Bài tập QTHCB | Trường đại học kinh tế - luật đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh

Trong tiến trình công nghệ hoá, hiện ại hóa của chúng ta hiện nay, hai chữ "văn hoá" thường gợi nhiều cảm xúc phức tạp.  Đầu tiên, nó khơi dậy lòng tự hào sâu sắc về bản sắc dân tộc, về di sản lịch sử, về truyền thống cách mạng, và trong vài năm. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 46901061
Vốn văn hoá
Trong tiến trình công nghệ hoá, hiện ại hóa của chúng ta hiện nay, hai chữ "văn hoá"
thường gợi nhiều cảm xúc phức tạp. Đầu tiên, nó khơi dậy lòng tự hào sâu sắc về bản sắc dân
tộc, về di sản lịch sử, về truyền thống cách mạng, và trong vài năm gần ây, về "giá trị châu Á"
mà nhiều người cho rằng Việt Nam chia sẻ với các nước trong vùng, giải thích những thần kỳ
kinh tế ở miền dất này. Nhưng àng khác, nó cũng gây nhiều ưu tư về nguy cơ phai lạt bản sắc
quê hương, nhất là trước làn sóng toàn cầu hoá, ối với một kinh tế mở như ta hiện nay. Thêm
vào ấy là một tinh thần "hoài cỗ" của thế hệ "hơi lớn tuổi" mà nơi nào bao giờ cũng có: lắc ầu
chặc lưỡi về những ngông cuồng của lối sống thời thượng, biểu hiện qua những tệ nạn xã hội,
những phong cách ồi truỵ của một số người "mất văn hoá".
Trong tâm trạng "vừa mừng vừa lo, vừa thương vừa giận" ấy, nhà kinh tế sẽ nói gì? Cụ thể
hơn, ồng thời với phát triển kinh tế, chúng ta có thể làm ược gì cho văn hoá, ể tạo dựng một nước
Việt Nam ngày càng tươi ẹp, phồn vinh hơn?
Song, trước hết, phải hỏi: văn hoá là gì? Theo một phúc trình của Uỷ ban Thế Giới về
Văn Hoá và Phát Triển của Liên Hợp Quốc (1995) thì từ "văn hoá" có thể ược hiểu theo hai
nghĩa. Thứ nhất, văn hoá của một nước là những sinh hoạt trong "lảnh vưc văn hoá", hay là
"khu vực công nghiệp văn hoá" của nước ấy. Đó là viết văn, làm thơ, soạn nhạc, tạc tượng, vẽ
tranh... nói chung là những hoạt ộng có tính văn chương nghệ thuật. Thứ hai (nhìn theo quan
iểm nhân chủng và xã hội học), văn hoá là tập họp những phong thái, tập quán và tín ngưỡng, là
nền tảng, là chất keo không thể thiếu cho sự vận hành nhuần nhuyễn của xã hội. Nó là hiện thân
những giá trị ược cộng ồng chấp nhận, dù có thể biến ổi từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Gần ây, nhiều học giả kinh tế và xã hội (tiên khởi là nhà xã hội học người Pháp Pierre
Bourdieu) cho rằng, muốn hiểu văn hoá như một nhân tố trong ời sống kinh tế, và nhất là muốn
ánh giá vai trò của nó trong tiến trình phát triển, thì nên nhìn nó như một loại vốn -tương tự như
ba loại vốn thường biết khác. (Đó là: vốn vật thể, như máy móc, thiết bị; vốn con người, như kỹ
năng, kiến thức; và vốn thiên nhiên, gồm những tài nguyên do thiên nhiên cống hiến và môi
trường sinh thái.)
Thêm một bước, có thể phân biệt hai dạng vốn văn hoá: vật thể và phi vật thể. Vốn văn
hoá vật thể là gồm những công trình kiến trúc, ền ài cung miếu, di tích lịch sử, những ịa iểm có
ý nghĩa văn hoá. Loại vốn này cung cấp một luồng dịch vụ có thể hưởng thụ ngay, hoặc i vào
sản xuất những sản phẩm và dịch vụ trong tương lai, văn hoá cũng như ngoại văn hoá Dạng
kia, vốn văn hoá phi vật thể, là những tập quán, phong tục, tín ngưỡng, và các giá trị khác của
xã hội. Loại vốn văn hoá này (cùng những nghệ phẩm công cộng như văn chương và âm nhạc)
là một loại dây, một thứ keo gắn kết cộng ồng. Nó cũng cung cấp một luồng dịch vụ có thể
hưởng thụ ngay, họăc dùng trong sản xuất những sản phẩm văn hoá trong tương lai.
Từ những nhận xét trên, vài nét chính về liên hệ giữa văn hoá, kinh tế, và phát triển dần
hiện rõ.
Một là, muốn hội nhập vốn văn hoá vào phân tích kinh tế ta phải xác ịnh liên hệ giữa giá
trị văn hoá và giá trị kinh tế. Lấy ví dụ vốn văn hoá vật thể, chẳng hạn như một ngôi nhà có
tính di tích lịch sử. Ngôi nhà ấy có giá trị kinh tế như một kiến trúc (cư ngụ hoặc thương mại),
biệt lập với giá trị văn hoá. Song giá trị kinh tế ấy có thể tăng lên, có thể là rất nhiều, nhờ giá trị
văn hoá của nó. Do ó, lấy ví dụ, nhiều người sẽ sẳn sàng mua ngôi nhà ó một giá cao hơn giá trị
vật thể thuần tuý của nó. Hầu như mọi loại vốn văn hoá vật thể ều có thể ược nghĩ ến như ngôi
nhà lịch sử trong ví dụ, tức là chúng bơm tiêm giá trị văn hoá vào giá trị kinh tế của vật thể, làm
tăng thêm, có thể gấp nhiều lần, giá trị của vật thể ấy.
Trong trường hợp vốn văn hoá phi vật thể thì liên hệ giữa giá trị văn hoá và giá trị kinh
tế phức tạp hơn, không phải cái này gây cái kia. Hiển nhiên, ngôn ngữ, âm nhạc và văn chuơng,
tập quán và tín ngưỡng ... là những tài sản chung, có giá trị văn hoá vô cùng lớn, song chúng
lOMoARcPSD| 46901061
không có giá trị kinh tế theo nghĩa thông thường vì lẽ không thể ược mua bán ổi chác trên thị
trường như các hàng hoá hoặc dịch vụ khác. Nói cách khác, những dịch vụ xuất phát từ vốn
văn hoá phi vật thể là có giá trị văn hoá và kinh tế, nhưng ở ây hai loại giá trị ấy hoà quyện lẫn
nhau, không thể tách rời nhau.
Hai là, nên hỏi, vốn văn hoá óng góp ược gì vào tổng thu nhập và tốc ộ phát triển của
một nước? Trong các mô hình phân tích tăng trưởng kinh tế, có hai yếu tố luôn uợc coi là cốt
lõi cho phát triển: lao ộng và vốn vật thể. Như thế, ối với các nhà kinh tế thì bài toán trở
thành: nếu hội nhập vốn văn hoá vào mô hình ấy thì kết quả sẽ ra sao? Vốn văn hoá có thể
thay thế các loại vốn khác, các tài nguyên khác (ví dụ như lao ộng), hoặc ngược lại, hay
chăng? Giải áp những câu hỏi này sẽ làm sáng tỏ nhũng tranh luận gần ây về vai trò của văn
hoá trong phát triển kinh tế. Và theo ó lại thêm nhiều bài toán quan trọng: làm thế nào ể ầu tư
vào bồi ấp vốn văn hoá? Vốn văn hoá ó sẽ chiết cựu ra sao?
Ba là, vốn văn hoá giúp ta hiểu sâu hơn về ý niệm tính bền vững của phát triển. Đóng
góp của nó vào khả năng phát triển dài hạn không khác gì óng góp của vốn thiên nhiên. Vì môi
trường sinh thái là thiết yếu cho hoạt ộng kinh tế, bỏ bê môi trường ó qua sự khai thác quá áng
tài nguyên sẽ làm giảm sút sản năng và phúc lợi kinh tế. Không bảo dưỡng vốn văn hoá ( ể di
sản ồi trụy, làm mất bản sắc văn hoá dân tộc) cũng có những hậu quả tai hại như vậy.
lOMoARcPSD| 46901061
Bốn là, chế ộ thị trường và xu thế toàn cầu hóa ặt ra những thử thách và những cơ hội
mới. Trong lảnh vực văn hoá, quyết ịnh của người sản xuất cũng như người tiêu dùng ngày càng
bị chi phối hơn bởi những quy luật, những tình huống kinh tế. Cũng như mọi loại hàng, văn hoá
phẩm có khác nhau về hàm lượng vốn và lao ộng: những bộ phim vĩ ại, khoa học giả tưởng
(như Star Wars), cần nhiều vốn hơn lao ộng; những hàng thủ công nghệ, những bài thơ hay, cần
nhiều lao ộng hơn vốn. Văn hoá phẩm cũng khác nhau về cái mà các nhà kinh tế gọi là "hiệu
ứng qui mô" (scale effects): có thứ thì giá thành càng thấp khi số luợng sản xuất càng nhiều, có
thứ thì giá thành không tuỳ thuộc số lượng sản xuất.
Tất nhiên, những văn hoá phẩm cần nhiều vốn thì phải nhắm nhiều hơn vào thị hiếu
"mẩu số chung" của ông ảo quần chúng toàn cầu ể có thị trường (trừ khi ược nhà nước tài trợ,
nhưng ó lại là một chuyện khác). Điều này cắt nghĩa tại sao không thể òi hỏi những loại phim
"vĩ ại" như Star Wars, James Bond, phải có "văn hoá cao" với ít người thuởng ngoạn. Song, bù
lại, toàn cầu hoá cống hiến cho người tiêu thụ nhiều lựa chọn hơn, với giá rẻ hơn (và thu nhập
của họ cũng cao hơn), dù rằng, nên nói thẳng, với ời sống ngày càng bận rộn, a số hình như có
dễ dãi hơn trong thị hiếu thưởng ngoạn của mình.
Chúng ta nhìn về tương lai với một niềm tin mãnh liệt ở nước ta, nhưng không sô vanh
dân tộc. Giữ gìn và phát huy di sản văn hoá dân tộc là một nhiệm vụ quan trọng, nhưng nên
hiểu tại sao phải giữ gìn, phát huy, và không lo sợ một cách võ oán và phi lý những trào lưu văn
hoá mới. Phải nhìn nhận quan hệ mật thiết giữa phát triển kinh tế (toàn cầu hoá, qui mô thị
trường rộng hơn, thu nhập cao hơn...) và văn hoá. Có thể, những người ưa chuộng một loại
hình nghệ thuật nào ó sẽ thấy bị thiệt thòi, mất mát... nhưng ồng thời cũng phải công nhận sự
năng ộng xuất hiện của những loại hình nghệ thuật khác, những cơ hội thưởng ngoạn mới.
Chúng ta cần một chính sách văn hoá, nhưng chính sách ó phải tôn trọng thực tế của
kinh tế thị trường, trong thời ại mở cửa, không vướng mắc những ảo tưởng, cảm tính chủ quan.
Có những mục tiêu mà chính sách ó có thể giúp thực hiện, nhưng cũng có những khía cạnh
không thể thực hiện ược (hoặc òi hỏi những hi sinh quá lớn về kinh tế, về xã hội).
Chúng ta hảy tranh luận, bàn cãi -- vâng, bút chiến nữa (trong tinh thần khoa học,
cởi mở, không nhân). Nghĩ cho cùng, một nền văn hoá lành mạnh trước hết phải là một nền
văn hoá sống, một nền văn hoá linh ộng. Hảy ể người thưởng ngoạn bình chọn.
Trần Hữu Dũng
Dayton
20 tháng 12, 2002
*Wright State University, Email: tran.dung@wright.edu
lOMoARcPSD| 46901061
| 1/4

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46901061 Vốn văn hoá
Trong tiến trình công nghệ hoá, hiện ại hóa của chúng ta hiện nay, hai chữ "văn hoá"
thường gợi nhiều cảm xúc phức tạp. Đầu tiên, nó khơi dậy lòng tự hào sâu sắc về bản sắc dân
tộc, về di sản lịch sử, về truyền thống cách mạng, và trong vài năm gần ây, về "giá trị châu Á"
mà nhiều người cho rằng Việt Nam chia sẻ với các nước trong vùng, giải thích những thần kỳ
kinh tế ở miền dất này. Nhưng àng khác, nó cũng gây nhiều ưu tư về nguy cơ phai lạt bản sắc
quê hương, nhất là trước làn sóng toàn cầu hoá, ối với một kinh tế mở như ta hiện nay. Thêm
vào ấy là một tinh thần "hoài cỗ" của thế hệ "hơi lớn tuổi" mà nơi nào bao giờ cũng có: lắc ầu
chặc lưỡi về những ngông cuồng của lối sống thời thượng, biểu hiện qua những tệ nạn xã hội,
những phong cách ồi truỵ của một số người "mất văn hoá".
Trong tâm trạng "vừa mừng vừa lo, vừa thương vừa giận" ấy, nhà kinh tế sẽ nói gì? Cụ thể
hơn, ồng thời với phát triển kinh tế, chúng ta có thể làm ược gì cho văn hoá, ể tạo dựng một nước
Việt Nam ngày càng tươi ẹp, phồn vinh hơn?
Song, trước hết, phải hỏi: văn hoá là gì? Theo một phúc trình của Uỷ ban Thế Giới về
Văn Hoá và Phát Triển của Liên Hợp Quốc (1995) thì từ "văn hoá" có thể ược hiểu theo hai
nghĩa. Thứ nhất, văn hoá của một nước là những sinh hoạt trong "lảnh vưc văn hoá", hay là
"khu vực công nghiệp văn hoá" của nước ấy. Đó là viết văn, làm thơ, soạn nhạc, tạc tượng, vẽ
tranh... nói chung là những hoạt ộng có tính văn chương nghệ thuật. Thứ hai (nhìn theo quan
iểm nhân chủng và xã hội học), văn hoá là tập họp những phong thái, tập quán và tín ngưỡng, là
nền tảng, là chất keo không thể thiếu cho sự vận hành nhuần nhuyễn của xã hội. Nó là hiện thân
những giá trị ược cộng ồng chấp nhận, dù có thể biến ổi từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Gần ây, nhiều học giả kinh tế và xã hội (tiên khởi là nhà xã hội học người Pháp Pierre
Bourdieu) cho rằng, muốn hiểu văn hoá như một nhân tố trong ời sống kinh tế, và nhất là muốn
ánh giá vai trò của nó trong tiến trình phát triển, thì nên nhìn nó như một loại vốn -tương tự như
ba loại vốn thường biết khác. (Đó là: vốn vật thể, như máy móc, thiết bị; vốn con người, như kỹ
năng, kiến thức; và vốn thiên nhiên, gồm những tài nguyên do thiên nhiên cống hiến và môi trường sinh thái.)
Thêm một bước, có thể phân biệt hai dạng vốn văn hoá: vật thể và phi vật thể. Vốn văn
hoá vật thể là gồm những công trình kiến trúc, ền ài cung miếu, di tích lịch sử, những ịa iểm có
ý nghĩa văn hoá. Loại vốn này cung cấp một luồng dịch vụ có thể hưởng thụ ngay, hoặc i vào
sản xuất những sản phẩm và dịch vụ trong tương lai, văn hoá cũng như ngoại văn hoá Dạng
kia, vốn văn hoá phi vật thể, là những tập quán, phong tục, tín ngưỡng, và các giá trị khác của
xã hội. Loại vốn văn hoá này (cùng những nghệ phẩm công cộng như văn chương và âm nhạc)
là một loại dây, một thứ keo gắn kết cộng ồng. Nó cũng cung cấp một luồng dịch vụ có thể
hưởng thụ ngay, họăc dùng trong sản xuất những sản phẩm văn hoá trong tương lai.
Từ những nhận xét trên, vài nét chính về liên hệ giữa văn hoá, kinh tế, và phát triển dần hiện rõ.
Một là, muốn hội nhập vốn văn hoá vào phân tích kinh tế ta phải xác ịnh liên hệ giữa giá
trị văn hoá và giá trị kinh tế. Lấy ví dụ vốn văn hoá vật thể, chẳng hạn như một ngôi nhà có
tính di tích lịch sử. Ngôi nhà ấy có giá trị kinh tế như một kiến trúc (cư ngụ hoặc thương mại),
biệt lập với giá trị văn hoá. Song giá trị kinh tế ấy có thể tăng lên, có thể là rất nhiều, nhờ giá trị
văn hoá của nó. Do ó, lấy ví dụ, nhiều người sẽ sẳn sàng mua ngôi nhà ó một giá cao hơn giá trị
vật thể thuần tuý của nó. Hầu như mọi loại vốn văn hoá vật thể ều có thể ược nghĩ ến như ngôi
nhà lịch sử trong ví dụ, tức là chúng bơm tiêm giá trị văn hoá vào giá trị kinh tế của vật thể, làm
tăng thêm, có thể gấp nhiều lần, giá trị của vật thể ấy.
Trong trường hợp vốn văn hoá phi vật thể thì liên hệ giữa giá trị văn hoá và giá trị kinh
tế phức tạp hơn, không phải cái này gây cái kia. Hiển nhiên, ngôn ngữ, âm nhạc và văn chuơng,
tập quán và tín ngưỡng ... là những tài sản chung, có giá trị văn hoá vô cùng lớn, song chúng lOMoAR cPSD| 46901061
không có giá trị kinh tế theo nghĩa thông thường vì lẽ không thể ược mua bán ổi chác trên thị
trường như các hàng hoá hoặc dịch vụ khác. Nói cách khác, những dịch vụ xuất phát từ vốn
văn hoá phi vật thể là có giá trị văn hoá và kinh tế, nhưng ở ây hai loại giá trị ấy hoà quyện lẫn
nhau, không thể tách rời nhau.
Hai là, nên hỏi, vốn văn hoá óng góp ược gì vào tổng thu nhập và tốc ộ phát triển của
một nước? Trong các mô hình phân tích tăng trưởng kinh tế, có hai yếu tố luôn uợc coi là cốt
lõi cho phát triển: lao ộng và vốn vật thể. Như thế, ối với các nhà kinh tế thì bài toán trở
thành: nếu hội nhập vốn văn hoá vào mô hình ấy thì kết quả sẽ ra sao? Vốn văn hoá có thể
thay thế các loại vốn khác, các tài nguyên khác (ví dụ như lao ộng), hoặc ngược lại, hay
chăng? Giải áp những câu hỏi này sẽ làm sáng tỏ nhũng tranh luận gần ây về vai trò của văn
hoá trong phát triển kinh tế. Và theo ó lại thêm nhiều bài toán quan trọng: làm thế nào ể ầu tư
vào bồi ấp vốn văn hoá? Vốn văn hoá ó sẽ chiết cựu ra sao?
Ba là, vốn văn hoá giúp ta hiểu sâu hơn về ý niệm tính bền vững của phát triển. Đóng
góp của nó vào khả năng phát triển dài hạn không khác gì óng góp của vốn thiên nhiên. Vì môi
trường sinh thái là thiết yếu cho hoạt ộng kinh tế, bỏ bê môi trường ó qua sự khai thác quá áng
tài nguyên sẽ làm giảm sút sản năng và phúc lợi kinh tế. Không bảo dưỡng vốn văn hoá ( ể di
sản ồi trụy, làm mất bản sắc văn hoá dân tộc) cũng có những hậu quả tai hại như vậy. lOMoAR cPSD| 46901061
Bốn là, chế ộ thị trường và xu thế toàn cầu hóa ặt ra những thử thách và những cơ hội
mới. Trong lảnh vực văn hoá, quyết ịnh của người sản xuất cũng như người tiêu dùng ngày càng
bị chi phối hơn bởi những quy luật, những tình huống kinh tế. Cũng như mọi loại hàng, văn hoá
phẩm có khác nhau về hàm lượng vốn và lao ộng: những bộ phim vĩ ại, khoa học giả tưởng
(như Star Wars), cần nhiều vốn hơn lao ộng; những hàng thủ công nghệ, những bài thơ hay, cần
nhiều lao ộng hơn vốn. Văn hoá phẩm cũng khác nhau về cái mà các nhà kinh tế gọi là "hiệu
ứng qui mô" (scale effects): có thứ thì giá thành càng thấp khi số luợng sản xuất càng nhiều, có
thứ thì giá thành không tuỳ thuộc số lượng sản xuất.
Tất nhiên, những văn hoá phẩm cần nhiều vốn thì phải nhắm nhiều hơn vào thị hiếu
"mẩu số chung" của ông ảo quần chúng toàn cầu ể có thị trường (trừ khi ược nhà nước tài trợ,
nhưng ó lại là một chuyện khác). Điều này cắt nghĩa tại sao không thể òi hỏi những loại phim
"vĩ ại" như Star Wars, James Bond, phải có "văn hoá cao" với ít người thuởng ngoạn. Song, bù
lại, toàn cầu hoá cống hiến cho người tiêu thụ nhiều lựa chọn hơn, với giá rẻ hơn (và thu nhập
của họ cũng cao hơn), dù rằng, nên nói thẳng, với ời sống ngày càng bận rộn, a số hình như có
dễ dãi hơn trong thị hiếu thưởng ngoạn của mình.
Chúng ta nhìn về tương lai với một niềm tin mãnh liệt ở nước ta, nhưng không sô vanh
dân tộc. Giữ gìn và phát huy di sản văn hoá dân tộc là một nhiệm vụ quan trọng, nhưng nên
hiểu tại sao phải giữ gìn, phát huy, và không lo sợ một cách võ oán và phi lý những trào lưu văn
hoá mới. Phải nhìn nhận quan hệ mật thiết giữa phát triển kinh tế (toàn cầu hoá, qui mô thị
trường rộng hơn, thu nhập cao hơn...) và văn hoá. Có thể, những người ưa chuộng một loại
hình nghệ thuật nào ó sẽ thấy bị thiệt thòi, mất mát... nhưng ồng thời cũng phải công nhận sự
năng ộng xuất hiện của những loại hình nghệ thuật khác, những cơ hội thưởng ngoạn mới.
Chúng ta cần một chính sách văn hoá, nhưng chính sách ó phải tôn trọng thực tế của
kinh tế thị trường, trong thời ại mở cửa, không vướng mắc những ảo tưởng, cảm tính chủ quan.
Có những mục tiêu mà chính sách ó có thể giúp thực hiện, nhưng cũng có những khía cạnh
không thể thực hiện ược (hoặc òi hỏi những hi sinh quá lớn về kinh tế, về xã hội).
Chúng ta hảy tranh luận, bàn cãi -- vâng, và bút chiến nữa (trong tinh thần khoa học,
cởi mở, không cá nhân). Nghĩ cho cùng, một nền văn hoá lành mạnh trước hết phải là một nền
văn hoá sống, một nền văn hoá linh ộng. Hảy ể người thưởng ngoạn bình chọn. Trần Hữu Dũng Dayton 20 tháng 12, 2002
*Wright State University, Email: tran.dung@wright.edu lOMoAR cPSD| 46901061