



















Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI 
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH  --------    -------- 
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN 
HỌC PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG 
 Đề    tài:  
Tìm hiểu về đường lối đối ngoại của Đảng 
trong giai đoạn 1975-1986 và rút ra nhận xét về mối quan hệ 
của Việt Nam - Campuchia thời kỳ này.  Nhóm: 7 
Lớp học phần: 2312HCMI0131 
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Lan Phương  Hà Nội, 2023     
Danh sách thành viên nhóm  ST 
Họ và tên  Nhiệm vụ  Đánh giá  T 
Mối quan hệ Việt Nam –    78 Đỗ Như Hồng Phúc  Trung Quốc  79 Nguyễn Tư Phúc  Powerpoint   
Chương 1: Hoàn cảnh lịch  80 Trần Thu Phương  sử  Nguyễn Thị Thu  Thuyết trình    81 Phượng 
Tăng Thị Phượng Lời mở đầu + word    82 (Nhóm trưởng) 
Nội dung đường lối đối    83 Bùi Trung Quân 
ngoại của Đảng qua 2 Đại  hội 
Mối quan hệ Việt Nam –    84 Nguyễn Vũ Quân  Campuchia 
Việt Nam mở rộng quan hệ  85 Phạm Ngọc Quân  với các nước khác  86 Nguyễn Ngọc Quỳnh  Thuyết trình    87 Hoàng Minh Sang  Chương 3    88 Nguyễn Quang Sáng  Powerpoint    Mối quan hệ Việt Nam    89 Nguyễn Minh Sơn  Liên Xô và các nước  XHCN 
Mối quan hệ Việt Nam –    90 Bùi Đức Tài  Lào                   Mục lục 
Lời mở đầu ............................................................................................................... 4 
Chương 1: Hoàn cảnh lịch sử ................................................................................. 4 
I.Tình hình thế giới .............................................................................................. 4 
II. Tình hình trong nước ...................................................................................... 5 
Chương 2: Đường lối đối ngoại của Đảng giai đoạn 1975 - 1986 ........................ 6 
I. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng qua 2 Đại hội ................................. 6 
1.Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng tại Đại hội IV ................................. 6 
2. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng tại Đại hội V .................................. 7 
II. Triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1975 -1986 ........ 8 
1. Mối quan hệ Việt Nam và các nước khác ...................................................... 9 
2. Mối quan hệ Việt Nam với Campuchia ....................................................... 14 
Chương 3: Kết quả và ý nghĩa; hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm19 
I. Kết quả và ý nghĩa .......................................................................................... 19 
1.Kết quả .......................................................................................................... 19 
2. Ý nghĩa ......................................................................................................... 20 
II. Hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm ......................................... 20 
1.Hạn chế ......................................................................................................... 20 
2. Nguyên nhân ................................................................................................ 21 
3. Bài học kinh nghiệm .................................................................................... 21 
Danh mục tài liệu tham khảo: .............................................................................. 23       
Lời mở đầu 
Đường lối đối ngoại đối với mỗi quốc gia, dân tộc có vai trò rất quan trọng 
trong công tác ngoại giao của quốc gia, dân tộc đó. Nó được xác định như kim chỉ 
nam cho công tác đối ngoại, quyết định sự thành bại của công tác đối ngoại. Ngoại 
giao Việt Nam hiện đại ra đời khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nhà nước 
công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập năm 1945. Đó là nền ngoại giao 
của thời đại Hồ Chí Minh, với tính dân tộc và cách mạng, kế thừa truyền thống ngoại 
giao của ông cha ta, đồng thời mang dấu ấn và đặc trưng của thời đại mới. Qua mỗi 
thời kỳ cách mạng, dựa trên tình hình thực tiễn trong và ngoài nước, Đảng ta luôn xác 
định đường lối đối ngoại phù hợp với điều kiện đất nước ở thời điểm đó. Giai đoạn 
1975 đến 1986, chỉ hơn 10 năm, nhưng trên đất nước Việt Nam đã diễn ra biết bao 
nhiêu sự kiện và những chuyển biến mang nhiều ý nghĩa. Sau thắng lợi hoàn toàn của 
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ mùa xuân 1975, một kỷ nguyên mới đã mở ra 
trên đất nước Việt Nam: hòa bình, độc lập, thống nhất. Cả nước đi vào xây dựng trong 
hòa bình, quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, công cuộc tiến hành chưa 
được bao lâu thì Việt Nam đứng trước những thử thách mới nghiêm trọng trong quan 
hệ quốc tế. Quan hệ giữa Việt Nam và các nước láng giềng có chung biên giới xuất 
hiện nhiều trắc trở và phát triển theo chiều hướng ngày càng phức tạp. Các thế lực thù 
địch trong và ngoài khu vực phối hợp chống phá Việt Nam. Thông qua 2 Đại hội đại 
biểu toàn toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IV (1976) và lần thứ V 
(1982), Đảng đã xác định những nội dung chính trong đường lối đối ngoại của Việt  Nam thời kỳ này. 
Chương 1: Hoàn cảnh lịch sử 
I.Tình hình thế giới 
Từ những năm 70 của thế kỉ XX, sự tiến bộ nhanh chóng đã được thể hiện rất rõ 
trong cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Điều này đã thúc đẩy lực lượng sản 
xuất thế giới phát triển mạnh. Bên cạnh đó, Nhật Bản và Tây Âu cũng đã vươn lên trở     
thành hai trung tâm kinh tế lớn của thế giới và xu hướng chạy đua phát triển kinh tế 
đã khiến cho xuất hiện một cục diện hòa hoãn giữa các nước lớn. 
Tại thời điểm đó, sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam và các nước Đông Dương 
(năm 1975) đã giúp cho phong trào cách mạng thế giới phát triển mạnh mẽ hơn. Đảng 
ta đã nhận định rằng hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã và đang trở nên lớn mạnh 
không ngừng; phong trào độc lập dân tộc và phong trào cách mạng của giai cấp công 
nhân cũng đang trên đà phát triển mãnh liệt. Tuy nhiên, vào khoảng thời gian này, tình 
hình kinh tế và xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa bị xuất hiện sự trì trệ đồng thời  mất ổn định. 
Ngoài ra, tình hình Đông Nam Á cũng có những chuyển biến mới. Từ sau năm 
1975 khi Mỹ rút quân ra khỏi Đông Nam Á, khối quân sự SEATO đã tan rã. Tiếp đó 
vào tháng 2 năm 1976, các nước ASEAN đã ký Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông 
Nam Á (Hiệp ước Bali), mở ra một cục diện hòa bình và hợp tác trong khu vực. 
II. Tình hình trong nước 
Thuận lợi: Miền Nam được giải phóng, Tổ quốc được thống nhất, hòa bình, cả 
nước chung tay xây dựng chủ nghĩa xã hội với khí thế của một dân tộc vừa giành được 
một thắng lợi vĩ đại. Không những vậy, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt 
được một số thành tựu quan trọng. 
Khó khăn: Vì 30 năm chiến tranh lạnh, nước ta vừa phải tập trung khắc phục những 
hậu quả nặng nề mà nó đem lại, vừa phải đối phó với chiến tranh biên giới Tây Nam 
và biên giới phía Bắc. Song, các thế lực thù địch vẫn ra sức và sử dụng những thủ 
đoạn vô cùng thâm độc để chống phá cách mạng Việt Nam. Tại đại hội lần thứ V (3-
1982), Đảng ta đã nhận định: “Đất nước ta đang ở trọng tình thế vừa có hòa bình vừa 
phải đương đầu với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt”. Và do chủ quan cũng 
như nóng vội, muốn tiến nhanh tới chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn đã khiến 
nước ta phải đối mắt với những khó khăn, thách thức về kinh tế - xã hội.       
Chương 2: Đường lối đối ngoại của Đảng giai đoạn 1975 - 1986 
I. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng qua 2 Đại hội 
1.Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng tại Đại hội IV 
Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) tại Đại hội IV (tổ 
chức vào tháng 12 năm 1976) đã được đề ra trong Báo cáo chính thức của Ban Chấp 
hành Trung ương Đảng. Đây là đường lối chính thức của Đảng Cộng sản Việt 
Nam trong quá trình xây dựng đất nước và phát triển kinh tế sau chiến tranh Việt Nam. 
Theo đó, ĐCSVN cam kết thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, 
hữu nghị, đối tác bình đẳng và phát triển. Để đạt được mục tiêu này, Đảng đề xuất các 
chính sách và biện pháp sau: 
1. Tăng cường sự đoàn kết với các nước có cùng chủ trương chính trị, xã hội,kinh 
tế với Việt Nam và các nước chủ chốt trên thế giới. 
2. Phát triển quan hệ đối tác với các nước phương Tây, trong đó có việc nối lạiquan 
hệ với Hoa Kỳ, thực hiện các chính sách hòa bình và phát triển kinh tế. 
3. Tăng cường quan hệ với các nước Xô Viết, Trung Quốc, Triều Tiên, Cubavà 
các nước Cộng sản khác. 
4. Đẩy mạnh hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới, đặc biệt làcác 
nước Đông Nam Á và các nước đang phát triển. 
5. Thúc đẩy quan hệ với các tổ chức quốc tế, đặc biệt là các tổ chức Liên HợpQuốc, 
Hội đồng An ninh, Tổ chức Hiệp ước Bình đẳng Tân ương và Tổ chức Bảo vệ  Nhân quyền.     
Tóm lại, Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội IV nhấn mạnh 
vào việc tăng cường quan hệ đối tác, phát triển kinh tế và hòa bình, cùng với việc giữ 
vững độc lập, tự chủ và chủ trương xã hội chủ nghĩa. 
Tuy nhiên, Từ giữa năm 1978, Đảng đã điều chỉnh một số chủ trương, chính sách 
đối ngoại như: chú trọng củng cố, tăng cường hợp tác về mọi mặt với Liên Xô - coi 
quan hệ với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; nhấn 
mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào trong bối cảnh vấn đề 
Campuchia đang diễn biến phức tạp; chủ trương góp phần xây dựng khu vực Đông 
Nam Á hòa bình, tự do, tập trung và ổn định; đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế  đối ngoại. 
2. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng tại Đại hội V 
Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) tại Đại hội V 
được đề ra trong Báo cáo chính thức của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 
được tổ chức vào tháng 3 năm 1982. Đây là đường lối chính thức của Đảng trong giai 
đoạn tiếp theo của quá trình đổi mới và phát triển kinh tế. 
Theo đó, ĐCSVN cam kết thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa 
bình, hữu nghị, đối tác bình đẳng và phát triển, tăng cường quan hệ đối tác với các 
nước, các tổ chức quốc tế, phát triển kinh tế, đóng góp tích cực vào công cuộc xây 
dựng và bảo vệ nền độc lập, chủ quyền và hòa bình của Tổ quốc. 
Nội dung cụ thể của đường lối đối ngoại tại Đại hội V gồm có: 
1. Phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân: Bảo đảm đất nước an ninh,độc 
lập, phát triển kinh tế, thúc đẩy cải cách kinh tế, tăng cường đầu tư và hợp tác 
quốc tế, nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng đất nước phát triển.     
2. Tăng cường quan hệ với các nước, tổ chức quốc tế: Tăng cường quan hệ vớicác 
nước, tổ chức quốc tế, đặc biệt là các nước Xô Viết, Trung Quốc, các nước Đông 
Nam Á, châu Á, châu Âu, Mỹ, Canada, Úc và New Zealand. 
3. Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế: Tăng cường hợp tác với các tổchức 
quốc tế, đặc biệt là Liên Hiệp Quốc, các tổ chức tài chính quốc tế và các tổ chức  kinh tế quốc tế. 
4. Xây dựng quan hệ với các nước đang phát triển: Xây dựng quan hệ với cácnước 
đang phát triển, đặc biệt là các nước trong Liên minh Nam bán cầu, phát triển 
hợp tác với các nước có tiềm năng phát triển lớn. 
5. Tham gia vào các hoạt động toàn cầu: Tham gia vào các hoạt động toàn cầunhư 
giải quyết tranh chấp quốc tế, đóng góp vào hoạt động của Liên Hiệp Quốc và 
các tổ chức quốc tế khác, tham gia vào các hiệp định quốc tế về kinh tế, thương 
mại, đầu tư, khoa học kỹ thuật, văn hóa, giáo dục, xã hội... 
6. Bảo vệ độc lập, chủ quyền và hòa bình của Tổ quốc: Đảm bảo an ninh quốc gia, 
bảo vệ độc lập, chủ quyền và hòa bình của Tổ quốc, giữ vững quan hệ hữu nghị 
với các nước láng giềng, đấu tranh để chấm dứt chiến tranh, xây dựng và giữ 
gìn hòa bình trong khu vực và trên thế giới. 
II. Triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1975 -1986 
Giai đoạn 1975-1986: Đây là thời kỳ ngoại giao phục vụ khôi phục và phát triển 
kinh tế sau chiến tranh và bảo vệ Tổ quốc. Những năm đầu sau chiến tranh, Việt Nam 
đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hàng chục nước, nhất là các nước tư bản chủ nghĩa, 
tranh thủ được sự giúp đỡ về vật chất của nhiều quốc gia, các tổ chức quốc tế nhằm 
khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh. Việt Nam gia nhập Liên Hợp Quốc 
(9/1977), tham gia Hội đồng tương trợ kinh tế (6/1978), ký Hiệp ước hữu nghị và Hợp 
tác với Liên Xô (11/1978). Tuy nhiên, thời kỳ hoà bình xây dựng đất nước không dài, 
Việt Nam đã buộc phải đưa quân vào Campuchia, giúp nhân dân Campuchia đập tan     
chế độ diệt chủng và bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc gia. Khôi phục lại tình đoàn kết 
chiến đấu giữa ba nước Đông Dương. Đó là nguyên nhân trực tiếp (cái cớ) dẫn đến 
chiến tranh biên giới với Trung Quốc (2/1979) và việc Trung Quốc, các nước phương 
Tây, ASEAN bao vây, cô lập, cấm vận Việt Nam. 
1. Mối quan hệ Việt Nam và các nước khác 
a.Việt Nam - Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa 
Trong 10 năm trước đổi mới, mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước 
xã hội chủ nghĩa được tăng cường, đặc biệt là với Liên Xô. Đảng đã nêu cao chủ 
trương đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô như “hòn đá tảng trong chính sách 
đối ngoại”, ”là nguyên tắc, là chiến lược” trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà  nước Việt Nam.  - 
Ngày 29/6/1978, Việt Nam gia nhập hội đồng tương trợ kinh tế khối ( SEV ): 
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và hoàn thành sứ mệnh 
thống nhất đất nước, Việt Nam bước vào công cuộc xây dựng lại đất nước, song gặp 
phải muôn vàn khó khăn không những do hậu quả nặng nề về chính trị, kinh tế - xã 
hội do chiến tranh để lại, mà còn do tác động tiêu cực của quan hệ giữa các nước lớn. 
Trong bối cảnh đó, tháng 6-1978, Việt Nam quyết định tham gia Hội đồng Tương trợ 
kinh tế (khối SEV) do Liên Xô đứng đầu. Trong thời gian hoạt động, Hội đồng tương 
trợ kinh tế (SEV) đã có những giúp đỡ to lớn đối với sự phát triển của các nước thành 
viên nhất là Cuba và Việt Nam. Trong đó Việt Nam là nước yếu được cưu mang giúp 
đỡ từ 9 nước anh em. Từ khi gia nhập cho đến năm 1987, Hội đồng tương trợ kinh tế 
(SEV) đã hỗ trợ cho Cuba đến gần 4 tỷ US$, cho Việt Nam 2 tỷ (50% viện trợ quân 
sự) và cho Mông Cổ 1 tỷ. .Viện trợ hàng năm và kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam 
với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong khối SEV đều tăng.      - 
Ngày 3/11/1978, Việt Nam ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện với 
Liên Xô (Văn kiện hợp tác cấp độ cao nhất, toàn diện nhất trong lịch sử quan hệ song  phương): 
Hiệp ước năm 1978 phản ánh tầm quan trọng của mối quan hệ cũng như sự gắn 
bó chặt chẽ, mật thiết giữa Việt Nam và Liên Xô, đặc biệt phản ánh lòng tin cao giữa 
hai Đảng, hai Nhà nước và tình hữu nghị bền chặt giữa nhân dân hai nước. Bản Hiệp 
ước năm 1978 gồm 9 Điều, với nội dung và tinh thần chủ đạo trong tất cả những Điều 
đó là Liên Xô sẽ tiếp tục hợp tác, giúp đỡ, hỗ trợ Việt Nam về mọi mặt theo nguyên 
tắc tương trợ anh em và tinh thần đoàn kết với Việt Nam là mệnh lệnh của cả trái tim 
và trí tuệ. Trong suốt thập niên 1980, Việt Nam đã nhận được gần 3 tỷ USD/năm viện 
trợ kinh tế và quân sự của Liên Xô và thực hiện hầu hết các giao dịch thương mại với  Liên Xô và khối Comecon. 
Sau khi Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất, nhất là từ khi Việt Nam trở 
thành thành viên chính thức của hội đồng tương trợ kinh tế, quan hệ giữa Việt Nam 
với các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, có những bước phát triển mới mạnh mẽ trên 
nhiều lĩnh vực. Việt Nam đã ký một loạt hiệp ước hữu hữu nghị, hợp tác với các nước 
xã hội chủ nghĩa, theo đó việc hợp tác trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, 
khoa học, kỹ thuật và được triển khai thực hiện với những kết quả đáng khích lệ.  b.Việt Nam - Lào 
Việt Nam, Lào là hai nước láng giềng cùng trên bán đảo Đông Dương, cùng 
dòng sông Mê Công, cùng kẻ thù chung là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược từ 
cuối thế kỷ XIX cho đến năm 1975. Sau năm 1975, quan hệ Việt Nam và Lào bước 
sang một trang hoàn toàn mới: từ liên minh chiến đấu chung một chiến hào sang hợp 
tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập chủ quyền. 
Trong giai đoạn 1976 - 1985, mặc dù gặp nhiều khó khăn như: hậu quả nặng nề 
của chiến tranh để lại, kinh tế lạc hậu, thế lực thù trong, giặc ngoài luôn tìm cách chia 
rẽ, nhưng với nỗ lực và sự đoàn kết, hai nước Việt Nam – Lào vẫn đạt được nhiều     
thành công lớn trên mọi lĩnh vực. Sau ngày đất nước thống nhất, mặc dù phải giải 
quyết nhiều khó khăn do hậu quả chiến tranh, nhưng Việt Nam luôn nhận thức sâu sắc 
mối quan hệ tương hỗ của cách mạng hai nước trong giai đoạn mới: “Lào có ổn định 
thì Việt Nam mới ổn định và ngược lại”. Vì vậy, Việt Nam đã cố gắng đáp ứng các 
yêu cầu chi viện và hợp tác với Lào một cách toàn diện, theo tinh thần vô tư “không 
tính thiệt hơn”. 
Sự giúp đỡ lẫn nhau về các mặt: 
- Lãnh thổ: Sau 8 năm tiến hành, đến ngày 24-1-1986, việc phân vạch và cắm mốc 
trên thực địa toàn tuyến biên giới Việt - Lào dài 2.067 km đã hoàn thành. 
- Quốc phòng-an ninh: Tháng 12-1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân 
cách mạng Lào ra quyết nghị: tiếp tục đề nghị Việt Nam đưa lực lượng quân đội 
sang hỗ trợ quân đội Lào nhằm ổn định tình hình, ngăn ngừa các nguy cơ chống 
phá của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước. Hai bên đã ký Hiệp 
ước phòng thủ ngày 22-9-1977. Tháng 6-1978, Binh đoàn 678 (gồm ba sư đoàn 
bộ binh: 324, 968 và 337) được thành lập và nhận nhiệm vụ quốc tế tại Lào. 
- Kinh tế, khoa học: thay đổi từ viện trợ không hoàn lại và cho vay là chủ yếu sang 
giảm dần viện trợ và cho vay, bước đầu đẩy mạnh hợp tác sản xuất kinh doanh 
bình đẳng cùng có lợi. 
- Thương mại: từ năm 1976 – 1981, trao đổi hàng hóa chính ngạch được bắt đầu 
theo phương thức bao cấp bằng ngân sách nhà nước mỗi bên. Hiệp định thương 
mại Việt Nam - Lào 5 năm (1981 – 1985) được ký kết, kèm theo nghị định thư 
thương mại hàng năm, đã tạo hành lang pháp lý cho việc trao đổi buôn bán giữa  hai nước… 
- Văn hóa: Hàng năm, hai bên thường xuyên lập kế hoạch giao lưu văn hoá nghệ 
thuật dưới các hình thức: trao đổi đoàn biểu diễn, tổ chức sáng tác mỹ thuật, tìm 
hiểu về chủ đề đất nước và con người, hợp tác xuất bản, in và phát hành sách báo,     
văn hoá phẩm, phim ảnh. Phối hợp tuyên truyền về mối quan hệ đặc biệt Việt 
Nam – Lào, Lào-Việt Nam, tổ chức kỷ niệm những ngày lễ lớn để tăng cường 
hiểu biết, gắn bó giữa nhân dân hai nước. 
Trong 10 năm (1976-1985), thế và lực của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ngày 
càng được củng cố vững chắc. Sự trưởng thành về mọi mặt của Lào đã thể hiện sự tin 
cậy lẫn nhau giữa Lào và Việt Nam và hiệu quả của mối quan hệ đặc biệt giữa hai  nước.  c. Việt Nam - Trung Quốc 
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng cùng chung biên giới đất liền và 
biển. Nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc có quan hệ hữu nghị truyền thống 
lâu đời, đã từng đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình đấu tranh cách  mạng. 
Việt Nam luôn ghi nhớ và biết ơn sâu sắc Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung 
Quốc về sự ủng hộ mạnh mẽ về chính trị và tinh thần, sự giúp đỡ to lớn và quan trọng 
cả về vật chất trong hai cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân Việt Nam và luôn 
được coi trọng việc gìn giữ quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc. 
Tuy nhiên sau khi giúp đất nước Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, mối 
quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc diễn biến theo chiều hướng tiêu cực. Mà đỉnh 
điểm về mối quan hệ không bình thường giữa hai nước thời kỳ này là cuộc chiến tranh 
biên giới năm 1979. Ngày 17 tháng 2 năm 1979, 60 vạn quân Trung Quốc tiến công 
sâu vào lãnh thổ Việt Nam tại các tỉnh biên giới phía Bắc Việt 
Nam. Trung Quốc đã chuẩn bị trước cho cuộc chiến xâm chiếm Việt Nam, leo bước,  thang từng t ừ
 gây áp lực trong vấn đề Campuchia, dựng lên "sự cố Hoa kiều" 
và chuẩn bị về binh lực đi đôi với việc tuyên truyền. Đáp trả, Việt Nam đã  chiến đấu anh 
dũng để bảo vệ chủ quyền và chính nghĩa. Cuộc chiến kết thúc khi Trung Quốc rút  11     
quân khỏi Việt Nam. Tuy kéo dài không lâu, nhưng nó đã gây hậu quả nghiêm 
trọng về người cũng như là kinh tế đối với Việt Nam. 
Sau cuộc chiến, Việt Nam kiên trì đề nghị khôi phục quan hệ hữu nghị và láng 
giềng với Trung Quốc. Ngày 18/4/19779, Việt nam và Trung Quốc bắt bắt đầu đàm 
phán tại Hà Nội. Tiếp theo là vòng hai tại Bắc Kinh từ ngày 8/6/1979. Tại cuộc 
đàm phán này, Đoàn Việt Nam đưa ra đề nghị về những nguyên tắc và nội dung 
chủ yếu cho một giải pháp về những vấn đề trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung 
Quốc. Đề nghị nêu những biện pháp cấp bách nhằm đảm bảo hòa bình, ổn định ở vùng 
biên giới hai nước trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình , giải quyết các 
vấn đề biên giới lãnh thổ trên cơ sở tôn trọng đường biên giới lịch sử do các hiệp ước 
Trung Pháp năm 1887 và 1895 hoạch định. Về phía Trung Quốc, họ đưa ra lập trường 
tám điểm, yêu cầu Việt Nam công nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc, rút 
quân khỏi Trường Sa, thay đổi chính sách đối với Lào 
Campuchia, nêu quan điểm của Trung Quốc về giải quyết vấn đề Campuchia. Cuộc 
họp chi đạt được việc trao trả người bị bắt. Đầu năm 1980 đàm phán đình chỉ. 
 Lập trường của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc đã được thể hiện trong 
Báo cáo chính trị trình bày tại đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam 
lần thứ V, 1982: “ kiên trì chính sách hữu nghị và láng giềng tốt với nhân dân 
Trung Quốc, chúng ta chủ trương khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước trên 
cơ sở toàn các nguyện tắc cùng tồn tại hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền và 
vẹn lãnh thổ của nhau và giải quyết những vấn đề tranh chấp bằng con đường thương 
lượng. hàm đề Trong vòng bảy năm (1980 -1987) Việt Nam đã 17 lần gửi công 
nghị nối lại đàm phán Việt Trung. 
d. Việt Nam mở rộng hợp tác với các nước trên trên thế giới 
Mở rộng quan hệ với các nước tư bản phát triển và các tổ chức quốc tế: Trong 
thời gian từ năm 1976 đến 1986, Việt Nam Nam đẩy mạnh quan hệ với các nước tư 
bản chủ nghĩa. Từ năm 1976 đến trước khi xảy ra vấn đề Campuchia, nhiều đoàn cấp     
cấp cao của Việt Nam đi thăm các nước Tây Âu, Bắc Âu, Nhật Bản nhằm mở ra quan 
hệ kinh tế, thương mại, văn hóa, khoa học với các nước thuộc khu vực này. Đây là 
thời kỳ Việt Nam vay được vốn và tranh thủ được viện trợ không hoàn lại, viện trợ 
nhân đạo, thiết bị kỹ thuật của một số nước tư bản phương Tây. Từ sau ngày giải 
phóng, Việt nam đã tham gia 33 tổ chức quốc quốc tế. Năm 1977, Việt Nam chính 
thức gia nhập Liên hợp quốc. Sau khi nổ ra cuộc cuộc khủng hoảng Campuchia, từ 
giữa năm 19779 quan hệ Việt Nam và các nước tư bản phát triển này giảm sút hẳn, 
đối với một số nước, quan hệ trở nên băng giá. Ngân hàng hàng thế thế giới và Ngân 
hàng châu Á cũng ngừng cung cấp vốn cho Việt Nam. 
Các nước dân tộc chủ nghĩa và không liên kết: Trong giai đoạn này, Việt Nam 
đã thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước thế giới thứ ba: Nêpan, Manđivơ, Thổ 
Nhĩ Kỳ,.. Trong những năm 1978 -1980, các đoàn chính thức do Phó Chủ tịch 
Nguyễn Hữu Thọ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp dẫn đầu đã thăm 19 nước Trung 
Đông - châu Phi. Với Ấn Độ và một số nước Arập tiến bộ có tiềm lực kinh tế, Việt 
Nam đã phát triển quan hệ hợp tác, tranh thủ vốn, vay dầu và lương thực, đồng thời 
học hỏi họ trong vấn đề khai thác dầu khí. Trong thời gian Mỹ và một số nước phương 
Tây thi hành chính sách bao vây, cấm vận đối với Việt Nam,nhiều nước dân tộc chủ 
nghĩa, nhiều nước thành viên Phong trào Không liên kết vẫn duy trì quan hệ tốt với 
Việt Nam, đặc biệt là Ấn Độ, Irắc, Lybi,.. Tại các các diễn đàn quốc tế quan trọng như 
hội nghị cấp cao không liên kết lần thứ năm năm 1976 tại Sri Lanka , hội nghị cấp cao 
lần thứ sáu năm năm 1979 tại La Habana, Việt nam đã tích cực và chủ động phối hợp 
với các nước thành viên tích cực của phong trào nhằm thực hiện mục tiêu của phong 
trào và có lập trường đúng đắn trong vấn đề Campuchia. 
2. Mối quan hệ Việt Nam với Campuchia 
Việt Nam – Campuchia là hai nước láng giềng núi liền núi, sông liền sông. Trong 
suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước có những giai đoạn hai nước chung thân 
phận lịch sử, đều là nước thuộc địa và chịu sự bóc lột kiệt quệ của chủ nghĩa thực dân, 
đế quốc. Tình hữu nghị, hợp tác, láng giềng tương trợ là một trong những vấn đề lớn     
đối với sự ổn định, phát triển của cả hai nước. Sau năm 1975, do nhiều nguyên nhân 
khác nhau, trong đó có sự hiểu biết không đầy đủ, đúng đắn của nhà nước Campuchia 
Dân chủ về vấn đề chủ quyền lãnh thổ và có cả sự ủng hộ, xúi giục của các thế lực 
nước ngoài nhằm gây bất ổn chính trị tại khu vực Đông Dương, nhà nước Campuchia 
Dân chủ đã thực thi việc leo thang chính sách đối ngoại gây căng thẳng đối với Việt  Nam. 
Ngay sau khi giải phóng Phnom Penh (tháng 4 năm 1974), các nhà lãnh đạo cấp 
cao của Đảng và nhà nước Campuchia đã phủ nhận sự thật lịch sử, thậm chí đổi trắng 
thay đen, vu cáo Việt Nam xâm lược, muốn làm cho Campuchia trở thành “nô lệ của 
Việt Nam”. Đây là một âm mưu đối ngoại lớn đi song song với kế hoạch diệt chủng 
bên trong của các nhà lãnh đạo đảng cộng sản Campuchia, làm cho mối quan hệ giữa 
hai nước ngày càng căng thẳng và gây nên tình trạng bất ổn liên tục ở biên giới Tây  Nam nước ta. 
Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc thắng lợi trên bán 
đảo Đông Dương, chính quyền Campuchia dân chủ do Pol Pot cầm đầu thực hiện 
chính sách diệt chủng đối với đồng bào của họ, đồng thời tiến hành những hành động 
phiêu lưu quân sự chống Việt Nam. Ngày 1/5/1975 , tập đoàn Pol Pot đã dùng lực 
lượng quân sự tấn công, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam từ Hà Tiên đến Tây Ninh, tiến 
hành giết hại Việt kiều trên đất Campuchia. Sau những sự kiện nghiêm trọng đó, hai 
bên nhiều lần trao đổi những đoàn đại biểu cấp cao của Đảng và Nhà nước để thảo 
luận các vấn đề liên quan đến biên giới. Tuy vậy, từ năm 
1977, quan hệ giữa hai bên ngày càng xấu đi do những hành động  xâm lấn tăng 
cường của phía Campuchia. Trước tình hình nghiêm trọng đó, ngày 7/6/1977, ban 
chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam gửi thư cho 
Ban chấp hành Trung ương và chính phủ Campuchia Dân chủ đề nghị có cuộc hội ngộ 
đàm phán càng sớm càng tốt giữa lãnh đạo cấp cao 2 đảng, 2 chính phủ. Ngày 
18/6/1977, phía Campuchia Dân chủ trả lời: “ Chờ một thời gian cho tình hình bình 
thường trở lại và những xung đột ở biên giới được chấm dứt sẽ gặp gỡ cấp cao.” Một 
mặt từ chối thương lượng, mặt khác Pol Pot tiếp tục cho quân tiến công biên giới Việt     
Nam. Trước những hành động xâm lấn, giết hại đồng bào Việt Nam ở biên giới Tây 
Nam, các lực lượng vũ trang Việt Nam sử dụng quyền tự vệ đánh trả. 
Ngày 31 tháng 12 năm 1977, chính quyền Pol Pot chính thức ra tuyên bố vu cáo 
Việt Nam xâm lược campuchia, cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Cùng ngày, 
chính phủ Việt Nam ra tuyên bố vạch rõ thái độ và hành động của phía Campuchia 
khiêu khích và tấn công xâm phạm lãnh thổ Việt Nam, việc Việt Nam đánh trả là hành 
động tự vệ và tỏ thiện chiến muốn giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước trên tình 
thần hữu nghị anh em. Campuchia bác bỏ đề nghị thương lượng hòa bình. Tiếp theo 
đó, Việt Nam liên tiếp đưa ra các đề nghị đàm phán, đặc biệt quan trọng là Tuyên bố 
ngày 5 tháng 2 năm 1978 của chính phủ cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về quan 
hệ Việt Nam Campuchia, bày tỏ thiện chí thật sự, mong muốn chấm dứt xung đột, giải 
quyết vấn đề biên giới giữa hai nước bằng thương lượng và hòa bình. Đề nghị ba điểm 
của Việt Nam được dư luận thế giới hoan nghênh, tuy nhiên phía Pol Pot bác bỏ đề 
nghị trên. Mọi cố gắng đề nghị thương lượng của Việt nam đều bị bác bỏ, kể cả các 
đề nghị thông qua trung gian của Liên Hợp Quốc và phong trào Không liên kết. Trong 
khi đó, những cuộc tiến công của quân Pol Pot giết hại người Việt nam ở biên giới 
ngày càng nghiêm trọng, điển hình là vụ thảm sát ở xã Ba Chúc (An Giang). 
Trung tuần tháng 12 tháng 1978, chính quyền Pol Pot tập trung 19 trong tổng số 
25 sư đoàn chủ lực tấn công Việt Nam ở khu vực biên giới Tây Nam. Ngày 
25/12/1978, đáp lại lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia 
được thành lập vào ngày 2/12/1978, do ông Henhsomrin làm chủ tịch, các lực lượng 
quân đội Việt Nam đã phối hợp với các lực lượng vũ trang của Mặt trận phản công. 
Ngày 2 tháng Giêng 1979, toàn bộ cùng phía đông sông mê Kông được giải phóng. 
Ngày 7 tháng giêng 1979, liên quân giải phóng thủ đô Phnom Penh. Ngày 10 tháng 
giêng 1979, nhà nước cộng hòa nhân dân Campuchia ra đời. Lực lượng của Pol Pot bị 
tiêu diệt một phần, phần lớn tan rã tại chỗ hoặc chạy sang các nước láng giềng phía 
tây. Các lực lượng còn lại của Pol Pot về su tập hợp lại, chuyển sang đánh du kích. 
Phản ứng quốc tế đối với việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia không thuận lợi 
cho Việt Nam. Chỉ có Liên Xô, Lào và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu ra tuyên     
bố ủng hộ. Mỹ, Trung Quốc, các quốc gia ASEAN,... ra tuyên bố lên án Việt Nam xâm 
lược, nhiều thế lực thù địch lợi dụng con bài Campuchia, ra sức chống phá và cô lập 
Việt Nam trên trường quốc tế, thực hiện chính sách bao vây cấm vận nhằm làm suy 
yếu và tạo sức ép với Việt Nam. 
Theo yêu cầu của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia, Việt Nam để lại 
một lực lượng quân tình nguyện giúp nhân dân Campuchia ổn định tình hình và xây 
dựng lại đất nước. Từ năm 1982, hàng năm một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam 
ở Campuchia được rút về nước. 
Sau khi thành lập nhà nước mới, hai nước đã ký hiệp ước hòa bình, hữu nghị và 
hợp tác vào tháng 2 năm 1979. Hiệp ước góp phần khôi phục mối quan hệ hữu nghị 
láng giềng thân thiện và hợp tác giữa hai nước. 
Nhận xét mqh VN - Campuchia: 
Việc nhà nước Campuchia Dân chủ thực thi chính sách thù địch đối với Việt 
Nam bất chấp những nỗ lực hàn gắn, giải quyết tranh chấp bằng đàm phán, thương 
lượng hòa bình của Đảng Cộng sản Việt Nam đã để lại một hậu quả rất lớn, làm tình 
hình khu vực bất ổn kéo dài, gây tổn hại cho đời sống nhân dân hai nước. 
Thực tế, cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam là cuộc chiến tranh bảo vệ 
sự toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là cuộc chiến đấu bảo vệ 
sinh mạng - quyền con người của cả hai dân tộc Campuchia và Việt Nam; là cuộc 
chiến tranh chính nghĩa - cuộc chiến tranh tự vệ chính đáng, giáng trả kẻ thù xâm lược, 
ngoài ra không có mục tiêu nào khác. 
Nếu Việt Nam ích kỷ thì họ chỉ cần đánh bật quân Khmer Đỏ ngược trở lại lãnh 
thổ Campuchia, đóng chặt biên giới, không cho người tị nạn chạy sang, để mặc cho 
“nhà hàng xóm” tàn lụi vì hỏa hoạn. Thực tế vào năm 1979, kinh tế Việt Nam gặp 
muôn vàn khó khăn còn các thế lực quốc tế đang nhăm nhe kiếm cớ phá hoại và can 
thiệp vào Việt Nam. Xét từ góc độ lợi ích thuần túy thì một cuộc chiến kéo dài với 
nước khác tại thời điểm ấy là bất lợi cho Việt Nam.     
Bên cạnh đó, việc quân tình nguyện Việt Nam sang Campuchia và ở lại làm 
nhiệm vụ quốc tế là cần thiết nhằm ngăn chặn chế độ diệt chủng khôi phục trở lại. 
Điều này đã được các lãnh đạo của Campuchia khẳng định. Chiến tranh bảo vệ Tổ 
quốc ở biên giới Tây Nam xuất phát từ nhu cầu tự vệ chính đáng, có ý nghĩa lịch sử 
đặc biệt to lớn trong việc bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh  thổ Việt Nam. 
Đối với nhân dân Campuchia, việc Việt Nam đưa quân sang Campuchia đã xóa 
bỏ chế độ diệt chủng của tập đoàn Pol Pot, cứu nhân dân Campuchia ra khỏi thảm họa 
diệt chủng, giành lại quyền được sống, quyền làm người và bước vào kỷ nguyên độc 
lập, tự do thật sự, hồi sinh đất nước và dân tộc, xây dựng cuộc sống hòa bình, tươi  đẹp. 
Chiến thắng của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam của quân 
dân ta và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng Pol Pot là chiến 
thắng của tình đoàn kết, hữu nghị truyền thống Việt Nam - Campuchia. Chiến thắng 
chế độ diệt chủng Pol Pot đã góp phần giữ vững hòa bình, ổn định ở khu vực Đông 
Nam Á và trên thế giới. Với thắng lợi ngày 7-1-1979, quan hệ hai nước Việt Nam - 
Campuchia chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ khôi phục, vun đắp tình đoàn kết, hữu 
nghị truyền thống và hợp tác toàn diện giữa hai nước dựa trên nguyên tắc hòa bình, 
tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính 
đáng của hai bên vì sự phát triển và phồn vinh của mỗi nước.     
Chương 3: Kết quả và ý nghĩa; hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm 
I. Kết quả và ý nghĩa  1.Kết quả 
Trong mười năm trước đổi mới, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước xã hội 
chủ nghĩa được tăng cường, trong đó đặc biệt là với Liên Xô:  - 
Ngày 29-6-1978, Việt Nam gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (khối SEV). Viện 
trợ hàng năm và kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam với Liên Xô và các nước xã 
hội chủ nghĩa khác trong khối SEV đều tăng.  - 
Ngày 31-11-1978, Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên  Xô.  - 
Từ năm 1975 đến năm 1977, nước ta đã thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với 23  nước  - 
Ngày 15-9-1976, Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức Quỹ tiền tệ quốc  tế (IMF)  - 
Ngày 21-9-1976, tiếp nhận ghế thành viên chính thức Ngân hàng thế giới (WB)  - 
Ngày 23-9-1976, gia nhập Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)  - 
Ngày 20-9-1977, tiếp nhận ghế thành viên tại Liên hợp quốc; tham gia tích cực các 
hoạt động trong phong trào Không liên kết...  - 
Kể từ năm 1977, một số nước tư bản mở quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam.  - 
Với các nước khác thuộc khu vực Đông Nam Á: Cuối năm 1976, Philippin và Thái 
Lan là nước cuối cùng trong tổ chức ASEAN thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt  Nam      2. Ý nghĩa 
Những kết quả đối ngoại trên đây có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách mạng Việt  Nam:  - 
Sự tăng cường hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan 
hệ hợp tác kinh tế với cả các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa đã tranh thủ 
được nguồn viện trợ đáng kể, góp phần khôi phục đất nước sau chiến tranh  - 
Việc trở thành thành viên chính thức của Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới, 
Ngân hàng phát triển châu Á và việc trở thành thành viên chính thức của Liên hợp 
quốc, tham gia tích cực vào các hoạt động của Phong trào không liên kết, đã tranh 
thủ được sự ủng hộ, hợp tác của các nước, các tổ chức quốc tế, đồng thời phát huy 
được vai trò của nước ta trên trường quốc tế.  - 
·Việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước còn lại trong tổ chức ASEAN đã 
tạo thuận lợi để triển khai các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau, nhằm xây 
dựng Đông Nam Á trở thành khu vực hoà bình, hữu nghị và hợp tác. 
II. Hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm  1.Hạn chế 
Bên cạnh những kết quả nêu trên, nhìn tổng quát, từ năm 1975 đến năm 1986, 
quan hệ quốc tế của Việt Nam gặp những khó khăn trở ngại lớn. Việt Nam quá chú 
trọng, đề cao Liên Xô và nhất quán nhấn mạnh quan hệ thủy chung với Liên Xô là 
“hòn đá tảng” trong chính sách đối ngoại của mình, do đó Việt Nam đã rơi trạng thái 
cô lập, đối đầu với các nước lớn khác. Bên cạnh đó, từ cuối thập kỷ 70 thế kỷ XX, lấy 
cớ “Sự kiện Campuchia” các nước ASEAN và một số nước khác thực hiện bao vây, 
cấm vận Việt Nam ... nên chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước trong 
khu vực và thế giới chưa được hiện thực hóa một cách trọn vẹn, dẫn đến những khó 
khăn, vướng mắc trong việc xác lập các mối quan hệ quốc tế.