



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61601299
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ -------***-------
BÀI THU HOẠCH MÔN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Chủ đề: Giá trị lịch sử và nhân văn trong bản di chúc
của chủ tịch Hồ Chí Minh?
Mã lớp bài tập : 142959
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Thu Hà Thành viên: Trần Ngọc Anh 20212284 Nguyễn Công Hoàn 20212302 Ngô Thị Khánh Ly 20211878 Nguyễn Thị Thanh Tâm 20201725
Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 2023 lOMoAR cPSD| 61601299 1 MỤC LỤC I.
Giới thiệu về bản di chúc của của Chủ tịch Hồ Chí Minh……………………3 1. Hoàn cảnh ra
đời…………………………………………………………........3 2. Nội dung cốt lõi của di
chúc…………………………………………………...5
3. Giá trị cốt lõi của Di chúc……………………………………………………..5 II.
Giá trị lịch sử và nhân văn trong bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí
Minh…………………………………………………………………………....7
1. Giá trị lịch sử trong bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh …………………7
2. Giá trị nhân văn trong bản di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh…………… 14
III. Những thành tựu trong 50 năm thực hiện di chúc của chủ tịch Hồ Chí
Minh…………………………………………………………………………..18
1. Giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa
xã hội………………………………………………………………………….18
2. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bước đầu
thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đem lại phồn vinh cho đất nước,
hạnh phúc cho nhân dân…………………………………………………….19
3. Xây dựng Đảng thực sự đoàn kết, trong sạch, vững mạnh, tăng cường giáo
dục chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong Đảng và trong
toàn xã hội……………………………………………………………………19
4. Quan tâm chăm lo, xây dựng đào tạo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau……………………………………………………………………………..2 0
5. Xây dựng tinh thần quốc tế vô sản chân chính, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, nâng cao vị thế đất nước trong hội nhập quốc tế….21 IV.
Bài học qua 50 năm thực hiện di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh……. ….21
1. Bài học về tinh thần lạc quan và bản lĩnh khoa học cách mạng của
Đảng…………………………………………………………………………..21
2. Bài học về sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng……………………………21
3. Bài học về thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê
bình……………………………………………………………...22
4. Bài học về sự quan tâm đặc biệt sâu sắc tới thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất
nước……………………………………………………………….23
5. Bài học về chăm lo, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân…….....23
6. Bài học về tinh thần cống hiến cho lý tưởng cách mạng…………………....23 V.
Tiếp tục thực hiện di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện
nay…………………………………………………………………………….23
1. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi suy
thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên………23
2. Đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên…………………….24
3. Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế
nhanh, bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân..24 lOMoAR cPSD| 61601299
4. Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo, rèn luyện cán bộ, đáp ứng thực hiện nhiệm vụ cách
mạng…………………………………………………………………24
5. Mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế Việt Nam trong hội nhập quốc
tế………………………………………………………………………………25 VI.
Liên hệ bản thân……………………………………………………………..25 I.
Giới thiệu về bản di chúc của của Chủ tịch Hồ Chí Minh
1. Hoàn cảnh ra đời
- Năm 1965, nhân dịp sinh nhật lần thứ 75, vào lúc 9 giờ sáng ngày 10-5-1965 Bác
viết bản Di chúc với tiêu đề “Tuyệt đối bí mật” gồm ba trang, do chính Bác đánh
máy, ở cuối đề ngày 15-5-1965. Đây là bản Di chúc hoàn chỉnh có chữ ký của Bác
và bên cạnh có chữ ký của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng. lOMoAR cPSD| 61601299
- Các năm 1966, 1967, Bác không có những bản viết riêng.
- Năm 1968, Bác viết bổ sung thêm một số đoạn, gồm sáu trang viết tay. Trong đó,
Bác viết lại đoạn mở đầu và đoạn nói “về việc riêng” đã viết trong bản năm 1965,
và viết thêm một số đoạn. Đó là những đoạn nói về những công việc cần làm sau
khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi,
như: chỉnh đốn lại Đảng, quan tâm gia đình liệt sĩ, thương bệnh binh, chăm sóc
đời sống của các tầng lớp nhân dân, miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp
tác xã nông nghiệp, xây dựng lại thành phố và làng mạc, khôi phục và phát triển
kinh tế, văn hoá, củng cố quốc phòng, chuẩn bị thống nhất đất nước.
- Ngày 10-5-1969, Bác viết lại toàn bộ đoạn mở đầu Di chúc, gồm một trang viết
tay. Sau đó, trong các ngày từ 11 đến ngày 19-5-1969, Bác còn tiếp tục sửa chữa
bản Di chúc của các năm 1965, 1968, 1969. Đúng 10 giờ ngày 19-5-1969, là kỷ lOMoAR cPSD| 61601299
niệm ngày sinh lần thứ 79 của Bác, Bác đọc lại lần cuối cùng tất cả các bản Di
chúc đã viết trước đó, rồi xếp tất cả bỏ vào phong bì và cất đi…
- Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên được công bố trong Lễ tang của
Người tháng 9-1969, gồm 4 trang in khổ 14,5 cm x 22 cm. Ngày 19-8-1989, Bộ
Chính trị ra Thông báo số 151-TB/TW Về một số vấn đề liên quan đến Di chúc và
ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định Di chúc công bố chính thức
năm 1969 đảm bảo trung thành với bản gốc của Người. Nội dung chủ yếu dựa
theo bản Bác viết năm 1965, trong đó đoạn mở đầu là của bản viết năm 1969, đoạn
về việc riêng là của bản viết năm 1968. Lúc đầu, vì những lý do nhất định, nên
một số vấn đề trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa được công bố, như:
Việc căn dặn của Người về hoả táng thi hài; việc cần làm sau khi cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước thắng lợi; miễn giảm thuế nông nghiệp một năm cho các hợp
tác xã nông nghiệp... Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) đã quyết định
công bố toàn bộ các bản viết Di chúc của Người.
2. Nội dung cốt lõi của Di chúc
- Trước hết nói về Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định truyền thống đoàn kết
chặt chẽ trong Đảng và “cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con
ngươi của mắt mình”; Người yêu cầu “trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi,
thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình” để củng cố và phát triển
đoàn kết và thống nhất trong Đảng. Mỗi cán bộ đảng viên phải thực sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng; giữ gìn Đảng ta thật trong sạch.
- Nói về đoàn viên và thanh niên, Bác nhấn mạnh, “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Đảng cần phải chăm lo giáo dục
đạo đức cách mạng cho họ - những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
“hồng”, vừa “chuyên”. lOMoAR cPSD| 61601299
- Nói về nhân dân lao động, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nhân dân lao động bao
đời chịu đựng gian khổ, bị nhiều áp bức bóc lột của phong kiến, thực dân; nhân dân
ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù, luôn đi theo và rất trung thành với Đảng.
Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm không
ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
- Dự báo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể kéo dài nhưng nhất định sẽ
hoàn toàn thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, sau khi kháng chiến thắng lợi,
ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển đất nước; Đảng và Nhà nước phải
quan tâm chăm lo tới mọi đối tượng trong xã hội, đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
- Về phong trào cộng sản thế giới, Người bày tỏ sự đau lòng vì sự bất hòa của các
đảng anh em. Chủ tịch Hồ Chí Minhmong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp
phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền
tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản có lý, có tình.
- Nói về một số việc riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ tiếc rằng không được phục vụ
Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Người
căn dặn “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng
phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”.
- Mong muốn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc đi xa là toàn Đảng, toàn
dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
3. Giá trị cốt lõi của Di chúc
a. Di chúc là tâm nguyện, tình cảm, ý chí, niềm tin, trách nhiệm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh với Tổ quốc, nhân dân và sự nghiệp cách mạng
- Di chúc là Tâm nguyện của Người: “Suốt đời tôi hết lòng phụng vụ Tổ quốc, phụng vụ
cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì
phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phụng vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn
nữa”. Ý chí, niềm tin, tinh thần lạc quan cách mạng, trách nhiệm với nhân dân của
Người thể hiện sâu sắc ở dự báo về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và
ngày thống nhất đất nước, ở những chỉ dẫn về công việc của sự nghiệp cách mạng
còn dang dở. Di chúc là tâm sự của một người đã suốt đời hy sinh hạnh phúc riêng
tư, hiến dâng trọn cuộc đời cho Tổ quốc và nhân dân; là tấm lòng chung thuỷ với
“các nước anh em” và “bầu bạn khắp năm châu”.
b. Di chúc là công trình lý luận về xây dựng và củng cố Đảng cầm quyền
- Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Đảng ta là Đảng cầm quyền”.
Để đáp ứng được nhiệm vụ lãnh đạo xã hội, Đảng phải luôn vững mạnh về chính trị,
tư tưởng, tổ chức và gắn bó máu thịt với nhân dân, không ngừng nâng cao bản chất
giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ
nam cho mọi hoạt động của mình. Di chúc nêu những vấn đề cốt yếu của công tác
xây dựng Đảng, đó là: Giữ gìn mối đoàn kết trong Đảng, thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo đức cách mạng,
nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng phục vụ nhân dân của mỗi cán bộ, đảng viên. lOMoAR cPSD| 61601299
Công tác chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ chiến lược, là công việc thường xuyên để giữ
vững vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng.
- Sự nghiệp cách mạng là một sự nghiệp bền bỉ, dài lâu, tiếp nối từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Đảng cầm quyền phải chăm lo phát triển lực lượng cho hiện tại và chuẩn
bị cho tương lai một thế hệ trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên”, có như vậy mới thực hiện
thành công lý tưởng xây dựng một xã hội mới, tiến bộ, văn minh. Bác dặn: “Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”, đó
là công việc bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức
rèn luyện đạo đức cách mạng, đào tạo nguồn nhân lực kế tục sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa.
- Cách mạng Việt Nam không thể tách rời cách mạng thế giới. Sự vững mạnh của
Đảng còn được khẳng định trong mối quan hệ đoàn kết chặt chẽ với các đảng cộng
sản và bè bạn quốc tế. Điều Bác dặn trong Di chúc “về phong trào cộng sản thế giới”
chỉ dẫn định hướng quan trọng cho quan hệ đối ngoại của Đảng, đó là nguyên tắc
đoàn kết quốc tế dựa trên “nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô
sản, có lý có tình”.
c. Di chúc là tác phẩm bàn về xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam, là phác thảo lý
luận sự nghiệp đổi mới ở nước ta
- Di chúc là điểm kết tinh tư tưởng của Bác về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, mối quan hệ giữa công
bằng và tiến bộ xã hội, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá
trong xây dựng xã hội mới, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh thời đại,
động lực lợi ích và chăm lo chu đáo tới cuộc sống con người, tư tưởng trọng dân,
coi dân là gốc, là chủ thể của sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước.
- Di chúc như một kế hoạch, một chương trình hành động của toàn Đảng, toàn dân về
sự nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh với những chỉ dẫn về quản lý xã hội
như: đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; sửa đổi chế
độ giáo dục cho phù hợp hoàn cảnh mới; khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế;
phát triển công tác vệ sinh, y tế; chính sách miễn thuế nông nghiệp cho nông dân;
chính sách xã hội, công bằng xã hội...
- Giá trị văn hoá của Di chúc chỉ dẫn con đường, mục tiêu phát triển của nền văn hoá
Việt Nam; trù tính, dự liệu về những cuộc vận động lớn giáo dục văn hoá trong toàn
dân, toàn xã hội, lấy văn hoá chính trị của Đảng Cộng sản cầm quyền và văn hoá
trong thể chế nhà nước - một nhà nước dân chủ pháp quyền của dân, do dân, vì dân
làm sức mạnh tiêu biểu nêu gương thuyết phục nhân dân. Qua lời dặn dò về việc
riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến việc xây dựng một đời sống văn hoá
mới; một lối sống tiết kiệm, không lãng phí; mối quan hệ giữa con người với thiên
nhiên, môi trường sinh thái.
- Di chúc phác thảo những vấn đề quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước. Chủ
tịch Hồ Chí Minh quan niệm, đổi mới là một tất yếu để phát triển; đổi mới là một
cuộc đấu tranh bền bỉ, một quá trình xây dựng gian khổ, “là một công việc cực kỳ to
lớn, nặng nề và phức tạp”, là “cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng,
để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Người yêu cầu, Đảng cần phải có kế hoạch lOMoAR cPSD| 61601299
thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
- Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh, điều kiện nước ta
phải đặc biệt chú trọng phát huy khả năng sáng tạo của dân, “động viên toàn dân, tổ
chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”. II.
Giá trị lịch sử và nhân văn trong bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ thiên tài, nhà văn hóa kiệt xuất của Đảng và dân
tộc ta, trọn đời hy sinh cho sự nghiệp cách mạng vì độc lập dân tộc, hạnh phúc của nhân
dân. Tuy đã đi xa nhưng tình cảm, đạo đức và trí tuệ của Người vẫn mãi dõi theo cùng
dân tộc. Những lời căn dặn và mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Di chúc
vô cùng giản dị mà thiêng liêng, kết tinh tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp, thấm
đẫm tinh thần nhân văn, có giá trị lịch sử và ý nghĩa định hướng sâu sắc cho cách mạng
Việt Nam nói chung và Thanh niên Việt Nam. 50 năm qua, Di chúc của Người với
những giá trị tư tưởng cốt yếu và giá trị nghệ thuật đặc sắc đã trở thành Cương lĩnh hành
động của toàn Đảng, toàn dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như
trong công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1. Giá trị lịch sử trong bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh
- Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một kiệt tác chứa đựng tinh thần cao cả, sâu
sắc nhưng cũng rất gần gũi với dời sống hàng ngày của một nhà cách mạng, nhà tư
tưởng, nhà chính trị, nhà giáo dục và nhà văn hóa lỗi lạc; vừa mang tính triết lý
truyền thống đồng thời cũng chỉ ra con đường tương lai; vừa là cảm nghĩ của một vĩ
nhân nhưng cũng là sự đúc kết các quy luật của tự nhiên, xã hội, con người một cách
đơn giản, nhẹ nhàng, kinh nghiệm, cô đọng, triết luận.
- Chọn dịp sinh nhật để viết những dòng tài liệu bí mật để lại cho đồng bào, đồng chí
và Tổ quốc nên phong cách diễn đạt suy nghĩ của Người trong Di chúc rất độc đáo,
đó là sự kết hợp hài hòa giữa dân gian và bác học, cổ điển và hiện đại, phù hợp giữa
tinh thần Đông phương với tình hình thực tiễn của thời điểm đó và cả về sau này,
mang chất dung dị, đời thường, chứa đựng tình cảm thương yêu mênh mông bao
trùm hết thảy của một trái tim nhân hậu. Những ý tưởng của Người được diễn tả
chân thực vì nói đúng sự thật khách quan và chính xác về chủ quan; ngắn gọn, dễ
hiểu bởi mọi tâm ý đều đã được khái quát, chắt lọc tối giản; nhân văn và thiết thực.
Chính vì tư tưởng, phong cách, đạo đức cao thượng đẹp đẽ trong sáng như vậy nên
tác phẩm này chỉ có thể thuộc về một Con Người vĩ đại, có tầm nhìn thời đại và hàm
chứa suy nghĩ của cả nhân loại.
- Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một kiệt tác chứa đựng tinh thần cao cả, sâu
sắc nhưng cũng rất gần gũi với đời sống hàng ngày của một nhà cách mạng, nhà tư
tưởng, nhà chính trị, nhà giáo dục và nhà văn hóa lỗi lạc; vừa mang tính triết lý
truyền thống đồng thời cũng chỉ ra con đường tương lai; vừa là cảm nghĩ của một vĩ
nhân nhưng cũng là sự đúc kết các quy luật của tự nhiên, xã hội, con người một cách
đơn giản, nhẹ nhàng, kinh nghiệm, cô đọng, triết luận. Chọn dịp sinh nhật để viết
những dòng tài liệu bí mật để lại cho đồng bào, đồng chí và Tổ quốc nên phong cách
diễn đạt suy nghĩ của Người trong Di chúc rất độc đáo, đó là sự kết hợp hài hòa giữa
dân gian và bác học, cổ điển và hiện đại, phù hợp giữa tinh thần Đông phương với lOMoAR cPSD| 61601299
tình hình thực tiễn của thời điểm đó và cả về sau này, mang chất dung dị, đời thường,
chứa đựng tình cảm thương yêu mênh mông bao trùm hết thảy của một trái tim nhân
hậu. Những ý tưởng của Người được diễn tả chân thực vì nói đúng sự thật khách
quan và chính xác về chủ quan; ngắn gọn, dễ hiểu bởi mọi tâm ý đều đã được khái
quát, chắt lọc tối giản; nhân văn và thiết thực. Chính vì tư tưởng, phong cách, đạo
đức cao thượng đẹp đẽ trong sáng như vậy nên tác phẩm này chỉ có thể thuộc về một
Con Người vĩ đại, có tầm nhìn thời đại và hàm chứa suy nghĩ của cả nhân loại. Nội
dung Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thấy khí phách, tinh thần lạc quan
cách mạng của bậc đại nhân, đại trí, đại dũng như Jean Lacourture đã nhận xét: “Văn
phong kỳ lạ rõ ràng là thế! Người ta không thấy có giọng văn này ở cả Stalin,
Churchill hay De Gaulle, còn văn Cụ Hồ thì vươn tới tiếng nói của lịch sử”
- Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là kết tinh tư tưởng đạo đức và tâm hồn cao đẹp
của một anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, một chiến sĩ đấu tranh
không mệt mỏi cho sự nghiệp hòa bình, tiến bộ, phát triển trên toàn thế giới. Sinh
ra, lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động của đất nước, Nguyễn Tất
Thành đã quyết tâm cống hiến tuổi trẻ và cả cuộc đời của mình vào hành trình tìm
đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đã đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin và đi theo con đường cách mạng vô sản và từ đó sáng lập, lãnh
đạo, rèn luyện Đảng cộng sản Việt Nam, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, lập
nên nước Việt Nam DCCH. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đi vào lịch sử cách mạng
thế giới với vai trò của người chiến sĩ tiên phong trong phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc của các nước thuộc địa trong thế kỷ XX. Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng đã đưa văn hóa thành ngọn hải đăng cho sự nghiệp phát triển đất
nước, đồng thời Người cũng là nhà hoạt động văn hóa trên các lĩnh vực: báo chí,
thơ, văn. Người còn là một nhà ngoại giao xuất chúng, luôn kiên trì phấn đấu không
mệt mỏi cho hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển giữa các dân tộc trên toàn
thế giới và từ đó đưa Việt Nam lên vị thế xứng đáng trong bản đồ chính trị thế giới. lOMoAR cPSD| 61601299
Từ những cống hiến lớn lao và kinh nghiệm phong phú trong sự nghiệp cách mạng
của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn dò tất cả những điều cần thiết, quan trọng,
chính yếu trong Di chúc của Người cho tương lai của dân tộc. Chính vì vậy mà Fidel
Castro đã viết: “Hồ Chí Minh thuộc lớp những người đặc biệt mà cái chết là mầm
mong của sự sống và là nguồn cổ vũ đời đời bất diệt”
- Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vào vai trò, vị trí và tính tiên phong
của Đảng cầm quyền, một chính Đảng cần phải lấy đạo đức cách mạng làm nền tảng,
có nhiệm vụ làm cho dân giàu nước mạnh và người đảng viên luôn xác định phải
trung thành tận tụy phục vụ đất nước, phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Là người
sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng CS Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giữ
vững tư tưởng xuyên suốt, nhất quán, kiên định về tư cách của Đảng cầm quyền,
trong đó nền tảng là đạo đức của đảng viên. Người đã nói rõ cách mạng muốn thành
công trước hết phải có “Đảng cách mệnh”, tuy nhiên: “Đảng không phải là một tổ
chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho
Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”.Muốn gánh vác được trách nhiệm nặng
nề đó, đảng viên cần có đạo đức cách mạng, đó là: “Đặt lợi ích của Đảng và của
nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết
sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì Dân mà đấu tranh quên mình”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh còn thường xuyên nhắc nhở: “Để làm cho tất cả cán bộ, đảng viên xứng đáng
là những chiến sĩ cách mạng, Đảng ta phải ra sức tang cường giáo dục toàn Đảng
về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và
đạo đức của người đảng viên”. Và, trong Di chúc, Người cũng vẫn nhấn mạnh những
vấn đề cơ bản, quyết định đến sự tồn vong của Đảng cầm quyền, đó là: đoàn kết. tự
phê bình và phê bình, đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Như Tổng bí thư
Lê Duẩn đã khẳng định: “Mỗi bước đi của nhân dân ta và của Đảng ta đều gắn liền
với cuộc đấu tranh cách mạng vô cùng sôi nổi và đẹp đẽ của Hồ Chủ tịch. Toàn bộ
hoạt động của Người cùng với sự nghiệp của nhân dân ta và của Đảng ta là một
thiên anh hùng ca bất diệt của cách mạng Việt Nam”.
- Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện sâu sắc tinh thần yêu nước
thương dân, suốt đời chăm lo cho hạnh phúc nhân dân của một vị lãnh tụ lập quốc
vĩ đại, mà còn tỏa sáng lòng bao dung, nhân ái của một vị Thánh Cộng Sản đối với
tất cả con người, niềm tin tưởng tuyệt đối vào nhân dân. Trong suốt cuộc đời cống
hiến cho Tổ quốc, cho nhân dân của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một mục
tiêu duy nhất để hướng tới, đó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người, để nhân dân có quyền làm chủ đất nước. Vì thế, Người luôn tâm niệm
rằng: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức
tránh”. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân và Đảng vừa là người lãnh
đạo, vừa là đầy tớ của nhân dân nên bất luận trong hoàn cảnh nào: “Nếu dân đói,
Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là
Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi. Vì vậy cán bộ
Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới đều phải hết sức quan tâm đến đời sống
của nhân dân”. Trong những lời cuối cùng để lại, Người quan tâm từng chi tiết tới
người dân của các tầng lớp xã hội, nhắc những công việc cụ thể đối với những người
có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, cho đến những nạn nhân của xã hội cũ.
Đó không chỉ là niềm tin vững chắc, sự khẳng định về thắng lợi cuối cùng của một
dân tộc anh hùng đấu tranh vì chính nghĩa, mà còn là tấm lòng đôn hậu, bao dung,
tình thương yêu con người vô bờ bến. Như nhà sử học Helen Tourmel đã viết: “Ở lOMoAR cPSD| 61601299
con người Hồ Chí Minh, mỗi người đều thấy biểu hiện của nhân vật cao quý nhât,
bình dị nhất và được kính yêu nhất trong gia đình mình...Hình ảnh của Hồ Chí Minh
đã hoàn chỉnh với sự kết hợp giữa đạo đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của
Chúa, triết học của Karl Mark, thiên tài cách mạng của Lênin và tình cảm của một
người chủ gia tộc”.
- Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thấy tầm nhìn xa, sự quan tâm sâu sắc,
chăm lo, bồi dưỡng các thế hệ cách mạng đời sau. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi
trọng vấn đề đào tạo, giáo dục các thế hệ cách mạng kế cận, đặc biệt là lứa tuổi đoàn
viên, thanh niên bởi: “Thanh niên là chủ tương lai của nước nhà. Nước nhà thịnh
hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Hơn thế nữa, đội quân
chủ lực, nguồn sức mạnh tiên phong trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
cũng chính là nhờ các thế hệ thanh niên nếu như lực lượng thanh niên được giáo
dục, rèn luyện thử thách trong thực tiễn cách mạng thì chắc chắn sẽ trở thành lực
lượng hậu bị vững chắc của Đảng và của dân tộc. Chiến lược đối với thế hệ trẻ của
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là cẩm nang cần thiết cho một giai đoạn cách mạng
cụ thể, mà đó còn là yêu cầu quan trọng phục vụ mãi mãi sự nghiệp và lý tưởng cách
mạng. Thế hệ trẻ Việt Nam cần phải rèn luyện những tố chất trung thành, nhiệt tình,
hăng hái, tinh thông nghiệp vụ, quan hệ mật thiết với nhân dân và quyết tâm cao,
dám làm, dám chịu trách nhiệm vì sự nghiệp đổi mới của Đảng, của dân tộc, đó
chính là “những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên”.
- Bản Di chúc lịch sử ấy đơn giản chỉ là “mấy lời để lại”, “tóm tắt vài việc”, như Chủ
tịch Hồ Chí Minh nói, nhưng chứa đựng sự tổng kết lớn lao, vĩ đại của người Anh
hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa kiệt xuất, thể hiện trí tuệ mẫn tiệp,
tầm nhìn xa, trông rộng của Người đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng
và nhân dân ta. Bản Di chúc đó không chỉ là những lời căn dặn thiết tha, chứa đựng
biết bao tình cảm, hoài bão và khí phách, thể hiện trong từng lời nhắc nhở, dặn dò
trước lúc Người đi xa mà nó đã trở thành một tác phẩm “đặc biệt” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, một tài sản vô cùng quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam và của dân tộc
Việt Nam, có ý nghĩa lịch sử, giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.
- Theo GS, TS. Vũ Văn Hiền, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội
đồng Lý luận Trung ương, nhìn vào lịch sử nhân loại, ngay cả những nhà lãnh đạo
tài ba nhất, thông thái nhất cũng không có bản di chúc nào có giá trị đích thực thiêng
liêng và thực chất như vậy. Bác luôn quan niệm sự nghiệp cách mạng của chúng ta
nhất định sẽ thành công, nhất định thắng lợi, nhất định sẽ đi đến độc lập, tự do, hạnh
phúc cho đất nước, cho nhân dân. Bác đã dành nhiều thời gian, tập trung suy nghĩ,
chỉnh sửa nhiều lần nhất cho văn bản quan trọng này Điều đó càng thể hiện tinh thần
trách nhiệm, tấm lòng của Bác đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc
và đối với tương lai của đất nước.
- Khẳng định giá trị lịch sử trường tồn của bản Di chúc, đồng chí Phạm Đình Đảng,
Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản cho rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu hiện
rực rỡ nhất, sâu thẳm nhất về đức khiêm tốn của người Việt Nam, của một người
Cộng sản. Tất cả điều đó đã hội tụ, kết tinh và chỉ đạo sự nghiệp của chúng ta từ khi
Người còn sống. Và đặc biệt 50 năm vừa qua, chúng ta đã đi qua chặng đường lịch
sử hết sức vinh quang trong toàn bộ lịch sử dân tộc chúng ta. Cũng đó cũng là nguyện lOMoAR cPSD| 61601299
vọng của đông đảo nhân dân. Cũng chính vì điều đó mà Đảng ta đã xếp Di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong năm quốc bảo Việt Nam.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Di chúc là định hướng cơ bản,
quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cả hôm nay và mai sau:
• Với gần 50 tham luận được gửi đến và 08 tham luận được trình bày tại Hội thảo, có
thể thấy, các nhà nghiên cứu, các học giả đều khẳng định những thành tựu mà Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được trong thực hiện những lời căn dặn của Người
suốt 50 năm qua. Nhiều kết quả, thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực đã được
các tham luận phân tích rất sâu sắc, phong phú, như về tăng cường xây dựng và nâng
cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong sự nghiệp đổi mới; rèn luyện đạo
đức, phong cách, phẩm chất của người cán bộ, đảng viên hiện nay; vấn đề nông dân,
nông nghiệp, nông thôn; chính sách đối với người có công với cách mạng, thương
bệnh binh, cựu thanh niên xung phong; phát triển kinh tế và văn hóa; xây dựng nền
văn hóa mới, con người mới, về “quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”, đào tạo, bồi
dưỡng thế hệ trẻ; xây dựng, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế;…
• Kết luận Hội thảo, PGS, TS. Đoàn Minh Huấn, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
khẳng định, năm 2019 đánh dấu chặng đường nửa thế kỷ toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân thực hiện Di chúc của Người. Đặc biệt, khi các quyết nghị của Trung ương về
xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chỉ đạo thực hiện quyết liệt, ráo riết, đạt được những
kết quả cụ thể, rõ rệt trong thời gian qua, góp phần củng cố lòng tin của các tầng lớp
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó đã tiếp tục khẳng định tầm vóc tư
tưởng, tầm nhìn xa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo PGS, TS. Đoàn Minh Huấn,
trong suốt 50 năm qua, những nội dung về đoàn kết, thống nhất trong Đảng; quan
tâm chăm lo xây dựng đào tạo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; về nhân dân lao động... luôn
được xem là những trọng điểm để các cấp, các ngành, địa phương quyết tâm thực hiện.
• Đồng chí Đoàn Minh Huấn nhấn mạnh, trong giai đoạn hiện nay, thực hiện Di chúc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần đề cao ý
thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị, đẩy lùi hiện
tượng ‘tự diễn biến,’ ‘tự chuyển hóa,’ tệ quan liêu, lãng phí, tham nhũng; thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (Khóa XII) về tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng và Chỉ thị số 05-CT/TW (ngày 15-5-2016) của Bộ Chính trị về “Đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, đưa việc
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở thành nhiệm vụ thường
xuyên của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân, là việc làm đúng đắn và cần thiết.
Vì vậy, việc kỷ niệm 50 năm ngày Bác mất và 50 năm thực hiện Di chúc của Người
cũng là dịp để mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng tự soi rọi lại mình, phấn đấu
xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn
dân xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh như di nguyện của Người. lOMoAR cPSD| 61601299
• Bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau nửa thế kỷ, càng sáng tỏ
giá trị lịch sử và ý nghĩa định hướng cho cách mạng Việt Nam. Những tư tưởng mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại trong Di chúc vẫn là ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp
cách mạng Việt Nam cả hôm nay và trong tương lai.
• Nửa thế kỷ trôi qua nhưng những tư tưởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại trong
bản Di chúc vẫn là ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. GS,
TS. Hoàng Chí Bảo, chuyên gia cao cấp, thành viên Hội đồng Lý luận Trung ương,
Chủ tịch Hội đồng Khoa học, Viện Khoa học nghiên cứu nhân tài - nhân lực
(ISSTH), người đã có hơn 40 năm nghiên cứu về cuộc đời, tư tưởng, sự nghiệp của
Bác Hồ cho biết, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ với 1.000 từ, nhưng Người
đã làm một tổng kết lớn lý luận và thực tiễn về cách mạng Việt Nam, về sự nghiệp
của Đảng, của dân tộc mà Người trọn đời gắn bó, dấn thân và dâng hiến. Người cũng
đặt ra vấn đề dự báo trong tương lai. Với tất cả sự nhạy cảm và linh cảm, Người biết
rằng, đổi mới là thường xuyên và lâu dài, là một cuộc chiến đấu khổng lồ, chống lại
những cái cũ kỹ, hư hỏng, lỗi thời, hướng tới tiến bộ, phát triển tốt đẹp, vì thế phải
dựa vào dân, tập hợp dân thành phong trào, lực lượng để dân thực hiện. GS, TS.
Hoàng Chí Bảo nêu rõ, việc tìm hiểu về minh triết Hồ Chí Minh trong bản Di chúc
của Người để lại cho đồng bào, đồng chí, bầu bạn quốc tế càng thêm thấu hiểu và
thấu cảm về Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn viết Di chúc vào dịp sinh nhật để
vui chứ không buồn. Sự sống vốn mạnh hơn cái chết. Lấy sự sống để vượt lên cái
chết, với Chủ tịch Hồ Chí Minh là một bản lĩnh văn hóa. Người thực sự là một hiện
tượng văn hóa độc đáo.
• Nhà báo Hà Đăng, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Tổng
Biên tập Tạp chí Cộng sản, chia sẻ: qua nhiều ý kiến báo cáo cũng như tham luận
tại Hội thảo đã làm rõ nhiều nội dung trong Di chúc. Có những tham luận với góc
nhìn tổng thể cũng có những báo cáo đề cập với một vấn đề cụ thể trong Di chúc và
có liên hệ với tình hình thực tế. Từ đó, chúng ta càng học thêm được những điểm
mới cũng như những giá trị lịch sử và giá trị định hướng mà Di chúc đã chỉ ra. Theo
ông, từ Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng thêm thấy rõ một con
người thật mà có một cuộc đời huyền thoại. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong bản Di chúc là định hướng cơ bản, quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam cả hôm nay và mai sau, vì mục tiêu đem lại độc lập, tự do
cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân, bao quát toàn diện các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội…
• Về mối quan hệ giữa đảng cộng sản cầm quyền với nhân dân, PGS,TS. Đoàn Thế
Hanh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho biết, lời dặn dò của Bác sau
cùng chủ yếu là đặt vấn đề mối quan hệ giữa Đảng với dân, thể hiện trách nhiệm của
Đảng ở 3 tư cách. Một Đảng ta là Đảng cầm quyền, hai Đảng ta là đầy tớ, ba Đảng
là người lãnh đạo. Ở đây suy cho cùng vai trò, trách nhiệm thuộc về Đảng quang
vinh. Làm tròn 3 trách nhiệm này; một cái đòi hỏi thuộc về phẩm chất của Đảng, hai
là năng lực của đảng và cái thứ ba là thái độ, tinh thần trách nhiệm của
Đảng. Tư cách là Đảng lãnh đạo thì Đảng phải lựa chọn, tuyển lựa được đội ngũ
cán bộ đảng viên của Đảng có cả đức lẫn tài, đủ phẩm chất để thể hiện được vai trò
lãnh đạo hoạch định đường lối đưa đất nước đi lên.
2. Giá trị nhân văn trong bản di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh lOMoAR cPSD| 61601299
Chủ nghĩa nhân văn xuyên suốt tác phẩm chính là là lòng thương yêu, quý trọng
con người gắn với lòng yêu nước, yêu dân nồng nàn Bác muốn để lại cho toàn dân tộc,
toàn dân ta. Tình yêu đó thể hiện trên từng lời, từng từ, từng ý mà Người viết trong bản di chúc.
Trong Di chúc của Bác, điều làm nên giá trị tinh thần lớn lao và mang ý nghĩa sâu
sắc là quan điểm vì con người và giải phóng con người thấm đượm chủ nghĩa nhân đạo
cao cả, một triết lý nhân sinh mà Bác dày công vun đắp. Sức sống lớn lao của Di chúc,
ánh sáng kỳ diệu toả ra trong toàn bộ Di chúc đó là những tư tưởng nhân văn cách mạng
ngời sáng và đầy giá trị nhân bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự gắn bó của Chủ tịch
Hồ Chí Minh với con người, tấm lòng nhân ái bao la của Bác với con người bắt nguồn
từ một lòng tin mãnh liệt vào chính bản thân con người, vào cái thiện của con người,
vào sức sống của dân tộc.
- Chủ nghĩa nhân văn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là ngọn
nguồn, cơ sở, nền tảng quy định toàn bộ mục đích sự nghiệp hoạt động cách mạng
của Người. Bởi lẽ cả cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh không
nhằm gì hết ngoài mục đích “hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân”, suốt đời đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng con người. Ngay
trước lúc đi xa từ biệt thế giới này, Người cũng không có gì phải hối hận, “chỉ tiếc
là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Cả cuộc đời và sự
nghiệp hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh “chỉ có một ham muốn, ham
muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Sâu thẳm trong
mong muốn tột bậc đó của Hồ Chí Minh chính là tấm lòng yêu thương con người
hết mực, trước hết là tình yêu thương nhân dân lao động và khát vọng cháy bỏng
giải phóng họ khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột, bất công.
Trong Di chúc, Người đã căn dặn phải có những chính sách, việc làm cụ thể đối
với từng đối tượng, từ những anh hùng liệt sĩ, thương binh và cha mẹ, vợ con của
thương binh, liệt sĩ đến những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân lOMoAR cPSD| 61601299
và thanh niên xung phong và các lực lượng thanh, thiếu niên, phụ nữ đã đóng góp
xương máu và công sức cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tư
tưởng nhân văn cao cả trong vĩ đại của Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở đó, bởi
đối tượng quan tâm của Người còn là “Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội
cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v., thì Nhà nước phải dùng vừa giáo
dụ vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những ngườ lao động lương thiện”.
Theo Người, chủ nghĩa xã hội không phải là cái gì khác mà chính là làm mọi
người được ăn no, mặc ấm, được sung sướng và tự do. Chủ tịch Hồ Chí minh khẳng
định “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì”. Vì vậy, suốt cuộc đời Người hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Trước khi đi vào cõi vĩnh hằng, Bác đã căn dặn chúng ta phải sống có tình có
nghĩa “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Bác muốn nhắc nhở mỗi người
chúng ta rằng: tình thương yêu lẫn nhau là bao trùm lên mối quan hệ giữa người với
người. Bác là tiêu biểu cho tình thương bao la, lòng nhân ái cao cả. Khi đi xa, Bác
“để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho
các cháu thanh niên và nhi đồng”. Cả cuộc đời Bác đã dành cho dân tộc Việt Nam.
Mong muốn lớn nhất của Bác là làm cho nước ta được hoàn toàn độc lập, đồng bào
ta được hoàn toàn tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
- Trong Di chúc, lòng yêu thương vô hạn đối với đồng bào, chiến sĩ và bạn bè quốc tế
là chủ nghĩa nhân văn cách mạng ngời sáng lý tưởng cộng sản. Tính nhân văn
cao cả được thể hiện trong Di chúc còn là lòng tin tưởng tuyệt đối của Chủ tịch Hồ
Chí Minh vào sức mạnh của nhân dân cả ở miền xuôi và miền núi. Người tin tưởng
nhân dân sẽ là một lực lượng khổng lồ, sức mạnh chiến đấu vô địch và nhất định sẽ
chiến thắng mọi cái xấu, cái ác trong xã hội để xây dựng những cái mới, văn minh,
văn hoá nhất. Đặc biệt, Bác nói nhiều đến vấn đề chăm lo lợi ích của con người:
“Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Trong cuộc sống đời thường, Bác luôn che
chở, nâng đỡ mọi người, lo lắng đến quyền lợi của dân tộc, đến lợi ích hàng ngày
của nhân dân, đặc biệt là nhân dân lao động, là phải tìm cách giúp đỡ mọi người.
Như vậy, thực chất vấn đề mà Hồ Chí Minh nêu ra trong Di chúc và đòi hỏi Đảng
phải có kế hoạch thật tốt chính là kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội một cách toàn
diện, nhằm thoả mãn ngày càng cao hơn những nhu cầu, lợi ích chính đáng của mỗi
con người và điều đó cũng phù hợp với mục tiêu lý tưởng của chủ nghĩa xã hội,
mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Bác Hồ là hình ảnh của người Cha, người Bác, người Anh, là hình ảnh của dân
tộc, gắn sâu vào trái tim của mỗi người Việt Nam chúng ta. Từ một thanh niên yêu
nước, yêu những người cùng khổ, Bác đã quyết chí ra đi tìm đường cứu nước, cứu
dân. Bác đã gặp chủ nghĩa Mác Lênin và áp dụng vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Ở Bác tình yêu nhân dân là vĩnh cửu, mọi suy nghĩ, việc làm của Bác đều
xuất phát từ lợi ích của nhân dân. Bác nói: “Ở đời và làm người là phải yêu nước,
thương dân, yêu nhân loại bị đau khổ và áp bức”. Cũng xuất phát từ lòng nhân ái,
vì cuộc sống tự do và hạnh phúc của con người, lòng nhân ái của Bác Hồ đã đặt lOMoAR cPSD| 61601299
đúng vào những người cùng khổ nhất trong xã hội tức là những người công nhân
và nông dân. Lòng nhân ái đó không phải là lòng thương hại của những người đứng
trên nhìn xuống, lòng yêu nước, yêu dân chung chung. Lòng nhân ái của Bác là một
niềm cảm thông sâu sắc. Lòng yêu thương con người, yêu thương đồng bào của Bác
trên cơ sở chủ nghĩa Mác Lênin và lập trường của giai cấp công nhân đã trở thành
sức mạnh kêu gọi đoàn kết đấu tranh. Bác viết trong Di chúc: “Cuộc kháng chiến
chống Mỹ có thể sẽ kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều
của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn
toàn”. Với lòng nhân ái cao cả, mang một nội dung mới sâu sắc của lý tưởng cộng
sản chủ nghĩa, Bác đã dìu dắt dân tộc Việt Nam đoàn kết nhất trí xung quanh Bác
dưới lá cờ của Đảng Lao động Việt Nam trăm trận trăm thắng. Được như thế cũng
là vì lòng Hồ Chủ tịch rộng như biển cả, bao dung, cảm hoá tất cả mọi người.
Đối với kẻ lầm đường lạc lối, lòng Hồ Chủ tịch còn rộng hơn biển cả. Bác dạy
phải khoan hồng, vui mừng đón rước những đứa con vì cảnh ngộ mà phải lạc bầy.
Bác tin rằng người Việt Nam nào cũng yêu nước, muốn đất nước thống nhất, độc
lập, ta khéo nhen chút than hồng ấy, nó sẽ cháy lên thành ngọn lửa. Bác viết: “Đối
với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn
lậu... thì nhà nước phải vừa dùng giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp
họ trở nên những người lao động lương thiện”. Vì tính nhân văn, nhân ái cao cả đó,
Bác đã giáo dục, cảm hoá được mọi người, đoàn kết toàn thể dân tộc. Hồ Chủ tịch
tiêu biểu cho sự đoàn kết ấy.
Trong Di chúc, Bác còn dặn tỉ mỉ những việc cần làm đối với những người đã
hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh
niên xung phong…). Đảng, Chính phủ, đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có
nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi
người để họ có thể dần dần tự lực cánh sinh. Đối với các liệt sĩ thì phải xây dựng
tượng đài, vườn hoa để ghi nhớ công ơn và đời đời giáo dục lòng yêu nước cho
nhân dân. Đối với cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ thì phải quan tâm, giúp
đỡ không để họ bị đói rét. Thực hiện Di chúc của Bác, nhiều năm qua, Đảng và Nhà
nước đã phát động phong trào “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” để phần
nào làm vơi đi nỗi đau buồn đó, nhiều căn nhà tình nghĩa được dựng lên, việc nhận
phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, đó là những nghĩa cử cao đẹp của nhân
dân ta với người có công với cách mạng.
- Tư tưởng nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là sự quan tâm đến việc bồi dưỡng
đạo đức và tài năng của các thế hệ thanh niên, lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng,
làm cho họ trở thành lực lượng nòng cốt xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Bác yêu cầu chúng ta sửa đổi chế độ giáo dục cho phù hợp với hoàn cảnh
và đặc biệt là chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, giáo dục tinh thần yêu nước cho
đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ trở thành những người kế thừa xây dựng xã hội
chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”. Trong Di chúc Bác viết: “Đảng và Chính phủ
cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy học thêm các ngành, các nghề, để đào
tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc”.
Với phụ nữ Việt Nam, Bác đặc biệt quan tâm đến vấn đề giúp đỡ chị em tham
gia công tác xã hội để tiến tới một sự bình đẳng thật sự cho phụ nữ. Điều mong lOMoAR cPSD| 61601299
muốn của Bác đến nay đã trở thành sự thật khi hàng ngàn phụ nữ đã đạt trình độ
học vấn cao và một số đã được giữ những trọng trách của Đảng và Nhà nước.
- Với đối tượng là nông dân chiếm đa phần dân số nước ta, Hồ Chí Minh đã khen ngợi
sự đóng góp của họ cho thắng lợi của nước nhà và đề xuất “miễn thuế nông nghiệp
một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp”. Mặc dù mong muốn của Bác chưa thực
hiện được ngay tại thời điểm đó nhưng nó thể hiện tấm lòng của Bác với bà con
nông dân, những người vất vả một nắng hai sương và thể hiện đạo lý của dân tộc
“thương người như thể thương thân”. Đó là đạo lý, là lẽ sống của dân tộc ta được
lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bác Hồ đã đúc kết lại truyền thống đó của
dân tộc là : “Nhân dân ta từ lâu sống với nhau có tình có nghĩa. Từ khi có Đảng lãnh
đạo, giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành đồng bào, đồng chí, tình
nghĩa năm châu bốn biển một nhà”.
Tư tưởng nhân văn của Bác không chỉ bó hẹp trong tình yêu thương đồng bào,
đồng chí, nhân dân trong nước. Tư tưởng nhân văn của Bác còn mở rộng ra cả loài
người trên khắp năm châu bốn biển. Ngay từ khi còn trẻ tuổi ở Pháp, Bác đã lên
tiếng phản đối những bất công trong xã hội tư bản và trong Di chúc, Bác tỏ rõ sự
đau xót về mối bất hoà giữa các đảng anh em. Bác cũng tin tưởng rằng, các đảng
anh em và các nước anh em nhất định phải đoàn kết lại.
- Khi nói về việc riêng, Di chúc của Bác vẫn là sự quan tâm, lo lắng đến đồng bào.
Bác lo tốn thời gian, tiền bạc, ruộng đất của nhân dân. Bác yêu cầu thi hài được đốt
đi “vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất”. Bác còn
dặn lại: “Nếu tôi qua đời trước ngày nước ta được thống nhất, thì nên gửi một ít tro
xương cho đồng bào miền Nam”. Lo đồng bào đi thăm viếng mình không có chỗ
nghỉ ngơi, Bác đề nghị xây một cái nhà đơn giản, rộng rãi, xung quanh trồng cây có
bóng mát sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp. Bác không hề nghĩ đến cái
riêng, ở Bác tình thương yêu nhân dân sâu sắc bao nhiêu thì Bác càng quan tâm đến
lợi ích của nhân dân bấy nhiêu.
- Thực hiện mong muốn cuối cùng của Bác là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn
đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Kỷ niệm 50 năm
thực hiện Di chúc của Bác Hồ, mỗi người Việt Nam lại càng tưởng nhớ Bác với lòng
biết ơn, niềm tự hào và tình thương yêu vô hạn. Chúng ta càng thấy rõ Bác vẫn luôn
luôn ở bên cạnh, dẫn dắt chúng ta giành chiến thắng trong cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc, bước vào cuộc chiến đấu mới đang tiếp diễn, đó là xây dựng một nước Việt
Nam hoà bình, hạnh phúc và giàu mạnh, đoàn kết xung quanh Đảng Cộng sản Việt Nam anh hùng.
Đó là những lời căn dặn cuối cùng thắm đượm tình nhân ái, lòng yêu thương vô
hạn đối với đồng bào, chiến sĩ và nhân dân. Chuẩn bị cho sự ra đi của mình, Bác đã
dành nhiều thời gian, tâm huyết để suy nghĩ những việc cần dặn lại với toàn Đảng,
toàn dân và bạn bè quốc tế. Kỷ niệm 50 năm ngày Bác đi xa, đọc lại Di chúc của
Người, càng đọc càng suy ngẫm, chúng ta càng thấy Di chúc của Bác như vẫn đang
động viên, nhắc nhở chúng ta phải làm tốt hơn những việc của mình để không ngừng
hoàn thiện bản thân, để xứng đáng với tình thương yêu Bác để lại cho chúng ta. lOMoAR cPSD| 61601299
- Trong những ngày này, đọc lại bản Di chúc lịch sử của Bác, chúng ta càng thấy thấm
thuần hơn nữa tư tưởng và tình cảm của Bác. Đó là những lời căn dặn cuối cùng của
Bác, những tình cảm và niềm tin Bác dành cho chúng ta. Di chúc Bác Hồ - ngoài
những giá trị lịch sử, chính trị, thực sự là một Di chúc thấm đượm tình thương yêu
vô hạn đối với đồng bào, đồng chí và bạn bè quốc tế mà Hồ Chí Minh là người đại
diện tiêu biểu nhất. Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày nay, trong
sự nghiệp đổi mới, nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng mừng, đời sống
của nhân dân đã được nâng cao cả về vật chất và tinh thần. Ánh sáng của tư tưởng
nhân văn cao cả trong Di chúc luôn soi sáng con đường đi đến dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh của nhân dân ta. Chúng ta nguyện suốt đời học
tập đạo đức, tác phong của Người, bồi dưỡng phẩm chất cách mạng, không sợ gian
khổ, không sợ hy sinh, rèn luyện mình thành những chiến sĩ trung thành với Đảng,
xứng đáng là đồng chí, là học trò của Người. III.
Những thành tựu trong 50 năm thực hiện di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh
1. Giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Thực hiện Di chúc của Người, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân cả nước đã
đứng lên, sức mạnh của cả dân tộc được huy động cao độ cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh
cao là thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quân và dân ta đã kết thúc thắng
lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất đất nước; chấm dứt ách thống trị tàn bạo hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực
dân cũ và mới trên đất nước ta; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả
nước; bảo vệ thành quả của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, mở ra bước ngoặt vĩ đại
trong lịch sử dân tộc ta, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ độc lập, thống nhất đi lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
- Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thực hiện Di chúc của
Người, Đảng đã tập trung sức lực và trí tuệ lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc
cách mạng đưa cả nước đi theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn. Mặc
dù tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp, vừa phải thường
xuyên đối phó với những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, phản động,
vừa phải xây dựng cuộc sống mới từ một nền kinh tế lạc hậu, bị tàn phá nặng nề
trong chiến tranh, vừa phải làm nghĩa vụ quốc tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân
dân ta đã phấn đấu gian khổ và thu được những kết quả hết sức quan trọng là khôi
phục nền kinh tế sau chiến tranh; xây dựng một số cơ sở vật chất; phát triển được
một số ngành kinh tế quan trọng; thiết lập và củng cố chính quyền nhân dân trên
phạm vi cả nước; phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế. Đồng thời tiến hành
thắng lợi trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới của Tổ quốc.
2. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bước đầu thực
hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân.
- Thực hiện Di chúc của Người, trải qua 9 kỳ Đại hội Đảng, kể từ Đại hội IV đến Đại
hội XII, Đảng ta đã ngày càng xác định rõ hơn những quan niệm về chủ nghĩa xã
hội và về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện,
Đảng ta luôn coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm
vụ then chốt, đồng thời ra sức xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên lOMoAR cPSD| 61601299
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế - xã hội.
- Công cuộc đổi mới đất nước sau hơn 30 năm đã đạt được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đất
nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành
nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị xã hội ổn định;
quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa - xã hội có bước phát triển; bộ mặt
đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được
phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng
cường. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại
ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường
quốc tế được nâng cao.
Những thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển
mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn,
sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của
Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
3. Xây dựng Đảng thực sự đoàn kết, trong sạch, vững mạnh, tăng cường giáo dục
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong Đảng và trong toàn xã hội.
- Để thực hiện những điều căn dặn về xây dựng Đảng của Bác viết trong Di chúc,
Đảng ta đã xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt trong mỗi giai đoạn cách
mạng. Đảng ta luôn luôn ý thức tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng nhằm
tăng cường sức mạnh và tính chiến đấu của Đảng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng đã được đặt
ra trong nhiều nghị quyết của Đảng, từ nghị quyết của các Đại hội đại biểu toàn quốc
đến nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, như Nghị quyết Hôi
ngḥ ị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII (tháng 2/1999) về “Một số vấn đề cơ bản và
cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Hôi ngḥ ị Trung
ương 4 khóa XI (tháng 01/2012) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay”; Nghị quyết Hôi ngḥ ị Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.
- Các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương về công tác xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng
đã đề ra những chủ trương và biện pháp quan trọng về xây dựng Đảng, củng cố, kiện
toàn và làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy mạnh công tác tự phê bình và phê bình
trong toàn Đảng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, nhằm xây dựng Đảng
ta vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; khắc phục những yếu kém trong bộ
máy các tổ chức của Đảng và Nhà nước. Dân chủ trong Đảng và trong xã hội được
mở rộng góp phần thúc đẩy kinh tế, văn hóa và xã hội phát triển. Qua các đợt vận
động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác phê bình và tự phê bình trong Đảng từ
Trung ương đến cơ sở đã có những chuyển biến nhất định, sức mạnh và tính chiến
đấu của nhiều tổ chức đảng và đảng viên được nâng lên. lOMoAR cPSD| 61601299
- Cùng với kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn khẳng định lấy chủ
nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động và đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục trong Đảng và trong toàn xã hội để
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chính trị chủ đạo
trong đời sống của đất nước, tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng
gắn liền với xây dựng, củng cố bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, chất lượng, hiệu
quả chính là hành động thiết thực làm theo Di chúc của Bác, xây dựng Đảng ta thực
sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao sức mạnh chiến đấu và vai trò lãnh đạo của
Đảng, làm cho uy tín của Đảng ta ngày càng cao và mối quan hệ giữa Đảng và Nhân
dân ngày càng được tăng cường.
4. Quan tâm chăm lo, xây dựng đào tạo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
- Đảng luôn chú ý đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ làm nguồn kế tục sự nghiệp cách
mạng của thế hệ cha anh. Đảng cũng có nhiều nghị quyết, chỉ thị về công tác thanh
niên. Các nghị quyết về giáo dục, đào tạo, về khoa học và công nghệ... đều đề cập
nhiệm vụ giáo dục, chăm lo thế hệ trẻ, coi thanh niên là lực lượng xung kích trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những năm qua, công tác lãnh đạo đối với
hoạt động thanh niên và tuổi trẻ có nhiều đổi mới và chuyển biến tích cực. Các hoạt
động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Sinh viên Việt Nam ngày
càng lôi cuốn nhiều đoàn viên, thanh niên, học sinh, sinh viên tham gia.
- Những tấm gương, điển hình tiên tiến, xung kích, đi đầu trong chiến đấu, lao động,
học tập và công tác, nhất là trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế đã tiếp tục
khẳng định vị thế và vai trò quan trọng của thế hệ trẻ. Trên cơ sở quán triệt quan
điểm “xây dựng Đoàn là xây dựng Đảng trước một bước”, các tổ chức cơ sở Đoàn
đã phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của đoàn viên, thanh niên, sinh viên trong
thi đua thực hiện các nghị quyết của Đảng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị
của địa phương, cơ quan, đơn vị. Thông qua đó, tạo môi trường thuận lợi để thế hệ
trẻ trải nghiệm, tự rèn luyện mình, trưởng thành, phấn đấu, bổ sung lực lượng trẻ
cho Ðảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
5. Xây dựng tinh thần quốc tế vô sản chân chính, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, nâng cao vị thế đất nước trong hội nhập quốc tế.
- Đảng ta do Hồ Chủ tịch sáng lập và rèn luyện, ngay từ khi ra đời đã giương cao ngọn
cờ của chủ nghĩa quốc tế vô sản, đề ra nhiệm vụ đoàn kết với giai cấp vô sản thế
giới, với các dân tộc bị áp bức, coi đó là một nguyên tắc, một trong những nhân tố
quyết định thành công của cách mạng nước ta.
- Trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, Đảng xác định củng cố sự đoàn kết với
phong trào cách mạng các nước, đồng thời nắm vững phương châm ngoại giao linh
hoạt, có nguyên tắc trên tinh thần Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả
các nước trong cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, hợp tác và phát triển; Nhất quán coi
cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, tiếp tục đoàn kết, ủng
hộ các phong trào cách mạng, các xu hướng và trào lưu tiến bộ của thời đại vì các
mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; Nêu cao nguyên tắc
độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, phát huy sức mạnh dân tộc, sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở sức mạnh bên trong mà tranh
thủ và tận dụng sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của các lực lượng bên ngoài.