động được cải thiện
sẽ giúp người lao động có thêm thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Để thúc đẩy phát triển kinh tế -hội. Năng suất lao động được cải thiện
sẽ giúp doanh nghiệp tăng lợi nhuận, từ đó đóng góp cho ngân sách nhà nước, thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Để cạnh tranh với các nước khác. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế,
năng suất lao động là một trong những yếu tố quan trọng để cạnh tranh với các nước
khác.
Cụ thể, việc điều chỉnh năng suất lao động sẽ mang lại những lợi ích sau:
Nâng cao thu nhập cho người lao động. Năng suất lao động được cải thiện
sẽ giúp doanh nghiệp tăng lợi nhuận, từ đó có thể tăng lương cho người lao động.
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Năng suất lao động được cải thiện sẽ giúp
doanh nghiệp tăng năng lực sản xuất, từ đó đóng góp cho tăng trưởng kinh tế.
Cải thiện vị thế cạnh tranh của quốc gia. Năng suất lao động được cải
thiện sẽ giúp quốc gia thể cạnh tranh với các nước khác, từ đó thu hút đầu
nước ngoài, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh năng suất lao động cũng cần được thực hiện một cách
hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế của từng quốc gia.
Một số giải pháp điều chỉnh năng suất lao động:
Đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Ứng dụng khoa học - công nghệ.
Thay đổi mô hình sản xuất.
Cải thiện môi trường kinh doanh.
Khả năng chi trả của doanh nghiệp.
Để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khả năng
chi trả của doanh nghiệp yếu tố quan trọng để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Nếu khả năng chi trả của doanh nghiệp thấp, doanh nghiệp
sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ, chi phí, từ đó dẫn đến hoạt
động sản xuất kinh doanh bị đình trệ.
Để đảm bảo quyền lợi của người lao động. Nếu khả năng chi trả của doanh
nghiệp thấp, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc trả lương, phúc lợi cho người
lao động, từ đó ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động.
Để thúc đẩy phát triển kinh tế - hội. Doanh nghiệp một trong những
yếu tố quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế - hội. Nếu khả năng chi trả của
doanh nghiệp thấp, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc đầu tư, mở rộng sản
xuất kinh doanh, từ đó ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội.
Cụ thể, việc điều chỉnh khả năng chi trả của doanh nghiệp sẽ mang lại
những lợi ích sau:
Đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Điều chỉnh
khả năng chi trả của doanh nghiệp theo hướng nâng cao sẽ giúp doanh nghiệp có thể
thanh toán các khoản nợ, chi phí, từ đó đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đảm bảo quyền lợi của người lao động. Điều chỉnh khả năng chi trả của
doanh nghiệp theo hướng nâng cao sẽ giúp doanh nghiệp thể trả lương, phúc lợi
cho người lao động đầy đủ, từ đó đảm bảo quyền lợi của người lao động.
Thúc đẩy phát triển kinh tế - hội. Điều chỉnh khả năng chi trả của
doanh nghiệp theo hướng nâng cao sẽ giúp doanh nghiệp có thể đầu tư, mở rộng sản
xuất kinh doanh, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh khả năng chi trả của doanh nghiệp cũng cần được thực
hiện một cách hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế của từng doanh nghiệptừng
ngành nghề.
Một số giải pháp điều chỉnh khả năng chi trả của doanh nghiệp:
Tăng cường quản lý tài chính, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Tăng cường ứng dụng khoa học - công nghệ, nâng cao năng suất lao động.
Tiếp cận các nguồn vốn vay, hỗ trợ từ Chính phủ, các tổ chức tài chính.
Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, giảm thiểu chi phí sản xuất kinh
doanh.
KẾT LUẬN
Như vậy, tiền lương tối thiểu là một trong những vấn đề quan trọng của nền kinh
tế - hội, có tác động trực tiếp đến đời sống của người lao động doanh nghiệp.
Trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới, vấn đề tiền lương tối thiểu càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
thuận lợi khó khăn mà Việt Nam đang gặp phải trong quá trình hội nhập. Những
thuận lợi đó nền kinh tế tăng trưởng nhanh, trình độ khoa học kỹ thuật không
ngừng nâng cao, các công ty nước ngoài đầu tư ngày càng nhiều vào Việt Nam. Tuy
nhiên, bên cạnh đó, Việt Nam vẫn còn một số khó khăn như mức sống của người
dân còn thấp, tình trạng lạm phát vẫn còn tồn tại, mức thu nhập thấp gây khó khăn
cho chính sách lao động của các doanh nghiệp trong nước Trước tình hình đó, Đảng
và Nhà nước Việt Nam đã không ngừng thay đổi ban hành mới các quy định về
tiền lương tối thiểu. Mức lương tối thiểu vùng được điều chỉnh tăng lên theo từng
năm, nhằm đảm bảo cho người lao động mức sống tối thiểu góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội.Tuy nhiên, mức lương tối thiểu hiện nay vẫn còn thấp
so với mức sống tối thiểu của người lao động, đặc biệt các thành phố lớn. Điều
này gây khó khăn cho người lao động trong việc trang trải chi phí sinh hoạt và nuôi
dưỡng gia đình. Ngoài ra, mức lương tối thiểu cũng chưa được điều chỉnh theo từng
ngành nghề, gây bất bình đẳng giữa các nhóm lao động. Để phát huy hiệu quả của
chính sách tiền lương tối thiểu, cần có những giải pháp phù hợp Tăng mức lương tối
thiểu theo từng năm, đảm bảo cho người lao động có mức sống tối thiểu.Điều chỉnh
mức lương tối thiểu theo từng ngành nghề, phù hợp với trình độ năng suất lao
động.Tăng cường giám sát và thực thi việc tuân thủ mức lương tối thiểu, ngăn chặn
tình trạng doanh nghiệp vi phạm. Việc thực hiện tốt các giải pháp trên sẽ góp phần
bảo đảm quyền lợi cho người lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế - hội hội
nhập quốc tế. Đối với người lao độngTăng mức lương tối thiểu theo từng năm, đảm
bảo cho người lao động mức sống tối thiểu: Điều này sẽ giúp người lao động có
thêm thu nhập để trang trải chi phí sinh hoạt nuôi dưỡng gia đình, cải thiện chất
lượng cuộc sống.Điều chỉnh mức lương tối thiểu theo từng ngành nghề, phù hợp với
trình độ và năng suất lao động: Điều này sẽ giúp đảm bảo công bằng giữa các nhóm
lao động, khuyến khích người lao động nâng cao trình độ năng suất lao
động.Tăng cường giám sát và thực thi việc tuân thủ mức lương tối thiểu, ngăn chặn
tình trạng doanh nghiệp vi phạm: Điều này sẽ giúp đảm bảo quyền lợi của người lao
động, ngăn chặn tình trạng bóc lột lao động. Đối với nền kinh tế - hội.Thúc đẩy
tiêu dùng: Khi người lao động có thu nhập cao hơn, họ sẽ có nhiều khả năng chi tiêu
hơn, thúc đẩy tiêu dùng trong nước. Điều này sẽ giúp kích thích tăng trưởng kinh tế,
tạo ra nhiều việc làm mới.Tăng năng suất lao động: Khi người lao động được trả
lương xứng đáng, họ sẽ có động lựcm việc tốt hơn, nâng cao năng suất lao động.
Điều này sẽ giúp tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nền kinh tế.Giảm
bất bình đẳng hội.Thu nhập cao hơn sẽ giúp người lao động cải thiện chất lượng
cuộc sống, giảm bớt bất bình đẳnghội. Đối với hội nhập quốc tế.Tăng khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp Khi doanh nghiệp trả lương cao cho người lao động,.
họ s thể thu hút giữ chân người lao động có trình độ cao, đáp ứng yêu cầu
của các doanh nghiệp nước ngoài. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam tăng
khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập quốc tế. Trong việc tạo môi trường
đầu thuận lợi. Khi Việt Nam chính sách tiền lương tối thiểu hợp lý, sẽ tạo ra
môi trường đầu tư thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
| 1/24

Preview text:

TRNG ĐI HC LAO ĐNG – X HI (C S II)
KHOA QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC BÀI TẬP NHÓM
MÔN: NGUYÊN LÝ TIỀN LƯƠNG ĐỀ TÀI:
LỊCH SỬ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU Ở VIỆT NAM. DỰA TRÊN
KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH TIỀN
LƯƠNG TỐI THIỂU CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY. TIỀN LƯƠNG TỐI
THIỂU CỦA VIỆT NAM CẦN CÓ NHỮNG ĐIỀU CHỈNH GÌ VÀ TẠI SAO.
GVHD: Hoàng Thị Thương
Nhóm thực hiện: Nhóm 6
Ngành: Bảo hiểm-Tài chính
Lớp: NLTL0222H_22BT_HK1_D2_Lớp1
TP. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2023
NHẬN XPT CỦA GIẢNG VIÊN
- Về hình thức: ............................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
- Mở đầu: ....................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
- Nội dung: .................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
- Kết luận: ...................................................................................................................
.....................................................................................................................................
..................................................................................................................................... Tổng: MỞ ĐẦU
Thế giới bước sang một thiên niên kỷ mới và đang dần đi hết thập kỷ đầu của
thiên kỷ mới này. Tất cả đều đổi thay, đất nước ta cũng có nhiều sự thay đổi. Xu thế
thế giới là hội nhập toàn cầu. Hoà chung xu thế ấy, Việt Nam cũng đang thay đổi,
tạo điều kiện để đất nước hội nhập tốt hơn, theo kịp bạn bè năm châu. Cũng như
góp phần phát triển đất nước nói riêng , tạo ra sự phát triển chung cùng với bạn bè
quốc tế.Giúp cuộc sống mọi người ngày càng được phát triển, phúc lợi xã hội ngày
càng được nâng cao. Thời thế hội nhập tạo rất nhiều điều kiện thuận lợi cho Việt
Nam trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Nền kinh tế những năm
qua không ngừng tăng trưởng nhanh, và rất nhanh, tốc độ tăng trưởng khá cao, vượt
chỉ tiêu đề ra rất nhiều. Bên cạnh đó, trình độ khoa học kỹ thuật của đất nước cũng
không ngừng tăng nhanh, bắt kịp với khoa học thế giới. Công nghệ khoa học – kĩ
thuật không ngừng cải tiến và phát triển , giúp đất nước ngày càng tiến bộ bắt kịp
với xu thế toàn cầu hoá hiện nay. Thời đại công nghệ tiến bộ được nâng caophát triển.
Xu thế hội nhập đã tạo nhiều thuận lợi để nước ta phát triển, nhưng bên cạnh những
thuận lợi ấy cũng không tránh khỏi nhiều khó khăn mà chúng ta gặp phải, như :
Mức sống của người dân còn thấp, chỉ trên 640 USD/ người/ năm. So với thế giới,
mức thu nhập là rất thấp. Bên cạnh đó, tình trạng lạm phát vẫn còn tồn tại, mức
sống và mức tiêu dùng tối thiểu so với thu nhập thực tế là rất cao. Đó là điều bất lợi
với nền kinh tế, kìm hãm rất nhiều cho sự phát triển của kinh tế đất nước. Ảnh
hưởng đến đời sống phát triển của người dân nói riêng và đất nước nói chung, kìm hãm cả sự phát triểntoàncầu.
Thêm vào đó, các công ty nước ngoài vào đầu tư tại Việt Nam ngày càng nhiều.
Để thu hút lao động có trình độ, họ không ngại đưa ra chính sách tiền lương hấp
dẫn. Gây khó khăn không nhỏ cho chính sách lao động của các doanh nghiệp trong
nước. Mức thu nhập thấp cũng một là nguyên nhân gây nên vấn đề chảy máu chất
xám những năm vừa qua, là vấn đề khá đau đầu với Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Một vấn đề nan giải vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại, cần phải đưa ra biện pháp phù
hợp để giải quyết vần đề này càng sớm càng tốt.
Trước tình hình ấy, để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong nước và tình
hình chung của thế giới, Đảng và Nhà nước đã không ngừng thay đổi và ban hành
mới các quy định về tiền lương tối thiểu. Có thể nói, tiền lương tối thiểu là một
trong những vấn đề quan trọng được các ngành, các cấp, đoàn thể, người lao động
và người sử dụng lao động trong cả nước quan tâm. Một chính sách tiền lương tối
thiểu hợp lý sẽ là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước,
cũng như tiến trình hội nhập và đưa ra quyết định về tiền lương tối thiểu giúp chúng
ta tìm ra biện pháp cho những vấn đề chưa có lời giải đáp. Để phát huy về quy định
tiền lương tối thiểu chúng ta cần phải học hỏi bạn bè quốc tế từ đó xác định được
những yếu tố tác động, và một số khuyến nghị nhằm đảm bảo việc tăng tiền lương
tối thiểu mang lại hiệu quả tích cực.
TRÌNH BÀY LỊCH SỬ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU Ở VIỆT NAM
Tại Việt Nam, khái niệm “lương tối thiểu” được đề cập lần đầu tiên trong Sắc
lệnh số 29-SL, ngày 12/3/1947. Theo đó, tiền công tối thiểu, được định nghĩa “là số
tiền công do chính phủ ấn định theo giá sinh hoạt, để một công nhân không chuyên
nghiệp sinh sống một mình, trong một ngày, ở một khu vực nhất định”, nhằm “làm
định lương cho các hạng công nhân”. Khái niệm đầu tiên này đã mang những đặc
điểm và tính chất của tiền lương tối thiểu theo cách hiểu hiện nay.
Sắc lệnh số 188-SL ngày 29/5/1948 quy định về việc lập một chế độ công chức
mới và một thang lương chung cho các ngạch và các hạng công chức Việt Nam.
Mặc dù không quy định rõ mức tiền lương tối thiểu để tính toán các bậc lương, điều
5 của Sắc lệnh này nêu rõ “Nếu lương và các khoản phụ cấp kể trên của một công
chức dưới 220 đồng một tháng, thì công chức ấy được lĩnh 220 đồng”. Như vậy,
220 đồng/tháng có thể được hiểu là mức tiền lương tối thiểu đối với một công chức.
Nghị định số 270-TTg ngay 31/5/1958 quy định chế độ lương cho khu vực hanh
chính, sự nghiệp. Theo đó, Điều 3 của Nghị định quy định lương thấp nhất định là 27.300 đồng/tháng.
Từ năm 1960 đến năm 1985, khi nền kinh tế Việt Nam được định hướng phát
triển theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, mọi vấn đề về lao động đều được quy định
theo kế hoạch của Nhà nước và được triển khai thực hiện bằng mệnh lệnh hành
chính. Đối với lĩnh vực công, mức tiền lương cụ thể cho từng loại công việc, thời
gian trả lương, hình thức trả lương, nâng bậc lương và các vấn đề liên quan đều do
Nhà nước định sẵn thông qua hệ thống các bậc lương và hoàn toàn phụ thuộc vào
ngân sách Nhà nước. Tuy Nha nước không tiến hanh cải cách tiền lương và công bố
mức lương tối thiểu, trên thực tế, lương danh nghĩa đã được tăng nhiều lần thông
qua các hình thức trợ cấp tạm thời, tiền thưởng, khuyến khích lương sản phẩm,
lương khoan va điều chỉnh mức phụ cấp khu vực đối với cac địa phương. Trong giai
đoạn này, mặc dù tiền lương tối thiểu không được đề cập trong các văn bản pháp
luật lao động, lương bậc một – mức lương khởi điểm được trả cho người lao động
với công việc yêu cầu trình độ và cường độ lao động thấp nhất của từng ngành vẫn
được xem là mức lương tối thiểu của từng ngành.
Từ năm 1985 đến năm 1992, với sự chuyển dịch từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Chính phủ
quyết định bãi bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá bù lỗ, chuyển sang chế độ trả
lương bằng tiền theo nguyên tắc phân phối theo lao động, xoá bỏ bao cấp, bảo đảm
tính thống nhất của chế độ tiền lương trong cả nước, ổn định và từng bước cải thiện
đời sống của công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang. Nghị định số 235/NĐ-
HĐBT ngày 18/9/1985 quy định mức lương tối thiểu là 220 đồng/tháng. Đây là mức
lương được dùng để trả công cho những người làm công việc lao động giản đơn
nhất và với điều kiện lao động bình thường tại vùng có mức giá sinh hoạt thấp nhất.
Khi mức giá thay đổi hoặc ở những vùng có chi phí sinh hoạt cao hơn, tiền lương
được tính thêm phụ cấp chênh lệch giá sinh hoạt.
Sau khi công cuộc Đổi Mới toàn diện được thực hiện từ năm 1986, giá cả sinh
hoạt ngay cang tang nhanh lam cho tiền lương thực tế giảm sút nhanh chóng. Để
phù hợp với tình hình thực tế, tháng 9/1987, Hội đồng Bộ trưởng đã Quyết định
điều chỉnh lại tiền lương (trong đó có mức lương tối thiểu) với các mức tăng khác
nhau đối với đơn vị sản xuất kinh doanh; công nhân, viên chức hành chính sự
nghiệp, cán bộ xã, phường; và lực lượng vũ trang (Quyết định số 147/HĐBT). Đến
tháng 4/1988, một hệ số được áp dụng thống nhất cho các nhóm lao động và chế độ
trợ cấp được áp dụng trong các tháng tiếp theo.
Ngày 28/12/1988, Hội đồng Bộ trưởng có Quyết định số 202/HĐBT về tiền
lương công nhân, viên chức sản xuất, kinh doanh khu vực quốc doanh va cong ty
hợp doanh va Quyết định số 203/HĐBT về tiền lương công nhân, viên chức hanh
chính, sự nghiệp, lực lượng vũ trang va cac đối tượng hưởng chính sách xã hội,
nâng mức lương tối thiểu lên 22.500 đồng/tháng. Như vậy, khu vực sản xuất đã
được tách khỏi khu vực hành chính sự nghiệp khi áp dụng lương tối thiểu. Tuy
nhiên, mức tiền lương tối thiểu được quy định cho hai khu vực này là như nhau.
Năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được thông qua, một thành
phần kinh tế mới được hình thành là khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Với
đặc điểm công việc yêu cầu trình độ chuyên môn và cường độ lao động cao hơn so
với công việc tại các doanh nghiệp trong nước, lao động làm việc trong khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài cần được quy định riêng về tiền lương tối thiểu nhằm đảm
bảo tính công bằng và đánh giá đúng giá trị sức lao động. Quyết định số 356-
LĐTBXH/QĐ ban hành ngày 29/8/1990 đã ấn định mức lương tối thiểu đối với
người lao động làm công việc giản đơn trong điều kiện lao động bình thường của
các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 50 USD/tháng. Tuy nhiên, việc áp dụng
chung một mức lương tối thiểu chung cho toàn bộ các doanh nghiệp trên toàn quốc,
không phân biệt theo vùng miền hay ngành nghề đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế.
Trước tình hình đó, Quyết định số 242-LĐTBXH/QĐ được ban hành ngày 5/5/1992
đã quy định rõ mức lương tối thiểu trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là từ 30
đến 35 USD/tháng tuỳ thuộc vào từng địa phương và đặc trưng của từng ngành nghề.
Ngày 23/5/1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 25-CP quy định tạm thời chế
độ tiền lương mới của công chức, viên chức hanh chính, sự nghiệp va lực lượng vũ
trang va Nghị định số 26-CP quy định tạm thời chế độ tiền lương mới trong doanh
nghiệp. Mức lương tối thiểu được áp dụng đồng thời cho cả hai khu vực trên là 120.000 đồng/tháng.
Bộ Luật Lao động năm 1994 đã ghi nhận một cách đầy đủ, toàn diện về tiền
lương tối thiểu. Theo đó, mức lương tối thiểu được ấn định theo giá sinh hoạt, bảo
đảm cho người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình
thường bù đắp sức lao động giản đơn và một phần tích luỹ tái sản xuất sức lao động
mở rộng, và được dùng làm căn cứ để tính các mức lương cho các loại lao động
khác. Mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu vùng và mức lương tối thiểu
ngành cho từng thời kỳ được Chính phủ quyết định và công bố sau khi lấy ý kiến
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và đại diện của người sử dụng lao động. Mức
lương tối thiểu được điều chỉnh để đảm bảo tiền lương thực tế khi chỉ số giá sinh
hoạt tăng lên – tiền lương thực tế củangười lao động bị giảm sút đáp ứng được nhu
cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ.
Nghị định 197/CP ngày 31/12/1994 và sau đó là Thông tư số 11-LĐTBXH/TT
ngày 3/5/1995 đã được ban hành nhằm cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành các quy
định về tiền lương, tiền lương tối thiểu đối với lao động Việt Nam làm việc trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các cơ quan, tổ chức nước ngoài
hoặc quốc tế tại Việt Nam. Theo Thông tư này, mức lương tối thiểu là 35
USD/tháng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng trên địa bàn
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh; 30 USD/tháng đối với các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài đóng trên các địa phương còn lại hoặc các doanh nghiệp sử dụng
nhiều lao động đơn giản thuộc các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ
sản. Đối với các ngành, nghề đã được thoả thuận mức lương tối thiểu cao hơn thì
tiếp tục thực hiện mức lương tối thiểu đó cho đến khi có quyết định mới.
Sau một thời gian thực hiện chính sách tiền lương tối thiểu năm 1993, mức lương
tối thiểu không đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của người lao động. Trước tình
hình đó, ngày 21/1/1997 Chính phủ ra Nghị định số 06/CP về việc giải quyết tiền
lương và trợ cấp năm 1997 đối với công chức, viên chức hành chính - sự nghiệp,
người nghỉ hưu, nghỉ mất sức, lực lượng vũ trang cán bộ xã, phường và một số đối
tượng hưởng chính sách xã hội. Mức lương tối thiểu được nâng từ 120.000
đồng/tháng lên 144.000 đồng/tháng.
Tiếp đến, ngay 15/12/1999, Chính phủ tiếp tục điều chỉnh mức tiền lương tối
thiểu cho các đối tượng hưởng lương từ ngan sach nha nước từ 144.000 đồng/tháng
lên 180.000 đồng/thang (Theo Nghị định số 175/1999/NĐ-CP). Đến 15/12/2000,
mức tiền lương tối thiểu được điều chỉnh lên 210.000 đồng/tháng, áp dụng cho cả
khu vực doanh nghiệp va hanh chính, sự nghiệp (Nghị định số 77/2000/NĐ-CP).
Theo thời gian, tiền lương tối thiểu đã được điều chỉnh nhiều lần nhằm đáp ứng
nhu cầu thiết yếu và nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao động và gia đình.
Tuy nhiên, nếu như lương tối thiểu theo vùng chính thức được pháp luật quy định từ
năm 1995, lương tối thiểu theo vùng chỉ được áp dụng đối với người lao động lam
việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoai, cơ quan nước ngoai va tổ
chức quốc tế tại Việt Nam; trong khi đó, không có sự phân biệt theo vùng mức
lương tối thiểu áp dụng cho người lao động làm việc tại các doanh nghiệp trong
nước. Chỉ đến năm 2006, lương tối thiểu áp dụng cho lao động làm việc tại các
doanh nghiệp trong nước mới có sự phân biệt theo vùng.
DỰA TRÊN KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG VIỆC XÁC
ĐỊNH TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY. TIỀN
LƯƠNG TỐI THIỂU CỦA VIỆT NAM CẦN CÓ NHỮNG ĐIỀU CHỈNH GÌ VÀ TẠI SAO
Dựa trên kinh nghiệm của một số nước trong việc xác định tiền lương tối thiểu.
Tại Thái Lan, chính phủ không xây dựng mức lương tối thiểu toàn quốc mà áp
dụng lương tối thiểu theo từng vùng. Lương tối thiểu ở thành phố cao hơn ở nông
thôn, nhằm bù đắp chi phí đắt đỏ của thành phố. Mục đích của chính sách này nhằm
khuyến khích các DN đầu tư ở khu vực ngoài đô thị với chi phí tiền lương thấp hơn.
Như vậy sẽ giảm được các vấn đề về tắc nghẽn giao thông, cơ sở hạ tầng, ô nhiễm
không khí ở Bangkok. Lương công chức ở Thái Lan được trả theo vị trí công tác (vị
trí điều hành, vị trí quản lý, nhân viên trí thức và vị trí chung), và mỗi vị trí lại chia theo các cấp bậc.
Tại Hàn Quốc, tiền lương tối thiểu được xác định và điều chỉnh định kỳ bởi Uỷ
ban tiền lương tối thiểu (MWC), một cơ quan tư vấn do Bộ Lao động thành lập.
Tiền lương trả cho công chức Hàn Quốc gồm lương cơ bản, trợ cấp và các khoản
phúc lợi. Công chức Hàn Quốc được chia thành 9 cấp bậc. Bậc cao nhất là trợ lý Bộ
trưởng và bậc thấp nhất, bậc 9 là công chức mới làm việc. Chính phủ Hàn Quốc bảo
đảm cho công chức mức lương bằng khoảng 90% mức trung bình của doanh nghiệp.
Tại Trung Quốc, các chính quyền địa phương được quy định mức lương tối thiểu
khác với mức lương tối thiểu do chính quyền Trung ương quy định.
Hầu hết các nước sử dụng các tiêu chuẩn tương tự để xác định lương tối thiểu
gồm: nhu cầu cơ bản của công nhân, lương trung bình, năng suất lao động, lạm
phát, mức độ việc làm, lợi nhuận cho chủ lao động.  Mỹ, các nhà lập pháp còn xét
đến cả yếu tố cận nghèo.  Trung Quốc, lương tối thiểu được xác định cao hơn tổng
tổng trợ cấp của quỹ viện trợ xã hội và bảo hiểm thất nghiệp, nhưng thấp hơn tiền lương bình quân.
Việc xử phạt đối với các vi phạm về mức lương tối thiểu được giám sát và thực
thi bởi các cơ quan quản lý lao động địa phương. Các biện pháp xử phạt hành chính
được áp dụng đối với các trường hợp vi phạm trả lương tối thiểu, thực hiện báo cáo
không minh bạch… Riêng ở Mỹ và Hàn Quốc, việc vi phạm lương tối thiểu có thể bị phạt tù.
Theo bảng so sánh về mức lương tối thiểu ở 12 quốc gia tiêu biểu ở các khu vực
là Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, Chi lê, Nam Phi, Pháp, Mỹ, Nhật..., Việt Nam
có mức lương tối thiểu thấp nhất cả về mức tiền lương, tỷ lệ lương trên GDP bình
quân đầu người và tỷ lệ lương trên sức mua tương đương. Lương tối thiểu/CDP
bình quân đầu người ở các nước trong khu vực Đông Á trung bình khoảng 40 – 50%.
Nhận xét tiền lương tối thiểu của Việt Nam hiện nay.
Mức lương tối thiểu của Việt Nam hiện nay là thấp so với các nước trong khu
vực.
Theo bảng so sánh, mức lương tối thiểu vùng I của Việt Nam chỉ bằng khoảng
2/3 mức lương tối thiểu ở Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, và chỉ bằng khoảng
1/2 mức lương tối thiểu ở Mỹ, Nhật Bản. Điều này cho thấy, tiền lương tối thiểu
của Việt Nam chưa đảm bảo được nhu cầu sống tối thiểu của người lao động, nhất
là ở các khu vực thành thị. 
Tỷ lệ lương tối thiểu trên GDP bình quân đầu người của Việt Nam cũng thấp
so với các nước trong khu vực.
Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, GDP bình
quân đầu người của Việt Nam năm 2022 là khoảng 3.700 USD. Tỷ lệ lương tối
thiểu trên GDP bình quân đầu người của Việt Nam chỉ bằng khoảng 10%, thấp hơn
nhiều so với các nước trong khu vực. Điều này cho thấy, tiền lương tối thiểu của
Việt Nam chưa tương xứng với mức sống chung của người dân. 
Tỷ lệ lương tối thiểu trên sức mua tương đương của Việt Nam cũng thấp so
với các nước trong khu vực. Theo thống kê của Tổ chức Lao động Quốc tế, sức
mua tương đương của Việt Nam năm 2022 là khoảng 6.000 USD. Tỷ lệ lương tối
thiểu trên sức mua tương đương của Việt Nam chỉ bằng khoảng 20%, thấp hơn
nhiều so với các nước trong khu vực. Điều này cho thấy, tiền lương tối thiểu của
Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu sống tối thiểu của người lao động, nhất là ở các khu vực thành thị.
Với những nhận xét trên, có thể thấy, tiền lương tối thiểu của Việt Nam hiện nay cần được
điều chỉnh tăng lên để đảm bảo được nhu cầu sống tối thiểu của người lao động, nhất là ở
các khu vực thành thị. Việc điều chỉnh tăng lương tối thiểu cần được thực hiện một cách
hợp lý, cân nhắc giữa nhu cầu của người lao động, khả năng của doanh nghiệp và tình hình
kinh tế - xã hội của đất nước.
Cụ thể, việc điều chỉnh tăng lương tối thiểu cần được thực hiện theo các nguyên tắc sau: 
Đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu của người lao động. Mức lương tối thiểu phải
đủ để người lao động trang trải các chi phí sinh hoạt cơ bản như ăn, ở, đi lại, giáo dục, y tế,... 
Khả năng của doanh nghiệp. Mức lương tối thiểu phải phù hợp với khả năng của
doanh nghiệp, không gây khó khăn cho sản xuất, kinh doanh. 
Tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Mức lương tối thiểu phải phù hợp với
tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, tránh gây lạm phát.
Trên cơ sở các nguyên tắc trên, có thể đề xuất một số giải pháp cụ thể để điều chỉnh tăng
lương tối thiểu của Việt Nam như sau: 
Tăng lương tối thiểu theo từng vùng. Mức lương tối thiểu ở thành phố cao hơn ở
nông thôn, nhằm bù đắp chi phí đắt đỏ của thành phố. 
Tăng lương tối thiểu theo các ngành nghề. Mức lương tối thiểu đối với các ngành
nghề đòi hỏi kỹ năng, trình độ cao hơn sẽ cao hơn so với các ngành nghề đòi hỏi kỹ năng, trình độ thấp. 
Tăng lương tối thiểu theo thời gian. Mức lương tối thiểu cần được tăng lên
thường xuyên, theo mức lạm phát để đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
Việc điều chỉnh tăng lương tối thiểu cần được thực hiện một cách khoa học, hợp lý, đảm
bảo được lợi ích của cả người lao động, doanh nghiệp và xã hội.
Tiền lương tối thiểu của Việt Nam cần có những điều chỉnh gì ? Tại sao ?
- Theo đó, mức lương tối thiểu được điều chỉnh dựa trên:
+ Mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ.
+ Tương quan giữa mức lương tối thiểu và mức lương trên thị trường.
+ Chỉ số giá tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng kinh tế.
+ Quan hệ cung, cầu lao động.
+ Việc làm và thất nghiệp. + Năng suất lao động.
+ Khả năng chi trả của doanh nghiệp.
Mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ
Để đảm bảo quyền lợi của người lao động. Mức lương tối thiểu là mức
lương thấp nhất mà người sử dụng lao động phải trả cho người lao động làm việc
theo hợp đồng lao động. Mức lương tối thiểu được xác định trên cơ sở nhu cầu sống
tối thiểu của người lao động và gia đình họ. Do đó, việc điều chỉnh mức sống tối
thiểu nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động, đảm bảo cho người lao động có
thể đáp ứng các nhu cầu cơ bản của cuộc sống như ăn, mặc, ở, đi lại, giáo dục, y tế,... 
Để nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao động và gia đình họ.
Mức lương tối thiểu được điều chỉnh tăng lên sẽ giúp người lao động có thêm thu
nhập, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống của họ. Người lao động có thêm thu
nhập sẽ có thể cải thiện điều kiện sống, mua sắm các nhu cầu thiết yếu, chăm lo cho con cái học hành,... 
Để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Người lao động có mức sống tốt sẽ
có động lực làm việc, nâng cao năng suất lao động. Năng suất lao động được nâng
cao sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Cụ thể, việc điều chỉnh mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ
sẽ mang lại những lợi ích sau:
Giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động. Mức
lương tối thiểu được điều chỉnh tăng lên sẽ giúp người lao động có thêm thu nhập,
từ đó có thể đáp ứng tốt hơn các nhu cầu cơ bản của cuộc sống, góp phần giảm
nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động. 
Nâng cao năng suất lao động. Người lao động có mức sống tốt sẽ có động
lực làm việc, nâng cao năng suất lao động. Năng suất lao động được nâng cao sẽ
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 
Tăng cường an ninh, trật tự xã hội. Mức sống tối thiểu được điều chỉnh
tăng lên sẽ giúp người lao động có cuộc sống ổn định, hạn chế các vấn đề xã hội
như trộm cắp, tệ nạn xã hội,...
Tuy nhiên, việc điều chỉnh mức sống tối thiểu cũng cần được thực hiện một cách
hợp lý, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và khả năng chi trả của doanh nghiệp.
Tương quan giữa mức lương tối thiểu và mức lương trên thị trường.
Để đảm bảo tính công bằng trong thị trường lao động. Mức lương tối
thiểu là mức lương thấp nhất mà người sử dụng lao động phải trả cho người lao
động làm việc theo hợp đồng lao động. Mức lương trên thị trường là mức lương mà
người lao động có thể được trả tùy thuộc vào năng lực, trình độ, kinh nghiệm,...
Nếu mức lương tối thiểu quá thấp so với mức lương trên thị trường, sẽ dẫn đến
tình trạng người lao động bị bóc lột sức lao động. Ngược lại, nếu mức lương tối
thiểu quá cao so với mức lương trên thị trường, sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp, khó khăn cho doanh nghiệp.
Việc điều chỉnh tương quan giữa mức lương tối thiểu và mức lương trên thị
trường sẽ giúp đảm bảo tính công bằng trong thị trường lao động, đảm bảo quyền
lợi của người lao động và doanh nghiệp. 
Để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Người lao động có mức lương cao
sẽ có động lực làm việc, nâng cao năng suất lao động. Năng suất lao động được
nâng cao sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Việc điều chỉnh tương quan giữa mức lương tối thiểu và mức lương trên thị
trường sẽ giúp nâng cao mức lương của người lao động, từ đó thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Cụ thể, việc điều chỉnh tương quan giữa mức lương tối thiểu và mức lương
trên thị trường sẽ mang lại những lợi ích sau:
Giảm tình trạng bóc lột sức lao động. Mức lương tối thiểu được điều chỉnh
tăng lên sẽ giúp người lao động có thu nhập cao hơn, từ đó giảm tình trạng bóc lột sức lao động. 
Thúc đẩy phát triển thị trường lao động. Mức lương tối thiểu được điều
chỉnh phù hợp sẽ giúp thị trường lao động phát triển ổn định, thu hút lao động chất lượng cao. 
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mức lương tối thiểu được điều chỉnh tăng
lên sẽ giúp người lao động có thêm thu nhập, từ đó tăng tiêu dùng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh tương quan giữa mức lương tối thiểu và mức lương
trên thị trường cũng cần được thực hiện một cách hợp lý, phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội của đất nước và khả năng chi trả của doanh nghiệp.
Chỉ số giá tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là chỉ số đo lường mức thay đổi giá cả của một
giỏ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong một thời gian nhất định. CPI được
sử dụng để đo lường lạm phát, hay mức độ tăng giá chung của giá cả.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế là mức độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) trong một thời gian nhất định. GDP là tổng giá trị của tất cả hàng
hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất trong một quốc gia trong một thời gian nhất định.
Việc điều chỉnh CPI và tốc độ tăng trưởng kinh tế cần được thực hiện vì những lý do sau:
Để phản ánh đúng tình hình thực tế. CPI và tốc độ tăng trưởng kinh tế là
những chỉ số quan trọng để đánh giá tình hình kinh tế - xã hội của một quốc gia.
Nếu CPI và tốc độ tăng trưởng kinh tế không được điều chỉnh kịp thời sẽ không
phản ánh đúng tình hình thực tế, dẫn đến những quyết định sai lầm trong việc hoạch
định chính sách kinh tế. 
Để đảm bảo tính công bằng. CPI và tốc độ tăng trưởng kinh tế có tác động
đến đời sống của người dân và doanh nghiệp. Nếu CPI tăng cao sẽ dẫn đến lạm
phát, làm giảm sức mua của người dân và tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao sẽ tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người dân và doanh nghiệp. 
Để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. CPI và tốc độ tăng trưởng kinh tế
là những chỉ số quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nếu CPI được
điều chỉnh hợp lý sẽ giúp ổn định giá cả, tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
sẽ tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần của người dân.
Cụ thể, việc điều chỉnh CPI và tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ mang lại những lợi ích sau:
Ổn định giá cả, tăng sức mua của người dân. CPI được điều chỉnh hợp lý
sẽ giúp ổn định giá cả, tạo điều kiện cho người dân mua sắm hàng hóa và dịch vụ,
góp phần tăng sức mua của người dân. 
Thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo việc làm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao sẽ tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh. 
Cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao sẽ tạo ra nhiều của cải vật chất, góp phần cải thiện đời sống vật
chất của người dân. Thêm vào đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao sẽ tạo ra nhiều cơ
hội việc làm, góp phần cải thiện đời sống tinh thần của người dân.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh CPI và tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng cần được thực
hiện một cách hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế của từng quốc gia.
Quan hệ cung, cầu lao động.
Để đảm bảo cân bằng thị trường lao động. Cung lao động là số lượng
người lao động có khả năng và sẵn sàng làm việc trong một thời gian nhất định. Cầu
lao động là số lượng lao động mà các doanh nghiệp cần để sản xuất trong một thời gian nhất định.
Nếu cung lao động lớn hơn cầu lao động, sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp.
Ngược lại, nếu cung lao động nhỏ hơn cầu lao động, sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hụt lao động.
Việc điều chỉnh quan hệ cung, cầu lao động sẽ giúp đảm bảo cân bằng thị
trường lao động, từ đó đảm bảo quyền lợi của người lao động và doanh nghiệp.
Để đảm bảo quyền lợi của người lao động. Người lao động có quyền được
làm việc và được trả lương tương xứng với năng lực và trình độ của mình.
Việc điều chỉnh quan hệ cung, cầu lao động sẽ giúp đảm bảo quyền lợi của
người lao động, từ đó góp phần nâng cao đời sống của người lao động. 
Để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Người lao động là một trong những
yếu tố quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Việc điều chỉnh quan hệ cung, cầu lao động sẽ giúp đảm bảo nguồn lao động
chất lượng cao cho doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Cụ thể, việc điều chỉnh quan hệ cung, cầu lao động sẽ mang lại những lợi ích sau:
Giảm thiểu thất nghiệp. Điều chỉnh quan hệ cung, cầu lao động theo hướng
giảm cung lao động hoặc tăng cầu lao động sẽ giúp giảm thiểu thất nghiệp, tạo việc làm cho người lao động. 
Tăng thu nhập cho người lao động. Điều chỉnh quan hệ cung, cầu lao động
theo hướng tăng cầu lao động sẽ giúp tăng thu nhập cho người lao động. 
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Người lao động là một trong những yếu tố
quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Điều chỉnh quan hệ cung, cầu lao động
theo hướng đảm bảo nguồn lao động chất lượng cao sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh quan hệ cung, cầu lao động cũng cần được thực hiện
một cách hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế của từng quốc gia.
Việc làm và thất nghiệp.
Để đảm bảo quyền lợi của người lao động. Người lao động có quyền được
làm việc và được trả lương tương xứng với năng lực và trình độ của mình.
Tình trạng thất nghiệp sẽ dẫn đến việc người lao động không có việc làm, không
có thu nhập, không đảm bảo được cuộc sống. Điều này ảnh hưởng đến quyền lợi
của người lao động, làm giảm chất lượng cuộc sống của người lao động. 
Để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Người lao động là một trong những
yếu tố quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Thất nghiệp sẽ làm giảm khả năng sản xuất của doanh nghiệp, giảm GDP của
quốc gia, từ đó ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội.
Cụ thể, việc điều chỉnh việc làm và thất nghiệp sẽ mang lại những lợi ích sau:
Giảm thiểu thất nghiệp. Điều chỉnh việc làm và thất nghiệp theo hướng tạo
việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp sẽ giúp đảm bảo quyền lợi của người lao động, góp
phần nâng cao đời sống của người lao động. 
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Người lao động là một trong những yếu tố
quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Điều chỉnh việc làm và thất nghiệp theo
hướng tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh việc làm và thất nghiệp cũng cần được thực hiện một
cách hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế của từng quốc gia.
Một số giải pháp điều chỉnh việc làm và thất nghiệp:
 Tăng cường đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
 Hỗ trợ doanh nghiệp tạo việc làm.
 Thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
 Cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư nước ngoài.
Năng suất lao động.
Để đảm bảo lợi ích của người lao động. Năng suất lao động được cải thiện
sẽ giúp người lao động có thêm thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống. 
Để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Năng suất lao động được cải thiện
sẽ giúp doanh nghiệp tăng lợi nhuận, từ đó đóng góp cho ngân sách nhà nước, thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội. 
Để cạnh tranh với các nước khác. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế,
năng suất lao động là một trong những yếu tố quan trọng để cạnh tranh với các nước khác.
Cụ thể, việc điều chỉnh năng suất lao động sẽ mang lại những lợi ích sau:
Nâng cao thu nhập cho người lao động. Năng suất lao động được cải thiện
sẽ giúp doanh nghiệp tăng lợi nhuận, từ đó có thể tăng lương cho người lao động. 
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Năng suất lao động được cải thiện sẽ giúp
doanh nghiệp tăng năng lực sản xuất, từ đó đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. 
Cải thiện vị thế cạnh tranh của quốc gia. Năng suất lao động được cải
thiện sẽ giúp quốc gia có thể cạnh tranh với các nước khác, từ đó thu hút đầu tư
nước ngoài, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh năng suất lao động cũng cần được thực hiện một cách
hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế của từng quốc gia.
Một số giải pháp điều chỉnh năng suất lao động:
Đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Ứng dụng khoa học - công nghệ.
Thay đổi mô hình sản xuất.
Cải thiện môi trường kinh doanh.
Khả năng chi trả của doanh nghiệp.
Để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khả năng
chi trả của doanh nghiệp là yếu tố quan trọng để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Nếu khả năng chi trả của doanh nghiệp thấp, doanh nghiệp
sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ, chi phí, từ đó dẫn đến hoạt
động sản xuất kinh doanh bị đình trệ. 
Để đảm bảo quyền lợi của người lao động. Nếu khả năng chi trả của doanh
nghiệp thấp, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc trả lương, phúc lợi cho người
lao động, từ đó ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động. 
Để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Doanh nghiệp là một trong những
yếu tố quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nếu khả năng chi trả của
doanh nghiệp thấp, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc đầu tư, mở rộng sản
xuất kinh doanh, từ đó ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội.
Cụ thể, việc điều chỉnh khả năng chi trả của doanh nghiệp sẽ mang lại những lợi ích sau:
Đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Điều chỉnh
khả năng chi trả của doanh nghiệp theo hướng nâng cao sẽ giúp doanh nghiệp có thể
thanh toán các khoản nợ, chi phí, từ đó đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh. 
Đảm bảo quyền lợi của người lao động. Điều chỉnh khả năng chi trả của
doanh nghiệp theo hướng nâng cao sẽ giúp doanh nghiệp có thể trả lương, phúc lợi
cho người lao động đầy đủ, từ đó đảm bảo quyền lợi của người lao động. 
Thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Điều chỉnh khả năng chi trả của
doanh nghiệp theo hướng nâng cao sẽ giúp doanh nghiệp có thể đầu tư, mở rộng sản
xuất kinh doanh, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh khả năng chi trả của doanh nghiệp cũng cần được thực
hiện một cách hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế của từng doanh nghiệp và từng ngành nghề.
Một số giải pháp điều chỉnh khả năng chi trả của doanh nghiệp:
 Tăng cường quản lý tài chính, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
 Tăng cường ứng dụng khoa học - công nghệ, nâng cao năng suất lao động.
 Tiếp cận các nguồn vốn vay, hỗ trợ từ Chính phủ, các tổ chức tài chính.
 Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, giảm thiểu chi phí sản xuất kinh doanh. KẾT LUẬN
Như vậy, tiền lương tối thiểu là một trong những vấn đề quan trọng của nền kinh
tế - xã hội, có tác động trực tiếp đến đời sống của người lao động và doanh nghiệp.
Trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới, vấn đề tiền lương tối thiểu càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
thuận lợi và khó khăn mà Việt Nam đang gặp phải trong quá trình hội nhập. Những
thuận lợi đó là nền kinh tế tăng trưởng nhanh, trình độ khoa học kỹ thuật không
ngừng nâng cao, các công ty nước ngoài đầu tư ngày càng nhiều vào Việt Nam. Tuy
nhiên, bên cạnh đó, Việt Nam vẫn còn một số khó khăn như mức sống của người
dân còn thấp, tình trạng lạm phát vẫn còn tồn tại, mức thu nhập thấp gây khó khăn
cho chính sách lao động của các doanh nghiệp trong nước Trước tình hình đó, Đảng
và Nhà nước Việt Nam đã không ngừng thay đổi và ban hành mới các quy định về
tiền lương tối thiểu. Mức lương tối thiểu vùng được điều chỉnh tăng lên theo từng
năm, nhằm đảm bảo cho người lao động có mức sống tối thiểu và góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội.Tuy nhiên, mức lương tối thiểu hiện nay vẫn còn thấp
so với mức sống tối thiểu của người lao động, đặc biệt là ở các thành phố lớn. Điều
này gây khó khăn cho người lao động trong việc trang trải chi phí sinh hoạt và nuôi
dưỡng gia đình. Ngoài ra, mức lương tối thiểu cũng chưa được điều chỉnh theo từng
ngành nghề, gây bất bình đẳng giữa các nhóm lao động. Để phát huy hiệu quả của
chính sách tiền lương tối thiểu, cần có những giải pháp phù hợp Tăng mức lương tối
thiểu theo từng năm, đảm bảo cho người lao động có mức sống tối thiểu.Điều chỉnh
mức lương tối thiểu theo từng ngành nghề, phù hợp với trình độ và năng suất lao
động.Tăng cường giám sát và thực thi việc tuân thủ mức lương tối thiểu, ngăn chặn
tình trạng doanh nghiệp vi phạm. Việc thực hiện tốt các giải pháp trên sẽ góp phần
bảo đảm quyền lợi cho người lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội
nhập quốc tế. Đối với người lao độngTăng mức lương tối thiểu theo từng năm, đảm
bảo cho người lao động có mức sống tối thiểu: Điều này sẽ giúp người lao động có
thêm thu nhập để trang trải chi phí sinh hoạt và nuôi dưỡng gia đình, cải thiện chất
lượng cuộc sống.Điều chỉnh mức lương tối thiểu theo từng ngành nghề, phù hợp với
trình độ và năng suất lao động: Điều này sẽ giúp đảm bảo công bằng giữa các nhóm
lao động, khuyến khích người lao động nâng cao trình độ và năng suất lao
động.Tăng cường giám sát và thực thi việc tuân thủ mức lương tối thiểu, ngăn chặn
tình trạng doanh nghiệp vi phạm: Điều này sẽ giúp đảm bảo quyền lợi của người lao
động, ngăn chặn tình trạng bóc lột lao động. Đối với nền kinh tế - xã hội.Thúc đẩy
tiêu dùng: Khi người lao động có thu nhập cao hơn, họ sẽ có nhiều khả năng chi tiêu
hơn, thúc đẩy tiêu dùng trong nước. Điều này sẽ giúp kích thích tăng trưởng kinh tế,
tạo ra nhiều việc làm mới.Tăng năng suất lao động: Khi người lao động được trả
lương xứng đáng, họ sẽ có động lực làm việc tốt hơn, nâng cao năng suất lao động.
Điều này sẽ giúp tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế.Giảm
bất bình đẳng xã hội.Thu nhập cao hơn sẽ giúp người lao động cải thiện chất lượng
cuộc sống, giảm bớt bất bình đẳng xã hội. Đối với hội nhập quốc tế.Tăng khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp.Khi doanh nghiệp trả lương cao cho người lao động,
họ sẽ có thể thu hút và giữ chân người lao động có trình độ cao, đáp ứng yêu cầu
của các doanh nghiệp nước ngoài. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam tăng
khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập quốc tế. Trong việc tạo môi trường
đầu tư thuận lợi. Khi Việt Nam có chính sách tiền lương tối thiểu hợp lý, sẽ tạo ra
môi trường đầu tư thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài.