TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC
THƯƠNG
MẠI
QUẢN
TRỊ
KINH
DOANH
--------

--------
ĐỀ
TÀI
THẢO
LUẬN
HỌC
PHẦN
LỊCH
SỬ
ĐẢNG
Đề
tài:
Tìm
hiểu
về
đường
lối
đối
ngoại
của
Đảng
trong
giai
đoạn
1975-1986
rút
ra
nhận
xét
về
mối
quan
hệ
của
Việt
Nam
-
Campuchia
thời
kỳ
này.
Nhóm: 7
Lớp học phần: 2312HCMI0131
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Lan Phương
Hà Nội, 2023
Danh sách thành viên nhóm
ST
T
Họ tên
Nhiệm vụ
Đánh giá
78
Đỗ Như Hồng Phúc
Mối quan hệ Việt Nam –
Trung Quốc
79
Nguyễn Tư Phúc
Powerpoint
80
Trần Thu Phương
Chương 1: Hoàn cảnh lịch
sử
81
Nguyễn Thị Thu
Phượng
Thuyết trình
82
Tăng Thị Phượng
(Nhóm trưởng)
Lời mở đầu + word
83
Bùi Trung Quân
Nội dung đường lối đối
ngoại của Đảng qua 2 Đại
hội
84
Nguyễn Vũ Quân
Mối quan hệ Việt Nam –
Campuchia
85
Phạm Ngọc Quân
Việt Nam mở rộng quan hệ
với các nước khác
86
Nguyễn Ngọc Quỳnh
Thuyết trình
87
Hoàng Minh Sang
Chương 3
88
Nguyễn Quang Sáng
Powerpoint
89
Nguyễn Minh Sơn
Mối quan hệ Việt Nam
Liên Xô và các nước
XHCN
90
Bùi Đức Tài
Mối quan hệ Việt Nam –
Lào
Mục lục
Lời mở đầu ............................................................................................................... 4
Chương 1: Hoàn cảnh lịch sử ................................................................................. 4
I.Tình hình thế giới .............................................................................................. 4
II. Tình hình trong nước ...................................................................................... 5
Chương 2: Đường lối đối ngoại của Đảng giai đoạn 1975 - 1986 ........................ 6
I. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng qua 2 Đại hội ................................. 6
1.Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng tại Đại hội IV ................................. 6
2. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng tại Đại hội V .................................. 7
II. Triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1975 -1986 ........ 8
1. Mối quan hệ Việt Nam và các nước khác ...................................................... 9
2. Mối quan hệ Việt Nam với Campuchia ....................................................... 14
Chương 3: Kết quả ý nghĩa; hạn chế, nguyên nhân bài học kinh nghiệm19
I. Kết quả ý nghĩa .......................................................................................... 19
1.Kết quả .......................................................................................................... 19
2. Ý nghĩa ......................................................................................................... 20
II. Hạn chế, nguyên nhân bài học kinh nghiệm ......................................... 20
1.Hạn chế ......................................................................................................... 20
2. Nguyên nhân ................................................................................................ 21
3. Bài học kinh nghiệm .................................................................................... 21
Danh mục tài liệu tham khảo: .............................................................................. 23
Lời mở đầu
Đường lối đối ngoại đối với mỗi quốc gia, dân tộc vai trò rất quan trọng
trong công tác ngoại giao của quốc gia, dân tộc đó. được xác định như kim chỉ
nam cho công tác đối ngoại, quyết định sự thành bại của công tác đối ngoại. Ngoại
giao Việt Nam hiện đại ra đời khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nhà nước
công nông đầu tiên Đông Nam Á được thành lập năm 1945. Đó nền ngoại giao
của thời đại Hồ Chí Minh, với tính dân tộc và cách mạng, kế thừa truyền thống ngoại
giao của ông cha ta, đồng thời mang dấu ấn đặc trưng của thời đại mới. Qua mỗi
thời kỳ cách mạng, dựa trên tình hình thực tiễn trong và ngoài nước, Đảng ta luôn xác
định đường lối đối ngoại phù hợp với điều kiện đất nước thời điểm đó. Giai đoạn
1975 đến 1986, chỉ hơn 10 năm, nhưng trên đất nước Việt Nam đã diễn ra biết bao
nhiêu sự kiện những chuyển biến mang nhiều ý nghĩa. Sau thắng lợi hoàn toàn của
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ mùa xuân 1975, một kỷ nguyên mới đã mở ra
trên đất nước Việt Nam: hòa bình, độc lập, thống nhất. Cả nước đi vào xây dựng trong
hòa bình, quá trình tiến lên chủ nghĩa hội. Tuy nhiên, công cuộc tiến hành chưa
được bao lâu thì Việt Nam đứng trước những thử thách mới nghiêm trọng trong quan
hệ quốc tế. Quan hệ giữa Việt Nam các nước láng giềng chung biên giới xuất
hiện nhiều trắc trở và phát triển theo chiều hướng ngày càng phức tạp. Các thế lực thù
địch trong và ngoài khu vực phối hợp chống phá Việt Nam. Thông qua 2 Đại hội đại
biểu toàn toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IV (1976) và lần thứ V
(1982), Đảng đã xác định những nội dung chính trong đường lối đối ngoại của Việt
Nam thời kỳ này.
Chương 1: Hoàn cảnh lịch sử
I.Tình hình thế giới
Từ những năm 70 của thế kXX, sự tiến bộ nhanh chóng đã được thể hiện rất
trong cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Điều này đã thúc đẩy lực lượng sản
xuất thế giới phát triển mạnh. Bên cạnh đó, Nhật Bản Tây Âu cũng đã vươn lên trở
thành hai trung tâm kinh tế lớn của thế giới xu hướng chạy đua phát triển kinh tế
đã khiến cho xuất hiện một cục diện hòa hoãn giữa các nước lớn.
Tại thời điểm đó, sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam các nước Đông Dương
(năm 1975) đã giúp cho phong trào cách mạng thế giới phát triển mạnh mẽ hơn. Đảng
ta đã nhận định rằng hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã và đang trở nên lớn mạnh
không ngừng; phong trào độc lập dân tộc và phong trào cách mạng của giai cấp công
nhân cũng đang trên đà phát triển mãnh liệt. Tuy nhiên, vào khoảng thời gian này, tình
hình kinh tế hội các nước hội chủ nghĩa bị xuất hiện sự trì trệ đồng thời
mất ổn định.
Ngoài ra, tình hình Đông Nam Á ng những chuyển biến mới. Từ sau năm
1975 khi Mỹ rút quân ra khỏi Đông Nam Á, khối quân sự SEATO đã tan rã. Tiếp đó
vào tháng 2 năm 1976, các nước ASEAN đã ký Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông
Nam Á (Hiệp ước Bali), mở ra một cục diện hòa bình và hợp tác trong khu vực.
II. Tình hình trong nước
Thuận lợi: Miền Nam được giải phóng, Tổ quốc được thống nhất, hòa bình, cả
nước chung tay xây dựng chủ nghĩa hội với khí thế của một dân tộc vừa giành được
một thắng lợi đại. Không những vậy, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt
được một số thành tựu quan trọng.
Khó khăn: 30 năm chiến tranh lạnh, nước ta vừa phải tập trung khắc phục những
hậu quả nặng nề mà nó đem lại, vừa phải đối phó với chiến tranh biên giới Tây Nam
biên giới phía Bắc. Song, các thế lực thù địch vẫn ra sức sử dụng những thủ
đoạn vô cùng thâm độc để chống phá cách mạng Việt Nam. Tại đại hội lần thứ V (3-
1982), Đảng ta đã nhận định: “Đất nước ta đang ở trọng tình thế vừa có hòa bình vừa
phải đương đầu với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt”. Và do chủ quan cũng
như nóng vội, muốn tiến nhanh tới chủ nghĩa hội trong một thời gian ngắn đã khiến
nước ta phải đối mắt với những khó khăn, thách thức về kinh tế - xã hội.
Chương 2: Đường lối đối ngoại của Đảng giai đoạn 1975 - 1986
I. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng qua 2 Đại hội
1.Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng tại Đại hội IV
Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) tại Đại hội IV (tổ
chức vào tháng 12 năm 1976) đã được đề ra trong Báo cáo chính thức của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng. Đây là đường lối chính thức của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong quá trình xây dựng đất nước phát triển kinh tế sau chiến tranh Việt Nam.
Theo đó, ĐCSVN cam kết thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,
hữu nghị, đối tác bình đẳng và phát triển. Để đạt được mục tiêu này, Đảng đề xuất các
chính sách và biện pháp sau:
1. Tăng cường sự đoàn kết với các nước có cùng chủ trương chính trị, hội,kinh
tế với Việt Nam và các nước chủ chốt trên thế giới.
2. Phát triển quan hệ đối tác với các nước phương Tây, trong đó việc nối lạiquan
hệ với Hoa Kỳ, thực hiện các chính sách hòa bình và phát triển kinh tế.
3. Tăng cường quan hệ với các nước Viết, Trung Quốc, Triều Tiên, Cubavà
các nước Cộng sản khác.
4. Đẩy mạnh hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực thế giới, đặc biệt làcác
nước Đông Nam Á và các nước đang phát triển.
5. Thúc đẩy quan hệ với các tổ chức quốc tế, đặc biệt các tổ chức Liên HợpQuốc,
Hội đồng An ninh, Tổ chức Hiệp ước Bình đẳng Tân ương và Tổ chức Bảo vệ
Nhân quyền.
Tóm lại, Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội IV nhấn mạnh
vào việc tăng cường quan hệ đối tác, phát triển kinh tế và hòa bình, cùng với việc giữ
vững độc lập, tự chủ và chủ trương xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, Từ giữa năm 1978, Đảng đã điều chỉnh một số chủ trương, chính sách
đối ngoại như: chú trọng củng cố, tăng cường hợp tác về mọi mặt với Liên - coi
quan hệ với Liên hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; nhấn
mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào trong bối cảnh vấn đề
Campuchia đang diễn biến phức tạp; chủ trương góp phần xây dựng khu vực Đông
Nam Á hòa bình, tự do, tập trung và ổn định; đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại.
2. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng tại Đại hội V
Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) tại Đại hội V
được đề ra trong Báo cáo chính thức của Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
được tổ chức vào tháng 3 năm 1982. Đây là đường lối chính thức của Đảng trong giai
đoạn tiếp theo của quá trình đổi mới và phát triển kinh tế.
Theo đó, ĐCSVN cam kết thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hữu nghị, đối tác bình đẳng phát triển, tăng cường quan hệ đối tác với các
nước, các tổ chức quốc tế, phát triển kinh tế, đóng góp tích cực vào công cuộc xây
dựng và bảo vệ nền độc lập, chủ quyền và hòa bình của Tổ quốc.
Nội dung cụ thể của đường lối đối ngoại tại Đại hội V gồm có:
1. Phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân: Bảo đảm đất nước an ninh,độc
lập, phát triển kinh tế, thúc đẩy cải cách kinh tế, tăng cường đầu và hợp tác
quốc tế, nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng đất nước phát triển.
2. Tăng cường quan hvới các nước, tổ chức quốc tế: Tăng cường quan hệ vớicác
nước, tổ chức quốc tế, đặc biệt các nước Viết, Trung Quốc, các nước Đông
Nam Á, châu Á, châu Âu, Mỹ, Canada, Úc và New Zealand.
3. Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế: Tăng cường hợp tác với các tổchức
quốc tế, đặc biệt Liên Hiệp Quốc, các tổ chức tài chính quốc tế và các tổ chức
kinh tế quốc tế.
4. Xây dựng quan hệ với các nước đang phát triển: Xây dựng quan hệ với cácnước
đang phát triển, đặc biệt các nước trong Liên minh Nam bán cầu, phát triển
hợp tác với các nước có tiềm năng phát triển lớn.
5. Tham gia vào các hoạt động toàn cầu: Tham gia vào các hoạt động toàn cầunhư
giải quyết tranh chấp quốc tế, đóng góp vào hoạt động của Liên Hiệp Quốc và
các tổ chức quốc tế khác, tham gia vào các hiệp định quốc tế về kinh tế, thương
mại, đầu tư, khoa học kỹ thuật, văn hóa, giáo dục, xã hội...
6. Bảo vệ độc lập, chủ quyền hòa bình của Tổ quốc: Đảm bảo an ninh quốc gia,
bảo vệ độc lập, chủ quyền và hòa bình của Tổ quốc, giữ vững quan hệ hữu nghị
với các nước láng giềng, đấu tranh để chấm dứt chiến tranh, xây dựng giữ
gìn hòa bình trong khu vực và trên thế giới.
II. Triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1975 -1986
Giai đoạn 1975-1986: Đây là thời kỳ ngoại giao phục vụ khôi phục phát triển
kinh tế sau chiến tranh và bảo vệ Tổ quốc. Những năm đầu sau chiến tranh, Việt Nam
đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hàng chục nước, nhất là các nước bản chủ nghĩa,
tranh thủ được sự giúp đỡ về vật chất của nhiều quốc gia, các tổ chức quốc tế nhằm
khôi phục phát triển kinh tế sau chiến tranh. Việt Nam gia nhập Liên Hợp Quốc
(9/1977), tham gia Hội đồng tương trợ kinh tế (6/1978), Hiệp ước hữu nghị Hợp
tác với Liên Xô (11/1978). Tuy nhiên, thời kỳ hoà bình xây dựng đất nước không dài,
Việt Nam đã buộc phải đưa quân vào Campuchia, giúp nhân dân Campuchia đập tan
chế độ diệt chủng và bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc gia. Khôi phục lại tình đoàn kết
chiến đấu giữa ba nước Đông Dương. Đó nguyên nhân trực tiếp (cái cớ) dẫn đến
chiến tranh biên giới với Trung Quốc (2/1979) và việc Trung Quốc, các nước phương
Tây, ASEAN bao vây, cô lập, cấm vận Việt Nam.
1. Mối quan hệ Việt Nam các nước khác
a.Việt Nam - Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Trong 10 năm trước đổi mới, mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước
hội chủ nghĩa được tăng cường, đặc biệt với Liên Xô. Đảng đã nêu cao chủ
trương đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô như “hòn đá tảng trong chính sách
đối ngoại”, ”là nguyên tắc, là chiến lược” trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà
nước Việt Nam.
- Ngày 29/6/1978, Việt Nam gia nhập hội đồng tương trợ kinh tế khối ( SEV ):
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hoàn thành sứ mệnh
thống nhất đất nước, Việt Nam bước vào công cuộc xây dựng lại đất nước, song gặp
phải muôn vàn khó khăn không những do hậu quả nặng nề về chính trị, kinh tế -
hội do chiến tranh để lại, mà còn do tác động tiêu cực của quan hệ giữa các nước lớn.
Trong bối cảnh đó, tháng 6-1978, Việt Nam quyết định tham gia Hội đồng Tương trợ
kinh tế (khối SEV) do Liên Xô đứng đầu. Trong thời gian hoạt động, Hội đồng tương
trợ kinh tế (SEV) đã có những giúp đỡ to lớn đối với sự phát triển của các nước thành
viên nhất là Cuba và Việt Nam. Trong đó Việt Nam là nước yếu được cưu mang giúp
đỡ từ 9 nước anh em. Từ khi gia nhập cho đến năm 1987, Hội đồng tương trợ kinh tế
(SEV) đã hỗ trợ cho Cuba đến gần 4 tỷ US$, cho Việt Nam 2 tỷ (50% viện trợ quân
sự) và cho Mông Cổ 1 tỷ. .Viện trợ hàng năm và kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam
với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong khối SEV đều tăng.
- Ngày 3/11/1978, Việt Nam ký hiệp ước hữu nghị hợp tác toàn diện với
Liên Xô (Văn kiện hợp tác cấp độ cao nhất, toàn diện nhất trong lịch sử quan hệ song
phương):
Hiệp ước năm 1978 phản ánh tầm quan trọng của mối quan hệ cũng như sự gắn
bó chặt chẽ, mật thiết giữa Việt Nam và Liên Xô, đặc biệt phản ánh lòng tin cao giữa
hai Đảng, hai Nhà nước và tình hữu nghị bền chặt giữa nhân dân hai nước. Bản Hiệp
ước năm 1978 gồm 9 Điều, với nội dung và tinh thần chủ đạo trong tất cả những Điều
đó Liên sẽ tiếp tục hợp tác, giúp đỡ, hỗ trợ Việt Nam về mọi mặt theo nguyên
tắc tương trợ anh em và tinh thần đoàn kết với Việt Nam là mệnh lệnh của cả trái tim
và trí tuệ. Trong suốt thập niên 1980, Việt Nam đã nhận được gần 3 tỷ USD/năm viện
trợ kinh tế và quân sự của Liên Xô và thực hiện hầu hết các giao dịch thương mại với
Liên Xô và khối Comecon.
Sau khi Việt Nam hoàn toàn độc lập thống nhất, nhất từ khi Việt Nam trở
thành thành viên chính thức của hội đồng tương trợ kinh tế, quan hệ giữa Việt Nam
với các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, có những bước phát triển mới mạnh mẽ trên
nhiều lĩnh vực. Việt Nam đã ký một loạt hiệp ước hữu hữu nghị, hợp tác với các nước
hội chủ nghĩa, theo đó việc hợp tác trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn a,
khoa học, kỹ thuật và được triển khai thực hiện với những kết quả đáng khích lệ.
b.Việt Nam - Lào
Việt Nam, Lào hai nước láng giềng cùng trên bán đảo Đông Dương, cùng
dòng sông Mê Công, cùng kẻ thù chung là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược từ
cuối thế kỷ XIX cho đến năm 1975. Sau năm 1975, quan hệ Việt Nam Lào bước
sang một trang hoàn toàn mới: từ liên minh chiến đấu chung một chiến hào sang hợp
tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập chủ quyền.
Trong giai đoạn 1976 - 1985, mặc gặp nhiều khó khăn như: hậu quả nặng nề
của chiến tranh để lại, kinh tế lạc hậu, thế lực thù trong, giặc ngoài luôn tìm cách chia
rẽ, nhưng với nỗ lực sự đoàn kết, hai nước Việt Nam Lào vẫn đạt được nhiều
thành công lớn trên mọi lĩnh vực. Sau ngày đất nước thống nhất, mặc phải giải
quyết nhiều khó khăn do hậu quả chiến tranh, nhưng Việt Nam luôn nhận thức sâu sắc
mối quan hệ tương hỗ của cách mạng hai nước trong giai đoạn mới: “Lào có ổn định
thì Việt Nam mới ổn định ngược lại”. vậy, Việt Nam đã cố gắng đáp ứng các
yêu cầu chi viện và hợp tác với Lào một cách toàn diện, theo tinh thần vôkhông
tính thiệt hơn”.
Sự giúp đỡ lẫn nhau về các mặt:
- Lãnh thổ: Sau 8 năm tiến hành, đến ngày 24-1-1986, việc phân vạch và cắm mốc
trên thực địa toàn tuyến biên giới Việt - Lào dài 2.067 km đã hoàn thành.
- Quốc phòng-an ninh: Tháng 12-1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân
cách mạng Lào ra quyết nghị: tiếp tục đề nghị Việt Nam đưa lực lượng quân đội
sang hỗ trợ quân đội Lào nhằm ổn định tình hình, ngăn ngừa các nguy chống
phá của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước. Hai bên đã ký Hiệp
ước phòng thủ ngày 22-9-1977. Tháng 6-1978, Binh đoàn 678 (gồm ba đoàn
bộ binh: 324, 968 và 337) được thành lập và nhận nhiệm vụ quốc tế tại Lào.
- Kinh tế, khoa học: thay đổi từ viện trợ không hoàn lại và cho vay là chủ yếu sang
giảm dần viện trợ cho vay, bước đầu đẩy mạnh hợp tác sản xuất kinh doanh
bình đẳng cùng có lợi.
- Thương mại: từ năm 1976 1981, trao đổi hàng hóa chính ngạch được bắt đầu
theo phương thức bao cấp bằng ngân sách nhà nước mỗi bên. Hiệp định thương
mại Việt Nam - Lào 5 năm (1981 1985) được kết, kèm theo nghị định thư
thương mại hàng năm, đã tạo hành lang pháp lý cho việc trao đổi buôn bán giữa
hai nước…
- Văn hóa: Hàng năm, hai bên thường xuyên lập kế hoạch giao lưu văn hoá nghệ
thuật dưới các hình thức: trao đổi đoàn biểu diễn, tổ chức sáng tác mỹ thuật, tìm
hiểu về chđề đất nước con người, hợp tác xuất bản, in và phát hành sách báo,
văn hoá phẩm, phim ảnh. Phối hợp tuyên truyền về mối quan hệ đặc biệt Việt
Nam Lào, Lào-Việt Nam, tổ chức kỷ niệm những ngày lễ lớn để tăng cường
hiểu biết, gắn bó giữa nhân dân hai nước.
Trong 10 năm (1976-1985), thế lực của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ngày
càng được củng cố vững chắc. Sự trưởng thành về mọi mặt của Lào đã thể hiện sự tin
cậy lẫn nhau giữa Lào Việt Nam hiệu qucủa mối quan hệ đặc biệt giữa hai
nước.
c. Việt Nam - Trung Quốc
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng cùng chung biên giới đất liền và
biển. Nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc có quan hệ hữu nghị truyền thống
lâu đời, đã từng đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình đấu tranh cách
mạng.
Việt Nam luôn ghi nhớ biết ơn sâu sắc Đảng, Nhà nước nhân dân Trung
Quốc về sự ủng hộ mạnh mẽ về chính trị và tinh thần, sự giúp đỡ to lớn và quan trọng
cả về vật chất trong hai cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân Việt Nam luôn
được coi trọng việc gìn giữ quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc.
Tuy nhiên sau khi giúp đất nước Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, mối
quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc diễn biến theo chiều hướng tiêu cực. Mà đỉnh
điểm về mối quan hệ không bình thường giữa hai nước thời kỳ này cuộc chiến tranh
biên giới năm 1979. Ngày 17 tháng 2 năm 1979, 60 vạn quân Trung Quốc tiến công
sâu vào lãnh thổ Việt Nam tại các tỉnh biên giới phía Bắc Việt
Nam. Trung Quốc đã chuẩn bị trước cho cuộc chiến xâm chiếm Việt Nam, leo bước,
từ gây áp lực trong vấn đề Campuchia, dựng lên "sự cố Hoa kiều"
và chuẩn
chiến đấu anh
dũng để bảo vệ chủ quyền và chính nghĩa. Cuộc chiến kết thúc khi Trung Quốc rút
11
thang từng
bị về binh lực đi đôi với việc tuyên truyền. Đáp trả, Việt Nam đã
quân khỏi Việt Nam. Tuy kéo dài không lâu, nhưng nó đã gây hậu quả nghiêm
trọng về người cũng như là kinh tế đối với Việt Nam.
Sau cuộc chiến, Việt Nam kiên trì đề nghị khôi phục quan hệ hữu nghị và láng
giềng với Trung Quốc. Ngày 18/4/19779, Việt nam và Trung Quốc bắt bắt đầu đàm
phán tại Hà Nội. Tiếp theo là vòng hai tại Bắc Kinh từ ngày 8/6/1979. Tại cuộc
đàm phán này, Đoàn Việt Nam đưa ra đề nghị về những nguyên tắc và nội dung
chủ yếu cho một giải pháp về những vấn đề trong quan hệ giữa Việt Nam Trung
Quốc. Đề nghị nêu những biện pháp cấp bách nhằm đảm bảo hòa bình, ổn định vùng
biên giới hai nước trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình , giải quyết các
vấn đề biên giới lãnh thổ trên cơ sở tôn trọng đường biên giới lịch sử do các hiệp ước
Trung Pháp năm 1887 và 1895 hoạch định. Về phía Trung Quốc, họ đưa ra lập trường
tám điểm, yêu cầu Việt Nam công nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc, rút
quân khỏi Trường Sa, thay đổi chính sách đối với Lào
Campuchia, nêu quan điểm của Trung Quốc về giải quyết vấn đề Campuchia. Cuộc
họp chi đạt được việc trao trả người bị bắt. Đầu năm 1980 đàm phán đình chỉ.
Lập trường của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc đã được thể hiện trong
Báo cáo chính trị trình bày tại đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam
lần thứ V, 1982: “ kiên trì chính sách hữu nghị và láng giềng tốt với nhân dân
Trung Quốc, chúng ta chủ trương khôi phục quan hbình thường giữa hai nước trên
sở toàn
vẹn lãnh thổ của nhau và giải quyết những vấn đề tranh chấp bằng con đường thương
lượng. hàm đề
nghị nối lại đàm phán Việt Trung.
d. Việt Nam mở rộng hợp tác với các nước trên trên thế giới
Mở rộng quan hệ với các nước tư bản phát triển các tổ chức quốc tế: Trong
thời gian từ năm 1976 đến 1986, Việt Nam Nam đẩy mạnh quan hệ với các nước
bản chủ nghĩa. Từ năm 1976 đến trước khi xảy ra vấn đề Campuchia, nhiều đoàn cấp
các nguyện tắc cùng tồn tại hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền và
Trong vòng bảy năm (1980 -1987) Việt Nam đã 17 lần gửi công
cấp cao của Việt Nam đi thăm các nước Tây Âu, Bắc Âu, Nhật Bản nhằm mở ra quan
hệ kinh tế, thương mại, văn hóa, khoa học với các nước thuộc khu vực này. Đây
thời kỳ Việt Nam vay được vốn tranh thủ được viện trợ không hoàn lại, viện trợ
nhân đạo, thiết bị kỹ thuật của một số nước tư bản phương Tây. Từ sau ngày giải
phóng, Việt nam đã tham gia 33 tổ chức quốc quốc tế. Năm 1977, Việt Nam chính
thức gia nhập Liên hợp quốc. Sau khi nổ ra cuộc cuộc khủng hoảng Campuchia, từ
giữa năm 19779 quan hệ Việt Nam và các nước bản phát triển này giảm sút hẳn,
đối với một số nước, quan hệ trở nên băng giá. Ngân hàng hàng thế thế giới và Ngân
hàng châu Á cũng ngừng cung cấp vốn cho Việt Nam.
Các nước dân tộc chủ nghĩa không liên kết: Trong giai đoạn này, Việt Nam
đã thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước thế giới thứ ba: Nêpan, Manđivơ, Thổ
Nhĩ Kỳ,.. Trong những năm 1978 -1980, các đoàn chính thức do Phó Chủ tịch
Nguyễn Hữu Thọ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp dẫn đầu đã thăm 19 nước Trung
Đông - châu Phi. Với Ấn Độ một số nước Arập tiến bộ tiềm lực kinh tế, Việt
Nam đã phát triển quan hệ hợp tác, tranh thủ vốn, vay dầu và lương thực, đồng thời
học hỏi họ trong vấn đề khai thác dầu khí. Trong thời gian Mỹ một số nước phương
Tây thi hành chính sách bao vây, cấm vận đối với Việt Nam,nhiều nước dân tộc chủ
nghĩa, nhiều nước thành viên Phong trào Không liên kết vẫn duy tquan hệ tốt với
Việt Nam, đặc biệt Ấn Độ, Irắc, Lybi,.. Tại các các diễn đàn quốc tế quan trọng n
hội nghị cấp cao không liên kết lần thứ năm năm 1976 tại Sri Lanka , hội nghị cấp cao
lần thứ sáu năm năm 1979 tại La Habana, Việt nam đã tích cực và chủ động phối hợp
với các nước thành viên tích cực của phong trào nhằm thực hiện mục tiêu của phong
trào và có lập trường đúng đắn trong vấn đề Campuchia.
2. Mối quan hệ Việt Nam với Campuchia
Việt Nam Campuchia hai nước láng giềng núi liền núi, sông liền sông. Trong
suốt qtrình xây dựng phát triển đất nước những giai đoạn hai nước chung thân
phận lịch sử, đều là nước thuộc địa và chịu sự bóc lột kiệt quệ của chủ nghĩa thực dân,
đế quốc. Tình hữu nghị, hợp tác, láng giềng tương trợ là một trong những vấn đề lớn
đối với sổn định, phát triển của cả hai nước. Sau năm 1975, do nhiều nguyên nhân
khác nhau, trong đó có sự hiểu biết không đầy đủ, đúng đắn của nhà nước Campuchia
Dân chủ vvấn đề chủ quyền lãnh thổ cả sự ủng hộ, xúi giục của các thế lực
nước ngoài nhằm gây bất ổn chính trị tại khu vực Đông Dương, nhà nước Campuchia
Dân chủ đã thực thi việc leo thang chính sách đối ngoại gây căng thẳng đối với Việt
Nam.
Ngay sau khi giải phóng Phnom Penh (tháng 4 năm 1974), các nhà lãnh đạo cấp
cao của Đảng và nhà nước Campuchia đã phủ nhận sự thật lịch sử, thậm chí đổi trắng
thay đen, vu cáo Việt Nam xâm lược, muốn làm cho Campuchia trở thành “nô lệ của
Việt Nam”. Đây một âm mưu đối ngoại lớn đi song song với kế hoạch diệt chủng
bên trong của các nhà lãnh đạo đảng cộng sản Campuchia, làm cho mối quan hệ giữa
hai nước ngày càng căng thẳng và gây nên tình trạng bất ổn liên tục biên giới Tây
Nam nước ta.
Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc thắng lợi trên bán
đảo Đông Dương, chính quyền Campuchia dân chủ do Pol Pot cầm đầu thực hiện
chính sách diệt chủng đối với đồng bào của họ, đồng thời tiến hành những hành động
phiêu lưu quân schống Việt Nam. Ngày 1/5/1975 , tập đoàn Pol Pot đã dùng lực
lượng quân sự tấn công, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam từ Hà Tiên đến Tây Ninh, tiến
hành giết hại Việt kiều trên đất Campuchia. Sau những sự kiện nghiêm trọng đó, hai
bên nhiều lần trao đổi những đoàn đại biểu cấp cao của Đảng Nhà nước để thảo
luận các vấn đề liên quan đến biên giới. Tuy vậy, từ năm
1977, quan hệ giữa hai bên ngày càng xấu đi do những hành động xâm lấn tăng
cường của phía Campuchia. Trước tình hình nghiêm trọng đó, ngày 7/6/1977, ban
chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam gửi thư cho
Ban chấp hành Trung ương chính phủ Campuchia Dân chủ đề nghị cuộc hội ngộ
đàm phán càng sớm càng tốt giữa lãnh đạo cấp cao 2 đảng, 2 chính phủ. Ngày
18/6/1977, phía Campuchia Dân chủ trả lời: Chờ một thời gian cho tình hình bình
thường trở lại và những xung đột ở biên gii được chấm dứt sẽ gặp gỡ cấp cao.” Một
mặt từ chối thương lượng, mặt khác Pol Pot tiếp tục cho quân tiến công biên giới Việt
Nam. Trước những hành động xâm lấn, giết hại đồng bào Việt Nam biên giới Tây
Nam, các lực lượng vũ trang Việt Nam sử dụng quyền tự vệ đánh trả.
Ngày 31 tháng 12 năm 1977, chính quyền Pol Pot chính thức ra tuyên bố vu cáo
Việt Nam xâm lược campuchia, cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Cùng ngày,
chính phủ Việt Nam ra tuyên bố vạch thái độ hành động của phía Campuchia
khiêu khích và tấn công xâm phạm lãnh thổ Việt Nam, việc Việt Nam đánh trả hành
động tự vệ và tỏ thiện chiến muốn giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước trên tình
thần hữu nghị anh em. Campuchia bác bỏ đề nghị thương lượng hòa bình. Tiếp theo
đó, Việt Nam liên tiếp đưa ra các đề nghị đàm phán, đặc biệt quan trọng là Tuyên bố
ngày 5 tháng 2 năm 1978 của chính phủ cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về quan
hệ Việt Nam Campuchia, bày tỏ thiện chí thật sự, mong muốn chấm dứt xung đột, giải
quyết vấn đề biên giới giữa hai nước bằng thương lượng hòa bình. Đề nghị ba điểm
của Việt Nam được luận thế giới hoan nghênh, tuy nhiên phía Pol Pot bác bỏ đề
nghị trên. Mọi cố gắng đề nghị thương lượng của Việt nam đều bị bác bỏ, kể cả các
đề nghị thông qua trung gian của Liên Hợp Quốc phong trào Không liên kết. Trong
khi đó, những cuộc tiến công của quân Pol Pot giết hại người Việt nam biên giới
ngày càng nghiêm trọng, điển hình là vụ thảm sát ở xã Ba Chúc (An Giang).
Trung tuần tháng 12 tháng 1978, chính quyền Pol Pot tập trung 19 trong tổng số
25 đoàn chủ lực tấn công Việt Nam khu vực biên giới Tây Nam. Ngày
25/12/1978, đáp lại lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia
được thành lập vào ngày 2/12/1978, do ông Henhsomrin làm chủ tịch, các lực lượng
quân đội Việt Nam đã phối hợp với các lực lượng trang của Mặt trận phản công.
Ngày 2 tháng Giêng 1979, toàn bộ cùng phía đông sông Kông được giải phóng.
Ngày 7 tháng giêng 1979, liên quân giải phóng thủ đô Phnom Penh. Ngày 10 tháng
giêng 1979, nhà nước cộng hòa nhân dân Campuchia ra đời. Lực lượng của Pol Pot b
tiêu diệt một phần, phần lớn tan tại chỗ hoặc chạy sang các nước láng giềng phía
tây. Các lực lượng còn lại của Pol Pot vsu tập hợp lại, chuyển sang đánh du kích.
Phản ứng quốc tế đối với việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia không thuận lợi
cho Việt Nam. Chỉ có Liên Xô, Lào các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu ra tuyên
bố ng hộ. Mỹ, Trung Quốc, các quốc gia ASEAN,... ra tuyên bố lên án Việt Nam xâm
lược, nhiều thế lực thù địch lợi dụng con bài Campuchia, ra sức chống phá và lập
Việt Nam trên trường quốc tế, thực hiện chính sách bao vây cấm vận nhằm làm suy
yếu và tạo sức ép với Việt Nam.
Theo yêu cầu của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia, Việt Nam để lại
một lực lượng quân tình nguyện giúp nhân dân Campuchia ổn định tình hình xây
dựng lại đất nước. Từ năm 1982, hàng năm một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam
ở Campuchia được rút về nước.
Sau khi thành lập nhà nước mới, hai nước đã ký hiệp ước hòa bình, hữu nghị và
hợp tác vào tháng 2 năm 1979. Hiệp ước góp phần khôi phục mối quan hệ hữu nghị
láng giềng thân thiện và hợp tác giữa hai nước.
Nhận xét mqh VN - Campuchia:
Việc nhà nước Campuchia Dân chủ thực thi chính sách thù địch đối với Việt
Nam bất chấp những nỗ lực hàn gắn, giải quyết tranh chấp bằng đàm phán, thương
lượng hòa bình của Đảng Cộng sản Việt Nam đã để lại một hậu quả rất lớn, làm tình
hình khu vực bất ổn kéo dài, gây tổn hại cho đời sống nhân dân hai nước.
Thực tế, cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam là cuộc chiến tranh bảo vệ
sự toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũngcuộc chiến đấu bảo vệ
sinh mạng - quyền con người của cả hai dân tộc Campuchia Việt Nam; cuộc
chiến tranh chính nghĩa - cuộc chiến tranh tự vệ chính đáng, giáng trả kẻ thù xâm lược,
ngoài ra không có mục tiêu nào khác.
Nếu Việt Nam ích kỷ thì họ chỉ cần đánh bật quân Khmer Đỏ ngược trở lại lãnh
thổ Campuchia, đóng chặt biên giới, không cho người tị nạn chạy sang, để mặc cho
“nhà hàng xóm” tàn lụi hỏa hoạn. Thực tế vào năm 1979, kinh tế Việt Nam gặp
muôn vàn khó khăn còn các thế lực quốc tế đang nhăm nhe kiếm cớ phá hoại can
thiệp vào Việt Nam. Xét từ góc độ lợi ích thuần túy thì một cuộc chiến kéo dài với
nước khác tại thời điểm ấy là bất lợi cho Việt Nam.
Bên cạnh đó, việc quân tình nguyện Việt Nam sang Campuchia lại làm
nhiệm vụ quốc tế cần thiết nhằm ngăn chặn chế độ diệt chủng khôi phục trở lại.
Điều này đã được các lãnh đạo của Campuchia khẳng định. Chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc biên giới Tây Nam xuất phát từ nhu cầu tự vệ chính đáng, ý nghĩa lịch sử
đặc biệt to lớn trong việc bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh
thổ Việt Nam.
Đối với nhân dân Campuchia, việc Việt Nam đưa quân sang Campuchia đã xóa
bỏ chế độ diệt chủng của tập đoàn Pol Pot, cứu nhân dân Campuchia ra khỏi thảm họa
diệt chủng, giành lại quyền được sống, quyền làm người và bước vào kỷ nguyên độc
lập, tdo thật sự, hồi sinh đất nước và dân tộc, xây dựng cuộc sống hòa bình, tươi
đẹp.
Chiến thắng của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc biên giới Tây Nam của quân
dân ta cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng Pol Pot là chiến
thắng của tình đoàn kết, hữu nghị truyền thống Việt Nam - Campuchia. Chiến thắng
chế độ diệt chủng Pol Pot đã góp phần giữ vững hòa bình, ổn định khu vực Đông
Nam Á trên thế giới. Với thắng lợi ngày 7-1-1979, quan hệ hai nước Việt Nam -
Campuchia chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ khôi phục, vun đắp tình đoàn kết, hữu
nghị truyền thống hợp tác toàn diện giữa hai nước dựa trên nguyên tắc hòa bình,
tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính
đáng của hai bên vì sự phát triển và phồn vinh của mỗi nước.
Chương 3: Kết quả ý nghĩa; hạn chế, nguyên nhân bài học kinh nghiệm
I. Kết quả ý nghĩa
1.Kết quả
Trong mười năm trước đổi mới, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước xã hội
chủ nghĩa được tăng cường, trong đó đặc biệt là với Liên Xô:
- Ngày 29-6-1978, Việt Nam gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (khối SEV). Viện
trợ hàng năm kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam với Liên các nước
hội chủ nghĩa khác trong khối SEV đều tăng.
- Ngày 31-11-1978, Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên
Xô.
- Từ năm 1975 đến năm 1977, nước ta đã thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với 23
nước
- Ngày 15-9-1976, Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức Quỹ tiền tệ quốc
tế (IMF)
- Ngày 21-9-1976, tiếp nhận ghế thành viên chính thức Ngân hàng thế giới (WB)
- Ngày 23-9-1976, gia nhập Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)
- Ngày 20-9-1977, tiếp nhận ghế thành viên tại Liên hợp quốc; tham gia ch cực các
hoạt động trong phong trào Không liên kết...
- Kể từ năm 1977, một số nước tư bản mở quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam.
- Với các nước khác thuộc khu vực Đông Nam Á: Cuối năm 1976, Philippin Thái
Lan là nước cuối cùng trong tổ chức ASEAN thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt
Nam
2. Ý nghĩa
Những kết quả đối ngoại trên đây ý nghĩa rất quan trọng đối với cách mạng Việt
Nam:
- Sự tăng cường hợp tác toàn diện với các nước hội chủ nghĩa và mở rộng quan
hệ hợp tác kinh tế với cả các nước ngoài hệ thống hội chủ nghĩa đã tranh thủ
được nguồn viện trợ đáng kể, góp phần khôi phục đất nước sau chiến tranh
- Việc trở thành thành viên chính thức của Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới,
Ngân hàng phát triển châu Á việc trở thành thành viên chính thức của Liên hợp
quốc, tham gia tích cực vào các hoạt động của Phong trào không liên kết, đã tranh
thủ được sự ủng hộ, hợp tác của các nước, các tổ chức quốc tế, đồng thời phát huy
được vai trò của nước ta trên trường quốc tế.
- ·Việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước còn lại trong tổ chức ASEAN đã
tạo thuận lợi để triển khai các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau, nhằm xây
dựng Đông Nam Á trở thành khu vực hoà bình, hữu nghị và hợp tác.
II. Hạn chế, nguyên nhân bài học kinh nghiệm
1.Hạn chế
Bên cạnh những kết quả nêu trên, nhìn tổng quát, từ năm 1975 đến năm 1986,
quan hệ quốc tế của Việt Nam gặp những khó khăn trở ngại lớn. Việt Nam quá chú
trọng, đề cao Liên nhất quán nhấn mạnh quan hệ thủy chung với Liên
“hòn đá tảng” trong chính sách đối ngoại của mình, do đó Việt Nam đã rơi trạng thái
cô lập, đối đầu với các nước lớn khác. Bên cạnh đó, từ cuối thập kỷ 70 thế kỷ XX, lấy
cớ “Sự kiện Campuchia” các nước ASEAN một số nước khác thực hiện bao vây,
cấm vận Việt Nam ... nên chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước trong
khu vực thế giới chưa được hiện thực hóa một cách trọn vẹn, dẫn đến những k
khăn, vướng mắc trong việc xác lập các mối quan hệ quốc tế.

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH --------  --------
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG
Đề tài:
Tìm hiểu về đường lối đối ngoại của Đảng
trong giai đoạn 1975-1986 rút ra nhận xét về mối quan hệ
của Việt Nam - Campuchia thời kỳ này. Nhóm: 7
Lớp học phần: 2312HCMI0131
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Lan Phương Hà Nội, 2023
Danh sách thành viên nhóm ST
Họ tên Nhiệm vụ Đánh giá T
Mối quan hệ Việt Nam – 78 Đỗ Như Hồng Phúc Trung Quốc 79 Nguyễn Tư Phúc Powerpoint
Chương 1: Hoàn cảnh lịch 80 Trần Thu Phương sử Nguyễn Thị Thu Thuyết trình 81 Phượng
Tăng Thị Phượng Lời mở đầu + word 82 (Nhóm trưởng)
Nội dung đường lối đối 83 Bùi Trung Quân
ngoại của Đảng qua 2 Đại hội
Mối quan hệ Việt Nam – 84 Nguyễn Vũ Quân Campuchia
Việt Nam mở rộng quan hệ 85 Phạm Ngọc Quân với các nước khác 86 Nguyễn Ngọc Quỳnh Thuyết trình 87 Hoàng Minh Sang Chương 3 88 Nguyễn Quang Sáng Powerpoint Mối quan hệ Việt Nam 89 Nguyễn Minh Sơn Liên Xô và các nước XHCN
Mối quan hệ Việt Nam – 90 Bùi Đức Tài Lào Mục lục
Lời mở đầu ............................................................................................................... 4
Chương 1: Hoàn cảnh lịch sử ................................................................................. 4
I.Tình hình thế giới .............................................................................................. 4
II. Tình hình trong nước ...................................................................................... 5
Chương 2: Đường lối đối ngoại của Đảng giai đoạn 1975 - 1986 ........................ 6
I. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng qua 2 Đại hội ................................. 6
1.Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng tại Đại hội IV ................................. 6
2. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng tại Đại hội V .................................. 7
II. Triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1975 -1986 ........ 8
1. Mối quan hệ Việt Nam và các nước khác ...................................................... 9
2. Mối quan hệ Việt Nam với Campuchia ....................................................... 14
Chương 3: Kết quả ý nghĩa; hạn chế, nguyên nhân bài học kinh nghiệm19
I. Kết quả ý nghĩa .......................................................................................... 19
1.Kết quả .......................................................................................................... 19
2. Ý nghĩa ......................................................................................................... 20
II. Hạn chế, nguyên nhân bài học kinh nghiệm ......................................... 20
1.Hạn chế ......................................................................................................... 20
2. Nguyên nhân ................................................................................................ 21
3. Bài học kinh nghiệm .................................................................................... 21
Danh mục tài liệu tham khảo: .............................................................................. 23
Lời mở đầu
Đường lối đối ngoại đối với mỗi quốc gia, dân tộc có vai trò rất quan trọng
trong công tác ngoại giao của quốc gia, dân tộc đó. Nó được xác định như kim chỉ
nam cho công tác đối ngoại, quyết định sự thành bại của công tác đối ngoại. Ngoại
giao Việt Nam hiện đại ra đời khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nhà nước
công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập năm 1945. Đó là nền ngoại giao
của thời đại Hồ Chí Minh, với tính dân tộc và cách mạng, kế thừa truyền thống ngoại
giao của ông cha ta, đồng thời mang dấu ấn và đặc trưng của thời đại mới. Qua mỗi
thời kỳ cách mạng, dựa trên tình hình thực tiễn trong và ngoài nước, Đảng ta luôn xác
định đường lối đối ngoại phù hợp với điều kiện đất nước ở thời điểm đó. Giai đoạn
1975 đến 1986, chỉ hơn 10 năm, nhưng trên đất nước Việt Nam đã diễn ra biết bao
nhiêu sự kiện và những chuyển biến mang nhiều ý nghĩa. Sau thắng lợi hoàn toàn của
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ mùa xuân 1975, một kỷ nguyên mới đã mở ra
trên đất nước Việt Nam: hòa bình, độc lập, thống nhất. Cả nước đi vào xây dựng trong
hòa bình, quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, công cuộc tiến hành chưa
được bao lâu thì Việt Nam đứng trước những thử thách mới nghiêm trọng trong quan
hệ quốc tế. Quan hệ giữa Việt Nam và các nước láng giềng có chung biên giới xuất
hiện nhiều trắc trở và phát triển theo chiều hướng ngày càng phức tạp. Các thế lực thù
địch trong và ngoài khu vực phối hợp chống phá Việt Nam. Thông qua 2 Đại hội đại
biểu toàn toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IV (1976) và lần thứ V
(1982), Đảng đã xác định những nội dung chính trong đường lối đối ngoại của Việt Nam thời kỳ này.
Chương 1: Hoàn cảnh lịch sử
I.Tình hình thế giới
Từ những năm 70 của thế kỉ XX, sự tiến bộ nhanh chóng đã được thể hiện rất rõ
trong cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Điều này đã thúc đẩy lực lượng sản
xuất thế giới phát triển mạnh. Bên cạnh đó, Nhật Bản và Tây Âu cũng đã vươn lên trở
thành hai trung tâm kinh tế lớn của thế giới và xu hướng chạy đua phát triển kinh tế
đã khiến cho xuất hiện một cục diện hòa hoãn giữa các nước lớn.
Tại thời điểm đó, sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam và các nước Đông Dương
(năm 1975) đã giúp cho phong trào cách mạng thế giới phát triển mạnh mẽ hơn. Đảng
ta đã nhận định rằng hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã và đang trở nên lớn mạnh
không ngừng; phong trào độc lập dân tộc và phong trào cách mạng của giai cấp công
nhân cũng đang trên đà phát triển mãnh liệt. Tuy nhiên, vào khoảng thời gian này, tình
hình kinh tế và xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa bị xuất hiện sự trì trệ đồng thời mất ổn định.
Ngoài ra, tình hình Đông Nam Á cũng có những chuyển biến mới. Từ sau năm
1975 khi Mỹ rút quân ra khỏi Đông Nam Á, khối quân sự SEATO đã tan rã. Tiếp đó
vào tháng 2 năm 1976, các nước ASEAN đã ký Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông
Nam Á (Hiệp ước Bali), mở ra một cục diện hòa bình và hợp tác trong khu vực.
II. Tình hình trong nước
Thuận lợi: Miền Nam được giải phóng, Tổ quốc được thống nhất, hòa bình, cả
nước chung tay xây dựng chủ nghĩa xã hội với khí thế của một dân tộc vừa giành được
một thắng lợi vĩ đại. Không những vậy, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt
được một số thành tựu quan trọng.
Khó khăn: Vì 30 năm chiến tranh lạnh, nước ta vừa phải tập trung khắc phục những
hậu quả nặng nề mà nó đem lại, vừa phải đối phó với chiến tranh biên giới Tây Nam
và biên giới phía Bắc. Song, các thế lực thù địch vẫn ra sức và sử dụng những thủ
đoạn vô cùng thâm độc để chống phá cách mạng Việt Nam. Tại đại hội lần thứ V (3-
1982), Đảng ta đã nhận định: “Đất nước ta đang ở trọng tình thế vừa có hòa bình vừa
phải đương đầu với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt”. Và do chủ quan cũng
như nóng vội, muốn tiến nhanh tới chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn đã khiến
nước ta phải đối mắt với những khó khăn, thách thức về kinh tế - xã hội.
Chương 2: Đường lối đối ngoại của Đảng giai đoạn 1975 - 1986
I. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng qua 2 Đại hội
1.Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng tại Đại hội IV
Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) tại Đại hội IV (tổ
chức vào tháng 12 năm 1976) đã được đề ra trong Báo cáo chính thức của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng. Đây là đường lối chính thức của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong quá trình xây dựng đất nước và phát triển kinh tế sau chiến tranh Việt Nam.
Theo đó, ĐCSVN cam kết thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,
hữu nghị, đối tác bình đẳng và phát triển. Để đạt được mục tiêu này, Đảng đề xuất các
chính sách và biện pháp sau:
1. Tăng cường sự đoàn kết với các nước có cùng chủ trương chính trị, xã hội,kinh
tế với Việt Nam và các nước chủ chốt trên thế giới.
2. Phát triển quan hệ đối tác với các nước phương Tây, trong đó có việc nối lạiquan
hệ với Hoa Kỳ, thực hiện các chính sách hòa bình và phát triển kinh tế.
3. Tăng cường quan hệ với các nước Xô Viết, Trung Quốc, Triều Tiên, Cubavà
các nước Cộng sản khác.
4. Đẩy mạnh hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới, đặc biệt làcác
nước Đông Nam Á và các nước đang phát triển.
5. Thúc đẩy quan hệ với các tổ chức quốc tế, đặc biệt là các tổ chức Liên HợpQuốc,
Hội đồng An ninh, Tổ chức Hiệp ước Bình đẳng Tân ương và Tổ chức Bảo vệ Nhân quyền.
Tóm lại, Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội IV nhấn mạnh
vào việc tăng cường quan hệ đối tác, phát triển kinh tế và hòa bình, cùng với việc giữ
vững độc lập, tự chủ và chủ trương xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, Từ giữa năm 1978, Đảng đã điều chỉnh một số chủ trương, chính sách
đối ngoại như: chú trọng củng cố, tăng cường hợp tác về mọi mặt với Liên Xô - coi
quan hệ với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; nhấn
mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào trong bối cảnh vấn đề
Campuchia đang diễn biến phức tạp; chủ trương góp phần xây dựng khu vực Đông
Nam Á hòa bình, tự do, tập trung và ổn định; đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
2. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng tại Đại hội V
Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) tại Đại hội V
được đề ra trong Báo cáo chính thức của Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
được tổ chức vào tháng 3 năm 1982. Đây là đường lối chính thức của Đảng trong giai
đoạn tiếp theo của quá trình đổi mới và phát triển kinh tế.
Theo đó, ĐCSVN cam kết thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hữu nghị, đối tác bình đẳng và phát triển, tăng cường quan hệ đối tác với các
nước, các tổ chức quốc tế, phát triển kinh tế, đóng góp tích cực vào công cuộc xây
dựng và bảo vệ nền độc lập, chủ quyền và hòa bình của Tổ quốc.
Nội dung cụ thể của đường lối đối ngoại tại Đại hội V gồm có:
1. Phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân: Bảo đảm đất nước an ninh,độc
lập, phát triển kinh tế, thúc đẩy cải cách kinh tế, tăng cường đầu tư và hợp tác
quốc tế, nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng đất nước phát triển.
2. Tăng cường quan hệ với các nước, tổ chức quốc tế: Tăng cường quan hệ vớicác
nước, tổ chức quốc tế, đặc biệt là các nước Xô Viết, Trung Quốc, các nước Đông
Nam Á, châu Á, châu Âu, Mỹ, Canada, Úc và New Zealand.
3. Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế: Tăng cường hợp tác với các tổchức
quốc tế, đặc biệt là Liên Hiệp Quốc, các tổ chức tài chính quốc tế và các tổ chức kinh tế quốc tế.
4. Xây dựng quan hệ với các nước đang phát triển: Xây dựng quan hệ với cácnước
đang phát triển, đặc biệt là các nước trong Liên minh Nam bán cầu, phát triển
hợp tác với các nước có tiềm năng phát triển lớn.
5. Tham gia vào các hoạt động toàn cầu: Tham gia vào các hoạt động toàn cầunhư
giải quyết tranh chấp quốc tế, đóng góp vào hoạt động của Liên Hiệp Quốc và
các tổ chức quốc tế khác, tham gia vào các hiệp định quốc tế về kinh tế, thương
mại, đầu tư, khoa học kỹ thuật, văn hóa, giáo dục, xã hội...
6. Bảo vệ độc lập, chủ quyền và hòa bình của Tổ quốc: Đảm bảo an ninh quốc gia,
bảo vệ độc lập, chủ quyền và hòa bình của Tổ quốc, giữ vững quan hệ hữu nghị
với các nước láng giềng, đấu tranh để chấm dứt chiến tranh, xây dựng và giữ
gìn hòa bình trong khu vực và trên thế giới.
II. Triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1975 -1986
Giai đoạn 1975-1986: Đây là thời kỳ ngoại giao phục vụ khôi phục và phát triển
kinh tế sau chiến tranh và bảo vệ Tổ quốc. Những năm đầu sau chiến tranh, Việt Nam
đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hàng chục nước, nhất là các nước tư bản chủ nghĩa,
tranh thủ được sự giúp đỡ về vật chất của nhiều quốc gia, các tổ chức quốc tế nhằm
khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh. Việt Nam gia nhập Liên Hợp Quốc
(9/1977), tham gia Hội đồng tương trợ kinh tế (6/1978), ký Hiệp ước hữu nghị và Hợp
tác với Liên Xô (11/1978). Tuy nhiên, thời kỳ hoà bình xây dựng đất nước không dài,
Việt Nam đã buộc phải đưa quân vào Campuchia, giúp nhân dân Campuchia đập tan
chế độ diệt chủng và bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc gia. Khôi phục lại tình đoàn kết
chiến đấu giữa ba nước Đông Dương. Đó là nguyên nhân trực tiếp (cái cớ) dẫn đến
chiến tranh biên giới với Trung Quốc (2/1979) và việc Trung Quốc, các nước phương
Tây, ASEAN bao vây, cô lập, cấm vận Việt Nam.
1. Mối quan hệ Việt Nam các nước khác
a.Việt Nam - Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Trong 10 năm trước đổi mới, mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước
xã hội chủ nghĩa được tăng cường, đặc biệt là với Liên Xô. Đảng đã nêu cao chủ
trương đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô như “hòn đá tảng trong chính sách
đối ngoại”, ”là nguyên tắc, là chiến lược” trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam. -
Ngày 29/6/1978, Việt Nam gia nhập hội đồng tương trợ kinh tế khối ( SEV ):
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và hoàn thành sứ mệnh
thống nhất đất nước, Việt Nam bước vào công cuộc xây dựng lại đất nước, song gặp
phải muôn vàn khó khăn không những do hậu quả nặng nề về chính trị, kinh tế - xã
hội do chiến tranh để lại, mà còn do tác động tiêu cực của quan hệ giữa các nước lớn.
Trong bối cảnh đó, tháng 6-1978, Việt Nam quyết định tham gia Hội đồng Tương trợ
kinh tế (khối SEV) do Liên Xô đứng đầu. Trong thời gian hoạt động, Hội đồng tương
trợ kinh tế (SEV) đã có những giúp đỡ to lớn đối với sự phát triển của các nước thành
viên nhất là Cuba và Việt Nam. Trong đó Việt Nam là nước yếu được cưu mang giúp
đỡ từ 9 nước anh em. Từ khi gia nhập cho đến năm 1987, Hội đồng tương trợ kinh tế
(SEV) đã hỗ trợ cho Cuba đến gần 4 tỷ US$, cho Việt Nam 2 tỷ (50% viện trợ quân
sự) và cho Mông Cổ 1 tỷ. .Viện trợ hàng năm và kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam
với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong khối SEV đều tăng. -
Ngày 3/11/1978, Việt Nam ký hiệp ước hữu nghị hợp tác toàn diện với
Liên Xô (Văn kiện hợp tác cấp độ cao nhất, toàn diện nhất trong lịch sử quan hệ song phương):
Hiệp ước năm 1978 phản ánh tầm quan trọng của mối quan hệ cũng như sự gắn
bó chặt chẽ, mật thiết giữa Việt Nam và Liên Xô, đặc biệt phản ánh lòng tin cao giữa
hai Đảng, hai Nhà nước và tình hữu nghị bền chặt giữa nhân dân hai nước. Bản Hiệp
ước năm 1978 gồm 9 Điều, với nội dung và tinh thần chủ đạo trong tất cả những Điều
đó là Liên Xô sẽ tiếp tục hợp tác, giúp đỡ, hỗ trợ Việt Nam về mọi mặt theo nguyên
tắc tương trợ anh em và tinh thần đoàn kết với Việt Nam là mệnh lệnh của cả trái tim
và trí tuệ. Trong suốt thập niên 1980, Việt Nam đã nhận được gần 3 tỷ USD/năm viện
trợ kinh tế và quân sự của Liên Xô và thực hiện hầu hết các giao dịch thương mại với Liên Xô và khối Comecon.
Sau khi Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất, nhất là từ khi Việt Nam trở
thành thành viên chính thức của hội đồng tương trợ kinh tế, quan hệ giữa Việt Nam
với các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, có những bước phát triển mới mạnh mẽ trên
nhiều lĩnh vực. Việt Nam đã ký một loạt hiệp ước hữu hữu nghị, hợp tác với các nước
xã hội chủ nghĩa, theo đó việc hợp tác trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa,
khoa học, kỹ thuật và được triển khai thực hiện với những kết quả đáng khích lệ. b.Việt Nam - Lào
Việt Nam, Lào là hai nước láng giềng cùng trên bán đảo Đông Dương, cùng
dòng sông Mê Công, cùng kẻ thù chung là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược từ
cuối thế kỷ XIX cho đến năm 1975. Sau năm 1975, quan hệ Việt Nam và Lào bước
sang một trang hoàn toàn mới: từ liên minh chiến đấu chung một chiến hào sang hợp
tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập chủ quyền.
Trong giai đoạn 1976 - 1985, mặc dù gặp nhiều khó khăn như: hậu quả nặng nề
của chiến tranh để lại, kinh tế lạc hậu, thế lực thù trong, giặc ngoài luôn tìm cách chia
rẽ, nhưng với nỗ lực và sự đoàn kết, hai nước Việt Nam – Lào vẫn đạt được nhiều
thành công lớn trên mọi lĩnh vực. Sau ngày đất nước thống nhất, mặc dù phải giải
quyết nhiều khó khăn do hậu quả chiến tranh, nhưng Việt Nam luôn nhận thức sâu sắc
mối quan hệ tương hỗ của cách mạng hai nước trong giai đoạn mới: “Lào có ổn định
thì Việt Nam mới ổn định ngược lại”. Vì vậy, Việt Nam đã cố gắng đáp ứng các
yêu cầu chi viện và hợp tác với Lào một cách toàn diện, theo tinh thần vô tư “không
tính thiệt hơn”.
Sự giúp đỡ lẫn nhau về các mặt:
- Lãnh thổ: Sau 8 năm tiến hành, đến ngày 24-1-1986, việc phân vạch và cắm mốc
trên thực địa toàn tuyến biên giới Việt - Lào dài 2.067 km đã hoàn thành.
- Quốc phòng-an ninh: Tháng 12-1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân
cách mạng Lào ra quyết nghị: tiếp tục đề nghị Việt Nam đưa lực lượng quân đội
sang hỗ trợ quân đội Lào nhằm ổn định tình hình, ngăn ngừa các nguy cơ chống
phá của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước. Hai bên đã ký Hiệp
ước phòng thủ ngày 22-9-1977. Tháng 6-1978, Binh đoàn 678 (gồm ba sư đoàn
bộ binh: 324, 968 và 337) được thành lập và nhận nhiệm vụ quốc tế tại Lào.
- Kinh tế, khoa học: thay đổi từ viện trợ không hoàn lại và cho vay là chủ yếu sang
giảm dần viện trợ và cho vay, bước đầu đẩy mạnh hợp tác sản xuất kinh doanh
bình đẳng cùng có lợi.
- Thương mại: từ năm 1976 – 1981, trao đổi hàng hóa chính ngạch được bắt đầu
theo phương thức bao cấp bằng ngân sách nhà nước mỗi bên. Hiệp định thương
mại Việt Nam - Lào 5 năm (1981 – 1985) được ký kết, kèm theo nghị định thư
thương mại hàng năm, đã tạo hành lang pháp lý cho việc trao đổi buôn bán giữa hai nước…
- Văn hóa: Hàng năm, hai bên thường xuyên lập kế hoạch giao lưu văn hoá nghệ
thuật dưới các hình thức: trao đổi đoàn biểu diễn, tổ chức sáng tác mỹ thuật, tìm
hiểu về chủ đề đất nước và con người, hợp tác xuất bản, in và phát hành sách báo,
văn hoá phẩm, phim ảnh. Phối hợp tuyên truyền về mối quan hệ đặc biệt Việt
Nam – Lào, Lào-Việt Nam, tổ chức kỷ niệm những ngày lễ lớn để tăng cường
hiểu biết, gắn bó giữa nhân dân hai nước.
Trong 10 năm (1976-1985), thế và lực của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ngày
càng được củng cố vững chắc. Sự trưởng thành về mọi mặt của Lào đã thể hiện sự tin
cậy lẫn nhau giữa Lào và Việt Nam và hiệu quả của mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước. c. Việt Nam - Trung Quốc
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng cùng chung biên giới đất liền và
biển. Nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc có quan hệ hữu nghị truyền thống
lâu đời, đã từng đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình đấu tranh cách mạng.
Việt Nam luôn ghi nhớ và biết ơn sâu sắc Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung
Quốc về sự ủng hộ mạnh mẽ về chính trị và tinh thần, sự giúp đỡ to lớn và quan trọng
cả về vật chất trong hai cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân Việt Nam và luôn
được coi trọng việc gìn giữ quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc.
Tuy nhiên sau khi giúp đất nước Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, mối
quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc diễn biến theo chiều hướng tiêu cực. Mà đỉnh
điểm về mối quan hệ không bình thường giữa hai nước thời kỳ này là cuộc chiến tranh
biên giới năm 1979. Ngày 17 tháng 2 năm 1979, 60 vạn quân Trung Quốc tiến công
sâu vào lãnh thổ Việt Nam tại các tỉnh biên giới phía Bắc Việt
Nam. Trung Quốc đã chuẩn bị trước cho cuộc chiến xâm chiếm Việt Nam, leo bước, thang từng t ừ
gây áp lực trong vấn đề Campuchia, dựng lên "sự cố Hoa kiều"
và chuẩn bị về binh lực đi đôi với việc tuyên truyền. Đáp trả, Việt Nam đã chiến đấu anh
dũng để bảo vệ chủ quyền và chính nghĩa. Cuộc chiến kết thúc khi Trung Quốc rút 11
quân khỏi Việt Nam. Tuy kéo dài không lâu, nhưng nó đã gây hậu quả nghiêm
trọng về người cũng như là kinh tế đối với Việt Nam.
Sau cuộc chiến, Việt Nam kiên trì đề nghị khôi phục quan hệ hữu nghị và láng
giềng với Trung Quốc. Ngày 18/4/19779, Việt nam và Trung Quốc bắt bắt đầu đàm
phán tại Hà Nội. Tiếp theo là vòng hai tại Bắc Kinh từ ngày 8/6/1979. Tại cuộc
đàm phán này, Đoàn Việt Nam đưa ra đề nghị về những nguyên tắc và nội dung
chủ yếu cho một giải pháp về những vấn đề trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung
Quốc. Đề nghị nêu những biện pháp cấp bách nhằm đảm bảo hòa bình, ổn định ở vùng
biên giới hai nước trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình , giải quyết các
vấn đề biên giới lãnh thổ trên cơ sở tôn trọng đường biên giới lịch sử do các hiệp ước
Trung Pháp năm 1887 và 1895 hoạch định. Về phía Trung Quốc, họ đưa ra lập trường
tám điểm, yêu cầu Việt Nam công nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc, rút
quân khỏi Trường Sa, thay đổi chính sách đối với Lào
Campuchia, nêu quan điểm của Trung Quốc về giải quyết vấn đề Campuchia. Cuộc
họp chi đạt được việc trao trả người bị bắt. Đầu năm 1980 đàm phán đình chỉ.
Lập trường của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc đã được thể hiện trong
Báo cáo chính trị trình bày tại đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam
lần thứ V, 1982: “ kiên trì chính sách hữu nghị và láng giềng tốt với nhân dân
Trung Quốc, chúng ta chủ trương khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước trên
cơ sở toàn các nguyện tắc cùng tồn tại hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền và
vẹn lãnh thổ của nhau và giải quyết những vấn đề tranh chấp bằng con đường thương
lượng. hàm đề Trong vòng bảy năm (1980 -1987) Việt Nam đã 17 lần gửi công
nghị nối lại đàm phán Việt Trung.
d. Việt Nam mở rộng hợp tác với các nước trên trên thế giới
Mở rộng quan hệ với các nước tư bản phát triển và các tổ chức quốc tế: Trong
thời gian từ năm 1976 đến 1986, Việt Nam Nam đẩy mạnh quan hệ với các nước tư
bản chủ nghĩa. Từ năm 1976 đến trước khi xảy ra vấn đề Campuchia, nhiều đoàn cấp
cấp cao của Việt Nam đi thăm các nước Tây Âu, Bắc Âu, Nhật Bản nhằm mở ra quan
hệ kinh tế, thương mại, văn hóa, khoa học với các nước thuộc khu vực này. Đây là
thời kỳ Việt Nam vay được vốn và tranh thủ được viện trợ không hoàn lại, viện trợ
nhân đạo, thiết bị kỹ thuật của một số nước tư bản phương Tây. Từ sau ngày giải
phóng, Việt nam đã tham gia 33 tổ chức quốc quốc tế. Năm 1977, Việt Nam chính
thức gia nhập Liên hợp quốc. Sau khi nổ ra cuộc cuộc khủng hoảng Campuchia, từ
giữa năm 19779 quan hệ Việt Nam và các nước tư bản phát triển này giảm sút hẳn,
đối với một số nước, quan hệ trở nên băng giá. Ngân hàng hàng thế thế giới và Ngân
hàng châu Á cũng ngừng cung cấp vốn cho Việt Nam.
Các nước dân tộc chủ nghĩa và không liên kết: Trong giai đoạn này, Việt Nam
đã thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước thế giới thứ ba: Nêpan, Manđivơ, Thổ
Nhĩ Kỳ,.. Trong những năm 1978 -1980, các đoàn chính thức do Phó Chủ tịch
Nguyễn Hữu Thọ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp dẫn đầu đã thăm 19 nước Trung
Đông - châu Phi. Với Ấn Độ và một số nước Arập tiến bộ có tiềm lực kinh tế, Việt
Nam đã phát triển quan hệ hợp tác, tranh thủ vốn, vay dầu và lương thực, đồng thời
học hỏi họ trong vấn đề khai thác dầu khí. Trong thời gian Mỹ và một số nước phương
Tây thi hành chính sách bao vây, cấm vận đối với Việt Nam,nhiều nước dân tộc chủ
nghĩa, nhiều nước thành viên Phong trào Không liên kết vẫn duy trì quan hệ tốt với
Việt Nam, đặc biệt là Ấn Độ, Irắc, Lybi,.. Tại các các diễn đàn quốc tế quan trọng như
hội nghị cấp cao không liên kết lần thứ năm năm 1976 tại Sri Lanka , hội nghị cấp cao
lần thứ sáu năm năm 1979 tại La Habana, Việt nam đã tích cực và chủ động phối hợp
với các nước thành viên tích cực của phong trào nhằm thực hiện mục tiêu của phong
trào và có lập trường đúng đắn trong vấn đề Campuchia.
2. Mối quan hệ Việt Nam với Campuchia
Việt Nam – Campuchia là hai nước láng giềng núi liền núi, sông liền sông. Trong
suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước có những giai đoạn hai nước chung thân
phận lịch sử, đều là nước thuộc địa và chịu sự bóc lột kiệt quệ của chủ nghĩa thực dân,
đế quốc. Tình hữu nghị, hợp tác, láng giềng tương trợ là một trong những vấn đề lớn
đối với sự ổn định, phát triển của cả hai nước. Sau năm 1975, do nhiều nguyên nhân
khác nhau, trong đó có sự hiểu biết không đầy đủ, đúng đắn của nhà nước Campuchia
Dân chủ về vấn đề chủ quyền lãnh thổ và có cả sự ủng hộ, xúi giục của các thế lực
nước ngoài nhằm gây bất ổn chính trị tại khu vực Đông Dương, nhà nước Campuchia
Dân chủ đã thực thi việc leo thang chính sách đối ngoại gây căng thẳng đối với Việt Nam.
Ngay sau khi giải phóng Phnom Penh (tháng 4 năm 1974), các nhà lãnh đạo cấp
cao của Đảng và nhà nước Campuchia đã phủ nhận sự thật lịch sử, thậm chí đổi trắng
thay đen, vu cáo Việt Nam xâm lược, muốn làm cho Campuchia trở thành “nô lệ của
Việt Nam”. Đây là một âm mưu đối ngoại lớn đi song song với kế hoạch diệt chủng
bên trong của các nhà lãnh đạo đảng cộng sản Campuchia, làm cho mối quan hệ giữa
hai nước ngày càng căng thẳng và gây nên tình trạng bất ổn liên tục ở biên giới Tây Nam nước ta.
Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc thắng lợi trên bán
đảo Đông Dương, chính quyền Campuchia dân chủ do Pol Pot cầm đầu thực hiện
chính sách diệt chủng đối với đồng bào của họ, đồng thời tiến hành những hành động
phiêu lưu quân sự chống Việt Nam. Ngày 1/5/1975 , tập đoàn Pol Pot đã dùng lực
lượng quân sự tấn công, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam từ Hà Tiên đến Tây Ninh, tiến
hành giết hại Việt kiều trên đất Campuchia. Sau những sự kiện nghiêm trọng đó, hai
bên nhiều lần trao đổi những đoàn đại biểu cấp cao của Đảng và Nhà nước để thảo
luận các vấn đề liên quan đến biên giới. Tuy vậy, từ năm
1977, quan hệ giữa hai bên ngày càng xấu đi do những hành động xâm lấn tăng
cường của phía Campuchia. Trước tình hình nghiêm trọng đó, ngày 7/6/1977, ban
chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam gửi thư cho
Ban chấp hành Trung ương và chính phủ Campuchia Dân chủ đề nghị có cuộc hội ngộ
đàm phán càng sớm càng tốt giữa lãnh đạo cấp cao 2 đảng, 2 chính phủ. Ngày
18/6/1977, phía Campuchia Dân chủ trả lời: “ Chờ một thời gian cho tình hình bình
thường trở lại và những xung đột ở biên giới được chấm dứt sẽ gặp gỡ cấp cao.” Một
mặt từ chối thương lượng, mặt khác Pol Pot tiếp tục cho quân tiến công biên giới Việt
Nam. Trước những hành động xâm lấn, giết hại đồng bào Việt Nam ở biên giới Tây
Nam, các lực lượng vũ trang Việt Nam sử dụng quyền tự vệ đánh trả.
Ngày 31 tháng 12 năm 1977, chính quyền Pol Pot chính thức ra tuyên bố vu cáo
Việt Nam xâm lược campuchia, cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Cùng ngày,
chính phủ Việt Nam ra tuyên bố vạch rõ thái độ và hành động của phía Campuchia
khiêu khích và tấn công xâm phạm lãnh thổ Việt Nam, việc Việt Nam đánh trả là hành
động tự vệ và tỏ thiện chiến muốn giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước trên tình
thần hữu nghị anh em. Campuchia bác bỏ đề nghị thương lượng hòa bình. Tiếp theo
đó, Việt Nam liên tiếp đưa ra các đề nghị đàm phán, đặc biệt quan trọng là Tuyên bố
ngày 5 tháng 2 năm 1978 của chính phủ cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về quan
hệ Việt Nam Campuchia, bày tỏ thiện chí thật sự, mong muốn chấm dứt xung đột, giải
quyết vấn đề biên giới giữa hai nước bằng thương lượng và hòa bình. Đề nghị ba điểm
của Việt Nam được dư luận thế giới hoan nghênh, tuy nhiên phía Pol Pot bác bỏ đề
nghị trên. Mọi cố gắng đề nghị thương lượng của Việt nam đều bị bác bỏ, kể cả các
đề nghị thông qua trung gian của Liên Hợp Quốc và phong trào Không liên kết. Trong
khi đó, những cuộc tiến công của quân Pol Pot giết hại người Việt nam ở biên giới
ngày càng nghiêm trọng, điển hình là vụ thảm sát ở xã Ba Chúc (An Giang).
Trung tuần tháng 12 tháng 1978, chính quyền Pol Pot tập trung 19 trong tổng số
25 sư đoàn chủ lực tấn công Việt Nam ở khu vực biên giới Tây Nam. Ngày
25/12/1978, đáp lại lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia
được thành lập vào ngày 2/12/1978, do ông Henhsomrin làm chủ tịch, các lực lượng
quân đội Việt Nam đã phối hợp với các lực lượng vũ trang của Mặt trận phản công.
Ngày 2 tháng Giêng 1979, toàn bộ cùng phía đông sông mê Kông được giải phóng.
Ngày 7 tháng giêng 1979, liên quân giải phóng thủ đô Phnom Penh. Ngày 10 tháng
giêng 1979, nhà nước cộng hòa nhân dân Campuchia ra đời. Lực lượng của Pol Pot bị
tiêu diệt một phần, phần lớn tan rã tại chỗ hoặc chạy sang các nước láng giềng phía
tây. Các lực lượng còn lại của Pol Pot về su tập hợp lại, chuyển sang đánh du kích.
Phản ứng quốc tế đối với việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia không thuận lợi
cho Việt Nam. Chỉ có Liên Xô, Lào và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu ra tuyên
bố ủng hộ. Mỹ, Trung Quốc, các quốc gia ASEAN,... ra tuyên bố lên án Việt Nam xâm
lược, nhiều thế lực thù địch lợi dụng con bài Campuchia, ra sức chống phá và cô lập
Việt Nam trên trường quốc tế, thực hiện chính sách bao vây cấm vận nhằm làm suy
yếu và tạo sức ép với Việt Nam.
Theo yêu cầu của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia, Việt Nam để lại
một lực lượng quân tình nguyện giúp nhân dân Campuchia ổn định tình hình và xây
dựng lại đất nước. Từ năm 1982, hàng năm một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam
ở Campuchia được rút về nước.
Sau khi thành lập nhà nước mới, hai nước đã ký hiệp ước hòa bình, hữu nghị và
hợp tác vào tháng 2 năm 1979. Hiệp ước góp phần khôi phục mối quan hệ hữu nghị
láng giềng thân thiện và hợp tác giữa hai nước.
Nhận xét mqh VN - Campuchia:
Việc nhà nước Campuchia Dân chủ thực thi chính sách thù địch đối với Việt
Nam bất chấp những nỗ lực hàn gắn, giải quyết tranh chấp bằng đàm phán, thương
lượng hòa bình của Đảng Cộng sản Việt Nam đã để lại một hậu quả rất lớn, làm tình
hình khu vực bất ổn kéo dài, gây tổn hại cho đời sống nhân dân hai nước.
Thực tế, cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam là cuộc chiến tranh bảo vệ
sự toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là cuộc chiến đấu bảo vệ
sinh mạng - quyền con người của cả hai dân tộc Campuchia và Việt Nam; là cuộc
chiến tranh chính nghĩa - cuộc chiến tranh tự vệ chính đáng, giáng trả kẻ thù xâm lược,
ngoài ra không có mục tiêu nào khác.
Nếu Việt Nam ích kỷ thì họ chỉ cần đánh bật quân Khmer Đỏ ngược trở lại lãnh
thổ Campuchia, đóng chặt biên giới, không cho người tị nạn chạy sang, để mặc cho
“nhà hàng xóm” tàn lụi vì hỏa hoạn. Thực tế vào năm 1979, kinh tế Việt Nam gặp
muôn vàn khó khăn còn các thế lực quốc tế đang nhăm nhe kiếm cớ phá hoại và can
thiệp vào Việt Nam. Xét từ góc độ lợi ích thuần túy thì một cuộc chiến kéo dài với
nước khác tại thời điểm ấy là bất lợi cho Việt Nam.
Bên cạnh đó, việc quân tình nguyện Việt Nam sang Campuchia và ở lại làm
nhiệm vụ quốc tế là cần thiết nhằm ngăn chặn chế độ diệt chủng khôi phục trở lại.
Điều này đã được các lãnh đạo của Campuchia khẳng định. Chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc ở biên giới Tây Nam xuất phát từ nhu cầu tự vệ chính đáng, có ý nghĩa lịch sử
đặc biệt to lớn trong việc bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.
Đối với nhân dân Campuchia, việc Việt Nam đưa quân sang Campuchia đã xóa
bỏ chế độ diệt chủng của tập đoàn Pol Pot, cứu nhân dân Campuchia ra khỏi thảm họa
diệt chủng, giành lại quyền được sống, quyền làm người và bước vào kỷ nguyên độc
lập, tự do thật sự, hồi sinh đất nước và dân tộc, xây dựng cuộc sống hòa bình, tươi đẹp.
Chiến thắng của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam của quân
dân ta và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng Pol Pot là chiến
thắng của tình đoàn kết, hữu nghị truyền thống Việt Nam - Campuchia. Chiến thắng
chế độ diệt chủng Pol Pot đã góp phần giữ vững hòa bình, ổn định ở khu vực Đông
Nam Á và trên thế giới. Với thắng lợi ngày 7-1-1979, quan hệ hai nước Việt Nam -
Campuchia chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ khôi phục, vun đắp tình đoàn kết, hữu
nghị truyền thống và hợp tác toàn diện giữa hai nước dựa trên nguyên tắc hòa bình,
tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính
đáng của hai bên vì sự phát triển và phồn vinh của mỗi nước.
Chương 3: Kết quả ý nghĩa; hạn chế, nguyên nhân bài học kinh nghiệm
I. Kết quả ý nghĩa 1.Kết quả
Trong mười năm trước đổi mới, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước xã hội
chủ nghĩa được tăng cường, trong đó đặc biệt là với Liên Xô: -
Ngày 29-6-1978, Việt Nam gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (khối SEV). Viện
trợ hàng năm và kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam với Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa khác trong khối SEV đều tăng. -
Ngày 31-11-1978, Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô. -
Từ năm 1975 đến năm 1977, nước ta đã thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với 23 nước -
Ngày 15-9-1976, Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) -
Ngày 21-9-1976, tiếp nhận ghế thành viên chính thức Ngân hàng thế giới (WB) -
Ngày 23-9-1976, gia nhập Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) -
Ngày 20-9-1977, tiếp nhận ghế thành viên tại Liên hợp quốc; tham gia tích cực các
hoạt động trong phong trào Không liên kết... -
Kể từ năm 1977, một số nước tư bản mở quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam. -
Với các nước khác thuộc khu vực Đông Nam Á: Cuối năm 1976, Philippin và Thái
Lan là nước cuối cùng trong tổ chức ASEAN thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam 2. Ý nghĩa
Những kết quả đối ngoại trên đây có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách mạng Việt Nam: -
Sự tăng cường hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan
hệ hợp tác kinh tế với cả các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa đã tranh thủ
được nguồn viện trợ đáng kể, góp phần khôi phục đất nước sau chiến tranh -
Việc trở thành thành viên chính thức của Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới,
Ngân hàng phát triển châu Á và việc trở thành thành viên chính thức của Liên hợp
quốc, tham gia tích cực vào các hoạt động của Phong trào không liên kết, đã tranh
thủ được sự ủng hộ, hợp tác của các nước, các tổ chức quốc tế, đồng thời phát huy
được vai trò của nước ta trên trường quốc tế. -
·Việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước còn lại trong tổ chức ASEAN đã
tạo thuận lợi để triển khai các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau, nhằm xây
dựng Đông Nam Á trở thành khu vực hoà bình, hữu nghị và hợp tác.
II. Hạn chế, nguyên nhân bài học kinh nghiệm 1.Hạn chế
Bên cạnh những kết quả nêu trên, nhìn tổng quát, từ năm 1975 đến năm 1986,
quan hệ quốc tế của Việt Nam gặp những khó khăn trở ngại lớn. Việt Nam quá chú
trọng, đề cao Liên Xô và nhất quán nhấn mạnh quan hệ thủy chung với Liên Xô là
“hòn đá tảng” trong chính sách đối ngoại của mình, do đó Việt Nam đã rơi trạng thái
cô lập, đối đầu với các nước lớn khác. Bên cạnh đó, từ cuối thập kỷ 70 thế kỷ XX, lấy
cớ “Sự kiện Campuchia” các nước ASEAN và một số nước khác thực hiện bao vây,
cấm vận Việt Nam ... nên chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước trong
khu vực và thế giới chưa được hiện thực hóa một cách trọn vẹn, dẫn đến những khó
khăn, vướng mắc trong việc xác lập các mối quan hệ quốc tế.