




Preview text:
  lOMoAR cPSD| 46342576
Họ và tên : Nguyễn Thục Anh  MSV : 21061017   Lớp : K66A 
 BÀI TẬP TÌNH HUỐNG LUẬT TTDS VỀ CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH 
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 
1. Anh C và chị B kết hôn năm 2004, có con chung là cháu T, sau một thời 
gian chung sống không hạnh phúc, chị B làm đơn xin ly hôn với anh C, yêu cầu 
Tòa án giao cháu T cho chị nuôi và yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng là 
2000 m2 đất ruộng. Xác định những vấn đề cần chứng minh trong vụ án.  Trả lời: 
- Đối tượng chứng minh: là tổng hợp những tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ 
việc dân sự cần được làm rõ để trên cơ sở đó tòa án ra quyết định giải quyết vụ 
việc dân sự. Phải xác định quan hệ tranh chấp để xác định được quan hệ pháp 
luật nội dung cần giải quyết => dựa vào yêu cầu của đương sự. 
 Quan hệ tranh chấp: lĩnh vực hôn nhân gia đình => Tranh chấp ly hôn, nuôi 
con và tài sản khi ly hôn. 
- Vấn đề cần chứng minh:    
+ Về ly hôn, cần chứng minh:  
● Có quan hệ hôn nhan hay không: có đăng ký; không đăng ký; hay 
sống chung như vợ chồng trước 1987  ● Lý do ly hôn 
● Tình trạng quan hệ vợ chồng: thời gian xảy ra mâu thuẫn, vấn đề  mâu thuẫn 
● Nguyên nhân dẫn đến ly hôn    lOMoAR cPSD| 46342576  
+ Về nuôi con, cần chứng minh:  
● Điều kiện của vợ chồng liên quan đến việc chăm sóc, nuôi 
dưỡng,giáo dục con 
● Độ tuổi của con: đã thành niên hay chưa, có khả năng hay mất 
khảnăng lao động, có bị mất năng lực hành vi không, có ts để tự  nuôi mình k 
● Phải hỏi ý kiến của con nếu con trên 7 tuổi+ Về tài sản, cần  chứng minh: 
● Nguồn gốc tài sản, thời điểm tài sản được tạo lập 
● Công sức đóng góp vào việc tạo lập, duy trì khối tài sản  
● Vợ chồng có món nợ chung nào hay không, nợ ai, đã trả hay chưa 
● Hiện trạng tài sản, trị giá tài sản● Lỗi, lý do dẫn đến ly hôn. 
2. Ngày 28/2/2016, Công ty liên doanh Dịch vụ giao nhận Quốc  tế TFS và 
Công ty trách nhiệm hữu hạn KRV (đều có trụ sở ở Tp. HCM) ký với nhau 
“Hợp đồng dịch vụ giao nhận hàng hóa”, theo đó TFS sẽ chở một lô hàng may 
mặc từ thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam sang Florida, Hoa Kỳ. Thực hiện hợp 
đồng, TFS đã vận chuyển lô hàng đi Hoa Kỳ và giao cho người nhận hàng một 
cách an toàn. Cước phí vận chuyển lô hàng trên là 61.000 USD. Sau khi TFS 
hoàn tất nghĩa vụ giao hàng, phía KRV mới thanh toán tiền cước vận chuyển 
được 33.000 USD thông qua Công ty GF Textile của Hàn Quốc (bên thuê KRV 
gia công lô hàng may mặc). TFS khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc KRV phải trả 
cho TFS số tiền còn nợ là 28.000 USD và tiền lãi phát sinh do chậm thực hiện 
nghĩa vụ thanh toán. KRV xác nhận có yêu cầu TFS vận chuyển bằng đường 
hàng không lô hàng may mặc mà KRV gia công cho Công ty GF Textile, nhưng 
cho rằng mình không có trách nhiệm thanh toán số tiền cước vận chuyển còn 
thiếu này vì điều khoản thanh toán ghi trên yêu cầu vận chuyển của KRV gửi    lOMoAR cPSD| 46342576
cho TFS ngày 26/02/2016 (được TFS chấp nhận ngày 28/02/2016) và trong vận 
đơn hàng không đã ghi rõ “cước phí trả trước bởi Công ty G.F Textile-Hàn 
Quốc”, do đó, GFT mới là người có trách nhiệm thanh toán cước phí vận chuyển 
cho TFS và phải thanh toán trước khi vận chuyển. Các bên cung cấp cho Tòa án 
các bản photo hợp đồng, giấy tờ giao dịch bằng tiếng Anh giữa các công ty với 
nhau và bản dịch sang tiếng Việt (không có công chứng). Xác định các đương sự 
trong vụ án và giá trị chứng minh của các tài liệu do các bên cung cấp.  Trả lời:  
- Các đương sự trong vụ án:   
+ Nguyên đơn: Công ty liên doanh Dịch vụ giao nhận Quốc tế TFS   
+ Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn KRV  
+ Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Công ty G.F Textile-Hàn  Quốc 
- Bản hợp đồng “Hợp đồng dịch vụ giao nhận hàng hóa” mà Công ty liên doanh 
Dịch vụ giao nhận Quốc tế TFS và Công ty trách nhiệm hữu hạn KRV (đều có 
trụ sở ở Tp. HCM) ký với nhau vào ngày 28/2/2016 không được coi là chứng 
cứ. Vì căn cứ theo khoản 1 Điều 95 BLTTDS 2015, thì hợp đồng này bằng 
Tiếng Anh và có bản dịch sang tiếng Việt, nhưng bản dịch này không được 
công chứng nên không đủ điều kiện trở thành chứng cứ theo quy định của pháp  luật. 
3. Ngày 6/10/2018, bà V đến hát karaoke ở quán Sake thuộc  huyện Hóc 
Môn, tp. HCM, và gửi xe máy Honda cho bảo vệ quán, được ghi vé giữ xe số 
27981. Khi về bà V phát hiện mất xe. Sau nhiều lần thương lượng với chủ quán 
là bà T không thành, bà V khởi kiện Hộ kinh doanh Sake quán do bà T làm đại 
diện yêu cầu bồi thường thiệt hại giá trị xe bị mất là 25 triệu đồng và các khoản    lOMoAR cPSD| 46342576
thiệt hai do không có phương tiện đi làm và đưa con đi học là 27,5 triệu đồng, 
tổng cộng 52,5 triệu đồng. Bà V còn đề nghị Tòa án triệu tập ông L là người ký 
hợp đồng thuê xe với bà V tham gia tố tụng để làm chứng việc bà V có thuê xe 
máy đi làm sau khi bị mất xe. Xác định tư cách tham gia tố tụng của các chủ thể 
nói trên, những vấn đề cần chứng minh, những chứng cứ cần thu thập trong vụ  án.  Trả lời:  
- Các đương sự trong vụ án:    + Nguyên đơn: bà V   
+ Bị đơn: Hộ kinh doanh Sake quán do bà T làm đại diện   
+ Người làm chứng: ông L 
- Quan hệ tranh chấp: lĩnh vực dân sự => Tranh chấp về bồi thường thiệt hại  ngoài hợp đồng. 
- Vấn đề cần chứng minh:   
+ Chiếc xe máy Honda có phải của bà V không?   
+ Quán karaoke Sake kinh doanh có đúng theo pháp luật không? 
+ Bảo vệ của quán là nhân viên theo hợp đồng của quán hay thuộc một 
công ty bảo vệ khác mà quán ký hợp đồng? 
+ Việc ông L kinh doanh cho thuê xe máy có đúng theo quy định của pháp  luật không? 
4. Ông H là chủ hộ kinh doanh Sáu H với ngành nghề kinh 
doanh là mua bán thức ăn chăn nuôi, ông H khởi kiện yêu cầu anh T và 
chị L trả tiền thức ăn gia súc còn nợ là 434 triệu đồng và yêu cầu tính 
lãi suất chậm trả 1,5%/tháng từ tháng 2/2018 đến tháng 5/2018, tổng 
cộng tiền lãi là 8,5 triệu đồng. Theo đơn khởi kiện, từ năm 2016 đến 
đầu năm 2018, vợ chồng anh T và chị L có hợp đồng mua thức ăn gia 
súc với ông H. Hình thức mua bán là bao chuồng, khi ra chuồng anh T 
và chị L thanh toán tiền tương ứng với số lượng thức ăn đã lấy, mỗi lứa    lOMoAR cPSD| 46342576
heo từ 3-4 tháng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, anh T, chị L có 
trả tiền nhưng các lần thanh toán không trả đủ. Đến ngày 16/2/2018, 
tổng cộng anh chị còn nợ 434 triệu đồng. Anh T và chị L không đồng ý 
với yêu cầu khởi kiện của ông H. Ông H xuất trình một đoạn băng ghi 
âm do anh B cung cấp. Anh B là người tiếp thị thức ăn gia súc của 
Công ty TNHH Vina (nhà cung cấp cho đại lý của ông H), khi được ông 
H cho biết việc anh T, chị L không thừa nhận nợ, anh có gọi điện cho 
anh T nhưng chị L bắt máy và trong cuộc nói chuyện, chị L thừa nhận 
còn nợ đại lý H 434 triệu đồng, anh đã ghi âm lại cuộc nói chuyện với 
chị L ngày 17/5/2018 và giao nộp đoạn ghi âm này cho Tòa án. Xác định 
tư cách tham gia tố tụng của những người nói trên. Đoạn băng ghi âm 
của anh B có thể được sử dụng làm chứng cứ trong vụ án không? Tại  sao?  Trả lời: 
- Các đương sự trong vụ án:   
+ Nguyên đơn: Ông H   
+ Bị đơn: anh T, chị L   
+ Người làm chứng: Anh B 
- Đoạn băng ghi âm của anh B được sử dụng làm chứng cứ của vụ án nếu được 
kèm theo văn bản trình bày của anh B về xuất xứ của đoạn băng ghi âm đó. 
Căn cứ tại khoản 2 Điều 95 BLTTDS 2015: “Tài liệu nghe được, nhìn được 
được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người 
có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có 
xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó 
hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó”.