lOMoARcPSD| 61601435
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
---------o0o---------
BÀI THU HOẠCH
ĐỀ TÀI :
Tìm hiểu chuyên đề “Người đi tìm hình của nước”
quá trình Bác đi tìm đường cứu nước từ ngày 5/6/1911
đến khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930.
Giảng viên hướng dẫn: Th.s. Nguyễn Thị Thu Hà
Sinh viên thực hiện:
Họ và tên
MSSV
Mã lớp
Trần Nhật Quang
Phùng Tiến Thành
20224456
20225531
136516
136516
Hà Nội, tháng 12/2022
lOMoARcPSD| 61601435
Mục lục 2
Lời mở đầu 3
1. Khái quát 3
2. Lý do chọn đề tài 3
3. Mục đích nghiên cứu 3
4. Phạm vi nghiên cứu 3
5. Phương pháp nghiên cứu chủ đề 3
6. Kết cấu của bài thu hoạch 4
Phần nội dung 5
Con đường đi tìm đường cứu nước của bác Hồ từ ngày 5
5/6/1911 đến khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930
Kết Luận 21
Tài liệu tham khảo 22
Lời mở đầu
1. Khái quát
Bác Hồ, vị cha già kính yêu của n tộc, người lèo lái con thuyền cách mạng Việt
Nam đi đến bờ thắng lợi, người lãnh đạo cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc trước
những thế lực ngoại bang hùng mạnh, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đưa
nước ta từ một nước nô lệ thành một nước hoàn toàn độc lập tự do. Để làm được điều đó,
Người phải có nghị lực phi thường, một ý chí mạnh mẽ để vượt qua những thử thách khắc
nghiệt nhằm đi tới thắng lợi cuối cùng. Từ đó đã khiến người ra đi tìm đường cứu nước tại
bến cảng nhà rồng 5/6/1911 và trong suốt quá trình ra đi tìm đường cứu nước, người
2. Lý do chọn đề tài
Nhằm tìm hiểu thêm về hoạt động của Bác Hồ trong những năm tháng ra đi tìm
đường cứu nước từ ngày 5/6/1911 đến khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930
và hiểu sâu hơn về chuyên đề “Người đi tìm hình của Nước”
3. Mục đích nghiên cứu chủ đề
lOMoARcPSD| 61601435
Nghiên cứu và hiểu chuyên đề “người đi tìm hình của nước”
Nắm bắt được quá trình Bác đi tìm đường cứu nước từ ngày 5/6/1911 đến khi thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930.
Hiểu được công lao của người sự vất vả gian lao trong suốt quá trình ra đi m
đường cứu nước
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Khoảng thời gian nghiên cứu: giai đoạn từ 5/6/1911 đến năm 1930
Phạm vi nghiên cứu: Quá trình Bác đi tìm đường cứu nước
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp: khảo sát, phân tích tổng hợp, đối chiếu, so sánh,
liệt kê.
Đề tài sử dụng những hình ảnh tại buổi ngoại khóa.
Đề tài bám sát những được giới thiệu trong buổi ngoại khóa một số thông tin
thu thập trên các trang mạng
Đề tài sử dụng các kiến thức đã được giảng dạy trong quá trình học bộ môn tưởng
Hồ Chí Minh
6. Kết cấu của bài thu hoạch
Con đường đi tìm đường cứu ớc của bác Hồ từ ngày 5/6/1911 đến khi thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930.
lOMoARcPSD| 61601435
PHẦN NỘI DUNG
Con đường đi tìm đường cứu nước của bác Hồ từ ngày 5/6/1911 đến khi
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930.
Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi
Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác
Khi bờ bãi dần lui, làng xóm khuất
Bốn phía nhìn không bóng một hàng tre”
Đó những câu mở đầu trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước” của Chế Lan
Viên. Những câu thơ đã trở nên gần gũi, quen thuộc, ấm áp tình cảm với mỗi người Việt
Nam, gợi nhớ hình ảnh Bác Hồ, người đã rời xa Tổ quốc thân yêu ra đi tìm đường cứu
nước.
Ngày 5/6/1911, đánh dấu một dấu son lịch sử vẫn luôn sáng mái trong tâm thức hàng
triệu trái tim con người Việt Nam bạn bè thế giới. Người thanh niên yêu nước Nguyễn
Tất Thành đã rời quê hương ra đi tìm đường cứu nước.
Tranh cổ động kỷ niệm 110 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước của họa sỹ
Bùi Đại Hào (Hà Nội).
lOMoARcPSD| 61601435
Bác ra đi giữa lúc đất nước đang chìm trong đau thương, khi triều đình nhà
Nguyễn đang thời suy vong bạc nhược nhất. Dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân
Pháp và phong kiến tay sai, phong trào yêu nước ở Việt Nam đã nổ ra khắp nơi với nhiều
xu hướng khác nhau. Đó là các cuộc khởi nghĩa chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương; các
cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế dưới sự lãnh đạo của Hoàng Hoa Thám kéo dài hơn 30
năm; phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục… do các phu yêu nước chịu ảnh
hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo. Mặc dù
diễn ra mạnh mẽ khắp nơi nhưng tất cả các phong trào đó đều thất bại thiếu một con
đường và phương pháp đấu tranh đúng đắn, phù hợp với tình hình trong nước và bối cảnh
quốc tế lúc bấy giờ.
Ngày 5/6/1911, từ Bến Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc, bắt đầu cuộc
hành trình tìm con đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.
Trước sự bế tắc, lầm than của dân tộc, người thanh niên Nguyễn Tất Thành, khi đó
mới 21 tuổi, đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước, với một quyết tâm cháy bỏng: “Tự
do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất
cả những điều tôi hiểu”.
lOMoARcPSD| 61601435
Mục đích của chuyến đi này, hơn 10 năm sau, năm 1923, Người đã trả lời nhà thơ,
nhà báo Nga Ôxíp Manđenxtan: “…. Lần đầu tiên tôi được nghe những từ Tự do, Bình
đẳng, Bác ái… Người Pháp đã nói thế từ thuở ấy, tôi rất muốn m quen với nền văn
minh Pháp, muốn tìm những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy…”.
Một lần khác, trả lời nvăn Mỹ Aana Luy Xơtơrông, Người nói: “Nhân dân Việt
Nam trong đó ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau, ai người sẽ giúp
mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này thì nghĩ Nhật, người kia thì nghĩ
Anh, có người thì nghĩ là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét
họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”.
Rút kinh nghiệm của các phu u nước đương thời hướng con đường cứu nước
về phía Trung Quốc hay Nhật Bản, Nguyễn Ái Quốc cho rằng muốn đánh đuổi kẻ thù phải
biết rõ kẻ thù của mình. Vì thế, ngày 5-6-1911, Người xuất dương tìm đường cứu nước, đi
sang Tây Âu trước hết là Pháp, để xem nước Pháp và các nước khác như thế nào nhằm giải
đáp đâu câu hỏi “Đâu là con đường cứu nước?”
Và ngày 5/6/1911, trên con tàu “Đô đốc Latouche Tréville”, từ bến cảng Nhà Rồng,
Nguyễn Tất Thành đã lên đường sang Pháp, bắt đầu cuộc hành trình 30 năm tìm con đường
giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Vào thời điểm đó, không ai biết rằng vận mệnh
của dân tộc Việt Nam đã gắn liền với quyết định ra đi của một con người lịch sử đã
chứng tỏ sáng suốt phi thường. Đánh dấu một dấu son lịch sử vẫn luôn ng mãi trong
tâm thức hàng triệu trái tim con người Việt Nam và bạn bè thế giới.
Hình ảnh con tàu Amiral Latouche Tréville
Với tên mới Văn Ba, làm phụ bếp trên tàu, Nguyễn Tất Thành ra đi trong cách
một người lao động, khởi nghiệp với đôi bàn tay trắng. Trong suốt hành trình 30 năm bôn
ba tìm đường cứu ớc, giải phóng dân tộc y, Nguyễn Tất Thành Nguyễn Ái Quốc đã
lOMoARcPSD| 61601435
đi qua 3 đại dương, 4 châu lục, qua gần 30 quốc gia, hàng trăm thành phố, vượt qua muôn
vàn gian khổ, chông gai làm rất nhiều nghề để kiếm sống, với quyết tâm cháy bỏng :
“Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy
là tất cả những điều tôi hiểu”.
Ngày 6/7/1911, ngay sau khi đặt chân tới nước Pháp người đã nhận thấy rằng ‘người
Pháp trên đất nước Pháp thì lịch sự hơn rất nhiều so với người Pháp Đông Dương’
người cũng thấy rằng ‘người Pháp trên đất nước Pháp cũng rất nhiều người nghèo kh
giống như nhân dân An Nam chúng ta’. người đã viết một bức thư cho tổng thống Pháp
vào ngày 15/9/1911 rằng người mong muốn tổng thống Pháp nhận người vào học bồi trú
của trường thuộc địa để người học chuyên môn giúp ích cho đất nước Pháp và trở về giúp
ích cho nhân dân Việt Nam. Tuy vậy lời đề nghị của người đã bị từ chối.
Do vậy người chỉ ở lại Pháp 3 tháng, rồi tiếp tục cuộc hành trình, đi theo nhiều tàu
buôn khác, đến nhiều nơi, Với những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm trong 10 năm
ròng, từ năm 1911 đến năm 1920, Nguyễn Tất Thành đã tận dụng mọi cơ hội để được đến
nhiều nơi trên thế giới. Bàn chân của người thanh niên yêu nước này đã in dấu trên nhiều
nước thuộc các đại lục Âu, Á, Phi, Mỹ.
Đặc biệt 3 nước Mỹ, Anh Pháp, Nguyễn Tất Thành đã dừng chân khảo sát
khá lâu. Người hòa mình vào cuộc sống của những người lao động, làm bất cứ việc để
sống và hoạt động, như : Phụ bếp, cào tuyết, đốt lò, chụp ảnh, làm vườn, vẽ thuê…
Trên cơ sở đó Nguyễn Tất Thành rút ra một kết luận có tính chất nền tảng đầu tiên :
đâu đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác ; đâu những người lao động cũng bị bóc
lột, áp bức và “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người : Giống người
bóc lột và giống người bị bóc lột”. Cũng từ đó đã giúp người thanh niên Nguyễn Tất Thành
có một nhận thức quan trọng : Nhân dân lao động trên toàn thế giới cần đoàn kết lại để đấu
tranh chống kẻ thù chung là giai cấp thống trị ; cùng nhau thực hiện nguyện vọng chung là
độc lập, tự do. Từ những nhận biết căn bản đó càng thôi thúc người thanh niên yêu nước
quyết tâm tìm con đường giải phóng mà anh đã từng nung nấu, ấp ủ từ ngày rời Tổ quốc.
Cuối năm 1917, Người trở lại Pháp tham gia Hội những người Việt Nam
yêu nước Pháp, tham gia Đảng hội Pháp. Giữa lúc này Cách mạng hội chủ nghĩa
tháng Mười Nga nổ ra thắng lợi, tiếp đó Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất kết thúc.
Các nước đế quốc thắng trận trong thế chiến I, họp hội nghị ở Vecxay (Pháp) để phân chia
lại the giới và phân chia những quyền lợi cướp được sau chiến tranh.
lOMoARcPSD| 61601435
Thẻ căn cước của Nguyễn Ái Quốc ở Paris (Pháp) năm 1919.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã ảnh hưởng rất lớn đến
tình cảm nhận thức của Nguyễn Tất Thành. Đầu m 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia
Đảng hội Pháp. Ngày 18 6 1919, với tên Nguyễn Ái Quốc, chàng thanh niên thay
mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi bản yêu sách tới Hội nghị Vécxây yêu
cầu về quyền tự do, dân chủ, bình đẳng dân tộc cho nhân dân An Nam. Tuy bản u sách
không được chấp nhận nhưng đã được lan truyền rộng rãi, gây tiếng vang lớn trong luận
nước Pháp, thức tỉnh tinh thần đấu tranh của các nước thuộc địa ; đồng thời cũng đem lại
cho Nguyễn Ái Quốc một nhận thức các dân tộc muốn được giải phóng chỉ thể dựa
vào sức của chính mình.
lOMoARcPSD| 61601435
Bản yêu sách Tám điểm của nhân dân Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc và nhóm người
Việt Nam yêu nước gửi Nghị viện Pháp và các đoàn đại biểu dự Hội nghị Vécxây
Bản Luận cương về vấn đề dân tộc thuộc địa của V.I. Lênin đã đến với Người
vào tháng 7-1920, làm cho Người « rất cảm động, phấn khởi sáng tỏ, tin tưởng biết bao ».
Từ đó, Người hoàn toàn tin theo Lênin, đứng hẳn về quốc tế thứ III. Tại Đại hội Đảng
hội Pháp lần thứ 18 họp ở Tua (từ 25 đến 30-12-1920), Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán
thành quốc tế III, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp
người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Sự kiện này đánh dấu bước nhảy vọt trong quá trình
chuyển biến tưởng của Nguyễn Ái Quốc. Tmột người yêu nước, ra đi tìm đường cứu
nước, đến với chủ nghĩa Mác Lênin trở thành một người cộng sản. Người đã m ra
con đường cứu nước đúng đắn cho Nhân dân Việt Nam, con đường giải phóng theo học
thuyết Mác Lênin, con đường kết hợp giữa đấu tranh giải phóng dân tộc với giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội.
lOMoARcPSD| 61601435
Chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã
hội Pháp ở thành phố Tours với tư cách đại biểu Đông Dương.
“Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết
bao ! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng tôi nói to lên như
đang nói trước quần chúng đông đảo : “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ. Đây cái cần
thiết với chúng ta, đây con đường giải phóng chúng ta !”. Sau này, Người đã viết như thế
về thời điểm lịch sử đầy ý nghĩa này.
Cuối tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III, đánh
dấu bước ngoặt lớn trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, đồng thời cũng đánh
dấu một bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam, mở đầu quá trình kết hợp đấu
tranh giai cấp với đấu tranh dân tộc, độc lập n tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tinh thần
yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế sản. Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành Nguyễn Ái Quốc đã quyết định đi theo con đường của Lênin đại. Người kết
luận : “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”.
Từ khi tiếp nhận chủ nghĩa Mác Lênin, trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc
hăng say hoạt động cách mạng, học tập nghiên cứu luận tìm cách truyền chủ nghĩa
Mác Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về mặt tưởng, chính trị, tổ chức cán bcách
mạng cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
lOMoARcPSD| 61601435
Năm 1921, được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp cùng với một số người yêu
nước của các dân tộc thuộc địa Pháp, Người đã sáng lập ra Hội liên hiệp các dân tộc thuộc
địa Pháp ở Paris để đoàn kết các lực lượng cách mạng, chống chủ nghĩa thực dân và thông
qua tổ chức đó đưa chủ nghĩa Mác – Lênin đến với các dân tộc thuộc địa. Đây được coi là
hiện tượng một không hai trong lịch sử bởi lần đầu tiên ngay tại đất nước Pháp đất nước
mà chủ nghĩa bản đã ra đời và ăn sâu bám rthì Nguyễn Ái Quốc lại cho ra đời một tổ
chức chống lại chủ nghĩa tư bản trên chính đất nước Pháp.
Năm 1922, Hội xuất bản tờ báo « Người cùng khổ » do Nguyễn Ái Quốc làm chủ
bút kiêm quản lí tờ báo. Tờ báo xuất bản 32 số, đã vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột
man của chủ nghĩa đế quốc nói chung và đế quốc Pháp nói riêng, truyền bá chủ nghĩa Mác
– Lênin, tinh thần quốc tế vô sản nhằm thức tỉnh các dân tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh tự
giải phóng.
Hình ảnh bài báo Mau lên vi hành do Nguyễn Ái Quốc biên soạn được đăng trên
tuần báo Người cùng khổ
Người còn viết nhiều bài cho các Báo Nhân Đạo, Đời sống công nhân và đặc biệt là
viết cuốn sách nổi tiếng : « Bản án chế độ thực dân Pháp ». Mặc nhà cầm quyền Pháp
tìm mọi cách ngăn chặn, cấm đoán, các sách báo đó vẫn được bí mật chuyển về Việt Nam.
Nhờ đó, quần chúng Nhân dân ngày càng hiểu rõ hơn bản chất của chủ nghĩa đế quốc, hiểu
được Cách mạng Tháng Mười Nga.
lOMoARcPSD| 61601435
Hình ảnh cuốn sách « Bản án chế độ thực dân Pháp »
Giữa năm 1923, người bí mật từ Pháp đi Liên Xô dự hội nghị Quốc tế nông dân
được bầu vào Ban chấp hành. Tiếp đó, Người hoạt động, học tập và nghiêm cứu ở Quốc tế
cộng sản, viết bài cho Báo Sự thật, Tạp chí Thư tín quốc tế. Tháng 7-1924, Người dự Đại
hội lần thứ 5 của Quốc tế công sản. Tại Đại hội, Người trình bày những quan điểm của
mình về vị trí, chiến lược của cách mạng các nước thuộc địa ; vai trò to lớn của giai cấp
nông dân ở các nước thuộc địa ; mối quan hệ giữa phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
ở các nước thuộc địa với phong trào công nhân ở các nước chính quốc…
Người được chỉ định làm Uỷ viên thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách
Cục Phương Nam của Quốc tế cộng sản. Sau đó, Người còn dự các cuộc Hội nghị của Quốc
tế Công hội, Thanh niên, Phụ nữ. Những quan điểm cơ bản đó của Nguyễn Ái Quốc được
truyền bá o nước ta bước chuẩn bị quan trọng về tưởng, chính trị cho sự thành lập
Đảng ta sau này.
Đầu năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người bắt
đầu xây dựng những nhân tố bảo đảm cho cách mạng Việt Nam như : Truyền bá Chủ nghĩa
Mác Lênin vào Việt Nam, khơi dậy tinh thần đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, của
phong trào công nhân phong trào yêu nước Việt Nam, phát triển lực lượng cách mạng,
xây dựng các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với tác phẩm “Bản án chế
độ thực dân Pháp” “Đường Kách mệnh”, đặc biệt việc xuất bản tờ Báo Thanh Niên
ra ngày 21-6-1925, Người đã chuẩn bị về đường lối chính trị để tiến tới thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam.
lOMoARcPSD| 61601435
Ngày 11/11/1924, với danh Thủy, Quảng Châu Trung Quốc với tưởng
tam dân của Tông Chung Sơn đã đưa Quảng Châu Trung Quốc trở thành một Moskva thu
nhỏ thu hút rất nhiều thanh niên ưu của chúng ta sang sinh sống và hoạt động Quảng
Châu. Người tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam đang hoạt động ở đây cải tổ tổ
chức Tâm Tâm xã để thành lập ra một tổ chức cách mạng mới là Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên (gọi tắt Thanh Niên) với nòng cốt là “”Cộng sản đoàn » vào 61925 với nhiệm
vụ truyền chủ nghĩa Mác Lenin xây dựng cho phong trào công nhân phong trào
yêu ớc nước ta giác ngộ từ đó đưa đến sự ra đời tất yếu của Đảng cộng sản Việt
Nam sau này. Để có thể tuyên truyền cho hội ngày 21-6, Người cho xuất bản tờ báo Thanh
Niên làm cơ quan ngôn luận của hội. Tờ báo hoạt động từ 6-1925 đến 4-1927, xuất bản 88
số. Đây là tờ báo cách mạng đầu tiên bằng tiếng Việt.
Hình ảnh tớ bào Thanh Niên số 66 và 67
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện chính trị, đào tạo
những thanh niên u nước thành cán bộ cách mạng rồi đưa họ về ớc hoạt động. Tại ngôi
nhà số 13/1 Đường n Minh, Quảng Châu, Trung Quốc Người đã đào tạo các chiến
cách mạng trong 3 khóa huyến luyện đã đào tạo được 75 chiến cộng sản đầu tiên chính
75 hạt giống gạo do chính tay Nguyễn Ái Quốc ươm mầm với rất nhiều những học trò ưu
của người sau này đã trở thành những người lãnh đạo trong phòng trào cách mạng
Việt Nam sau này.
lOMoARcPSD| 61601435
Hình ảnh ngôi nhà số 13/1 Đường Quang Minh, Quảng Châu, Trung Quốc
Nguyễn Ái Quốc đóng vai trò giảng viên chính của lớp học này, các bài giảng của
Người các lớp chính trị đó được tập hợp lại in thành sách Đường cách mệnh (1927),
văn kiện luận đầu của đảng cộng sản Việt Nam. Trong tác phẩm này, Người đã chỉ ra
những phương hướng cơ bản về chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam.
lOMoARcPSD| 61601435
Hình ảnh cuốn Đường Đường Kách mệnh
Những quan điểm bản về chiến ợc cách mạng giải phóng dân tộc Người chỉ
ra trong tác phẩm này đã đặt nền tảng cho cương lĩnh của Đảng ta sau này. Tại Quảng Châu,
Người còn chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau: Chọn các thiếu niên ưu tú gửi
đi học trường đại học Phương đông của Quốc tế Cộng sản (Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị
Minh Khai…), chọn thanh niên ưu tú đi học tại trường Quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc).
Chính lớp người này trở thành thế hệ cách mạng đầu tiên trở thành những lãnh tụ xuất
sắc của Đảng và Quân đội của nước ta về sau.
Sự hoạt động Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo đã
có tác dụng tích cực đến phong trào cách mạng ở trong nước. Từ năm 1926, Hội Việt Nam
cách mạng Thanh niên đã xây dựng được nhiều cơ sở tại các trung tâm kinh tế và chính trị
quan trọng trong nước. Số lượng hội viên hem nhanh. Năm 1928 Hội phát động phong
trào “Vô sản hoá” đã góp phần thực hiện việc kết hợp Chủ nghĩa Mác Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước, thúc đẩy nhanh tiến trình thành lập chính Đảng
sản ở Việt Nam. Đến năm 1929, Hội đã có cơ sở ở hầu khắp cả nước, các tổ chức đoàn thể
quần chúng cũng lần lượt ra đời. Vào giữa năm 1929, nhu cầu thành lập tổ chức cộng sản
đã hem muồi các tổ chức cộng sản Đông ơng Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản
Đảng Đông Dương Cộng sản Liên đoàn nối tiếp nhau xuất hiện, tạo tiền đề trực tiếp cho
sự ra đời của chính Đảng vô sản ở Việt Nam.
Với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng này đã đưa đến yêu cầu hợp
nhất ba tổ chức cộng sản đó trở thành một chính Đảng duy nhất lãnh đạo phong trào cách
mạng Đông Dương thế nhưng sau khi Tưởng Giới Thạch tỏ chức cuộc chính biến phản
cách mạng lần đầu tiên thì mảnh đất Quảng Châu Trung Quốc không còn là mảnh đất màu
mỡ để tiếp tục hoạt động cách mạng, Người đã quay trở lại hoạt động Quốc tế cộng sản
mục đích của người chính tìm cách để quay trở về để sáng lập Đảng cộng sản Việt
Nam.
để trở về với quê hương mảnh đất tiếp theo người dừng chân hoạt động cách
mạng đó chính mảnh đất Xiên Thái Lan. Trong quá trình hoạt động của Người, Người
đã gây được tình hữu ái cũng như là một hậu phương vững chắc đối với Việt kiều yêu nước
đang sinh sống và làm việc trên mảnh đất Thái Lan. Và không chỉ vậy người đã đổi tên tờ
báo Đồng Thanh thành tờ báo Thân Ái
lOMoARcPSD| 61601435
Hình ảnh tờ báo Thân Ái
Trong quãng thời gian người làm việc tại Thái Lan từ năm 1928 đến năm 1929 thì
cùng lúc đó ba tổ chức Cộng sản đã ra đời hoạt động rất mạnh mẽ, trước tình hình đó
Quốc tế cộng sản đã ra một bản chính trị vào ngày 24/10/1929 về việc sẽ thành lập một
Đảng Đông Dương để lãnh đạo tình hình cách mạng trên toàn cõi Đông Dương. Với
cách là Đảng phái viên Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã đứng ra triệu tập và chủ trì
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản Việt Nam. Hội nghị diễn ra tại Cửu Long, Hương
Cảng, Trung Quốc.
lOMoARcPSD| 61601435
Hình ảnh những đại biểu tham dự hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam đã được họp bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung
Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản.Tham
dự Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam bao gồm
các đồng csau: Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh (đại biểu của Đông Dương Cộng sản
đảng), Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu (đại biểu của An Nam Cộng sản đảng).
Hình ảnh hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam tại bán đảo Cửu long thuộc Hồng Kông
Hội nghị đã hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam giai đoạn đó thành một
Đảng Cộng sản duy nhất đó chính Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt
lOMoARcPSD| 61601435
Nam đi theo một đường lối chính trị đúng đắn, việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã
tạo nên sự thống nhất về tưởng, chính trị hành động của phong trào ch mạng cả
nước, tất cả đều hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cũng chính kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh
dân tộc đấu tranh giai cấp, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời sự khẳng định vai trò lãnh
đạo của giai cấp công nhân tại Việt Nam hệ tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt
Nam giai đoạn đó. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cũng được đánh giá là sự kiện
lịch sử ý nghĩa cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt cùng to lớn và quan trọng trong lịch
sử của cuộc cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu một mốc
son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác Lênin cùng với phong trào công nhân phong trào yêu nước của nhân dân Việt
Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
Ta thấy được rằng, sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng đã Cương lĩnh chính trị để xác định đúng đắn
con đường cách mạng đó giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng sản,
chính sở quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã thể nắm được ngọn
cờ lãnh đạo đối với phong trào cách mạng Việt Nam. Việc này ng góp phần quan trọng
giúp giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo
cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, từ đó mà đã mở ra con đường phương hướng cụ thể
để phát triển mới cho đất nước Việt Nam.
lOMoARcPSD| 61601435
Hình ảnh các văn kiện chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam
Chính đường lối được Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành này sở để thể
đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc ta đều cùng
chung tư tưởng và hành động để nhằm có thể tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành được
những thắng lợi to lớn giai đoạn sau y. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng điều kiện bản quyết định đối với phương
hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt nhiều năm qua.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cùng với việc Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương
cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, việc này cũng đã
tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp được sức mạnh dân tộc
với sức mạnh của thời đại từ đó giúp dân tộc ta làm nên những thắng lợi vẻ vang. Bên cạnh
đó thì cách mạng Việt Nam cũng đã góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của
nhân dân trên phạm vi toàn thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hộ
lOMoARcPSD| 61601435
Phần Kết Luận
Bằng một hành trình qua đại dương, Người đã tìm đến đại dương của trí tuệ. Dưới
ánh sáng củatưởng Hồ Chí Minh, lớp lớp thế hệ người Việt Nam đã vững bước trên con
đường Người đã chọn. Đó con đường của độc lập n tộc chủ nghĩa hội, con
đường mang tầm nhìn vượt thời gian đưa đất nước dân tộc ta vượt qua biết bao khó hem,
thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành độc lập n tộc, thống nhất đất
nước, thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thoát khỏi
nước kém phát triển, từng bước tiến lên “sánh vai với các cường quốc năm châu”, thực
hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Và qua đó ta hiểu hem được về
ý nghĩa của sự hình thảnh Đảng Cộng Sản Việt Nam cần thiết với tình chung lúc bấy
giờ.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61601435
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ---------o0o--------- BÀI THU HOẠCH ĐỀ TÀI :
Tìm hiểu chuyên đề “Người đi tìm hình của nước” và
quá trình Bác đi tìm đường cứu nước từ ngày 5/6/1911
đến khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930.

Giảng viên hướng dẫn: Th.s. Nguyễn Thị Thu Hà Sinh viên thực hiện: Họ và tên MSSV Mã lớp Trần Nhật Quang 20224456 136516 Phùng Tiến Thành 20225531 136516
Hà Nội, tháng 12/2022 lOMoAR cPSD| 61601435 Mục lục 2
Lời mở đầu 3 1. Khái quát 3 2. Lý do chọn đề tài 3 3. Mục đích nghiên cứu 3 4. Phạm vi nghiên cứu 3
5. Phương pháp nghiên cứu chủ đề 3
6. Kết cấu của bài thu hoạch 4
Phần nội dung 5
Con đường đi tìm đường cứu nước của bác Hồ từ ngày 5
5/6/1911 đến khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 Kết Luận 21
Tài liệu tham khảo 22 Lời mở đầu 1. Khái quát
Bác Hồ, vị cha già kính yêu của dân tộc, người lèo lái con thuyền cách mạng Việt
Nam đi đến bờ thắng lợi, người lãnh đạo cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc trước
những thế lực ngoại bang hùng mạnh, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đưa
nước ta từ một nước nô lệ thành một nước hoàn toàn độc lập tự do. Để làm được điều đó,
Người phải có nghị lực phi thường, một ý chí mạnh mẽ để vượt qua những thử thách khắc
nghiệt nhằm đi tới thắng lợi cuối cùng. Từ đó đã khiến người ra đi tìm đường cứu nước tại
bến cảng nhà rồng 5/6/1911 và trong suốt quá trình ra đi tìm đường cứu nước, người 2. Lý do chọn đề tài
Nhằm tìm hiểu thêm về hoạt động của Bác Hồ trong những năm tháng ra đi tìm
đường cứu nước từ ngày 5/6/1911 đến khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930
và hiểu sâu hơn về chuyên đề “Người đi tìm hình của Nước”
3. Mục đích nghiên cứu chủ đề lOMoAR cPSD| 61601435
 Nghiên cứu và hiểu chuyên đề “người đi tìm hình của nước”
 Nắm bắt được quá trình Bác đi tìm đường cứu nước từ ngày 5/6/1911 đến khi thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930.
 Hiểu được công lao của người và sự vất vả gian lao trong suốt quá trình ra đi tìm đường cứu nước
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
 Khoảng thời gian nghiên cứu: giai đoạn từ 5/6/1911 đến năm 1930
 Phạm vi nghiên cứu: Quá trình Bác đi tìm đường cứu nước
5. Phương pháp nghiên cứu
 Đề tài sử dụng các phương pháp: khảo sát, phân tích tổng hợp, đối chiếu, so sánh, liệt kê.
 Đề tài sử dụng những hình ảnh tại buổi ngoại khóa.
 Đề tài bám sát những gì được giới thiệu trong buổi ngoại khóa và một số thông tin
thu thập trên các trang mạng
 Đề tài sử dụng các kiến thức đã được giảng dạy trong quá trình học bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh
6. Kết cấu của bài thu hoạch
Con đường đi tìm đường cứu nước của bác Hồ từ ngày 5/6/1911 đến khi thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. lOMoAR cPSD| 61601435 PHẦN NỘI DUNG
Con đường đi tìm đường cứu nước của bác Hồ từ ngày 5/6/1911 đến khi
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930.

Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi
Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác
Khi bờ bãi dần lui, làng xóm khuất
Bốn phía nhìn không bóng một hàng tre”
Đó là những câu mở đầu trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước” của Chế Lan
Viên. Những câu thơ đã trở nên gần gũi, quen thuộc, ấm áp tình cảm với mỗi người Việt
Nam, gợi nhớ hình ảnh Bác Hồ, người đã rời xa Tổ quốc thân yêu ra đi tìm đường cứu nước.
Ngày 5/6/1911, đánh dấu một dấu son lịch sử vẫn luôn sáng mái trong tâm thức hàng
triệu trái tim con người Việt Nam và bạn bè thế giới. Người thanh niên yêu nước Nguyễn
Tất Thành đã rời quê hương ra đi tìm đường cứu nước.
Tranh cổ động kỷ niệm 110 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước của họa sỹ
Bùi Đại Hào (Hà Nội). lOMoAR cPSD| 61601435
Bác ra đi giữa lúc đất nước đang chìm trong đau thương, khi mà triều đình nhà
Nguyễn đang ở thời kì suy vong bạc nhược nhất. Dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân
Pháp và phong kiến tay sai, phong trào yêu nước ở Việt Nam đã nổ ra khắp nơi với nhiều
xu hướng khác nhau. Đó là các cuộc khởi nghĩa chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương; các
cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế dưới sự lãnh đạo của Hoàng Hoa Thám kéo dài hơn 30
năm; phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục… do các sĩ phu yêu nước chịu ảnh
hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo. Mặc dù
diễn ra mạnh mẽ ở khắp nơi nhưng tất cả các phong trào đó đều thất bại vì thiếu một con
đường và phương pháp đấu tranh đúng đắn, phù hợp với tình hình trong nước và bối cảnh quốc tế lúc bấy giờ.
Ngày 5/6/1911, từ Bến Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc, bắt đầu cuộc
hành trình tìm con đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.
Trước sự bế tắc, lầm than của dân tộc, người thanh niên Nguyễn Tất Thành, khi đó
mới 21 tuổi, đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước, với một quyết tâm cháy bỏng: “Tự
do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất
cả những điều tôi hiểu”. lOMoAR cPSD| 61601435
Mục đích của chuyến đi này, hơn 10 năm sau, năm 1923, Người đã trả lời nhà thơ,
nhà báo Nga Ôxíp Manđenxtan: “…. Lần đầu tiên tôi được nghe những từ Tự do, Bình
đẳng, Bác ái… Người Pháp đã nói thế và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn
minh Pháp, muốn tìm những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy…”.
Một lần khác, trả lời nhà văn Mỹ Aana Luy Xơtơrông, Người nói: “Nhân dân Việt
Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau, ai là người sẽ giúp
mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này thì nghĩ là Nhật, người kia thì nghĩ là
Anh, có người thì nghĩ là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét
họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”.
Rút kinh nghiệm của các sĩ phu yêu nước đương thời hướng con đường cứu nước
về phía Trung Quốc hay Nhật Bản, Nguyễn Ái Quốc cho rằng muốn đánh đuổi kẻ thù phải
biết rõ kẻ thù của mình. Vì thế, ngày 5-6-1911, Người xuất dương tìm đường cứu nước, đi
sang Tây Âu trước hết là Pháp, để xem nước Pháp và các nước khác như thế nào nhằm giải
đáp đâu câu hỏi “Đâu là con đường cứu nước?”
Và ngày 5/6/1911, trên con tàu “Đô đốc Latouche Tréville”, từ bến cảng Nhà Rồng,
Nguyễn Tất Thành đã lên đường sang Pháp, bắt đầu cuộc hành trình 30 năm tìm con đường
giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Vào thời điểm đó, không ai biết rằng vận mệnh
của dân tộc Việt Nam đã gắn liền với quyết định ra đi của một con người mà lịch sử đã
chứng tỏ là sáng suốt phi thường. Đánh dấu một dấu son lịch sử vẫn luôn sáng mãi trong
tâm thức hàng triệu trái tim con người Việt Nam và bạn bè thế giới.
Hình ảnh con tàu Amiral Latouche Tréville
Với tên mới Văn Ba, làm phụ bếp trên tàu, Nguyễn Tất Thành ra đi trong tư cách
một người lao động, khởi nghiệp với đôi bàn tay trắng. Trong suốt hành trình 30 năm bôn
ba tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc ấy, Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc đã lOMoAR cPSD| 61601435
đi qua 3 đại dương, 4 châu lục, qua gần 30 quốc gia, hàng trăm thành phố, vượt qua muôn
vàn gian khổ, chông gai và làm rất nhiều nghề để kiếm sống, với quyết tâm cháy bỏng :
“Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy
là tất cả những điều tôi hiểu”.
Ngày 6/7/1911, ngay sau khi đặt chân tới nước Pháp người đã nhận thấy rằng ‘người
Pháp trên đất nước Pháp thì lịch sự hơn rất nhiều so với người Pháp ở Đông Dương’ và
người cũng thấy rằng ‘người Pháp trên đất nước Pháp cũng có rất nhiều người nghèo khổ
giống như nhân dân An Nam chúng ta’. Và người đã viết một bức thư cho tổng thống Pháp
vào ngày 15/9/1911 rằng người mong muốn tổng thống Pháp nhận người vào học bồi trú
của trường thuộc địa để người học chuyên môn giúp ích cho đất nước Pháp và trở về giúp
ích cho nhân dân Việt Nam. Tuy vậy lời đề nghị của người đã bị từ chối.
Do vậy người chỉ ở lại Pháp 3 tháng, rồi tiếp tục cuộc hành trình, đi theo nhiều tàu
buôn khác, đến nhiều nơi, Với những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm trong 10 năm
ròng, từ năm 1911 đến năm 1920, Nguyễn Tất Thành đã tận dụng mọi cơ hội để được đến
nhiều nơi trên thế giới. Bàn chân của người thanh niên yêu nước này đã in dấu trên nhiều
nước thuộc các đại lục Âu, Á, Phi, Mỹ.
Đặc biệt ở 3 nước là Mỹ, Anh và Pháp, Nguyễn Tất Thành đã dừng chân khảo sát
khá lâu. Người hòa mình vào cuộc sống của những người lao động, làm bất cứ việc gì để
sống và hoạt động, như : Phụ bếp, cào tuyết, đốt lò, chụp ảnh, làm vườn, vẽ thuê…
Trên cơ sở đó Nguyễn Tất Thành rút ra một kết luận có tính chất nền tảng đầu tiên :
Ở đâu đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác ; ở đâu những người lao động cũng bị bóc
lột, áp bức và “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người : Giống người
bóc lột và giống người bị bóc lột”. Cũng từ đó đã giúp người thanh niên Nguyễn Tất Thành
có một nhận thức quan trọng : Nhân dân lao động trên toàn thế giới cần đoàn kết lại để đấu
tranh chống kẻ thù chung là giai cấp thống trị ; cùng nhau thực hiện nguyện vọng chung là
độc lập, tự do. Từ những nhận biết căn bản đó càng thôi thúc người thanh niên yêu nước
quyết tâm tìm con đường giải phóng mà anh đã từng nung nấu, ấp ủ từ ngày rời Tổ quốc.
Cuối năm 1917, Người trở lại Pháp tham gia Hội những người Việt Nam
yêu nước ở Pháp, tham gia Đảng xã hội Pháp. Giữa lúc này Cách mạng xã hội chủ nghĩa
tháng Mười Nga nổ ra và thắng lợi, tiếp đó là Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất kết thúc.
Các nước đế quốc thắng trận trong thế chiến I, họp hội nghị ở Vecxay (Pháp) để phân chia
lại the giới và phân chia những quyền lợi cướp được sau chiến tranh. lOMoAR cPSD| 61601435
Thẻ căn cước của Nguyễn Ái Quốc ở Paris (Pháp) năm 1919.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã có ảnh hưởng rất lớn đến
tình cảm và nhận thức của Nguyễn Tất Thành. Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia
Đảng xã hội Pháp. Ngày 18 – 6 – 1919, với tên Nguyễn Ái Quốc, chàng thanh niên thay
mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi bản yêu sách tới Hội nghị Vécxây yêu
cầu về quyền tự do, dân chủ, bình đẳng dân tộc cho nhân dân An Nam. Tuy bản yêu sách
không được chấp nhận nhưng đã được lan truyền rộng rãi, gây tiếng vang lớn trong dư luận
nước Pháp, thức tỉnh tinh thần đấu tranh của các nước thuộc địa ; đồng thời cũng đem lại
cho Nguyễn Ái Quốc một nhận thức là các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa
vào sức của chính mình. lOMoAR cPSD| 61601435
Bản yêu sách Tám điểm của nhân dân Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc và nhóm người
Việt Nam yêu nước gửi Nghị viện Pháp và các đoàn đại biểu dự Hội nghị Vécxây
Bản Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin đã đến với Người
vào tháng 7-1920, làm cho Người « rất cảm động, phấn khởi sáng tỏ, tin tưởng biết bao ».
Từ đó, Người hoàn toàn tin theo Lênin, đứng hẳn về quốc tế thứ III. Tại Đại hội Đảng Xã
hội Pháp lần thứ 18 họp ở Tua (từ 25 đến 30-12-1920), Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán
thành quốc tế III, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là
người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Sự kiện này đánh dấu bước nhảy vọt trong quá trình
chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc. Từ một người yêu nước, ra đi tìm đường cứu
nước, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin và trở thành một người cộng sản. Người đã tìm ra
con đường cứu nước đúng đắn cho Nhân dân Việt Nam, con đường giải phóng theo học
thuyết Mác – Lênin, con đường kết hợp giữa đấu tranh giải phóng dân tộc với giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội. lOMoAR cPSD| 61601435
Chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã
hội Pháp ở thành phố Tours với tư cách đại biểu Đông Dương.
“Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết
bao ! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như
đang nói trước quần chúng đông đảo : “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ. Đây là cái cần
thiết với chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta !”. Sau này, Người đã viết như thế
về thời điểm lịch sử đầy ý nghĩa này.
Cuối tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III, đánh
dấu bước ngoặt lớn trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, đồng thời cũng đánh
dấu một bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam, mở đầu quá trình kết hợp đấu
tranh giai cấp với đấu tranh dân tộc, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tinh thần
yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành – Nguyễn Ái Quốc đã quyết định đi theo con đường của Lênin vĩ đại. Người kết
luận : “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Từ khi tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc
hăng say hoạt động cách mạng, học tập nghiên cứu lý luận và tìm cách truyền bá chủ nghĩa
Mác – Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về mặt tư tưởng, chính trị, tổ chức và cán bộ cách
mạng cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. lOMoAR cPSD| 61601435
Năm 1921, được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp và cùng với một số người yêu
nước của các dân tộc thuộc địa Pháp, Người đã sáng lập ra Hội liên hiệp các dân tộc thuộc
địa Pháp ở Paris để đoàn kết các lực lượng cách mạng, chống chủ nghĩa thực dân và thông
qua tổ chức đó đưa chủ nghĩa Mác – Lênin đến với các dân tộc thuộc địa. Đây được coi là
hiện tượng có một không hai trong lịch sử bởi lần đầu tiên ngay tại đất nước Pháp đất nước
mà chủ nghĩa tư bản đã ra đời và ăn sâu bám rễ thì Nguyễn Ái Quốc lại cho ra đời một tổ
chức chống lại chủ nghĩa tư bản trên chính đất nước Pháp.
Năm 1922, Hội xuất bản tờ báo « Người cùng khổ » do Nguyễn Ái Quốc làm chủ
bút kiêm quản lí tờ báo. Tờ báo xuất bản 32 số, đã vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã
man của chủ nghĩa đế quốc nói chung và đế quốc Pháp nói riêng, truyền bá chủ nghĩa Mác
– Lênin, tinh thần quốc tế vô sản nhằm thức tỉnh các dân tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh tự giải phóng.
Hình ảnh bài báo Mau lên vi hành do Nguyễn Ái Quốc biên soạn được đăng trên
tuần báo Người cùng khổ
Người còn viết nhiều bài cho các Báo Nhân Đạo, Đời sống công nhân và đặc biệt là
viết cuốn sách nổi tiếng : « Bản án chế độ thực dân Pháp ». Mặc dù nhà cầm quyền Pháp
tìm mọi cách ngăn chặn, cấm đoán, các sách báo đó vẫn được bí mật chuyển về Việt Nam.
Nhờ đó, quần chúng Nhân dân ngày càng hiểu rõ hơn bản chất của chủ nghĩa đế quốc, hiểu
được Cách mạng Tháng Mười Nga. lOMoAR cPSD| 61601435
Hình ảnh cuốn sách « Bản án chế độ thực dân Pháp »
Giữa năm 1923, người bí mật từ Pháp đi Liên Xô dự hội nghị Quốc tế nông dân và
được bầu vào Ban chấp hành. Tiếp đó, Người hoạt động, học tập và nghiêm cứu ở Quốc tế
cộng sản, viết bài cho Báo Sự thật, Tạp chí Thư tín quốc tế. Tháng 7-1924, Người dự Đại
hội lần thứ 5 của Quốc tế công sản. Tại Đại hội, Người trình bày những quan điểm của
mình về vị trí, chiến lược của cách mạng các nước thuộc địa ; vai trò to lớn của giai cấp
nông dân ở các nước thuộc địa ; mối quan hệ giữa phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
ở các nước thuộc địa với phong trào công nhân ở các nước chính quốc…
Người được chỉ định làm Uỷ viên thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách
Cục Phương Nam của Quốc tế cộng sản. Sau đó, Người còn dự các cuộc Hội nghị của Quốc
tế Công hội, Thanh niên, Phụ nữ. Những quan điểm cơ bản đó của Nguyễn Ái Quốc được
truyền bá vào nước ta là bước chuẩn bị quan trọng về tư tưởng, chính trị cho sự thành lập Đảng ta sau này.
Đầu năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người bắt
đầu xây dựng những nhân tố bảo đảm cho cách mạng Việt Nam như : Truyền bá Chủ nghĩa
Mác – Lênin vào Việt Nam, khơi dậy tinh thần đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, của
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, phát triển lực lượng cách mạng,
xây dựng các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với tác phẩm “Bản án chế
độ thực dân Pháp” và “Đường Kách mệnh”, đặc biệt là việc xuất bản tờ Báo Thanh Niên
ra ngày 21-6-1925, Người đã chuẩn bị về đường lối chính trị để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. lOMoAR cPSD| 61601435
Ngày 11/11/1924, với bí danh là Lý Thủy, Quảng Châu Trung Quốc với tư tưởng
tam dân của Tông Chung Sơn đã đưa Quảng Châu Trung Quốc trở thành một Moskva thu
nhỏ và thu hút rất nhiều thanh niên ưu tú của chúng ta sang sinh sống và hoạt động ở Quảng
Châu. Người tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam đang hoạt động ở đây và cải tổ tổ
chức Tâm Tâm xã để thành lập ra một tổ chức cách mạng mới là Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên (gọi tắt là Thanh Niên) với nòng cốt là “”Cộng sản đoàn » vào 61925 với nhiệm
vụ truyền bá chủ nghĩa Mác Lenin và xây dựng cho phong trào công nhân và phong trào
yêu nước ở nước ta giác ngộ và từ đó đưa đến sự ra đời tất yếu của Đảng cộng sản Việt
Nam sau này. Để có thể tuyên truyền cho hội ngày 21-6, Người cho xuất bản tờ báo Thanh
Niên làm cơ quan ngôn luận của hội. Tờ báo hoạt động từ 6-1925 đến 4-1927, xuất bản 88
số. Đây là tờ báo cách mạng đầu tiên bằng tiếng Việt.
Hình ảnh tớ bào Thanh Niên số 66 và 67
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện chính trị, đào tạo
những thanh niên yêu nước thành cán bộ cách mạng rồi đưa họ về nước hoạt động. Tại ngôi
nhà số 13/1 Đường Văn Minh, Quảng Châu, Trung Quốc Người đã đào tạo các chiến sĩ
cách mạng và trong 3 khóa huyến luyện đã đào tạo được 75 chiến sĩ cộng sản đầu tiên chính
75 hạt giống gạo do chính tay Nguyễn Ái Quốc ươm mầm với rất nhiều những học trò ưu
tú của người mà sau này đã trở thành những người lãnh đạo trong phòng trào cách mạng Việt Nam sau này. lOMoAR cPSD| 61601435
Hình ảnh ngôi nhà số 13/1 Đường Quang Minh, Quảng Châu, Trung Quốc
Nguyễn Ái Quốc đóng vai trò giảng viên chính của lớp học này, các bài giảng của
Người ở các lớp chính trị đó được tập hợp lại và in thành sách Đường cách mệnh (1927),
văn kiện lý luận đầu của đảng cộng sản Việt Nam. Trong tác phẩm này, Người đã chỉ ra
những phương hướng cơ bản về chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam. lOMoAR cPSD| 61601435
Hình ảnh cuốn Đường Đường Kách mệnh
Những quan điểm cơ bản về chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc mà Người chỉ
ra trong tác phẩm này đã đặt nền tảng cho cương lĩnh của Đảng ta sau này. Tại Quảng Châu,
Người còn chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau: Chọn các thiếu niên ưu tú gửi
đi học trường đại học Phương đông của Quốc tế Cộng sản (Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị
Minh Khai…), chọn thanh niên ưu tú đi học tại trường Quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc).
Chính lớp người này trở thành thế hệ cách mạng đầu tiên và trở thành những lãnh tụ xuất
sắc của Đảng và Quân đội của nước ta về sau.
Sự hoạt động Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo đã
có tác dụng tích cực đến phong trào cách mạng ở trong nước. Từ năm 1926, Hội Việt Nam
cách mạng Thanh niên đã xây dựng được nhiều cơ sở tại các trung tâm kinh tế và chính trị
quan trọng ở trong nước. Số lượng hội viên hem nhanh. Năm 1928 Hội phát động phong
trào “Vô sản hoá” đã góp phần thực hiện việc kết hợp Chủ nghĩa Mác Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước, thúc đẩy nhanh tiến trình thành lập chính Đảng vô
sản ở Việt Nam. Đến năm 1929, Hội đã có cơ sở ở hầu khắp cả nước, các tổ chức đoàn thể
quần chúng cũng lần lượt ra đời. Vào giữa năm 1929, nhu cầu thành lập tổ chức cộng sản
đã hem muồi và các tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản
Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn nối tiếp nhau xuất hiện, tạo tiền đề trực tiếp cho
sự ra đời của chính Đảng vô sản ở Việt Nam.
Với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng này đã đưa đến yêu cầu hợp
nhất ba tổ chức cộng sản đó trở thành một chính Đảng duy nhất lãnh đạo phong trào cách
mạng ở Đông Dương thế nhưng sau khi Tưởng Giới Thạch tỏ chức cuộc chính biến phản
cách mạng lần đầu tiên thì mảnh đất Quảng Châu Trung Quốc không còn là mảnh đất màu
mỡ để tiếp tục hoạt động cách mạng, Người đã quay trở lại hoạt động ở Quốc tế cộng sản
và mục đích của người chính là tìm cách để quay trở về để sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam.
Và để trở về với quê hương mảnh đất tiếp theo người dừng chân hoạt động cách
mạng đó chính là mảnh đất Xiên Thái Lan. Trong quá trình hoạt động của Người, Người
đã gây được tình hữu ái cũng như là một hậu phương vững chắc đối với Việt kiều yêu nước
đang sinh sống và làm việc trên mảnh đất Thái Lan. Và không chỉ vậy người đã đổi tên tờ
báo Đồng Thanh thành tờ báo Thân Ái lOMoAR cPSD| 61601435
Hình ảnh tờ báo Thân Ái
Trong quãng thời gian người làm việc tại Thái Lan từ năm 1928 đến năm 1929 thì
cùng lúc đó ba tổ chức Cộng sản đã ra đời và hoạt động rất mạnh mẽ, trước tình hình đó
Quốc tế cộng sản đã ra một bản chính trị vào ngày 24/10/1929 về việc sẽ thành lập một
Đảng Đông Dương để lãnh đạo tình hình cách mạng trên toàn cõi Đông Dương. Với tư
cách là Đảng phái viên Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã đứng ra triệu tập và chủ trì
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản Việt Nam. Hội nghị diễn ra tại Cửu Long, Hương Cảng, Trung Quốc. lOMoAR cPSD| 61601435
Hình ảnh những đại biểu tham dự hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam đã được họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung
Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản.Tham
dự Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam bao gồm
các đồng chí sau: Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh (đại biểu của Đông Dương Cộng sản
đảng), Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu (đại biểu của An Nam Cộng sản đảng).
Hình ảnh hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam tại bán đảo Cửu long thuộc Hồng Kông
Hội nghị đã hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam giai đoạn đó thành một
Đảng Cộng sản duy nhất và đó chính là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt lOMoAR cPSD| 61601435
Nam đi theo một đường lối chính trị đúng đắn, việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã
tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả
nước, tất cả đều hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cũng chính là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh
dân tộc và đấu tranh giai cấp, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự khẳng định vai trò lãnh
đạo của giai cấp công nhân tại Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt
Nam giai đoạn đó. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cũng được đánh giá là sự kiện
lịch sử có ý nghĩa cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng to lớn và quan trọng trong lịch
sử của cuộc cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu một mốc
son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác – Lênin cùng với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt
Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
Ta thấy được rằng, sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị để xác định đúng đắn
con đường cách mạng đó là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản,
chính là cơ sở quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã có thể nắm được ngọn
cờ lãnh đạo đối với phong trào cách mạng Việt Nam. Việc này cũng góp phần quan trọng
giúp giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo
cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, từ đó mà đã mở ra con đường và phương hướng cụ thể
để phát triển mới cho đất nước Việt Nam. lOMoAR cPSD| 61601435
Hình ảnh các văn kiện chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam
Chính đường lối được Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành này là cơ sở để có thể
đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc ta đều cùng
chung tư tưởng và hành động để nhằm có thể tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành được
những thắng lợi to lớn ở giai đoạn sau này. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là điều kiện cơ bản quyết định đối với phương
hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt nhiều năm qua.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cùng với việc Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương
cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, việc này cũng đã
tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp được sức mạnh dân tộc
với sức mạnh của thời đại từ đó giúp dân tộc ta làm nên những thắng lợi vẻ vang. Bên cạnh
đó thì cách mạng Việt Nam cũng đã góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của
nhân dân trên phạm vi toàn thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hộ lOMoAR cPSD| 61601435 Phần Kết Luận
Bằng một hành trình qua đại dương, Người đã tìm đến đại dương của trí tuệ. Dưới
ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, lớp lớp thế hệ người Việt Nam đã vững bước trên con
đường mà Người đã chọn. Đó là con đường của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, con
đường mang tầm nhìn vượt thời gian đưa đất nước và dân tộc ta vượt qua biết bao khó hem,
thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất
nước, thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thoát khỏi
nước kém phát triển, từng bước tiến lên “sánh vai với các cường quốc năm châu”, thực
hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Và qua đó ta hiểu hem được về
ý nghĩa của sự hình thảnh Đảng Cộng Sản Việt Nam là cần thiết với tình chung lúc bấy giờ.