
















Preview text:
lOMoAR cPSD| 22014077
2. QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ QUAN HỆ PHÁP LUẬT 2.1. Quy phạm pháp luật
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm của quy phạm pháp luật
Khái niệm quy phạm pháp luật: Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, mang tính bắt buộc do nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh hành vi của chủ thể và điều chỉnh các quan hệ xã hội và
được nhà nước bảo đảm thực hiện. o Quy tắc xử sự chung, mang tính bắt buộc:
Quy tắc xử sự là những khuôn mẫu, chuẩn mực về xử sự của con người. Căn cứ vào các khuôn
mẫu, chuẩn mực này để xác định giới hạn, đánh giá hành vi của con người. Nhìn vào các quy tắc này mà
có thể xác định được các chủ thể đã thực hiện đúng hay không đúng pháp luật.
Quy phạm pháp luật là các quy tắc xử sự được hình thành để áp dụng chung cho các quan hệ xã
hội cùng loại, nhằm áp dụng cho tất cả các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội này.
Tính bắt buộc của quy phạm pháp luật thể hiện ở điểm các chủ thể có nghĩa vụ phải thực hiện
theo đúng quy tắc xử sự được quy định.
Chú ý :Quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật. Quan hệ pháp luật nảy sinh, thay đổi hay
chấm dứt khi có các sự kiện pháp lý nhất định được xác định bởi các quy phạm pháp luật.
o Quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi của con người, điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Đối tượng mà quy phạm pháp luật hướng tới là hành vi của con người, là các quanhệ xã hội. Quan
hệ xã hội là các quan hệ hình thành, phát triển trong xã hội, là các quan hệ giữa con người với con người với nhau.
Không phải quan hệ xã hội nào phát sinh trong xã hội đều có quy phạm pháp luật điều chỉnh. Quy
phạm pháp luật xác định xử sự của các chủ thể, theo đó chủ thể có thể hoặc phải thực hiện trong những
quan hệ xã hội mà nhà nước thấy có ích lợi để điều chỉnh, hoặc có thể điều chỉnh. lOMoAR cPSD| 22014077
Quy phạm pháp luật xác định rõ những tổ chức, cá nhân cụ thể trong những hoàn cảnh, điều kiện
cụ thể sẽ phải chịu sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật chỉ ra các quyền và nghĩa
vụ pháp lý của các chủ thể khi tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Quy phạm pháp luật cũng quy
định cả những biện pháp mà nhà nước sẽ tác động để đảm bảo việc thực hiện các quy phạm pháp luật đó.
Tùy vào từng loại quan hệ pháp luật điều chỉnh mà phân quy phạm pháp luật thành các loại khác nhau.
o Quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện.
Chỉ có một số cơ quan nhà nước mới có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận cácquy phạm pháp
luật. Đây là thuộc tính thể hiện sự khác biệt giữa quy phạm pháp luật và các quy phạm xã hội khác.
Nhà nước ban hành các biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện quy phạm pháp luật. Các biện pháp
bảo đảm này được phân thành các loại khác nhau theo tính chất, mức độ của hành vi không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng.
Đặc điểm của quy phạm pháp luật: Từ khái niệm của quy phạm pháp luật suy ra đặc điểm của pháp
luật. Đây là những điểm phân biệt quy phạm pháp luật với các quy phạm xã hội khác. o Quy phạm pháp
luật có các đặc điểm sau:
Quy phạm pháp luật có tính áp dụng chung.
Quy phạm pháp luật có tính bắt buộc.
Quy phạm pháp luật được đảm bảo thực hiện bởi nhà nước.
o Tính áp dụng chung thể hiện ở điểm pháp luật áp dụng đến tất cả các chủ thể không phụ thuộc vào thời
gian, không gian, chủ thể thực hiện, nếu thuộc các điều kiện, hoàn cảnh, tình huống mà quy phạm pháp luật dự liệu.
Quy phạm pháp luật không chỉ áp dụng cho một tổ chức, cá nhân cụ thể, cho một quan hệ xã hội
cụ thể mà nhằm điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội có những đặc điểm, tình huống, điều kiện đã được
dự liệu sẵn trong quy phạm pháp luật đó. Quy phạm pháp luật thống nhất các điểm chung của các quan
hệ thuộc cùng một nhóm để thiết lập ra các quy tắc xử sự có tính chất chung cho tất cả các chủ thể tham
gia. Ví dụ quan hệ mua bán hàng hóa, quan hệ cung ứng dịch vụ,…
Tuy nhiên quy phạm pháp luật này chỉ có tính áp dụng chung khi có hiệu lực. Thời gian có hiệu lực
của quy phạm pháp luật là tương đối dài và chỉ hết hiệu lực khi hết hạn hiệu lực được quy định bởi quy
phạm pháp luật đó, hoặc bị hủy bỏ, bãi bỏ, sửa đổi, thay thế bằng quy phạm pháp luật mới. trong thời
gian có hiệu lực của mình, quy phạm pháp luật có thể tác động nhiều lần đến các chủ thể thuộc đối tượng áp dụng của mình.
Tính áp dụng chung là điểm phân biệt quy phạm pháp luật với một số các quy phạm xã hội khác.
Quy tắc tôn giáo chỉ áp dụng đối với những chủ thể theo tôn giáo đó. Quy tắc nghề nghiệp chỉ áp dụng đối
với một số chủ thể nhất định. lOMoAR cPSD| 22014077
o Tính bắt buộc thể hiện ở việc các chủ thể tham gia quan hệ xã hội mà quy phạm pháp luật điều chỉnh
phải thực hiện theo khuôn mẫu hành vi, xử sự mà quy phạm pháp luật quy định. Quy phạm pháp luật dự
kiến các khuôn mẫu xử sự cho các chủ thể trong hoàn cảnh, điều kiện nhất định. Khi vào hoàn cảnh, điều
kiện dự liệu, chủ thể phải thực hiện theo khuôn mẫu đó. Nếu chủ thể không thực hiện đúng theo những
gì pháp luật buộc phải làm hoặc làm những việc pháp luật không cho phép làm thì sẽ có khả năng phải
chịu trách nhiệm pháp lý.
Tính bắt buộc tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của quy phạm pháp luật và đáp ứng các điều kiện khác
về mặt hiệu lực. Ví dụ, quy tắc đó sẽ chỉ có hiệu lực khi không trái với các quy tắc có giá trị pháp lý cao
hơn. Tính bắt buộc của quy phạm pháp luật đối với chủ thể sẽ xuất hiện khi những điều kiện áp dụng của
pháp luật trở thành hiện thực. Ví dụ: các chủ thể tham gia vào giao thông thì phải dừng lại khi gặp đèn đỏ.
o Tính cưỡng chế thể hiện ở việc quy phạm pháp luật được đảm bảo thực hiện bởi nhà nước.
Trong hoàn cảnh, điều kiện, tình huống mà quy phạm pháp luật dự liệu trước, nếutổ chức, cá
nhân không thực hiện theo khuôn mẫu mà quy phạm pháp luật chỉ dẫn thì nhà nước sẽ sử dụng biện
pháp cưỡng chế để buộc họ thực hiện theo đúng. Các biện pháp cưỡng chế được dự kiến trước trong các quy phạm pháp luật.
Quy phạm pháp luật được cưỡng chế thực hiện bởi nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền hoặc các tổ chức xã hội được nhà nước công nhận, bao gồm hệ thống các cơ quan hành
pháp nhà nước, các cơ quan tư pháp và các tổ chức xã hội được nhà nước công nhận trao quyền thực
hiện cưỡng chế . o Phân biệt với các quy phạm xã hội khác.
Quy tắc tôn giáo, quy tắc đạo đức, quy tắc nghề nghiệp, quy tắc của tổ chức xã hội đều không do nhà nước
ban hành và bảo đảm thực hiện, không có tính cưỡng chế nhà nước. Sự tác động tương hỗ giữa quy phạm
phạm xã hội và quy phạm pháp luật: quy phạm xã hội giúp hình thành quy phạm pháp luật (ví dụ vấn đề
đồng tính), quy phạm pháp luật tạo nên quy phạm xã hội (ví dụ vấn đề chống hút thuốc lá).
2.1.2. Cấu trúc của quy phạm pháp luật
Có nhiều quan điểm khác nhau về cấu trúc của quy phạm pháp luật. Dựa vào cách thức thể hiện của quy
phạm pháp luật, có các quan điểm sau:
• Quan điểm cho rằng quy phạm pháp luật có ba bộ phận
Giả định, quy định và chế tài..
• Quan điểm cho rằng quy phạm pháp luật có hai bộ phận. o Giả định và
quy định hoặc Giả định và chế tài. o Phần giả định và phần chỉ dẫn. o Phần
quy tắc và phần bảo đảm
• Phần Giả định
o Là phần xác định chủ thể tham gia quan hệ pháp luật và những hoàn cảnh, điều kiện mà chủ thể gặp phải trong thực tiễn. lOMoAR cPSD| 22014077
Đây là phần xác định phạm vi tác động của quy phạm pháp luật, trả lời câu hỏi: quy phạm tác động
đến chủ thể nào và trong các hoàn cảnh, điều kiện nào?
Ví dụ: Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không
nhận thức được và làm chủ được hành vi của minh thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân
sự đó là vô hiệu (Điều 133 Bộ luật dân sự).
o Yêu cầu của phần giả định: Phải được xác lập rõ ràng, chính xác, sát với thực tế, và dự kiến được tối đa
các tình huống có thể xảy ra trong thực tế:
Tránh tình trạng phần giả định mập mờ, khó hiểu dẫn đến tình trạng không thể hiểu được hoặc
hiểu sai lệch nội dung của quy phạm pháp luật.
Tránh tình trạng không có quy phạm pháp luật điều chỉnh ("lỗ hổng" pháp luật) khi chưa dự liệu
được hết những tình huống có thể xảy ra. o Một số hình thức biểu hiện của giả định:
Có thể ở dạng đơn giản: nêu một hoàn cảnh, điều kiện. Ví dụ: "Giao dịch dân sự vô hiệu không
làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập". (Điều 137 Bộ luật dân sự)
Có thể ở dạng phức tạp: nêu nhiều hoàn cảnh, điều kiện. Ví dụ: "Trường hợp bên bán không có
nghĩa vụ mua bảo hiểm cho hàng hóa trong quá trình vận chuyển, nếu bên mua có yêu cầu thì bên bán
phải cung cấp cho bên mua những thông tin cần thiết liên quan đến hàng hóa và việc vận chuyển hàng
hóa để tạo điều kiện cho bên mua bảo hiểm cho hàng hóa đó". (Khoản 3 Điều 36 Luật Thương mại).
Có thể ở dạng liệt kê: Ví dụ: "Đại diện theo pháp luật của cá nhân chấm dứt trong các trường hợp
sau đây: a) Người được đại diện đã thành niên hoặc năng lực hành vi dân sự đã được khôi phục; b) Người
được đại diện chết; c) Các trường hợp khác do pháp luật quy định." (Điều 147 Bộ luật dân sự).
Có thể ở dạng loại trừ: Ví dụ: "Cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp
tham gia tập trung kinh tế chiếm 50% trên thị trường liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 19 của
Luật này và trường hợp doanh nghiệp sau khi tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa
theo quy định của pháp luật." (Điều 18 Luật cạnh tranh). Phần chỉ dẫn:
o Phần này nêu lên ý chí, mệnh lệnh của nhà nước hướng tới các chủ thể để giúp chủ thể thực hiện hành
vi phù hợp với ý chí của nhà nước. Bằng việc hướng dẫn hành vi
của chủ thể hoặc quy định những quyền và nghĩa vụ của các chủ thể hoặc nêu lên tác động của nhà nước
có thể áp dụng đối với các chủ thể khi thực hiện hoặc không thực hiện theo khuôn mẫu xử sự đặt ra.
Thông qua phần chỉ dẫn, nhà nước thể hiện ý chí của mình như cho phép chủ thể làm gì, cấm chủ thể
làm gì hoặc bắt buộc chủ thể làm gì.
Phần chỉ dẫn cũng giúp các chủ thể biết cách xử sự sao cho phù hợp với ý chí của nhà nước. o Nội dung
của phần chỉ dẫn. lOMoAR cPSD| 22014077
Xác định quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Ví dụ: "Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị đơn phương chấm
dứt phải bồi thường thiệt hại." (Điều 426 khoản 4 BLDS); "Một bên có quyền đơn phương chấm dứt
thực hiện hợp đồng nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định" (Điều 426 khoản 1 BLDS).
Chỉ dẫn về hành vi cho các chủ thể được nêu trong phần giả định: Có thể nêu một cách xử sự mà các
chủ thể buộc phải thực hiện, không có sự lựa chọn. Ví dụ: "Đại diện của tổ hợp tác trong các giao dịch
dân sự là tổ trưởng do các tổ viên cử ra." (Điều 113 khoản 1 BLDS); Có thể nêu nhiều các xử sự và cho
phép chủ thể lựa chọn cho mình cách xử sự thích hợp. Ví dụ: "Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời
nói, bằng văn bản và bằng hành vi cụ thể" (Điều 124 khoản 1 BLDS); "Giá do các bên thỏa thuận hoặc
do người thứ ba xác định theo yêu cầu của các bên" (Điều 431 khoản 1 đoạn 1 BLDS); Có thể nêu ra
cách xử sự buộc các chủ thể phải tuân theo sau khi đã cho phép tự do thực hiện mà không thực hiện.
Ví dụ: "Chất lượng của vật mua bán do các bên thỏa thuận... Khi các bên không có thỏa thuận và pháp
luật không có quy định về chất lượng thì chất lượng của vật mua bán được xác định theo mục đích sử
dụng và chất lượng trung bình của vật cùng loại." (Điều 430 BLDS); "Khi các bên không có thỏa thuận
về thời hạn thanh toán thì bên mua phải thanh toán ngay khi nhận tài sản." (Điều 432 khoản 3 BLDS).
Nêu biện pháp tác động của nhà nước đến các chủ thể ở trong hoàn cảnh, điều kiện được nêu trong
phần giả định. Các biện pháp tác động của nhà nước: Chế tài, các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ,… Chế
tài là các biện pháp cưỡng chế có liên quan tới trách nhiệm pháp lý để áp dụng đối với các chủ thể vi
phạm pháp luật. Các loại chế tài: hình sự, hành chính, dân sự, kỷ luật. Ví dụ về chế tài hình sự: "Người
nào nhằm chống chính quyền nhân dân mà xâm phạm tính mạng của cán bộ, công chức hoặc công dân,
thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình" (Điều 84 BLHS); Ví dụ
về chế tài hành chính: "Phạt tiền đến 5% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành
vi vi phạm của các doanh nghiệp bị hợp nhất đối với hành vi hợp nhất bị cấm theo quy định tại Điều 18
của Luật Cạnh tranh." (Điều 26 khoản 1 Luật Cạnh tranh); Ví dụ về chế tài dân sự: "Bên có lỗi trong việc
hợp đồng bị hủy bỏ phải bồi thường thiệt hại." (Điều 425 khoản 4 BLDS). Ví dụ về chế tài kỷ luật: Điều
52 Luật viên chức 2010 quy định các hình thức kỷ luật đối với viên chức: "1. Viên chức vi phạm các quy
định của pháp luật trong quá trình thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ thì tùy theo tính chất, mức độ vi
phạm, phải chịu một trong các hình thức kỷ luật sau: a) Khiển trách; b) Cảnh báo; c) Cách chức; d) Buộc
thôi việc". Đối với các biện pháp khuyến khích về lợi ích vật chất, tinh thần hoặc các lợi ích khác đối với
các chủ thể thực hiện đúng pháp luật, ví dụ: "Cán bộ, công chức được khen thưởng do có thành tích
xuất sắc hoặc công trạng thì được nâng lương trước thời hạn, được ưu tiên khi xem xét bổ nhiệm chức
vụ cao hơn nếu cơ quan, tổ chức, đơn vị có nhu cầu." (Điều 76 khoản 2 Luật Cán bộ công chức); "Cơ
quan, tổ chức được ngân sách nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động đã thực hiện cơ chế khoán kinh
phí hoạt động hoặc tự chủ tài chính thì được sử dụng số tiền tiết kiệm chi để phục vụ cho hoạt động
của cơ quan, tổ chức, tăng thu nhập cho người lao động" (Điều 80 khoản 3 Luật thực hành tiết kiệm
chống lãng phí). Các biện pháp mang tính hỗ trợ, giúp đỡ, tạo điều kiện đối với một số chủ thể nhất
định. Ví dụ "Tổ chức, cá nhân đầu tư, phát triển, sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, sản xuất
các sản phẩm thân thiện với môi trường, được Nhà nước ưu đãi về thuế, hỗ trợ vốn, đất đai để xây
dựng cơ sở sản xuất" (Điều 33 khoản 2 Luật bảo vệ môi trường), "Các sản phẩm tái chế từ chất thải,
năng lượng thu được từ việc tiêu hủy chất thải, các sản phẩm thay thế nguyên liệu tự nhiên có lợi cho
môi trường được Nhà nước trợ giá" (Điều 117 khoản 2 c Luật Bảo vệ môi trường); "Chương trình, dự
án bảo vệ môi trường trọng điểm của Nhà nước cần sử dụng vốn lớn được ưu tiên xem xét cho sử dụng
vốn hỗ trợ phát triển chính thức" (Điều 117 khoản 4 Luật Bảo vệ môi trường). Bộ phận chỉ dẫn có thể
chỉ liệt kê các biện pháp tác động, hoặc quy định mức thấp nhất hoặc cao nhất của các biện pháp tác lOMoAR cPSD| 22014077
động, hoặc liệt kê các biện pháp tác động có thể áp dụng để chủ thể có thẩm quyền lựa chọn áp dụng
cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của từng vụ việc. o Yêu cầu của phần chỉ dẫn.
Phải rõ ràng để các chủ thể có thể thực hiện được.
Tránh trường hợp khó hiểu, dẫn đến tình trạng khó thực hiện. Ví dụ: Điều 390 khoản 2 BLDS, Điều 392, 393 BLDS,…
Đối với các biện pháp tác động của nhà nước: Phải rõ ràng, phù hợp và thực hiện được mục tiêu đặt ra
cho từng biện pháp. Yêu cầu đối với chế tài là phải phù hợp, không được quá nặng hay quá nhẹ so với
hành vi vi phạm pháp luật. Yêu cầu đối với các biện pháp khuyến khích là phải thực hiện được mục tiêu
đặt ra là khuyến khích, động viên, tránh tình trạng biện pháp khuyến khích không khuyến khích được
chủ thể thực hiện trong thực tế. Yêu cầu đối với các biện pháp mang tính hỗ trợ, tạo điều kiện là phải
thực hiện được mục tiêu đặt ra là hỗ trợ, tạo điều kiện, tránh tình trạng biện pháp mang tính hỗ trợ,
tạo điều kiện không hỗ trợ, tạo điều kiện cho chủ thể trong thực tế.
Hình thức thể hiện cấu trúc của quy phạm pháp luật. o Có hai kết cấu:
Nêu giả định và đưa ra chỉ dẫn để chủ thể thực hiện theo ý muốn của nhà nước: chỉ dẫn về hành
vi, chỉ dẫn về quyền và nghĩa vụ (chỉ dẫn cách xử sự). Ví dụ: "Doanh nghiệp nộp thuế tại nơi có trụ sở
chính." Điều 12 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. "Người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch dân sự
trong phạm vi đại diện." (Điều 144 khoản 3 BLDS).
Nêu giả định và nêu các biện pháp tác động của nhà nước. Ví dụ: "Cán bộ, công chức nhà nước có
hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc
bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây ra thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại" (Điều 120 Luật Cạnh tranh).
o Tùy theo từng điều luật mà phần giả định và phần chỉ dẫn của quy phạm pháp luật có thể được sắp xếp
theo trật tự giả định – chỉ dẫn hoặc chỉ dẫn – giả định hoặc xen kẽ.
Ví dụ cấu trúc giả định – chỉ dẫn: "Trường hợp bên được đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất
năng lực hành vi dân sự sau khi trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp
đồng vẫn có giá trị".
Ví dụ cấu trúc chỉ dẫn – giả định: "Cấm doanh nghiệp gây rối hoạt động kinh doanh hợp pháp của
doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp đó" (Điều 44 Luật Cạnh tranh).
o Hình thức thể hiện quy phạm pháp luật là các Điều, các Khoản, các Điểm trong văn bản quy phạm pháp luật.
Điều là phương thức chứa đựng và thể hiện nội dung của quy tắc hoặc các quy tắc xử sự. Nói một
cách khái quát, Điều là sự thể hiện các quy phạm pháp luật trong các văn bản quy phạm pháp luật. Trong
cấu trúc của Điều, có thể được chia thành các Khoản, các Điểm. Ví dụ: Điều 23 khoản 1, điểm a Luật
Thương mại quy định về trường hợp chấm dứt hoạt động của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam khi
hết thời hạn hoạt động ghi trong giấy phép. lOMoAR cPSD| 22014077
Một quy phạm pháp luật có thể được trình bày trọn vẹn trong một Điều. Khi đó quy phạm pháp
luật trùng với Điều. Ví dụ: Điều 10 Luật Thương mại: "Thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế bình
đẳng trước pháp luật trong hoạt động thương mại".
Một Điều có thể chứa nhiều quy phạm pháp luật. Mỗi Điểm, mỗi Khoản của Điều có thể chứa
đựng các quy phạm pháp luật độc lập. Ví dụ: Điều 37 Luật Thương mại về Thời hạn giao hàng trong hợp
đồng mua bán hàng hóa: "
1. Bên bán phải giao hàng đúng thời điểm giao hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng.
2. Trường hợp chỉ có thỏa thuận về thời hạn giao hàng mà không xác định thời điểm giao hàng cụ thể thì
bên bán có quyền giao hàng vào bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn đó và phải thông báo trước cho bên mua.
3. Trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn giao hàng thì bên bán phải giao hàng trong một thời hạn
hợp lý sau khi giao kết hợp đồng."
Các bộ phận của quy phạm pháp luật có thể được trình bày đầy đủ trong một Điều hoặc có thể được
viện dẫn tại một Điều, Khoản khác trong cùng văn bản đó hoặc ở các văn bản quy phạm pháp luật khác.
Ví dụ: "Cơ quan quản lý cạnh tranh có quyền áp dụng các biện pháp quy định tại điểm a khoản 1, điểm b
khoản 2, điểm c khoản 3 Điều 117 và khoản 2 Điều 118 của Luật này" (Điều 119 khoản 2 Luật Cạnh tranh).
Ví dụ: "Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi
mô" (Điều 126 khoản 2 Luật các tổ chức tín dụng 2010).
2.1.3. Phân loại quy phạm pháp luật
Có nhiều cách phân loại quy phạm pháp luật. o Căn cứ vào vào đối tượng điều chỉnh và phương pháp
điều chỉnh của pháp luật, có thể phần loại quy phạm pháp luật theo các ngành luật, theo các chế định luật.
Quy phạm pháp luật thuộc các ngành luật: hình sự, hiến pháp, dân sự, hành chính. Quy phạm pháp
luật thuộc các chế định luật: sở hữu, thừa kế, hợp đồng, đại diện,...
o Căn cứ vào bộ phận chỉ dẫn của quy phạm pháp luật.
Căn cứ vào sự tác động của các quy phạm pháp luật đến các chủ thể, phân thành: quy phạm pháp luật
điều chỉnh và quy phạm pháp luật bảo vệ. Quy phạm pháp luật điều chỉnh gồm quy phạm pháp luật
cho phép hay quy phạm pháp luật trao quyền, quy phạm pháp luật cấm đoán, quy phạm pháp luật bắt buộc.
Quy phạm pháp luật bảo vệ là quy phạm xác định các biện pháp cưỡng chế mà nhà nước áp dụng đối với
các chủ thể vi phạm pháp luật.
Căn cứ vào bộ phận chỉ dẫn về hành vi: Quy phạm tùy nghi, quy phạm mệnh lệnh, quy phạm trao quyền.
Quy phạm mệnh lệnh là quy phạm nêu rõ ràng, dứt khoát điều không được làm, hoặc bắt buộc phải
làm. Do vậy, quy phạm này có thể được chia thành quy phạm ngăn cấm và quy phạm bắt buộc. Quy
phạm tùy nghi là quy phạm không nêu rõ ràng, dứt khoát cách xử sự nhất định mà để cho các bên tự
thỏa thuận, định đoạt trong phạm vi nào đó. Đây là những quy định thường gặp trong pháp luật dân
sự và pháp luật kinh doanh. Quy phạm trao quyền là trực tiếp xác định quyền hạn của một chức vụ, lOMoAR cPSD| 22014077
một cơ quan nào đó trong bộ máy nhà nước hoặc xác nhận quyền nào đó của công dân, của một tổ chức.
Căn cứ vào bộ phận chỉ dẫn về biện pháp tác động: Quy phạm pháp luật cưỡng chế, quy phạm pháp
luật khuyến khích hỗ trợ, tạo điều kiện,… o Căn cứ vào phạm trù nội dung và hình thức của quy phạm pháp luật.
Quy phạm nội dung: quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
Quy phạm hình thức: quy định thủ tục, trình tự thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. o Căn cứ
vào đối tượng điều chỉnh của quy phạm pháp luật.
Quy phạm xác lập hành vi của con người: đưa ra khuôn mẫu hành vi mang tính chất bắt buộc chung cho các chủ thể.
Quy phạm định nghĩa (là quy phạm xác định những đặc điểm, những thuộc tính cơ bản của sự vật hay
hiện tượng hoặc những khái niệm, phạm trù được sử dụng trong văn bản quy phạm pháp luật), quy
phạm tuyên bố hay quy phạm nguyên tắc (nêu các nguyên tắc chính trị, pháp lý làm cơ sở xuất phát và
tư tưởng chỉ đạo trong việc xây dựng và thi hành các quy phạm pháp luật khác, ví dụ các quy phạm
pháp luật trong Hiến pháp),....
2.2. Quan hệ pháp luật
2.2.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại quan hệ pháp luật Khái niệm quan hệ pháp luật o Quan
hệ pháp luật là quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật.
Tất cả các quan hệ xã hội đều được thể hiện thông qua cách xử sự của con người với nhau, vì thế, bằng
cách quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho cácchủ thể tham gia vào một quan hệ xã hội nhất định, nhà
nước có thể tác động lên các quan hệ xã hội, điều chỉnh chúng theo chiều hướng nhà nước mong muốn.
Quan hệ pháp luật gắn liền với tổng thể các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội phát sinh giữa con người
với con người trong xã hội. Tất cả quá trình phát triển, hội nhập và liên kết giữa con người với con
người trong xã hội được diễn ra trong khuôn khổ được pháp luật điều chỉnh
Không phải quan hệ xã hội nào cũng là quan hệ pháp luật. Chỉ những quan hệ xã hội được pháp luật
điều chỉnh thông qua các quy phạm pháp luật mới tạo nên quan hệ pháp luật. Cuộc sống càng hiện đại,
nhu cầu của con người ngày càng nhiều, các quan hệ xã hội ngày càng phức tạp đòi hỏi càng phải có
nhiều thêm các quy tắc, các khuôn mẫu để điều chỉnh hành vi của con người cũng như các quan hệ
giữa họ. Nếu như trước đây, pháp luật chỉ dừng lại ở việc điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản, quan
trọng nhất trong xã hội, thì ngày nay pháp luật càng mở rộng phạm vi điều chỉnh của mình đến rất
nhiều các quan hệ xã hội quan trọng.
Khi được pháp luật điều chỉnh, quan hệ xã hội được hưởng chế độ pháp lý nhất định, các chủ thể tham
gia quan hệ xã hội đó có những quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. lOMoAR cPSD| 22014077
Các quan hệ pháp luật có thể coi là hình thức hiện thực hóa các quy phạm pháp luật, đưa pháp luật vào
đời sống, nhằm thực hiện các chức năng của pháp luật. Tuy nhiên sự tác động của pháp luật đến các
quan hệ xã hội không nhất thiết phụ thuộc vào sự hình thành các quan hệ pháp luật. Có những quy
phạm pháp luật đã tác động đến các chủ thể, đến xã hội ngay cả khi không có sự hình thành của quan
hệ pháp luật. Người ta gọi chúng là các quy phạm pháp luật tự thực hiện. Ví dụ các quy phạm pháp luật
có nội dung cấm. Đối với các quy phạm pháp luật có nội dung cấm, đặc trưng của quy phạm này là bảo
vệ và tác động đến các quan hệ xã hội bằng việc loại trừ những hành vi nguy hiểm đối với xã hội, đối
với nhà nước. Do vậy, việc các chủ thể không thực hiện các hành vi này là thể hiện sự tác động của
pháp luật đối với các chủ thể, đối với xã hội. Sự xuất hiện của quan hệ pháp luật trong trường hợp này
lại là do có hành vi vi phạm pháp luật.
o Trên cơ sở quy phạm pháp luật, khi có sự kiện pháp lý xảy ra thì quan hệ xã hội được pháp luật điều
chỉnh trở thành quan hệ pháp luật với các chủ thể tham gia quan hệ cụ thể, có những quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định.
Bên cạnh quy phạm pháp luật, sự kiện pháp lý và chủ thể tham gia quan hệ là các yếu tố cấu thành
của quan hệ pháp luật. Phải có sự tham gia của các chủ thể cụ thể thì mới hình thành nên quan hệ pháp
luật. Các chủ thể này phải là các chủ thể được dự liệu sẵn trong phần giả định của quy phạm pháp luật.
Các quyền và nghĩa vụ pháp lý được quy định rõ trong quy phạm pháp luật. Các chủ thể chỉ có thể
có được các quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ này khi có sự kiện pháp lý.
Quy phạm pháp luật, sự kiện pháp lý và chủ thể tham gia quan hệ pháp luật có mối quan hệ tác
động lẫn nhau. Tuy nhiên tùy từng ngành luật mà sự tác động qua lại giữa các yếu tố này có sự khác biệt nhau.
o Định nghĩa: Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật quy định mối
quan hệ tương hỗ giữa các bên chủ thể xác định. Thông qua các quan hệ pháp luật, pháp luật được thực
hiện trong đời sống xã hội. Sự hình thành các quan hệ pháp luật phần nào phản ánh sự phù hợp của các
quy phạm pháp luật nói riêng, của pháp luật nói chung đối với thực tiễn cuộc sống.
Đặc điểm của quan hệ pháp luật. o Quan hệ pháp luật hình thành trên cơ sở quy phạm pháp luật.
Đây là đặc điểm phân biệt quan hệ pháp luật với các quan hệ xã hội khác.
Quy phạm pháp luật là nền tảng của quan hệ pháp luật. Thiếu quy phạm pháp luật, quan hệ xã hội sẽ
không trở thành quy phạm pháp luật.
Quy phạm pháp luật quy định các điều kiện làm phát sinh quan hệ pháp luật cụ thể, quy định quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ pháp luật đó cũng như các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền
và nghĩa vụ của các bên.
o Quan hệ pháp luật thể hiện mối quan hệ của hai loại ý chí: ý chí của Nhà nước và ý chí của chủ thể. lOMoAR cPSD| 22014077
Bên cạnh ý chí của các chủ thể tham gia quan hệ, quan hệ pháp luật còn chịu sự chi phối bởi ý chí
của nhà nước. Hình thành trên cơ sở quy phạm pháp luật nên quan hệ pháp luật chứa đựng ý chí của nhà
nước. Quan hệ của các chủ thể, ý chí của các chủ thể phải phù hợp với ý chí của Nhà nước.
Có nhiều quan hệ pháp luật phát sinh, thay đổi, chấm dứt do ý chí của các bên tham gia quan hệ
pháp luật trong khuôn khổ ý chí của nhà nước. Ví dụ quan hệ hợp đồng, quan hệ hôn nhân,...
Có những trường hợp quan hệ pháp luật phát sinh, thay đổi, chấm dứt chỉ trên cơ sở ý chí của
nhà nước. Ví dụ: quan hệ pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, quan hệ xử phạt hành chính, quan hệ tài chính…
Mối quan hệ giữa ý chí của chủ thể và ý chí của Nhà nước có thể là quan hệ hợp tác, hòa thuận
hoặc quan hệ xung đột (khi ý chí của các chủ thể, hành vi của các chủ thể không tuân theo quy tắc ứng xử
được dự liệu trước trong quy phạm pháp luật).
o Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật luôn được xác định và có các quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định.
Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật có thể là tổ chức hoặc cá nhân.
Để có thể tham gia quan hệ pháp luật, chủ thể phải đáp ứng một số điều kiện nhất định về năng lực chủ thể.
Các chủ thể này luôn có các quyền và nghĩa vụ nhất định, được quy định rõ, tạo nên nội dung của quan
hệ pháp luật cụ thể. o Quan hệ pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế của nhà nước.
Các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể luôn được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế của nhà nước.
Chủ thể xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác trong một quan hệ pháp luật cụ thể sẽ bị
xử lý theo những biện pháp được dự liệu trước.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cá nhân có thẩm quyền hoặc tổ chức được nhà nước công nhân
có thẩm quyền xử lý những vi phạm của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật. Ví dụ: Trong quan hệ hợp
đồng, nếu một bên không thực hiện hợp đồng thì Tòa án hoặc trọng tài có thẩm quyền sẽ phân xử và
đưa ra quyết định bên vi phạm phải thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng hoặc phải chịu trách nhiệm
pháp lý do pháp luật quy định.
Phân loại quan hệ pháp luật.
o Căn cứ vào đối tượng và phương pháp điều chỉnh của pháp luật, quan hệ pháp luật được phân chia
tương ứng với các ngành luật.
Quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ pháp luật hành chính, quan hệ pháp luật hình sự, …
Quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, tố tụng hành chính, …
o Căn cứ vào mức độ quy định cụ thể của quy phạm pháp luật về chủ thể, về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. lOMoAR cPSD| 22014077
Quan hệ pháp luật chung là quan hệ pháp luật không quy định về chủ thể cụ thể trong quan hệ
đó. Ví dụ quan hệ phát sinh từ hiến pháp, từ luật chung.
Quan hệ pháp luật cụ thể là quan hệ mà pháp luật quy định rõ chủ thể cụ thể với các quyền và
nghĩa vụ pháp lý cụ thể.
Quan hệ pháp luật cụ thể được hình thành trên cơ sở quan hệ pháp luật chung. Quan hệ pháp
luật chung là cơ sở pháp lý để hình thành quan hệ pháp luật cụ thể.
o Căn cứ vào việc xác định chủ thể trong quan hệ pháp luật, phân thành quan hệ pháp luật tuyệt đối và
quan hệ pháp luật tương đối
Quan hệ pháp luật tuyệt đối là quan hệ pháp luật trong đó một chủ thể được xác định và luôn có
quyền, chủ thể còn lại là bất kỳ cá nhân, tổ chức khác và luôn có nghĩa vụ (ví dụ quan hệ sở hữu tài sản,
quan hệ quyền tác giả,..).
Quan hệ pháp luật tương đối là quan hệ pháp luật có hai bên tham gia được xác định cụ thể, có
các quyền và nghĩa vụ đối ứng nhau (quan hệ hợp đồng, quan hệ hôn nhân,…)
2.2.2. Cấu thành của quan hệ pháp luật
Chủ thể quan hệ pháp luật.
o Chủ thể quan hệ pháp luật là các chủ thể có quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định khi tham gia vào quan hệ pháp luật cụ thể.
Chủ thể quan hệ pháp luật bao gồm cá nhân và tổ chức.
Chủ thể là cá nhân gồm: công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch. Công dân là chủ thể phố
biến và chủ yếu của quan hệ pháp luât. Công dân là chủ thể của hầu hết các ngành luật. Tuy nhiên, để
trở thành chủ thể của các nhóm quan hệ pháp luật cụ thể, công dân phải đáp ứng các điều kiện nhất
định. Người nước ngoài, người không có quốc tịch có thể trở thành chủ thể quan hệ pháp luật giống
như công dân hoặc bị hạn chế tùy theo quy định của mỗi quốc gia.
Chủ thể là tổ chức gồm: pháp nhân và các tổ chức không phải là pháp nhân. Để tham gia vào quan hệ
pháp luật, tổ chức cũng phải đáp ứng các đáp ứng các điều kiện nhất định quy định cho mỗi loại quan
hệ pháp luật cụ thể. Chủ thể là pháp nhân bao gồm Nhà nước (chủ thể đặc biệt), các cơ quan nhà nước,
các đơn vị vũ trang, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội,..
Điều kiện để trở thành pháp nhân do pháp luật quy định. Chủ thể là các tổ chức không phải là pháp nhân
như doanh nghiệp tư nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình,…
Dù là cá nhân hay tổ chức, các chủ thể này đều có đặc trưng chung: đều có sự ra đời, hình thành và sự
mất đi, kết thúc; có danh tính cụ thể (tên, địa chỉ).
Các chủ thể này có những quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể khi tham gia quan hệ pháp luật cụ thể. Các
quyền và nghĩa vụ pháp lý này do pháp luật quy định, phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước. o Để có và
thực hiện được các quyền và nghĩa vụ pháp lý, tổ chức, cá nhân phải có năng lực chủ thể pháp luật. lOMoAR cPSD| 22014077
Pháp luật chỉ có thể điều chỉnh xử sự của các chủ thể có khả năng nhận thức. Do vậy, không phải bất
kỳ cá nhân, tổ chức nào cũng đều có thể tham gia vào quan hệ pháp luật. Song không phải tất cả các
chủ thể có khả năng nhận thức đều có thể được coi là có thể tham gia vào các quan hệ pháp luật. Để
có thể tham gia quan hệ pháp luật, các chủ thể phải đáp ứng một số điều kiện nhất định về năng lực
chủ thể pháp luật Năng lực chủ thể pháp luật là khái niệm thể hiện ý chí của nhà nước, mang tính giai
cấp. Ở các nhà nước khác nhau có những quy định khác nhau về năng lực chủ thể pháp luật. Trong nhà
nước chủ nô và phong kiến, năng lực chủ thể của cá nhân được quy định phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
như vị trí trong xã hội, tài sản, tôn giáo, màu da, giới tính, …Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, năng lực
chủ thể mang tính nhân đạo, không phân biệt đối xử. Năng lực chủ thể pháp luật là khả năng của chủ
thể có và thực hiện được các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Năng lực chủ thể pháp luật bao gồm năng lực
pháp luật và năng lực hành vi.
o Năng lực pháp luật là khả năng có quyền hoặc có nghĩa vụ pháp lý mà nhà nước quy định cho các tổ
chức, cá nhân nhất định.
Chủ thể chỉ được hoặc phải tham gia vào các quan hệ pháp luật khi có năng lực pháp luật. Năng lực pháp
luật được quy định khác nhau trong các lĩnh vực khác nhau. Ví dụ năng lực pháp luật dân sự, năng lực
pháp luật hình sự, năng lực pháp luật hành chính. Thông thường, năng lực pháp luật có từ thời điểm chủ
thể được sinh ra và kết thúc tại thời điểm chủ thể đó mất đi. Trong một số trường hợp, thông qua các cơ
quan có thẩm quyền, nhà nước có thể tước quyền tham gia vào một số quan hệ pháp luật, hạn chế năng
lực pháp luật của các chủ thể. Ví dụ người đang trong thời hạn chấp hành hình phạt tù, doanh nghiệp bị
tước giấy phép kinh doanh,…
o Năng lực hành vi là khả năng được nhà nước thừa nhận cho chủ thể bằng hành vi của mình, tự thực hiện
các quyền và nghĩa vụ pháp lý và chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Có năng lực hành vi, các chủ thể tham gia quan hệ chủ động hơn vào quan hệ pháp luật. Việc xác
định năng lực hành vi chủ thể có thể được căn cứ vào những tiêu chí khác nhau. Thông thường, cá nhân
được xác định là có năng lực hành vi khi đạt đến độ tuổi nhất định và đạt được những điều kiện nhất
định. Pháp luật nhiều nước thường lấy tiêu chí độ tuổi và tiêu chuẩn về lý trí (khả năng nhận thức trước
được hậu quả trong hành vi của mình và điều khiển được hành vi đó) là điều kiện công nhận năng lực
hành vi. Phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm của từng loại quan hệ xã hội mà pháp luật quy định những độ
tuổi khác nhau là điều kiện để có được năng lực hành vi.
Ví dụ, theo pháp luật Việt Nam, độ tuổi tham gia quan hệ hôn nhân đối với nam là 20, đối với nữ là 18,
độ tuổi có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân là đủ 18 tuổi, độ tuổi có quyền tự ứng
cử đại biểu Hội đồng nhân dân là đủ 21 tuổi. Năng lực hành vi tại của tổ chức có từ thời điểm tổ chức
được thành lập hợp pháp hoặc được công nhận là hợp pháp và mất đi khi tổ chức đó không còn tồn tại.
Có một số chủ thể là cá nhân không có năng lực hành vi. Đó là đa phần trẻ vị thành niên và những
người thành niên bị mắc bệnh về thể chất hoặc tinh thần khiến cho họ không thể tự mình thực hiện các
quyền và nghĩa vụ pháp lý. o Mối liên hệ giữa năng lực pháp luật và năng lực hành vi: Giữa năng lực pháp
luật và năng lực hành vi có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Năng lực pháp luật là tiền đề để có được năng
lực hành vi. Nếu không có năng lực pháp luật thì không có năng lực hành vi. Năng lực hành vi giúp chủ thể lOMoAR cPSD| 22014077
tham gia tích cực vào quan hệ pháp luật. Có năng lực hành vi, chủ thể có thể tự mình thực hiện các quyền
và nghĩa vụ cụ thể mà pháp luật quy định. Ví dụ pháp luật dân sự quy định độ tuổi thành niên là 18.
Về nguyên tắc, trẻ chưa thành niên muốn thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự phải thông qua người
đại diện của mình, trừ một số trường hợp nhất định.
Nội dung của quan hệ pháp luật.
o Bao gồm quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể.
Các quyền và nghĩa vụ pháp lý này được quy phạm pháp luật nêu rõ trong phần chỉ dẫn của quy
phạm pháp luật. Các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật cụ thể, chỉ được thực hiện các quyền và nghĩa
vụ pháp lý được quy định cho quan hệ pháp luật đó.
Việc quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lý thể hiện ý chí của nhà nước và việc thực hiện các
quyền và nghĩa vụ pháp lý thể hiện ý chí của các chủ thể. Ý chí của các chủ thể khi thực hiện các quyền và
nghĩa vụ pháp lý phải phù hợp với ý chí của nhà nước.
Đối với các nhà làm luật, việc xác định nội dung của quan hệ pháp luật không chỉ phụ thuộc vào ý
chí của nhà nước mà còn phải căn cứ vào thực tiễn quan hệ xã hội, và trình độ phát triển của hạ tầng kinh tế – xã hội.
o Quyền pháp lý là khả năng của chủ thể quan hệ pháp luật được thực hiện những hành vi nhất định được pháp luật cho phép.
Đây chỉ là khả năng xử sự chứ chưa phải là xử sự cụ thể. Chủ thể sẽ quyết định chuyển khả năng
xử sự thành xử sự cụ thể. Chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền của mình.
Có ba khả năng xử sự cơ bản: Thứ nhất, tự thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép; Hai
là, yêu cầu các chủ thể khác thực hiện các nghĩa vụ pháp lý để đảm bảo thực hiện được các quyền pháp
lý của mình hoặc yêu cầu chủ thể khác thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ. Ba là, khả năng
được bảo vệ bằng việc yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ lợi ích chính đáng của mình
khi lợi ích đó bị xâm hại.
Quyền pháp lý là quyền có giới hạn, trên cơ sở nguyên tắc: quyền của một chủ thể không được
làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người khác. o
Nghĩa vụ pháp lý là cách xử sự mà nhà nước bắt buộc chủ thể phải tiến hành nhằm đáp ứng việc
thực hiện quyền pháp lý của chủ thể khác. Nghĩa vụ pháp lý không phải là hành vi mà là sự cần thiết phải
thực hiện những hành vi đó. Nghĩa vụ pháp lý bao gồm các xử sự cần thiết sau: Phải tiến hành một số hoạt
động nhất định; Kiềm chế không thực hiện một số hoạt động nhất định; Phải chịu trách nhiệm pháp lý khi vi phạm pháp luật. o
Mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ pháp lý. Quyền và nghĩa vụ pháp lý là hai vấn đề pháp lý tồn
tại song song trong một quan hệ pháp luật cụ thể. Quyền pháp lý tồn tại trong mối liên hệ với nghĩa vụ
pháp lý và ngược lại nghĩa vụ pháp lý tồn tại trong mối liên hệ với quyền pháp lý. Quyền và nghĩa vụ pháp
lý của chủ thể luôn thống nhất, phù hợp với nhau.
Khách thể của quan hệ pháp luật là những lợi ích vật chất, tinh thần và các lợi ích khác thúc đẩy chủ thể
tham gia vào quan hệ pháp luật. lOMoAR cPSD| 22014077 o
Chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật nhằm đáp ứng nhu cầu của mình nhằm đạt được lợi ích
về tinh thần, về vật chất, về chính trị – xã hội. Lợi ích của mỗi chủ thể phải phù hợp với lợi ích của xã hội
và không được làm ảnh hưởng đến lợi ích của chủ thể khác. Do vậy, quy phạm pháp luật quy định rõ các
quyền và nghĩa vụ pháp lý để các chủ thể thực hiện nhằm đạt được lợi ích của mình. Chủ thể chỉ có thể
đạt được các lợi ích này thông qua việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình. o
Xác định được khách thể của quan hệ pháp luật giúp xác định được nội dung của quan hệ pháp luật.
Ví dụ xác định được lợi ích của quan hệ pháp luật là vật chất, pháp luật quy định những quyền và
nghĩa vụ cụ thể của các chủ thể cho phù hợp nhằm đạt được lợi ích vật chất đó. Ví dụ quan hệ pháp luật mua bán hàng hóa.
Qua việc xác định được khách thể của quan hệ pháp luật trong tương lai, các nhà làm luật dự kiến
được nội dung của quan hệ pháp luật và xác định được khả năng điều chỉnh quan hệ xã hội đó. Ví dụ đối
với quan hệ xã hội phức tạp, trong đó quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể khó phân định do trình
độ lập pháp, do nhận thức của con người, thì các nhà làm luật sẽ chưa điều chỉnh quan hệ pháp luật đó.
Xác định được khách thể của quan hệ pháp luật trong tương lai giúp các nhà làm luật định hướng việc
điều chỉnh hay không điều chỉnh một quan hệ xã hội.
Nếu lợi ích đó xuất phát từ các quyền cơ bản của con người đã được công nhận, ghi nhận trong
Hiến pháp, trong các đạo luật, thì cần phải có hướng điều chỉnh quan hệ xã hội đó.
Nếu lợi ích đó chỉ hướng tới một số chủ thể nhất định và không phù hợp với lợi ích của toàn xã
hội hoặc/và của giai cấp thống trị tại thời điểm được xét thì các nhà làm luật sẽ cân nhắc chưa hoặc không điều chỉnh.
2.2.3. Điều kiện làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật phát sinh, thay đổi, chấm dứt dưới tác động của quy phạm pháp luật, chủ thể có năng
lực chủ thể pháp luật và sự kiện pháp lý.
o Quy phạm pháp luật là một điều kiện làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật. Nhờ quy
phạm pháp luật điều chỉnh, quan hệ xã hội trở thành quan hệ pháp luật.Quy phạm pháp luật dự kiến về
chủ thể tham gia quan hệ pháp luật, về nội dung của quan hệ pháp luật, về việc thực hiện quan hệ pháp
luật. Quy phạm pháp luật là điều kiện cần để làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật o Chủ
thể có năng lực chủ thể pháp luật là điều kiện thứ hai là phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật.
Nếu không có chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội cụ thể thì không làm phát sinh quan hệ pháp
luật. Chỉ những chủ thể có năng lực chủ thể pháp luật mới làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật.
Sự phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật phụ thuộc vào ý chí của chủ thể. Chủ thể tự
quyết định việc tham gia hay không vào quan hệ pháp luật, phụ thuộc vào khả năng và điều kiện của chủ thể. Sự kiện pháp lý lOMoAR cPSD| 22014077
Là sự kiện thực tế xảy ra trong đời sống hằng ngày và sự xuất hiện của các sự kiện này làm phát
sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật. Có thể định nghĩa sự kiện pháp lý là những sự kiện thực
tế mà sự xuất hiện hay mất đi của chúng dẫn đến sự phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật cụ thể.
Nếu coi quy phạm pháp luật là điều kiện cần làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp
luật thì chủ thể có năng lực pháp luật chủ thể và sự kiện pháp lý là các điều kiện đủ. Bởi sự kiện pháp lý
gắn liền với chủ thể quan hệ pháp luật. Sự kiện pháp lý được hình thành trên cơ sở hành vi của các chủ
thể hoặc có ảnh hưởng đến hành vi của chủ thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình.
Không phải sự kiện thực tế nào cũng được coi la sự kiện pháp lý. Chỉ những sự kiện thực tế mang
tính chất pháp lý, tức là được quy phạm pháp luật quy định trước là nếu nó xảy ra thì sẽ dẫn đến hậu quả
pháp lý thì mới được coi là sự kiện pháp lý.
Sự kiện pháp lý có thể là do hành vi của con người tạo nên hoặc không do hành vi của con người.
Dựa vào tiêu chí này, sự kiện pháp lý được phân thành sự biến và hành vi pháp lý. Sự biến là hiện tượng
tự nhiên sinh ra và mất đi không phụ thuộc vào ý chí con người, nhưng sự xuất hiện hay mất đi của chúng
gắn liền với việc phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật cụ thể. Hành vi pháp lý là những hoạt
động của con người phụ thuộc vào ý chí của họ và pháp luật gắn sự xuất hiện của hành vi
này việc phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật. Ví dụ hành vi chạy xe gây tai nạn giao thông
cho người khác. Một sự kiện thực tế xảy ra được coi là sự kiện pháp lý hay không, phụ thuộc vào sự tác
động của sự kiện đó đối với nội dung quan hệ pháp luật đó. Sự ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ, ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ thể tham gia quan hệ là căn
cứ để thừa nhận hay không thừa nhận sự kiện thực tế là sự kiện pháp lý. Ví dụ mưa bão có thể được coi
là sự kiện pháp lý hoặc không phải là sự kiện pháp lý.
Việc thừa nhận hay không thừa nhận một sự kiện thực tế là sự kiện pháp lý phụ thuộc ý chí của
nhà nước. Nhà nước, thông qua quy phạm pháp luật, thừa nhận một sự kiện là sự kiện pháp lý. Ví dụ, việc
tổ chức đám cưới giữa hai chủ thể không được coi là sự kiện pháp lý mà việc đăng ký kết hôn tại cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và được cơ quan này công nhận mới được coi là sự kiện pháp lý.
Phân loại sự kiện pháp lý: Căn cứ vào ý chí của chủ thể, phân sự kiện pháp lý thành sự biến và
hành vi pháp lý. Căn cứ vào số lượng các sự kiện thực tế tạo thành sự kiện pháp lý, phân sự kiện pháp lý
thành sự kiện pháp lý đơn nhất và sự kiện pháp lý phức tạp. o Ví dụ về sự kiện pháp lý:
Anh A và chị B đều đạt năng lực chủ thể để tham gia quan hệ hôn nhân.Quan hệ pháp luật hôn
nhân chỉ hình thành giữa A và B khi A và B đi đăng ký kết hôn và được cơ quan có thẩm quyền công nhận
theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Hành vi đăng ký hôn nhân và công nhận hôn nhân là sự kiện
pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật hôn nhân giữa A và B.
Anh A và chị B là vợ chồng. Sau một thời gian chung sống, A và B xuất hiện mâu thuẫn và không
sống với nhau. Tuy nhiên A và B chỉ chấm dứt quan hệ hôn nhân khi đệ đơn ly hôn ra tòa án có thẩm
quyền và được tòa án ra quyết định cho ly hôn. Quyết định của tòa án là sự kiện pháp lý làm chấm dứt
quan hệ hôn nhân giữa A và B. lOMoAR cPSD| 22014077
A và B ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa. A có nghĩa vụ giao hàng cho B. Do mưa bão lớn gây
ngập lụt, làm đường giao thông bị cắt nên A không thể giao hàng đúng hạn. Sự biến mưa bão làm thay
đổi nội dung quan hệ pháp luật hợp đồng giữa A và B.
TÓM LƯỢC CUỐI BÀI
• Quy phạm pháp luật là đơn vị cấu trúc nhỏ nhất của pháp luật. Tập hợp các quy phạm pháp luật tạo
thành hệ thống pháp luật.
Quy phạm pháp luật có ba đặc điểm: tính áp dụng chung, tính bắt buộc, tính cưỡng chế nhà nước.
Quy phạm pháp luật thường có hai bộ phận: Phần giả định và phần chỉ dẫn.
Quy phạm pháp luật có thể phân thành nhiều loại khác nhau căn cứ theo nhiều tiêu chí.
• Quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật điều chỉnh trở thành quan hệ pháp luật
Chủ thể tham gia quan hệ pháp lý phải là các chủ thể có năng lực pháp luật chủ thể.
Nội dung của quan hệ pháp luật bao gồm các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật.
Để chủ thể có thể thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý, cần phải có sự kiện pháp lý. Sự kiện pháp lý là
điều kiện đủ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật.
CÂU HỎI ÔN TẬP 1.
Trình bày khái niệm, đặc điểm của quy phạm pháp luật?
2. Cấu trúc của quy phạm pháp luật được thể hiện như thế nào?
3. Quan hệ pháp luật có những đặc điểm gì?
4. Nêu các cấu thành của quan hệ pháp luật?
5. Nêu các điều kiện làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật? BÀI TẬP
Bài 1.1: Hãy đưa ví dụ về các loại quy phạm pháp luật và phân tích cấu trúc của các quy phạm pháp luật đó.
Bài 1.2: Phân tích sự cần thiết phải được điều chỉnh bằng pháp luật của các quan hệ xã hội.
Bài 1.3: Dự thảo Luật hôn nhân và gia định quy định Nhà nước không thừa nhận quan hệ hôn nhân đồng
giới. Quan hệ hôn nhân đồng giới có phải là quan hệ pháp luật không?
Bài 1.4: Nêu ví dụ về các quan hệ pháp luật và phân tích về chủ thể, nội dung các quan hệ pháp luật đó.
Bài 1.5: Phân tích kết cấu của quy phạm pháp luật sau: " Tổ chức tín dụng cổ phần phải có cổ phần phổ
thông. Người sở hữu cổ phần phổ thông là cổ đông phổ thông" (Khoản 1 Điều 52 Luật các tổ chức tín dụng 2010) lOMoAR cPSD| 22014077
Bài 1.6: Phân biệt quan hệ pháp luật với các quan hệ xã hội. Xác định trong các quan hệ sau, quan hệ nào là quan hệ pháp luật:
1. A và B ký kết một hợp đồng mua bán nguyên vật liệu xây dựng.
2. A tặng cô giáo một bó hoa nhân ngày 20/11.
3. A tặng cho B một cái nhà.
Danh sách thành viên trong nhóm: 1.Trần Trung Kiên 2. Lê Anh Quân 3. Trần Bình Trọng 4.Nguyễn Xuân Hiến