Bài thảo luận: "Hãy phân tích tính tất yếu và đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. : Liên hệ với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay"
Bài thảo luận: "Hãy phân tích tính tất yếu và đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. : Liên hệ với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay", môn chủ nghĩa xã hội khoa học , giúp sinh viên tham khảo và học tập
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (HCMI0121)
Trường: Đại học Thương Mại
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD| 38372003
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
Khoa HTTTKT & TMĐT ----- ----- BÀI THẢO LUẬN ĐỀ TÀI
Hãy phân tích tính tất yếu và đặc điểm :
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Liên hệ với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Nhóm thực hiện :05 GVHD : Đào Thu Hà Lớp học phần
: 22121 HCMI 0121
Hà Nội, tháng 10 1 lOMoARcPSD| 38372003 LỜI CẢM ƠN
Ông cha ta xưa đã có câu: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Những bài học, những
lượng kiến thức cũng như hành trang vững chắc mà chúng em có được đều nhờ vào sự
yêu thương, chăm sóc của cha mẹ, sự chỉ bảo tận tâm của thầy cô, sự quan tâm của ban
lãnh đạo nhà trường. Trước hết, chúng em xin gửi lời cảm ơn tới gia đình – những
người thân luôn chở che, dành mọi điều tốt đẹp cho chúng em. Bên cạnh đó, khi trở
thành một phần của mái nhà chung trường Đại học Thương mại, trong thời gian học
tập năm đầu tiên tại trường được sự giảng dạy của các quý thầy cô, đặc biệt là cùng sự
giúp đỡ của ban lãnh đạo nhà trường đã giúp chúng em phần nào có được những kiến thức, bài học quý báu.
Để hoàn thành bài thảo luận này, nhóm 5 chúng em xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến giảng viên cao cấp bộ môn Chủ nghĩa xã hội khoa học. Nhờ những bài giảng
sáng tỏ của cô đã giúp chúng em mở mang những kiến thức về những tính tất yếu và
đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và liên hệ với thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay một các khoa học, rõ ràng.
Do kiến thức có hạn nên đề tài của chúng em không tránh khỏi những thiếu sót.
Chúng em mong cô đóng góp ý kiến để bài thảo luận của chúng em được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng chúng em xin kính chúc cô luôn mạnh khỏe và thành công trong sự nghiệp cao quý.
Chúng em xin chân thành cảm ơn! Mục Lục I.
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI...................................................................5 1.
Chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa......................5 2.
Điều kiện ra đời của chủ nghĩa xã hội...............................................................................................7 3.
Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội.................................................................................9 II.
TÍNH TẤT YẾU VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI........10 1.
Khái quát về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội..........................................................................10 2.
Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội................................................11 2 lOMoARcPSD| 38372003 III.
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM....15 1.
Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam............................15 2.
Đ c đi m quá đ lên ch nghĩa xã h i b qua chêế đ t b n ch nghĩa Vi t Nam.ặ ể ộ ủ ộ ỏ ộ ư ả ủ ở ệ ......................16 2.1.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa...............................................17 2.2.
Bối cảnh trong nước và thế giới...............................................................................................17 2.3.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam....................................................................................................................19 3.
Các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng..............................................20 4.
Thành t u và h n chêế trong quá trình quá đ lên ch nghĩa xã h iự ạ ộ ủ ộ
.................................................26
4.1. Những thành tựu đã đạt được trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội.............................26
4.2. Những hạn chế và bất cập còn tồn tại..........................................................................................28 5.
Mục tiêu, phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.................................................29
5.1. Mục tiêu..........................................................................................................................................29
5.2. Phương hướng................................................................................................................................29
KẾT LUẬN...................................................................................................................................................37
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................................................38 LỜI MỞ ĐẦU
C.Mác và Ph. Ăngghen đều cho rằng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có
tính chất lịch sử và xã hội tư bản tất yếu bị thay thế bằng xã hội mới – xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia dân tộc đều có quyền lựa chọn con
đường, sự phát triển cho chính mình phù hợp với xu thế chung của thời đại, với quy
luật khách quan của lịch sử và nhu cầu, khát vọng của dân tộc. Do vậy, Việt Nam đi
lên CNXH là một tất yếu khách quan hoàn toàn phù hợp với xu thế chung đó. Như
chúng ta đã biết, chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: Chủ nghĩa xã hội
là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ.
Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế giới quan và trình độ phát
triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa xã hội để cập ở đây là chủ nghĩa xã hội
khoa học dựa trên học thuyết Mác – Lênin trong thời đại ngày nay. Sau hai cuộc kháng
chiến trường kỳ chống giặc ngoại xâm và giành được độc lập, đất nước ta tiếp tục con
đường con đường đi lên CNXH, chúng ta đang vững bước tiến vào thế kỷ mới với
những thách thức và khó khăn mới với con đường mà chúng ta đã chọn, nhưng không
vì thế mà ta chịu lùi bước, chịu khuất phục trước khó khăn. Tuy nhiên để tiến đến được 3 lOMoARcPSD| 38372003
CNXH chúng ta còn phải trải qua nhiều chặng đường đầy gian lao và thử thách, đó là
bước quá độ để Tổ quốc Việt Nam có thể sánh vai với các cường quốc hùng mạnh trên
thế giới, đó là bước quá độ để chúng ta tiến đến chế độ mới, chế độ Cộng sản chủ nghĩa,
chế độ mà mọi người đều được hưởng hạnh phúc, ấm no và công bằng. Con đường mà
chúng ta đang đi đầy chông gai, đòi hỏi chúng ta phải có được phương hướng đúng
đắn. Để có thể làm được điều đó, chúng ta cần có nhận thức đúng đắn về CNXH và
con đường quá độ để tiến lên CNXH. Và để có thể làm được điều đó thì tất cả chúng
ta cùng phải đồng lòng, chung sức vun đắp nó. Đặc biệt là đối với thế hệ trẻ đòi hỏi
phải cố gắng, nỗ lực hết mình để góp phần vào cùng đất nước tiến lên.
Nhóm 5 mong rằng sau đề tài mà mình làm, chúng ta có thể biết rõ hơn về con
đường chúng ta đang đi, nhận thức về nó sâu sắc hơn sẽ có thể hiểu được nhiệm vụ mà
cả nước ta phải làm, con đường mà chúng ta phải vượt qua.
I. NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học C.Mác và Ph.Ăngghen khi nghiên cứu
lịch sử phát triển của xã hội loài người, nhất là lịch sử xã hội tư bản, đã xây dựng nên
học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội. Học thuyết vạch rõ những quy luật cơ bản của
vận động xã hội, chỉ ra phương pháp khoa học để giải thích lịch sử. Học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội của C.Mác không chỉ làm rõ những yếu tố cấu thành hình thái kinh
tế - xã hội mà còn xem xét xã hội trong quá trình biến đổi và phát triển không ngừng.
Vận dụng quan điểm duy vật về lịch sử để nghiên cứu xã hội loài người, C.Mác
và Ph.Ăngghen xây dựng nên học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
Theo các ông, sự chuyển biến từ hình thái kinh tế – xã hội thấp lên hình thái kinh
tế – xã hội cao là một quá trình lịch sử - tự nhiên (Tuân theo quy luật khách quan).
Hình thái kinh tế – xã hội nguyên thủy Hình thái kinh tế – xã hội nô lệ
Hình thái kinh tế – xã hội phong kiến Hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa
Hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa: Sự phát triển này không phụ thuộc vào
ý kiến chủ quan của C.Mác hay Ăngghen mà nó tuân theo quy luật khách quan. 4 lOMoARcPSD| 38372003
Ta cũng nên nhớ quy luật cơ bản nhất dẫn đến sự thay thế của những hình thái
kinh tế – xã hội này đó là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với cơ sở hạ tầng.
Theo C.Mác và Ph.Ănggen, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phát
triển từ thấp đến cao qua hai giai đoạn:
Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta (1875), C.Mác đã cho rằng: "Giữa xã
hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng
từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị
và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng
của giai cấp vô sản. Khẳng định quan điểm của C.Mác, V.I. Lênin cho rằng “Về lý
luận, không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có
một thời kỳ quá độ nhất định”.
Về xã hội của thời kỳ quá độ, C. Mác cho rằng đó là xã hội vừa thoát thai từ xã
hội tư bản chủ nghĩa, xã hội chưa phát triển trên cơ sở của chính nó còn mang nhiều
dấu vết. của xã hội cũ để lại: "Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã
hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một
xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã
hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức tinh thần - còn mang những dấu vết của xã
hội cũ mà nó đã lọt lòng ra"
Sau này, từ thực tiễn nước Nga, V.I. Lênin cho rằng, đối với những nước chưa
có chủ nghĩa tư bản phát triển cao “cần phải có thời kỳ quá đô khá lâu dài từ chủ nghĩạ
tư bản lên chủ nghĩa xã hôi”.̣
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNCS được hiểu theo 2 nghĩa: 5 lOMoARcPSD| 38372003
- Đối với các nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển, cần thiết phải có thời kỳ
quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội - những cơn đau để kéo dài.
- Đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển, giữa chủ nghĩa tư bản
và chủ nghĩa cộng sản có một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội
kia, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
2. Điều kiện ra đời của chủ nghĩa xã hội
Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin có hai điều kiện chủ yếu sau đây:
- Điều kiện kinh tế:
Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã thừa nhận vai trò to lớn của chủ
nghĩa tư bản khi khẳng định: Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn mới trong
lịch sử phát triển mới của nhân loại. Nhờ những bước tiến to lớn của lực lượng sản
xuất, biểu hiện tập trung nhất là sự ra đời của công nghiệp cơ khí (Cách mạng công
nghiệp lần thứ hai), chủ nghĩa tư bản đã tạo ra bước phát triển vượt bậc của lực lượng
sản xuất. Trong vòng chưa đầy một thế kỷ, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra được những lực
lượng sản xuất nhiều hơn và đỗ sộ hơn lực lượng sản xuất mà nhân loại tạo ra đến lúc
đó. Tuy nhiên, các ông cũng chỉ ra rằng, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản
xuất càng được cơ khí hóa, hiện đại hóa càng mang tính xã hội hóa cao, thì càng mâu
thuẫn với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ chiếm hữu cao, thì càng
mâu thuẫn với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất từ chỗ đóng vai trò mở đường cho lực lượng sản
xuất phát triển, thì ngày càng trở nên lỗi thời xiềng xích của lực lượng sản xuất.
- Điều kiện chính trị - xã hội
Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu
tu nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất trở thành mâu thuẫn kinh tế cơ bản
của chủ nghĩa tư bản, biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân
hiện đại với giai cấp tư sản lỗi thời. cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp
tư sản xuất hiện ngay từ đầu và ngày càng trở nên gay gắt và có tính chính trị rõ rệt.
C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng
sản xuất, những quan hệ ấy trờ thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi
đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”. Hơn nữa, cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của nền đại công nghiệp cơ khí là sự trưởng thành vượt bậc cả về số lượng và chất
lượng của giai cấp công nhân, con đẻ của nền đại công nghiệp. Chính sự phát triển về
lực lượng sản xuất và sự trưởng thành của giai cấp công nhân là tiền đề kinh tế - xã hội 6 lOMoARcPSD| 38372003
dẫn tới sự sụp đổ không tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản. C.Mác và Ph.Ăngghen cho
rằng, giai cấp tư sản không chỉ tạo vũ khí sẽ giết mình mà còn tạo ra những người sử
dụng vũ khí đó, những người vô sản. Sự trưởng thành vượt bậc của giai cấp công nhân
được đánh dấu bằng sự ra đời cảu Đảng Cộng sản, đội tiền phong của giai cấp công
nhân, trực tiếp lãnh đạo cuộc đâus tranh chính trị cảu giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự trưởng thành thực sự của giai cấp công
nhân là tiền đề, điều kiện cho sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội công sản chủ
nghĩa. Thuy nhiên, do khác về bản chất với tất cả các hình thái kinh tế - xã hội trước
đóm nene hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa không tự nhiên ra đời, trái lại,
nó chỉ được hình thành thông qua cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của chính đảng
của giai cấp công nhân – Đảng Cộng sản, thực hiện bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, trên thực tế được thực hiện bằng con đường bạo
lực cách mạng nhằm lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập nhà nước chuyên chính
vô sản, thực hiện sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Tuy nhiên, cách mạng vô sản, về mặt lý thuyết cũng có
thể được tiến hành bằng con đường hòa bình, nhưng vô cùng hiếm, quý và trên thực tế chưa xảy ra.
Do tính sâu sắc và triệt để của nó cách mạng vô sản chỉ có thể thành công, hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa chỉ có thể được thiết lập và phát triển trên cơ sở của
chính nó, một khi tính tích cực chính trị cảu giai cấp công nhân được khơi dậy và ohst
huy trong liên minh với các giai cấp và tầng lớp những người lao động dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản.
3. Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội
Dựa vào cơ sở lý luận khoa học của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin
và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta có thể nêu ra những đặc trưng cơ
bản của chủ nghĩa xã hội như sau: -
Đặc trưng thứ nhất: Cơ sở vật chất – kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội là nền sản 7 lOMoARcPSD| 38372003
xuất công nghiệp hiện đại.
Chỉ có nền sản xuất công nghiệp hiện đại mới đưa năng suất lao động lên cao, tạo
ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, đảm bảo đáp ứng những nhu cầu về
vật chất và văn hóa của nhân dân, không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn
dân. Nền công nghiệp hiện đại đó được phát triển dựa trên lực lượng sản xuất đã phát
triển cao. Ở những nước thực hiện sự quá độ “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ
nghĩa xã hội”, trong đó có Việt Nam thì đương nhiên phải có quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa để từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại cho chủ nghĩa xã hội.
- Đặc trưng thứ hai: Chủ nghĩa xã hội đã xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa,
thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu.
Thủ tiêu chế độ tư hữu là cách nói vắn tắt nhất, tổng quát nhất về thực chất của
công cuộc cải tạo xã hội theo lập trường của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, không
phải xóa bỏ chế độ tư hữu nói chung mà là xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ
nghĩa.Chủ nghĩa xã hội được hình thành dựa trên cơ sở từng bước thiết lập chế độ sở
hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Chế độ sở hữu này được củng cố, hoàn thiện, bảo đảm thích ứng với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển, xóa bỏ dần những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội, làm cho mọi thành viên
trong xã hội ngày càng gắn bó với nhau vì những lợi ích căn bản.
- Đặc trưng thứ ba: Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một
quá trình hoạt động tự giác của đại đa số nhân dân lao động, vì lợi ích của đa số nhân
dân. Chính bản chất và mục đích đó, cần phải tổ chức lao động và kỷ luật lao động
mới phù hợp với địa vị làm chủ của người lao động, đồng thời khắc phục những tàn
dư của tình trạng lao động bị tha hóa trong xã hội cũ.
- Đặc trưng thứ tư: Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao
động – nguyên tắc phân phối cơ bản nhất.
Chủ nghĩa xã hội bảo đảm cho mọi người có quyển bình đẳng trong lao động sáng
tạo và hưởng thụ. Mọi người có sức lao động đều có việc làm và được hưởng thù lao
theo nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Đó là một trong những cơ
sở của công bằng xã hội ở giai đoạn này.
- Đặc trưng thứ năm: Chủ nghĩa xã hội có Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước
kiểu mới, nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và
tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thông qua nhà nước,
Đảng lãnh đạo toàn xã hội về mọi mặt và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và
lợi ích của mình trên mọi mặt của xã hội. Nhân dân lao động tham gia nhiều vào công
việc nhà nước. Đây là một “nhà nước nửa nhà nước”, với tính tự giác, tự quản của 8 lOMoARcPSD| 38372003
nhân dân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình ngày càng rõ hơn.
- Đặc trưng thứ sáu: Chủ nghĩa xã hội đã giải phóng con người thoát khỏi áp bức
bóc lột, thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều kiện cơ
bản để con người phát triển toàn diện.
Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi mọi ách áp
bức về kinh tế và nô dịch về tinh thần, bảo đảm sự phát triển toàn diện cá nhân, hình
thành và phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi người phát huy tính tích
cực của mình trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhờ xóa bỏ chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa mà xóa bỏ sự đối kháng giai cấp, xóa bỏ tình trạng
người bóc lột người, tình trạng nô dịch và áp bức dân tộc, thực hiện được sự công
Một, là phong trào thực tiễn, phong trào đấu tranh của nhân dân lao động
chống lại áp bức, bất công, chống các giai cấp thống trị.
Hai, là trào lưu tư tưởng, lý luận phản ánh lý tưởng giải phóng nhân dân lao
động khỏi áp bức, bóc lột, bất công.
Ba, là một khoa học - Chủ nghĩa xã hội khoa học, khoa học về sử mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Bốn, là một chế độ xã hội tốt đẹp, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ diễn ra với giai đoạn trong thay đổi tính chất xã hội , cải
bằng, bình đẳng xã hội.
Những đặc trưng trên phản ánh bản chất của chủ nghĩa xã hội, nói lên tính ưu việt
của chủ nghĩa xã hội. Và do đó, chủ nghĩa xã hội là một xã hội tốt đẹp, lý tưởng, ước
mơ của toàn thể nhân loại. Những đặc trưng đó có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Do đó, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải quan tâm đầy đủ tất cả các đặc trưng này.
II. TÍNH TẤT YẾU VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Khái quát về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Chủ nghĩa xã hội có thể được hiểu theo 4 ý nghĩa: 9 lOMoARcPSD| 38372003 -
tạo cách mạng xã hội Tư bản chủ nghĩa thành xã hội Xã hội chủ nghĩa. Khi đó, hàng
hoạt các chính sách được thay đổi đáp ứng với chiến lược đề ra, mang đến các
chuyển hóa để đi đến thành công trong xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Kết quả sau thời
kỳ này là quốc gia tiến lên chủ nghĩa xã hội.
- Ở một số quốc gia, có thể có bước nhảy vọt lên Chủ nghĩa xã hội mà không trải quan
Tư bản chủ nghĩa. Nhưng tất cả các tính chất diễn ra trong giai đoạn này vẫn đảm
bảo cho thời kỳ quá độ được phản ánh.
2. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải từ các căn cứ sau đây:
Một là, bất kỳ quá trình chuyển biến từ một xã hội này lên một xã hội khác đều -
nhất định phải trải qua một hời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Đó là thời kỳ còn có sự đan
xen lẫn nhau giữa các yếu tố mới và cũ trong cuộc đấu tranh với nhau. Có thể nói
đây là thời kỳ của cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cái cũ và cái mới mà nói chung
theo tính tất yếu phát triển lịch sử thì cái mới thường chiến thắng cái cũ, cái lạc hậu.
Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không là ngoại lệ lịch sử. Hơn nữa, từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một bước nhảy lớn và căn bản về chất so với
các quá trình thay thế từ xã hội cũ lên xã hội mới đã từng diễn ra trong lịch sử thì
thời kỳ quá độ lại càng là một tất yếu, thậm chí có thể kéo dài. Nhất là đối với những
nước còn ở trình độ tiền tư bản thực hiện thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì
“những cơn đau đẻ” này còn có thể rất dài với nhiều bước quanh co.
Hai là, sự ra đời của một xã hội mới bao giờ cũng có những sự kế thừa nhất định -
từ những nhân tố do xã hội cũ tạo ra. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là sự kế thừa
đối với chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là trên phương diện kế thừa cơ sở vật chất kỹ
thuật đã được tạo ra bởi sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Tuy
nhiên, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội mặc dù cũng là nền sản xuất đại công
nghiệp nhưng đó là nền sản xuất đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa chứ không phải
là nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Do đó nó cũng cần phải có thời kỳ quá độ
của bước cải tạo, kế thừa và tái cấu trúc nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đối với 10 lOMoARcPSD| 38372003
những nước chưa từng trải qua quá trình công nghiệp hóa tiến lên chủ nghĩa xã hội,
thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội càng
có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa. Đó là một nhiệm vụ vô cùng to lớn và đầy khó khăn, không thể “đốt
cháy giai đoạn” được.
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng -
chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ
nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo
ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ
nghĩa, đo vậy cũng cần phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển những quan hệ đó.
Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn -
và phức tạp. Với tư cách là người chủ của xã hội mới, giai cấp công nhân và nhân
dân lao động không thể ngay lập tức có thể đảm đương được công việc ấy, nó cần
phải có thời gian nhất dịnh.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát triển kinh tế - xã hội
khác nhau có thể diễn ra khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau. Đối với những nước đã
trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình độ cao khi tiến lên chủ nghĩa xã hội thì thời
kỳ quá độ có thể tương đối ngắn. Những nước đã trải qua giai đoạn phát triển chĩ nghĩa
tư bản ở trình độ trung bình, đặc biệt là những nước còn ở trình độ phát triển tiền tư
bản, có nền kinh tế lạc hậu thì thời kỳ quá độ thường kéo dài với rất nhiều khó khăn, phức tạp.
3. Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng từ
xã hội tiền tư bản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa sang xã hội chủ nghĩa.
Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải tạo cách
mạng sâu sắc, triệt để xã hội tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội xây dựng từng bước cơ sở vật chất- kỹ thuật và đời sống tinh thần
của chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ lâu dài, gian khổ bắt đầu từ khi giai cấp công nhân 11 lOMoARcPSD| 38372003
và nhân dân lao động giành được chính quyền đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội. Có thể khái quát những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như sau:
- Trên lĩnh vực kinh tế
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, về phương diện kinh tế,
tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phần đối lập. Đề cập tới
đặc trưng này, V.I.Lênin cho rằng: “Vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng
vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những
bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai
cũng thừa nhận là có. Song không phải mỗi người thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem
các thành phần của kết cấu kinh tế- xã hội khác nhau hiện có ở Nga, chính là như thế
bào?. Mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở đó”. Tương ứng với nước Nga,
V.I.Lênin cho rằng thời kỳ quá độ tồn tại 5 thành phần kinh tế. Kinh tế gia trưởng; kinh
tế hàng hóa nhỏ; kinh tế tư bản; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế xã hội chủ nghĩa.
- Trên lĩnh vực chính trị
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội về phương diện chính trị,
là việc thiết lập, tăng cường chuyên chính vô sản mà thực chất của nó là việc giai cấp
công nhân nắm và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp tư sản, tiến hành xây
dựng một xã hội không giai cấp. Đây là sự thống trị về chính trị của giai cấp công nhân
với chức năng thực hiện dân chủ đối với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ
mới, chuyên chính với những phần tử thù địch, chống lại nhân dân; là tiếp tục cuộc đấu
tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản đã chiến thắng nhưng chưa phải đã toàn thắng với
giai cấp tư sản đã thất bại nhưng chưa phải thất bại hoàn toàn. Cuộc đấu tranh diễn ra
trong điều kiện mới - giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền, với nội dung
mới - xây dựng toàn diện xã hội mới, trọng tâm là xây dựng nhà nước có tính kinh tế,
và hình thức mới - cơ bản là hòa bình tổ chức xây dựng .
- Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều tư tưởng
khác nhau, chủ yếu là tư tưởng vô sản và tư tưởng tư sản. Giai cấp công nhân thông
qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản từng bước xây dựng văn hóa vô sản,
nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa
nhân loại, bảo đảm đáp ứng nhu cầu văn hóa - tinh thần ngày càng tăng của nhân dân.
- Trên lĩnh vực xã hội
Do kết cấu của nền kinh tế nhiều thành phần qui định nên trong thời kỳ quá độ còn
tồn tại nhiều giai cấp , tầng lớp và sự khác biệt giữa các giai cấp tầng lớp xã hội, các
giai cấp, tầng lớp vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Trong xã hội của thời kỳ quá
độ còn tồn tại sự khác biệt giữa nông thôn, thành thị, giữa lao động trí óc và lao động 12 lOMoARcPSD| 38372003
chân tay. Bởi vậy, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, về phương
diện xã hội là thời kỳ đấu tranh giai cấp chống áp bức, bất công, xóa bỏ tệ nạn xã hội
và những tàn dư của xã hội cũ để lại, thiết lập công bằng xã hội trên cơ sở thực hiện
nguyên tắc phân phối theo lao động là chủ đạo.
III. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc
và từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống nhất, cách
mạng dân tộc - dân chủ nhân dân đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả
nước cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã
hội cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã có nền kinh tế rất phát triển,
bởi lẽ, ở các nước này, tuy lực lượng sản xuất đã phát triển cao, nhưng vẫn còn cần
phải cải tạo và cần xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền văn hoá mới. Dĩ
nhiên, đối với những nước thuộc loại này, về khách quan có nhiều thuận lợi hơn, thời
kỳ quá độ có thể sẽ diễn ra ngắn hơn. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu
đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thì lại càng phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là
một thời kỳ lịch sử mà: "Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền
tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,... tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công
nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách
mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế
mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài." (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.10, tr. 13)
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu lịch
sử đối với nước ta, vì:
Một là, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật
khách quan của lịch sử. Loài người đã phát triển qua các hình thái kinh tế - xã hội: 13 lOMoARcPSD| 38372003
công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Sự biến đổi của
các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên và hình thái kinh tế - xã hội
sau cao hơn, tiến bộ hơn hình thái kinh tế - xã hội trước nó. Sự biến đổi của các hình
thái kinh tế - xã hội nói trên đều tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Cho dù ngày nay, chủ nghĩa tư bản đang nắm nhiều ưu thế về vốn, khoa học,
công nghệ và thị trường, đang cố gắng điều chỉnh trong chừng mực nhất định quan hệ
sản xuất để thích nghi với tình hình mới, nhưng không vượt ra khỏi những mâu thuẫn
vốn có của nó, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực
lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Mâu thuẫn này không những không dịu đi mà ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xã hội hóa lao động làm cho các
tiền đề vật chất, kinh tế, xã hội ngày càng chín muồi cho sự phụ định chủ nghĩa tư
bản và sự ra đời của xã hội mới – chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản không phải là
tương lai của loài người. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ
tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Hai là, phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội không chỉ phù hợp với xu
thế của thời đại, mà còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt
Nam: cách mạng dân tộc, dân chủ gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng dân tộc,
dân chủ trước hết là để giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, dân chủ… đồng thời
nó là tiền đề để “làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người
có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”, nhằm thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Vì vậy, cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp tục hợp logic cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, làm
cho cách mạng dân tộc, dân chủ được thực hiện triệt để. 14 lOMoARcPSD| 38372003
2. Đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.
II.1. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Vân dụng và phát triển lý luậ n của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiệ n
lịch ̣ sử của cách mạng Viêt Nam, từ khi thành lập Đảng đến nay Đảng ta luôn kiên
định ̣ lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế đô tư bản chủ nghĩa.̣
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa về cơ bản là “bỏ
qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản
chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới
chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bỏ qua việc xác lập vị trí chi phối của quan hệ sản xuất TBCN trong nền sản xuất
xã hội đang vận động đi lên CNXH, cũng có nghĩa ở đó còn tồn tại ở mức độ nhất định
các quan hệ sản xuất tư bản và tiền tư bản, chúng vận động và tác động đến sự phát
triển của nền kinh tế - xã hội đang định hướng đi lên CNXH. Chính vì vậy, trong thực
tiễn cần có những chính sách để các quan hệ này vận động, đóng góp vào sự tăng trưởng
chung, đồng thời hạn chế tác động tiêu cực của chúng.
2.2. Bối cảnh trong nước và thế giới
Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vừa thuận lợi vừa khó khăn
đan xen, với những đặc trưng cơ bản:
Xuất phát từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất
thấp. Đất nước trải qua chiến tranh ác liệt, kéo dài nhiều thập kỷ, hậu quả để lại còn
nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường
xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân
ta. Đảng ta đặt lên hàng đầu nhiệm vụ chống đế quốc để giải phóng dân tộc. Nhiệm vụ
chống phong kiến đem lại ruộng đất cho dân cày được tiến hành từng bước. Sau khi
giành được thắng lợi trong cách mạng dân tộc dân chủ, phải chuyển tiếp lên cách mạng
xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản với thời kỳ quá độ
lâu dài, khó khăn, nhiều chặng đường. Các nước đang phát triển tư bản chủ nghĩa quá 15 lOMoARcPSD| 38372003
độ lên chủ nghĩa xã hội sẽ dễ dàng hơn, thời gian ngắn hơn. Nhưng nước ta, xuất phát
điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển của tư bản chủ nghĩa,
chắc chắn sẽ lâu dài hơn, khó khăn hơn, phức tạp hơn và sẽ trải qua nhiều chặng đường hơn.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút
tất cả các nước ở mức độ khác nhau. Nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang
trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát triển lịch sử và cuộc
sống các dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho các nước, vừa
đặt ra những thách thức gay gắt.
Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,
cho dù chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Các nước với chế độ xã
hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh
gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức,
song theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã
hội. Kinh nghiệm thế giới đã chỉ ra rằng: Về kinh tế, cần phải phát triển kinh tế nhiều
thành phần để huy động mọi tiềm năng sản xuất như vốn, kỹ thuật, quản lý, tăng thu
nhập, nâng cao đời sống của nhân dân trong thời kỳ quá độ. Về chính trị, cần phải giữ
ổn định chính trị trên cơ sở độc lập, tự chủ. Vấn đề đặt ra hiện nay của các nước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là việc đổi mới tư duy lý luận
về chủ nghĩa xã hội và giải quyết các đặc điểm dân tộc trong con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của mỗi nước.
Với những đặc điểm nêu trên, nội dung chủ yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua chế độ tư bản ở Việt Nam hiện nay:
Một là, từng bước khắc phục dần căn bệnh đối lập một cách trừu tượng chủ
nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội.
Hai là, tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Ba là, xử lý quan hệ sở hữu dựa trên tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế và thúc đẩy lực 16 lOMoARcPSD| 38372003
lượng sản xuất phát triển.
Bốn là, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch.
Năm là, ngày càng đề cao sản xuất hàng hóa. Sáu là, thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
2.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
Thời kỳ trước năm 2001, Đảng ta xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam
(2001) xác định: Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học
và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại
Đây là tư tưởng mới, phản ánh nhận thức mới, tư duy mới của Đảng ta về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Tư tưởng này cần được
hiểu đầy đủ với những nội dung sau đây:
Thứ nhất, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con
đường cách mạng tất yếu khách quan, con đường xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thứ hai, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ
qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản
chủ nghĩa, đồng thời bỏ qua việc tước đoạt ruộng đất và tư liệu sản xuất của người lao
động, bỏ qua việc tạo dựng giai cấp thống trị, bóc lột người lao động, và đương nhiên
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa. Điều đó có nghĩa là trong thời kỳ quá độ còn nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, song sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và thành phần kinh tế tư nhân tư
bản chủ nghĩa không chiếm vai trò chủ đạo; thời kỳ quá độ còn nhiều hình thức phân
phối, ngoài phân phối theo lao động vẫn là chủ đạo còn phân phối theo mức độ đóng 17 lOMoARcPSD| 38372003
góp và quỹ phúc lợi xã hội; thời kỳ quá độ vẫn còn quan hệ bóc lột và bị bóc lột, song
quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa không giữ vai trò thống trị.
Thứ ba, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đòi hỏi phải
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản, đặc
biệt là những thành tựu về khoa học và công nghệ, thành tựu về quản lý phát triển xã
hội, đặc biệt là xây dựng nền kinh tế hiện đại, phát triển nhanh lực lượng sản xuất.
Thứ tư, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là tạo ra sự
biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực, là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp,
lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá
độ đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị cao khát vọng lớn của toàn Đảng, toàn dân.
3. Các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng.
Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu và lý tưởng của toàn Đảng và toàn dân ta. Từ khi
ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo toàn
dân đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, dựng nên nhà nước dân chủ cộng
hòa, tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện lý tưởng cao
đẹp của toàn Đảng, toàn dân: xây dựng Việt Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội từ ngày lập nước đến nay của Đảng và
nhân dân ta là quá trình không ngừng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam. Đó cũng là quá trình không ngừng
tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hiện thực,
vừa hoàn thiện những đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa về mặt lý luận của Đảng qua
mười một kỳ đại hội.
Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội do các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
vạch ra đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và có kết quả vào công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, đó cũng mới chỉ là những nét khái
quát: Xã hội không có áp bức bóc lột; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
làm theo năng lực, phân phối theo lao động; đời sống vật chất và tinh thần cao; con
người được phát triển toàn diện; xã hội công bằng, bình đẳng; có chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất; nhà nước của toàn dân; v.v.. Hơn nữa, trong một thời gian dài, chủ 18 lOMoARcPSD| 38372003
nghĩa xã hội được xây dựng theo mô hình kế hoạch hóa tập trung đã bị biến dạng và
tụt hậu không chỉ ở Việt Nam mà cả ở các nước thành trì của chủ nghĩa xã hội.
Và rồi vận dụng sáng tạo và phát triển của chủ nghĩa Mác -Leenin vào điều kiện cụ thể
ở Việt Nam, tổng kết thực tiễn quá trình cách mạng Việt Nam, nhất là qua hơn 30 năm
đổi mới, nhận thức của Đảng và nhân dân dân ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng rõ. Đại hội IV (1976), nhận thức của Đảng ta về
chủ nghĩa xã hội và con đường phát triển của cách mạng nước ta mới dừng ở mức độ
định hướng: Trên cơ sở phương hướng đúng, hãy hành động thực tế cho câu trả lời.
Đến Đại hội VII, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa đã sáng tỏ hơn, không chỉ dừng ở nhận thức định hướng, định
tính mà từng bước đạt tới trình độ đình hình, định lượng. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), đã xác định mô hình chủ nghĩa
xã hội ở nước ta với sáu đặc trưng:
• Do nhân dân lao động làm chủ;
• Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu;
• Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
• Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ẩm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện cá nhân;
• Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ;
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Đến Đại hội XI, trên cơ sở tổng kết 25 năm đổi mới, nhận thức của Đảng ta về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã có bước phát triển mới. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã phát triển mô hình
chủ nghĩa xã hội Việt Nam với tám đặc trưng cơ bản, trong đó có đặc trưng về mục
tiêu, bản chất, nội dung của xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, đó là:
- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là những giá trị xã hội tốt đẹp nhất, ước
mơ ngàn đời của loài người, cho nên cũng là mục tiêu phấn đấu của chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy, đây là đặc trưng phổ quát, có tính bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa, nó thể 19 lOMoARcPSD| 38372003
hiện sự khác nhau căn bản, sự tiến bộ hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa so với các
chế độ xã hội trước đó. Xã hội tư bản có đời sống vật chất và tiện nghi rất cao; dân có
thể giàu, nước có thể mạnh, nhưng từ trong bản chất của chế độ xã hội tư bản, ở đó
không thể có công bằng và dân chủ: nhà nước là nhà nước tư sản; giàu có là cho nhà
tư bản; sự giàu mạnh có được bằng quan hệ bóc lột. Trong xã hội như vậy, người dân
không thể là chủ và làm chủ xã hội.
Xây dựng xã hội “dân chủ, công bằng, văn minh” là quá trình vô cùng khó khăn,
gian khổ và lâu dài trong hoàn cảnh và điều kiện Việt Nam - một nước còn nghèo, đang
phát triển, chưa có “nền đại công nghiệp” (điều kiện cần thiết để xây dựng chủ nghĩa
xã hội như C.Mác đã chỉ rõ), v.v.. Nhưng để trở thành xã hội xã hội chủ nghĩa với
những đặc trưng nêu trên, không có cách nào khác là toàn Đảng, toàn dân ta phải nỗ
lực sáng tạo, chiếm lĩnh các đỉnh cao của xã hội. Và, Việt Nam đang từng bước đạt tới
các mục tiêu cần có trong hiện thực.
Đảng ta đã vạch ra phương hướng, chính sách cụ thể, có cơ sở lý luận - thực tiễn để
thực hiện trong hiện thực: “nước mạnh” gắn với “dân giàu”, “công bằng” và “văn
minh”, bảo đảm “dân chủ”; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri
thức; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; hoàn thiện nhà nước pháp quyền với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; v.v..
- Do nhân dân làm chủ
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực
của sự phát triển đất nước. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Dân là chủ và dân làm chủ; cán bộ công
chức là “công bộc” của nhân dân, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn
trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân.
Để có một xã hội do nhân dân làm chủ cần xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa để đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước và xã hội đều thuộc về nhân dân.
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp.
Có lực lượng sản xuất hiện đại chính là nền sản xuất dựa trên hệ thống công nghệ
tiên tiến và nguồn nhân lực chất lượng cao, với năng suất, hiệu quả lớn, bảo vệ môi
trường sinh thái. Để xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại, cần phát triển khoa học và 20 lOMoARcPSD| 38372003
công nghệ, phát triển kinh tế tri thức gắn với đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao,
có kỹ thuật, có kỷ luật, có năng suất cao bảo đảm cho sự phát triển kinh tế bền vững.
Quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp là quan hệ xã hội tốt đẹp giữa con người trong
quá trình sản xuất do chế độ xã hội. Đó là xã hội có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu
sản xuất, cách thức quản lý dân chủ, có chế độ phân phối ngày càng hoàn thiện phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, với kiến trúc thượng tầng. Đó chính
là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng hoàn thiện.
Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc -.
Văn hóa nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ, cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục
tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của
con người trong quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên.
Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các
phương tiện chuyển tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị truyền thống tốt đẹp, bền vững, những tinh
hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp qua lịch sử hang nghìn năm
đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là, lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân
tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân- gia đình- Tổ quốc; lòng nhân
ái khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; cần cù, sáng tạo trong lao động; dũng cảm,
kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm… Bản sắc vǎn hóa dân
tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.
Bảo vệ bản sắc dân tộc gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc
những cái hay, cái tiến bộ trong vǎn hóa các dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc dân tộc phải
đi liền với chống lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán cũ.
- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là vì con người, vì hạnh phúc
và sự phát triển toàn diện của con người. Xã hội tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
gắn với quyền và lợi ích của dân tộc. 21 lOMoARcPSD| 38372003
Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ và trách
nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; có văn hoá, nghĩa tình; có tinh
thần quốc tế chân chính.
Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội,
gia đình, nhà trường, từng cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người
có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả cao; bồi đắp tình bạn, tình đồng chí,
đồng đội, hình thành nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa.
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ
nhau cùng phát triển.
Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược cơ bản, lâu dài trong sự nghiệp cách mạng
Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố bền vững có ý nghĩa
quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam dù ở trong nước hay ở nước ngoài bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu giữ vững độc
lập, thống nhất của Tổ quốc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh; lấy mục tiêu đó làm điểm tương đồng, xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối
xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.
Bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp
pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; thực hiện dân chủ gắn liền với giữ gìn kỷ
cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân; tổ chức và hoạt động trên
cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật, bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội; tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, các quyền và tự do của công dân; giữ vững mối liên hệ giữa Nhà
nước và công dân, giữa Nhà nước và xã hội.
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh
đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị.
Trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các
nguyên tắc pháp quyền và phải tạo ra sự chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao hơn. Xây 22 lOMoARcPSD| 38372003
dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và
được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực,
hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới là yêu cầu khách
quan, thể hiện bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Cách mạng Việt Nam là bộ phận
của cách mạng thế giới, bởi vậy Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương thực hiện đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, văn minh.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội với tám đặc trưng nêu trên là một quá trình cách mạng
sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về
chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.
Xác định những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng nêu trênlà kết quả của quá trình tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lên nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam hiện nay. Đó là mô hình tổng quát của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
4. Thành tựu và hạn chế trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội
4.1. Những thành tựu đã đạt được trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Sự phát triển kinh tế Việt Nam trong khoảng thời gian qua rất đáng ghi nhận.
Giai đoạn 2009 - 2019 nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng với nhiều biến động, trung
bình mỗi năm GDP Việt Năm tăng trung bình 6,23% - một tốc độ khá nhanh so với các
nước trên thế giới giúp Việt Nam tiến vào nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp.
Do hậu ảnh hưởng của cuộc khung hoảng tài chính toàn cầu thế giới nên giai đoạn này
nền kinh tế không còn duy trì tốc độ như giai đoạn trước, nhưng tốc độ tăng trưởng
thấp nhất cũng là 5,25% (năm 2012) và tăng nhanh vào các năm sau, đến năm 2018 đạt
mức cao nhất trong giai đoạn này là 7,08%. Nhìn chung thì tốc độ tăng trưởng có biến
động lên xuống trong giai đoạn này nhưng vẫn dao động xung quanh ngưỡng 6 - 7%.
Tăng trưởng GDP phục hồi rõ nét sau giai đoạn 2011-2015, duy trì được tốc độ cao, 23 lOMoARcPSD| 38372003
đặc biệt là trong các năm 2017-2019 (với tốc độ tăng tương ứng đạt 6,81% và 7,08%
năm 2017, 2018 và khoảng 7,1% năm 2019). Đến năm 2019 thì quy mô GDP đã gấp
1,85 lần so với năm 2009.
Nguồn: Số liệu theo Tổng cục Thống kê
GDP Việt Nam tăng trưởng nhanh như vậy là nhờ sự đóng góp của các nhóm
ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ. Đặc biệt là ngành công nghiệp và xây dựng
tăng nhanh kéo theo tốc độ gia tăng của toàn bộ nền kinh tế. Nước ta đang thực hiện
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa càng thúc đẩy cơ cấu GDP thiên hướng tỷ
trọng về công nghiệp và dịch vụ, tập trung nguồn lực để phát triển trọng điểm. Khu vực
công nghiệp, xây dựng (CNXD) và khu vực dịch vụ là hai khu vực dẫn dắt tăng trưởng
chung, bù đắp cho sự giảm sút của khu vực nông lâm nghiệp, thủy sản, do đối mặt với
nhiều khó khăn, đặc biệt là vào các năm 2016 và 2019. Đóng góp của khu vực CNXD
vào tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 đã tăng lên hơn 44% (so với mức tương
ứng 39,9% giai đoạn 2011 – 2015).
Ở giai đoạn này nền kinh tế Việt Nam nhìn từ khía cạnh thu nhập bình quân đầu
người đã tăng nhanh và được cải thiện hơn rất nhiều. Trung bình mỗi năm GDP/ người
của Việt Nam tăng 12,78% - một con số rất ấn tượng. Đến năm 2019, GDP/ người của
Việt Nam đã đạt 32.574 triệu đồng tương đương 3000 USD tăng gấp gần 3,5 lần so với
năm 2019. Cho dù tốc độ tăng GDP/ người ở Việt Nam có biến động qua các năm, sự
sụt giảm liên tục trong những năm 2010-2015 do ảnh hưởng của khủng hoảng rồi phục
hồi sau đó và đạt đến 9,96 (năm 2017) và 7,9 (năm 2019).
Nhìn từ góc độ nào của nền kinh tế, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng tự
hào và cộng nhận trong quá trình phát triển, đặc biệt là sự tăng trưởng kinh tế nhanh về cả tốc độ và quy mô. 24 lOMoARcPSD| 38372003
4.2. Những hạn chế và bất cập còn tồn tại.
Mặc dù đã đạt được rất nhiều thành tựu quan trọng và nổi bật, nhưng quá trình
thực hiện đổi mới toàn diện, đưa nước ta quá độ thẳng lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn tồn
tại một số hạn chế và bất cập.
Hội nhập kinh tế quốc tế nhìn chung thể hiện chủ yếu trong chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước mà chưa biến thành yếu tố nội sinh
trong hành động của các cấp, các ngành và doanh nghiệp.
Quá trình đổi mới ở trong nước, nhất là đổi mới, hoàn thiện thể chế, trước hết là
hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa được thực hiện một cách đồng bộ, chưa
gắn kết chặt chẽ với yêu cầu hội nhập và quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh. Mặt
khác tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế bộc lộ nhiều bất cập so với yêu cầu bảo đảm
quốc phòng - an ninh, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, môi trường sinh
thái, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Nền kinh tế vẫn mang tính gia công, chưa tạo ra các thương hiệu Việt Nam có
uy tín trên thị trường thế giới. Xuất khẩu tăng nhanh nhưng chưa thực sự vững chắc,
chất lượng tăng trưởng và hiệu quả xuất khẩu còn thấp, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu vẫn
còn phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và các sản phẩm chủ lực còn
thấp và chịu sức ép cạnh tranh với các doanh nghiệp và sản phẩm nước ngoài ngay trên thị trường nội địa.
5. Mục tiêu, phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
5.1. Mục tiêu
Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn đấu của
Người là một, đó là độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. 25 lOMoARcPSD| 38372003
5.2. Phương hướng
Xác định rõ mục tiêu, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, những nhiệm vụ của sự
nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại đại hội XI, đòi
Đảng ta xác định tám phương hướng h
ỏi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta cần
nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng
và trí tuệ tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức dân dựng đất nước ta giàu đẹp hơn đàng hoàng hơn, đó là:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh -
tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Những luận điểm đã rõ: Công nghiệp hóa gắn hiện đại hóa; gắn công nghiệp
hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức, tức là phù hợp xu thế phát triển của
nhân loại; Gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với bảo vệ tài nguyên, môi trường là
phù hợp thực tế Việt Nam và kinh nghiệm của các nước đi trước đã thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; Gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung với công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là phù hợp thực tế Việt Nam
Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau: Tiêu chí của một nước
công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như tiêu chí của nền kinh tế tri thức vận dụng vào
điều kiện cụ thể Việt Nam chưa thống nhất. Từ đó làm cho chúng ta còn lúng túng về
biện pháp, con đường, điểm đột phá để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng
như xây dựng nền kinh tế tri thức. Chúng ta cũng chưa nhận thức rõ vai trò của doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân trong thực hiện thành công công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức. Trong công nghiệp thì đột phá ngành gì, ưu
tiên ngành gì cũng còn lúng túng. Trong nông nghiệp cũng tương tự như vậy, chưa
chọn được khâu đột phá để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Nguyên nhân hạn chế: Chưa thống nhất về mặt nhận thức lý luận về công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, về kinh tế tri thức; còn cầu toàn quá về nghiên cứu lý luận nên chậm
trong triển khai thực tiễn. Hơn nữa, chúng ta chậm tổng kết thực tiễn thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ môi trường trong
thời kỳ đổi mới để rút ra những bài học cần thiết cho thực hiện phương hướng này. 26 lOMoARcPSD| 38372003
- Hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những luận điểm đã rõ: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô
hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta sẽ thực hiện
nhất quán, lâu dài mô hình kinh tế này. Những đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế
này đã được nêu ra và về đại thể là được chấp nhận trong toàn Đảng. Đặc biệt, tại Đại
hội XII của Đảng, những đặc trưng của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đã được nhận thức đầy đủ, đúng đắn, phù hợp với kinh tế thị trường hiện đại hơn.
Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau: Vẫn chưa thống nhất
trong Đảng, nhất là trong xã hội về những đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là việc cụ thể hóa những đặc trưng này
trong từng lĩnh vực để bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, còn
lúng túng trong tổ chức thực hiện. Do vậy, cơ chế “xin – cho” vẫn còn tồn tại và biểu
hiện biến tướng phức tạp.
Nguyên nhân hạn chế: Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về vấn đề này còn
chậm. Còn những nhóm lợi ích nhóm xấu tìm mọi cách giữ lại cơ chế “xin – cho”. Hơn
nữa, đây là mô hình kinh tế mới chỉ có ở nước ta, nên không thể học hỏi kinh nghiệm các nước khác được.
- Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Những luận điểm đã rõ: Nhận thức toàn diện hơn về xây dựng văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc cũng như mối liên hệ giữa xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc với xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội. Tư duy lý luận về vai trò của văn hóa đối với phát triển bền vững
được khẳng định, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu
và động lực của phát triển. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người là sức mạnh nội
sinh của phát triển bền vững; làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, đặc biệt là văn hóa nhân cách, văn hóa trong kinh tế, văn hóa trong chính trị; tư
duy bước đầu về xây dựng hệ giá trị, chuẩn mực của văn hóa, con người Việt Nam thời
kỳ đổi mới, chủ động hội nhập quốc tế; đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, 27 lOMoARcPSD| 38372003
quản lý của nhà nước trên lĩnh vực văn hóa. Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh
vực văn hóa là tất yếu chính trị.
Thực tiễn thực hiện phương hướng này cho thấy chúng ta đã nhận thức đầy đủ
hơn về vai trò, vị trí của giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ với tư cách là
quốc sách hàng đầu. Đã gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội trong từng bước đi và từng chính sách phát triển. Chế độ phân phối đã thể hiện
được tinh thần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội của Đảng.
Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau: Cơ chế, điều kiện phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa còn chung chung,
chưa rõ ràng, chưa cụ thể. Xã hội công dân chưa được nghiên cứu đầy đủ, nghiêm túc
chỉ đơn thuần là phủ định. Chưa đề ra được hệ giá trị chuẩn mực văn hóa Việt Nam; hệ
giá trị con người Việt Nam. Chưa có giải pháp đột phá để bứt phá về giáo dục, đào tạo;
phát triển khoa học công nghệ; trọng dụng nhân tài. Nhiều chủ trương đúng vẫn dừng
ở tư tưởng, quan điểm chưa hoặc chậm triển khai trên thực tế.
Nguyên nhân hạn chế: Chúng ta còn chủ quan và chưa nhận thức, đánh giá đúng
vai trò, vị trí của một số vấn đề văn hóa, xã hội, con người, giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ trong mối quan hệ với kinh tế; chưa nhận thức hết vai trò sức mạnh
mềm của văn hóa. Còn có tư tưởng tuyệt đối hóa kinh tế, còn tâm lý chỉ chú ý lo tăng
trưởng GDP. Chúng ta chậm tổng kết thực tiễn việc xây dựng xây dựng văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với xây dựng con người.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Những luận điểm đã rõ: Đã nhận thức và gắn kết nhiệm vụ quốc phòng, an ninh
quốc gia với nhiệm vụ giữ vững chế độ, bảo vệ Đảng, giữ vững an toàn, trật tự xã hội,
văn hóa cũng như gắn kết phương hướng bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia với
với yêu cầu giữ vững an toàn, trật tự xã hội, bảo đảm cuộc sống của nhân dân. Trên
thực tế, phương hướng bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội luôn gắn với nhiệm vụ đối ngoại. Nhận thức mềm dẻo, linh hoạt phù hợp
thực tiễn về “đối tác” và “đối tượng” trong quốc phòng, an ninh được thay thế cho nhận
thức cũ, cứng nhắc. Gắn xây dựng đường lối quốc phòng, an ninh nhân dân với kiên 28 lOMoARcPSD| 38372003
quyết, kiên trì giữa vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng đất, vùng trời,
vùng biển của Tổ quốc.
Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau: Nhận thức lý luận về
vấn đề ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh từ xa vẫn còn chung chung, chưa cụ thể.
Có những vấn đề liên quan đến nội bộ trong đời sống xã hội của nhân dân gắn với an
toàn, trật tự xã hội, bảo đảm cuộc sống của nhân dân như “Luật biểu tình” chưa được
nhận thức giải quyết triệt để, còn các ý kiến trái chiều. Đây là một trong những nguyên
nhân chưa giải quyết triệt để vấn đề tụ tập đông người, lợi dụng dân chủ, “dân chủ quá
trớn” gây mất trật tự, an toàn xã hội cho người dân. Vấn đề an ninh phi truyền thống
chưa được quan tâm đúng mức. Việc nghiên cứu những dự báo chiến lược về lĩnh vực
quốc phòng, an ninh chưa theo kịp sự phát triển của tình hình. Đặc biệt là những nhận
thức và tư duy chiến lược về vấn đề biển Đông chưa chủ động, còn chậm so với một
số nước khác trong khu vực, thậm chí có lúc bị động, còn có biểu hiện chạy theo lợi
ích kinh tế mà coi nhẹ chiến lược quốc phòng, an ninh.
Nguyên nhân hạn chế: Chúng ta chưa tập trung nghiên cứu, giải quyết dứt điểm
những vấn đề liên quan quốc phòng, an ninh nảy sinh từ thực tế; còn thận trọng quá
mức dẫn tới “né tránh” vấn đề.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp -
tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Những luận điểm đã rõ: Đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết trong đối ngoại.
Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế đã được kiên trì, kiên định trong qúa trình thực hiện Cương
lĩnh. Từ “sẵn sàng là bạn” “chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” chúng ta đã
chuyển thành công sang phương châm “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” và “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”
tức là công tác đối ngoại ngày càng toàn diện hơn. “Đối ngoại nhân dân” đã được thay
bằng “Ngoại giao nhân dân”. Chúng ta luôn giữ vững nguyên tắc chiến lược, mềm dẻo
trong sách lược bằng những biện pháp, hình thức linh hoạt, sáng tạo, tranh thủ điểm
tương đồng, hạn chế bất đồng, giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình. 29 lOMoARcPSD| 38372003
Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau: Tính tới tháng 9/2018,
Việt Nam có 3 đối tác chiến lược toàn diện, 16 đối tác chiến lược (bao gồm cả 3 đối
tác chiến lược toàn diện) và 12 đối tác toàn diện nhưng chúng ta chưa có “chiến lược,
chương trình, nội dung” cụ thể cho từng đối tác và chưa có trọng tâm, trọng điểm để
đột phá về đối ngoại. Nội hàm của khái niệm lợi ích quốc gia dân tộc, độc lập, chủ
quyền, cùng thế nào là ưu tiên bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc trong điều kiện hội
nhập quốc tế hiện nay còn chung chung, chưa rõ.
Nguyên nhân hạn chế: Chưa xác định thật rõ liên minh hay liên hiệp mà mình
phải dựa vào khi tình hình khó khăn, trong khi bối cảnh thế giới biến động khôn lường.
Do vậy, chúng ta còn rất cẩn trọng trong xác định từng đối tác cụ thể trong đối ngoại.
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về những vấn đề trên còn chậm, chưa
đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân -
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Những luận điểm đã rõ: Chuyển “dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực
của công cuộc đổi mới” thành “dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của phát
triển đất nước”. Như vậy đầy đủ hơn, đúng đắn hơn, phù hợp thực tế hơn. Coi dân chủ
xã hội chủ nghĩa như một phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội. Gắn xây
dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa với thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và
mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất. Đại đoàn kết toàn dân tộc được mở rộng trên cơ
sở “cộng đồng Việt Nam” rộng hơn trước kia trên cơ sở các “dân tộc trong nước”. Lấy
điểm tương đồng về mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau: Cơ chế, phương thức
thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra chưa rõ” cho nên
việc phát huy vai trò, quyền làm chủ của nhân dân còn hạn chế. Cơ chế, điều kiện thực
hiện dân chủ trực tiếp của nhân dân còn hạn chế. Phương thức hoạt động hiệu quả nhất
trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn thể nhân dân chưa rõ. Bệnh hành chính hóa, nguy 30 lOMoARcPSD| 38372003
cơ quan liêu hóa của các cơ quan này được nhận thức từ sớm nhưng chưa có giải pháp
hữu hiệu, triệt để khắc phục.
Nguyên nhân hạn chế: Chúng ta chưa quyết liệt giải quyết những vấn đề nảy
sinh từ thực tế, bằng lòng với kết quả đã có. Chưa tổng kết thực tiễn, xây dựng mô
hình thí điểm hoạt động của Mặt trận đoàn kết để tìm ra phương thức hoạt động tối
ưu. Chưa quyết liệt tổng kết thực hiện việc thí điểm nhân dân bầu trực tiếp một số
chức danh lãnh đạo ở cấp cơ sở và cấp quận (huyện) để tổ chức thực hiện trên cả nước
- Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Những luận điểm đã rõ: So với Cương lĩnh 1991, lần đầu tiên tính chất pháp
quyền xã hội chủ nghĩa được khẳng định trong phương hướng xây dựng nhà nước ở
Việt Nam. Coi xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân trên tất cả các mặt lập pháp, hành pháp, tư pháp và xây
dựng đội ngũ công chức là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị.
Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau: Chúng ta mới chỉ thấy
tính chất pháp quyền trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chưa thấy được
đây là phương thức thực hiện quyền lực của nhân dân hiệu quả nhất, cũng như phương
thức thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa thực tế nhất trong điều kiện hiện nay. Mô hình,
cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn chưa rõ, nhất là cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước. Cụ thể cơ chế “phân công, phối hợp và kiểm soát giữa
các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp” trong thực hiện quyền lực nhà nước chưa
được làm rõ. Do vậy, chưa có cơ chế ngăn chặn sự tha hóa quyền lực trong bộ máy nhà
nước. Chúng ta phủ định mô hình “tam quyền phân lập” của phương Tây một cách giản
đơn mà không nghiên cứu để tìm ra “hạt nhân hợp lý”, gạt bỏ những bất hợp lý không
phù hợp điều kiện Việt Nam.
Nguyên nhân hạn chế: Đây là vấn đề mới và khó cho nên chúng ta chưa nghiên
cứu về mặt lý luận một cách toàn diện, bài bản. Đã vậy, chúng ta chưa tổng kết được
thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam để rút ra bài học
cho việc kiểm soát quyền lực tốt hơn. Chúng ta chưa quyết liệt trong việc loại bỏ những
công chức biến chất, tha hóa ra khỏi bộ máy nhà nước. Việc xây dựng bộ máy nhà nước
tinh giản, hiệu lực, hiệu quả bàn, tổ chức triển khai nhiều nhiều nhưng kết quả rất hạn chế. 31 lOMoARcPSD| 38372003
- Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Những luận điểm đã rõ: Khẳng định và kiên trì, kiên định nền tảng tư tưởng của
Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bản chất của Đảng Cộng sản
Việt Nam không chỉ đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động mà
còn của cả dân tộc. Cùng với xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức thì Đảng
Cộng sản Việt Nam rất coi trọng xây dựng Đảng về đạo đức. Những luận điểm này phù
hợp thực tiễn Việt Nam và được thực tiễn chứng minh là đúng.
Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau: Mối quan hệ giữa Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ được nêu ra từ rất sớm nhưng nội hàm,
cơ chế vận hành của mối quan hệ này còn lúng túng, chưa rõ. Quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và công dân cũng chưa được làm rõ. Vấn đề kiểm soát quyền
lực trong Đảng cũng chưa được nhận thức và giải quyết một cách quyết liệt. Cơ chế
ngăn ngừa sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự suy thoái, tự chuyển hóa” còn chung chung.
Nguyên nhân hạn chế: Chậm nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng, vai trò của
xây dựng Đảng về Đạo đức; tổ chức thực hiện trên thực tế công tác xây dựng Đảng về
đạo đức chưa tốt. Chúng ta tổ chức đấu chống tham nhũng, quan liêu, cửa quyền
,v.v.. trong bộ máy Đảng, chính quyền trong nhiều nhiệm kỳ Đại hội nhưng hiệu quả
không cao, chưa đáp ứng yêu cầu mong mỏi của nhân dân và yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. 32 lOMoARcPSD| 38372003 KẾT LUẬN
Thông qua việc tiếp thu và phát huy những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin về dân tộc, Đảng và Nhà nước đã khái quát được đặc điểm và tình hình dân tộc
của đất nước Việt Nam hiện nay, từ đó, thể hiện quan điểm về vấn đề dân tộc và đề ra
được những chính sách phát triển phù hợp với thời đại và với từng vùng riêng biệt toàn
diện về mọi mặt, từng bước khắc phục tình trạng chênh lệch phát triển giữa các dân
tộc. Dù là một quốc gia đa dạng về tộc người nhưng tuyệt nhiên không có bất kì dân
tộc nào bị bỏ lại. Chính tư tưởng tiến bộ và nhân văn này đã nâng cao tinh thần đoàn
kết giữa các dân tộc sống chung một lãnh thổ, phát huy nội lực của mỗi dân tộc, ngăn
chặn từ đầu bất cứ tư tưởng kỳ thị, bất kỳ âm mưu chia rẽ dân tộc nào.
Như vậy sau khi có cơ hội được nghiên cứu, tìm hiểu bài tiểu luận, nhóm đã hiểu
được về những quan điểm, bản chất của quá trình tiến lên Chủ nghĩa xã hội theo Mác–
Lênin trình bày, đồng thời cũng hiểu rõ hơn về con đường tiến lên Chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Từ nhận thức một cách đúng đắn, triệt để và nhất quán về con đường đi lên
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sẽ giúp cho mỗi chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về
những thuận lợi, khó khăn; những thời cơ; nguy cơ và thách thức đan xen nhau để từ
đó với quyết tâm cao chúng ta phải phấn đấu nhận biết và vượt qua, luôn trong tình
trạng chủ động, tránh được căn bệnh chủ quan, nóng vội, duy trì ý chí; trong nhận thức
phải xuất phát từ thực tế khách quan tôn trọng và hành động theo quy luật…..
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bảnChính
trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, năm 2021.
2. Trần Thị Diệp (2021), Đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Liên
hệ với Việt Nam hiện nay, Đại học Kinh Tế Quốc Dân.
3. Dung, Đ., 2022. Thời hạn quá độ là gì? Thời hạn lên CNXH ở Việt Nam?, Luật Dương Gia.
do-lenchu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam/>.
Quỳnh Hoa – Đại hội XIII của Đảng: Niềm tin và khát vọng phát triển – Báo tin tức.
PGS.TS Lê Bộ Lĩnh – Một số vấn đề về hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam –
Tạp chí Tổ chức Nhà nước.
TS. Chử Văn Lâm - Chính phủ nhận diện hạn chế, yếu kém của nền kinh tế - Báo vneconomy.vn 33