Bài tiểu luận môn Triết học Mác - Lenin đề tài "Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử và sự vận dụng vấn đề này vào công cuộc đổi mới"
Bài tiểu luận môn Triết học Mác - Lenin đề tài "Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử và sự vận dụng vấn đề này vào công cuộc đổi mới" của Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD| 36086670
TRƯỜNG ĐH SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ by Unknown Author is licensed under
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ
VÀ SỰ VẬN DỤNG VẤN ĐỀ NÀY VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI
MỚI VIỆT NAM HIỆN NAY
GVHD: TS. PHẠM THỊ LAN SVTH: 1. Lê Trần Lâm
2. Nguyễn Tấn Lộc
3. Đàm Võ Hoàng Lực 4. Đinh Thành Lợi 5 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU lOMoARcPSD| 36086670
1. Lý do chọn đề tài................................................................................ 2. Mục tiêu nghiên
cứu..................................................................................................... ...
3. Phương pháp nghiên cứu..................................................................
..................................... NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ 1.1
Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
1.2 Vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử
CHƯƠNG 2. SỰ VẬN DỤNG VẤN ĐỀ VAI TRÒ CỦA QUẦN
CHÚNG NHÂN DÂN VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Quan điểm “nước lấy dân làm gốc”
2.1.1. Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1945)........
2.1.2. Quan điểm “ lấy dân làm gốc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh
...........................................................................................
2.1.3 Đảng ta quán triệt quan điểm “Nước lấy dân làm
gốc” trong quá trình đổi mới.... 2.
2.một số bài học được rút ra vấn đề vai trò quần chúng
nhân dân vào công cuộc đổi mới việt nam hiện
nay…………………………… lOMoARcPSD| 36086670
2.3 Kết luận…………………………………………………
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................
CHƯƠNG 1. VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ 1.1
Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Con người, xét về thực thể sinh học lẫn thực thể xã hội, vừa mang bản chất loài
lẫn tính đặc thù cá thể; vừa là một vũ trụ thu nhỏ, riêng biệt, độc đáo, lại vừa
mang đặc điểm chung, phổ biến của loài. Sự thống nhất giữa cái chung và cái
riêng trong con người khiến cho nó ở đỉnh cao của sự phát triển, trở thành “trung
tâm” của vũ trụ, “con người là hoa của đất”. Ở động vật, sự thống nhất giữa cái
chung của loài và cái riêng của cá thể, dù ở trình độ cao thì cũng chỉ ở phương
diện sinh vật. Trong khi đó, ở con người sự thống nhất ấy không chỉ ở trình độ
cao nhất về phương diện sinh vật mà cả ở phương diện xã hội. Con người là
một hệ thống chỉnh thể thống nhất cá thể - loài, mang cả những thuộc tính cá
thể, đơn nhất, lẫn những thuộc tính chung, phổ biến của loài; bản chất của con
người là tổng hòa các quan hệ xã hội; là đại diện cho loài, cho xã hội, cho nhân
loại, cho lịch sử loài người. Trong con người, do vậy, luôn có những cái chung
toàn nhân loại, nhƣ các giá trị chung, nhu cầu chung, lợi ích chung, v.v.. Con
người cũng là đại biểu của một xã hội cụ thể, một thời kỳ lịch sử xác định, có
tính đặc thù, với các quan hệ xã hội xác định. Các quan hệ xã hội kết tinh trong
mỗi con người luôn là quan hệ xã hội cụ thể của một thời đại, một gia đình, một
nhóm xã hội, một cộng đồng, một tập đoàn, một giai cấp, một quốc gia - dân tộc
xác định. Trong mỗi người còn có cả những cái riêng, cái đơn nhất, đặc thù của
cá thể, cá nhân từ kinh nghiệm, tâm lý, trí tuệ, v.v. do những điều kiện sống, do
đặc điểm sinh học quy định.
Nhờ đó, mỗi con người là một cá thể, cá nhân riêng biệt, khác biệt nhau.
Cá nhân và xã hội không tách rời nhau. Xã hội do các cá nhân cụ thể hợp thành,
mỗi cá nhân là một phần tử của xã hội sống và hoạt động trong xã hội đó. Khi lOMoAR cPSD| 36086670
mới sinh ra, chưa có ý thức, chưa có các quan hệ xã hội thì con người mới chỉ
là cá thể. Chỉ khi cá thể đó giao tiếp xã hội, có những quan hệ xã hội xác định,
có ý thức mới trở thành cá nhân. Cá nhân không thể tách rời xã hội. Quan hệ
cá nhân - xã hội là tất yếu, là tiền đề, điều kiện tồn tại và phát triển của cả cá
nhân lẫn xã hội. Đương nhiên, quan hệ ấy phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ
thể, vào trình độ phát triển xã hội và của từng cá nhân, đặc biệt là phụ thuộc
vào bản chất của xã hội. Quan hệ cá nhân - xã hội là khác nhau trong xã hội có
phân chia giai cấp và xã hội không phân chia giai cấp. Sự thống nhất và mâu
thuẫn giữa cá nhân và xã hội là một phạm trù lịch sử, phụ thuộc vào từng giai
đoạn lịch sử khác nhau.
Sự thống nhất cá nhân và xã hội còn thể hiện ở một góc độ khác trong quan hệ
con người giai cấp và con người nhân loại. Quan hệ con người giai cấp và con
người nhân loại chỉ tồn tại trong xã hội có phân chia giai cấp, do vậy nó có tính
lịch sử. Mỗi con người cá nhân trong xã hội có giai cấp đều mang tính giai cấp
do nó luôn là thành viên của một giai cấp, tầng lớp xã hội xác định. Trong các
quan hệ xã hội mà con người sống và hoạt động luôn có quan hệ giai cấp và
các quan hệ đó luôn đóng vai trò quyết định, chi phối các hành vi và hoạt động
của nó, đặc biệt, quy định lợi ích và hoạt động thực hiện các lợi ích ấy.
Mặt khác, mỗi cá nhân, dù thuộc về giai cấp nào cũng đều mang tính nhân loại.
Nhân loại là cộng đồng người phổ biến rộng rãi nhất, được hình thành trong
suốt chiều dài lịch sử nhân loại. Tính nhân loại đ ợc thể hiện trong cácƣ giá trị
chung toàn nhân loại, trong những quy tắc, chuẩn mực chung xuất hiện trên
nền tảng lợi ích chung, từ bản chất người của các cá nhân tạo nên cộng đồng nhân loại.
Tính giai cấp và tính nhân loại trong mỗi con người vừa thống nhất vừa khác
biệt, thậm chí mâu thuẫn nhau. Tính nhân loại là vĩnh hằng, là nền tảng của
cuộc sống ở mọi con người, dù khác biệt màu da, quốc tịch, giai cấp, tộc người,
hay giới tính, độ tuổi, học vấn, v.v.. Chỉ khi nào không còn tồn tại nhân loại thì
khi đó tính nhân loại mới mất đi. Nhưng, ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau lại
tồn tại các giai cấp khác nhau. Các giai cấp và quan hệ của chúng biến đổi
thường xuyên do các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội luôn thay đổi. Con người lOMoAR cPSD| 36086670
với tư cách là những chủ thể xã hội luôn có những hoạt động để cải biến điều
kiện khách quan tạo nên những điều kiện sinh hoạt thuận lợi hơn cho mình.
Chính điều đó đã làm cho các điều kiện sinh sống của con người luôn biến đổi,
các lực lượng sản xuất luôn phát triển, xã hội luôn thay đổi theo chiều hướng
tiến bộ. Nhưng, trong các giai cấp đang đấu tranh với nhau, có giai cấp đại diện
cho sự phát triển tiến bộ, có giai cấp lại là lực lượng cản trở sự phát triển tiến
bộ ấy. Tính giai cấp trong những con người đại biểu cho giai cấp đang cản trở
sự phát triển ấy tất nhiên mâu thuẫn với tính nhân loại.
Mỗi con người đều sinh ra, lớn lên trong một cộng đồng quốc gia, dân tộc xác
định. Do những điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội và chính trị khác nhau
nên trong mỗi cộng đồng quốc gia, dân tộc cũng hình thành những giá trị, phẩm
chất, đặc điểm đặc thù của mình. Con người tất yếu mang trong mình những
điểm đặc thù đó, dù họ muốn hay không, dù ý thức được điều đó hay không.
Do vậy, trong mỗi con người cá nhân luôn luôn mang trong mình cả những cái
riêng biệt với tư cách là cá nhân, vừa mang trong mình cả những cái đặc thù
của quốc gia, dân tộc, vừa mang cả tính giai cấp lẫn tính nhân loại. Với tư cách
là chủ thể hoạt động sự gắn kết, tác động biện chứng lẫn nhau giữa các phương
diện, khía cạnh đó trong mỗi con người là luôn biến động, biện chứng, khách
quan, tất yếu. Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, tính
giai cấp và tính dân tộc mang tính lịch sử sẽ mất dần theo sự phát triển và tiến
bộ của xã hội. Nhưng tính nhân loại và cá nhân sẽ là vĩnh viễn. Trong khi lịch
sử nhân loại chưa đạt đến trình độ phát triển đó thì sự thống nhất giữa tính cá
nhân, tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân loại là mục tiêu, yêu cầu và tiêu
chuẩn của tiến bộ xã hội. Giải quyết đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh khách quan mối quan hệ con người cá nhân, con người giai cấp, con
người dân tộc, con người nhân loại luôn là đòi hỏi của hoạt động thực tiễn.
Các quan điểm trên đây về con người có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng.
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải luôn chú ý giải quyết đúng đắn
mối quan hệ xã hội - cá nhân, phải tránh khuynh hướng đề cao quá mức
(mặt/cái) cá nhân hoặc (mặt/cái) xã hội. Nếu đặt cá nhân lên trên xã hội, chỉ
thấy cá nhân mà không thấy xã hội, đem cá nhân đối lập với xã hội, hoặc ngược
lại, chỉ đề cao xã hội mà bỏ quên cá nhân, không nhận thức đúng sự phát triển lOMoAR cPSD| 36086670
của xã hội là sự kết hợp hoạt động của các cá nhân, thì đều sai lầm và có thể
dẫn đến những hệ lụy khó lường cho cả xã hội lẫn cá nhân.
Hơn nữa, trong đời sống xã hội khi xem xét con người phải đặt trong tổng thể
các quan hệ xã hội, bởi trong tính hiện thực, bản chất của con người là tổng thể
các quan hệ xã hội. Điều này cũng gắn liền với nguyên tắc lịch sử - cụ thể và
nguyên tắc toàn diện. Sẽ là sai lầm nếu chỉ nhìn vào một mặt/khía cạnh/phương
diện của một con người để đánh giá bản chất của người đó. Xem xét một con
người phải đặt con người đó trong tổng thể các quan hệ của chính người đó.
1.2 Vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử.
Đây là một trong những nội dung quan trọng của triết học Mác. Nội dung này
được triết học Mác luận giải một cách khoa học trên cơ sở quán triệt sâu sắc
chủ nghĩa duy vật biện chứng và toàn bộ các nội dung khác của chủ nghĩa duy
vật lịch sử, là sự vận dụng nhất quán chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện
chứng duy vật vào lý luận về vai trò của con người trong tiến trình lịch sử.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, vấn đề này đã được đề cập theo các lập
trường tư tưởng khác nhau. Các tôn giáo đều cho rằng lịch sử vận động của xã
hội là do Thượng đế, Chúa trời sắp đặt, các cá nhân buộc phải tuân thủ ý chí
tối cao. Số phận con người, sự hoạt động của họ là do các thần linh, Thượng
đế, Đấng Tối cao quyết định. Các trào l u duy tâm cho rằng lịch sửƣ xã hội là
do các bậc vua chúa, các vĩ nhân, những ng ời đặc biệt có tài cao,ƣ sức lớn
điều khiển, còn quần chúng nhân dân chỉ là những đám đông ô hợp, chịu sự
điều khiển của các bậc vua chúa, các vĩ nhân, của những người đặc biệt đó.
Họ chỉ là phương tiện, “con rối” trong tay của những người này. Các nhà duy
vật trước C. Mác thường phủ nhận vai trò của Thượng đế, thần linh, Đấng Tối
cao và khẳng định rằng sự biến đổi của xã hội là do một nhân tố xã hội xác định
nào đó quyết định, như đạo đức, tình yêu thương, những người có đầu óc phê
phán hoặc sớm nhận thức được chân lý. Nhưng, do những nguyên nhân khác
nhau, họ cũng đã rơi vào duy tâm khi tuyệt đối hóa vai trò của các nhân tố đó. lOMoAR cPSD| 36086670
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, xã hội biến đổi nhờ hoạt động của toàn
thể quần chúng nhân dân d ới sự lãnh đạo của các tổ chức hoặc cá nhânƣ
nhằm thực hiện một mục đích nào đó. Mối quan hệ giữa vai trò của quần chúng
nhân dân với cá nhân chính là quan hệ giữa vai trò của nhân dân lao động với
cá nhân lãnh tụ/vĩ nhân. Một mặt, quan hệ này thể hiện một phần nội dung quan
hệ giữa cá nhân và xã hội. Mặt khác, lại chứa đựng những nội dung mới, khác
biệt, bởi trong quan hệ này chính là quan hệ với những cá nhân đặc biệt, cá nhân lãnh tụ/vĩ nhân.
Quần chúng nhân dân là thuật ngữ chỉ tập hợp đông đảo những con người hoạt
động trong một không gian và thời gian xác định, bao gồm nhiều thành phần,
tầng lớp xã hội và giai cấp đang hoạt động trong một xã hội xác định. Đó có thể
là toàn bộ quần chúng nhân dân của một quốc gia, một khu vực lãnh thổ xác
định. Họ có chung lợi ích cơ bản liên hiệp với nhau, chịu sự lãnh đạo của một
tổ chức, một đảng phái, cá nhân xác định để thực hiện những mục tiêu kinh tế,
chính trị, văn hóa hay xã hội xác định của một thời kỳ lịch sử nhất định. Nội hàm
của khái niệm quần chúng nhân dân bao gồm: Những người lao động sản xuất
ra của cải vật chất và tinh thần là lực lượng căn bản, chủ chốt; toàn thể dân cư
đang chống lại những kẻ áp bức, bóc lột thống trị và đối kháng với nhân dân;
những người đang có các hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau, trực tiếp
hoặc gián tiếp góp phần vào sự biến đổi xã hội. Với nội dung đó quần chúng
nhân dân là một phạm trù lịch sử thay đổi tùy thuộc vào điều kiện lịch sử, xã hội
cụ thể của các quốc gia, khu vực.
Cá nhân chính là con người cụ thể đang hoạt động trong một xã hội xác định
thể hiện tính đơn nhất với t cách là cá thể về phương diện sinh học, với tưƣ
cách là nhân cách về phương diện xã hội. Khác với khái niệm con người dùng
để chỉ tính phổ biến về bản chất ng ời trong mỗi cá nhân, khái niệm cá nhânƣ
nhấn mạnh tính đặc thù riêng biệt của mỗi cá thể về phương diện xã hội. Cá
nhân là một chỉnh thể vừa mang tính đơn nhất, cá biệt, riêng biệt lại vừa có tính
phổ biến, có đời sống riêng, có nguyện vọng, nhu cầu và lợi ích riêng. Nhưng
cá nhân cũng bao hàm tính chung, phổ biến, chứa đựng các quan hệ xã hội và
những nhận thức chung giúp cho việc thực hiện các chức năng xã hội và cá
nhân trong cuộc đời của họ và mang tính chất lịch sử - cụ thể của đời sống của lOMoAR cPSD| 36086670
họ. Do đó, cá nhân bao giờ cũng mang bản chất xã hội, yếu tố xã hội là đặc tr
ng căn bản để tạo nên cá nhân do cá nhân luôn phải sống vàƣ hoạt động trong
các nhóm khác nhau, các cộng đồng và các tập đoàn xã hội có tính lịch sử.
Trong số các cá nhân ở những thời kỳ lịch sử nhất định, trong những điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể, xác định xuất hiện những cá nhân kiệt xuất, trở thành những
ng ời lãnh đạo quần chúng nhân dân nhằm thực hiện một mục tiêuƣ xác định.
Đó là những lãnh tụ hay vĩ nhân. Ngoài các phẩm chất cá nhân lãnh tụ/vĩ nhân
là những cá nhân kiệt xuất, xuất hiện trong phong trào quần chúng nhân dân,
nhận thức được một cách đúng đắn, nhanh nhạy, kịp thời những yêu cầu, các
quy luật, những vấn đề căn bản nhất của một lĩnh vực hoạt động nhất định của
đời sống xã hội hoặc là kinh tế, hoặc là chính trị, hoặc là văn hóa, khoa học,
nghệ thuật, v.v.. Họ dám quên mình vì lợi ích của quần chúng nhân dân, có
năng lực nhận thức và tổ chức hoạt động thực tiễn. Lãnh tụ còn là người có
những phẩm chất xã hội, như được quần chúng nhân dân tín nhiệm, gắn bó
mật thiết với nhân dân, có khả năng tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất
nhận thức, ý chí và hành động của nhân dân, có năng lực tổ chức quần chúng
nhân dân thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ mà thời đại đặt ra.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã luận giải và luận chứng một
cách đúng đắn mối quan hệ giữa vai trò của lãnh tụ và vai trò của quần chúng
nhân dân trong sự phát triển xã hội. Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo
chân chính, là động lực phát triển của lịch sử. Vai trò đó của quần chúng nhân
dân được thể hiện ở các nội dung sau đây: -
Yếu tố căn bản và quyết định của lực lượng sản xuất là quần chúng
nhândân lao động. Đó là yếu tố động lực nhất, cách mạng nhất trong lực lượng
sản xuất, làm cho phương thức sản xuất vận động và phát triển, thúc đẩy xã
hội phát triển. Đó là lực lượng cơ bản của xã hội sản xuất ra toàn bộ của cải vật
chất, là tiền đề và cơ sở cho sự tồn tại, vận động và phát triển của mọi xã hội,
trong mọi thời kỳ lịch sử. -
Trong mọi cuộc cách mạng xã hội cũng nh ở các giai đoạn biến động
củaƣ xã hội, quần chúng nhân dân luôn là lực l ợng chủ yếu, cơ bản và quyết
địnhƣ mọi thắng lợi của các cuộc cách mạng và những chuyển biến của đời lOMoAR cPSD| 36086670
sống xã hội. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Theo quan
điểm của triết học Mác - Lênin, bắt đầu từ sự phát triển của các lực lượng sản
xuất, đến một giai đoạn phát triển nhất định nó mâu thuẫn với các quan hệ sản
xuất, làm xuất hiện các cuộc cách mạng xã hội. Như vậy, nguyên nhân của mọi
cuộc cách mạng bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng nhân
dân. Họ thực sự là chủ thể, lực lượng căn bản và chủ chốt, là động lực cơ bản
của mọi quá trình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ, và
của mọi cuộc cách mạng xã hội. -
Toàn bộ các giá trị văn hóa, tinh thần và đời sống tinh thần nói chung đều
doquần chúng nhân dân sáng tạo ra. Những sáng tạo trực tiếp của quần chúng
nhân dân trong lĩnh vực này là điều kiện, tiền đề, là nguồn lực thúc đẩy sự phát
triển của văn hóa, tinh thần. Hoạt động phong phú, đa dạng của quần chúng
nhân dân trong thực tiễn là nguồn mạch cảm hứng vô tận, là chất liệu không
bao giờ cạn kiệt, là nguồn tài nguyên bất tận cho mọi sáng tạo tinh thần. Quần
chúng nhân dân cũng là người gạn lọc, l u giữ, truyền bá và phổƣ biến các giá
trị tinh thần làm cho nó được bảo tồn vĩnh viễn.
Tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử khác nhau mà vai trò của quần chúng
nhân dân cũng được thể hiện khác nhau. Xã hội càng công bằng, dân chủ, tự
do, bình đẳng thì càng phát huy đ ợc vai trò của cá nhân và của quần chúngƣ nhân dân nói chung.
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ đóng vai trò hết sức to
lớn, vô cùng quan trọng. Khi lịch sử đặt ra những nhiệm vụ cần phải giải quyết
thì từ trong quần chúng nhân dân sẽ xuất hiện những lãnh tụ để giải quyết
những nhiệm vụ đó của lịch sử. Mọi phong trào đều sẽ thất bại nếu chưa tìm ra
cho mình được những lãnh tụ xứng đáng. “Trong lịch sử, chưa hề có một giai
cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng
ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng
tổ chức và lãnh đạo phong trào”.
Lãnh tụ hay cá nhân kiệt xuất phải nhận thức đúng đắn được các quy luật khách
quan của đời sống xã hội, hiểu biết sâu sắc các xu thế phát triển của quốc gia,
dân tộc, của thời đại và của phong trào; phải có kế hoạch, chương trình, biện lOMoAR cPSD| 36086670
pháp và chiến lược hoạt động cho phong trào quần chúng nhân dân và cho bản
thân phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể; đồng thời lãnh tụ cũng
phải thuyết phục đ ợc quần chúng nhân dân, thống nhất ýƣ chí và hành động
của họ, tập hợp và tổ chức lực lượng để thực hiện thành công các kế hoạch,
ch ơng trình, chiến l ợc và các mục tiêu đã đ ợc xácƣ ƣ ƣ định. Hoạt động của
lãnh tụ có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của phong trào quần chúng
nhân dân, từ đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển xã hội. Hoạt động
của lãnh tụ sẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội, nếu họ hành động theo các quy
luật khách quan của sự phát triển xã hội, và ng ợc lại, sẽ kìm hãm sự phát triển
xã hội hoặc tạo nên những sự vận độngƣ quanh co, phức tạp cho xã hội. Lãnh
tụ cũng có vai trò to lớn đối với sự tồn tại, hoạt động của các tổ chức quần
chúng nhân dân mà họ là những người tổ chức hoặc sáng lập và điều hành.
Các lãnh tụ gắn với những thời đại lịch sử nhất định và những phong trào cụ
thể, do vậy, họ chỉ có thể hoàn thành đ ợcƣ những nhiệm vụ của thời đại và phong trào đó.
Quan hệ giữa lãnh tụ với quần chúng nhân dân là quan hệ thống nhất, biện
chứng thể hiện trên các nội dung sau đây: -
Mục đích và lợi ích của quần chúng nhân dân và lãnh tụ là thống nhất.
Đó làđiểm then chốt và căn bản quyết định sự thành bại của phong trào và sự
xuất hiện của lãnh tụ. Lợi ích của họ có thể biểu hiện trên nhiều khía cạnh khác
nhau, nh ng lợi ích luôn là cầu nối, liên kết, là mắt xích quyết định, là độngƣ lực
để quần chúng nhân dân và lãnh tụ có thể kết thành khối xã hội thống nhất về
ý chí và hành động. Tuy nhiên, lợi ích của họ luôn vận động, biến đổi không
ngừng phụ thuộc vào địa vị lịch sử, bối cảnh khách quan mà phong trào quần
chúng nhân dân và lãnh tụ của họ đang tồn tại, hoạt động trong đó, phụ thuộc
vào năng lực nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan để thực hiện các lợi ích đó. -
Quần chúng nhân dân và phong trào của họ tạo nên các lãnh tụ, những
điềukiện, tiền đề khách quan để các lãnh tụ xuất hiện và hoàn thành các nhiệm
vụ mà lịch sử đặt ra cho họ. Lãnh tụ là sản phẩm của thời đại, của cộng đồng,
của phong trào. Sự xuất hiện của họ và khả năng giải quyết đ ợc các nhiệmƣ lOMoARcPSD| 36086670
vụ của lịch sử nhanh hoặc chậm, nhiều hoặc ít sẽ thúc đẩy sự vận động, phát
triển của phong trào quần chúng nhân dân. -
Trong mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa quần chúng nhân dân
vàlãnh tụ, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định vai trò quyết định của quần chúng
nhân dân, đồng thời đánh giá cao vai trò của lãnh tụ. Quần chúng nhân dân là
lực l ợng đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của lịch sử xã hội, làƣ
động lực của sự phát triển đó. Lãnh tụ là ng ời dẫn dắt, định h ớng choƣ ƣ
phong trào, thúc đẩy phong trào phát triển, do đó thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa quần chúng nhân
dân với lãnh tụ có ý nghĩa ph ơng pháp luận rất quan trọng. Lãnh tụ có vai tròƣ
quan trọng, nhưng không thể tuyệt đối hóa vai trò của họ dẫn đến tệ sùng bái
cá nhân, thần thánh hóa lãnh tụ, coi nhẹ quần chúng nhân dân, hạn chế việc
phát huy tính năng động, sáng tạo của quần chúng nhân dân, phải chống lại tệ
sùng bái cá nhân. Ngược lại, việc tuyệt đối hóa vai trò của quần chúng nhân
dân, xem nhẹ vai trò của các cá nhân và lãnh tụ sẽ dẫn đến hạn chế, xem
thường các sáng kiến cá nhân, những sáng tạo của quần chúng nhân dân,
không phát huy đ ợc sức mạnh sáng tạo của họ. Quần chúng nhân dân luônƣ
là người thầy vĩ đại của các cá nhân, lãnh tụ.
Kết hợp hài hòa, hợp lý, khoa học vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ
trong từng điều kiện cụ thể xác định sẽ tạo sức mạnh tổng hợp thúc đẩy phong
trào và sự vận động, phát triển của cộng đồng, xã hội nói chung.
CHƯƠNG 2. SỰ VẬN DỤNG VẤN ĐỀ VAI TRÒ CỦA QUẦN
CHÚNG NHÂN DÂN VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Quan Điểm “Nước Lấy Dân Làm Gốc”
2.1.1. Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1945) lOMoAR cPSD| 36086670
Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc,
giành chính quyền với 3 cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng
lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đó là: -
Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết -
NghệTĩnh: Làm rung chuyển chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng quần chúng cách mạng đã vùng dậy trừng trị bọn cường
hào, phản động, tay sai thực dân Pháp, thành lập chính quyền cách mạng ở
một số nơi theo hình thức XôViết. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 đã khẳng
định đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng đề ra là đúng đắn và để lại những
bài học quý báu về xây dựng liên minh công-nông, về xây dựng Mặt trận Dân
tộc Thống nhất, về phát động phong trào quần chúng đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền. -
Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939): Bằng sức
mạnhđoàn kết của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã buộc chính
quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ; quần
chúng được giác ngộ về chính trị và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của
cách mạng; Đảng đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây
dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng
đấu tranh công khai, hợp pháp... -
Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945) dưới sự lãnh đạo
sángsuốt, kiên quyết của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng với
sự đoàn kết hăng hái, chiến đấu ngoan cường và hy sinh to lớn của biết bao
đảng viên cộng sản, chiến sĩ và đồng bào yêu nước đã kết thúc thắng lợi bằng
cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phá tan sự thống trị của
thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ phong kiến đè nặng lên nhân dân
ta mấy mươi thế kỉ, mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt
Nam bước sang kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất
nước, làm chủ xã hội. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam lOMoARcPSD| 36086670
Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà
nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Khái quát ý nghĩa lịch sử của
Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng
những giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp
lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này
là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng
mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
2.1.2. Quan điểm “ lấy dân làm gốc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của
quần chúng Nhân dân trong lịch sử, trong tư tưởng chỉ đạo cũng như trong
thực tiễn hành động, Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao vai trò làm chủ của Nhân
dân, quyền lực của dân, luôn tin vào khả năng và sức mạnh của dân, rằng còn
dân là còn nước, được lòng dân là được tất cả.
Trong tác phẩm “Đường kách mệnh” (1927), trả lời cho câu hỏi: “Ai là người
cách mệnh?”, Người giải thích: “Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên
ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng
quyết. Khi trước tư bản bị phong kiến áp bức cho nên nó cách mệnh. Bây giờ
tư bản lại đi áp bức công nông, cho nên công nông là người chủ cách mệnh”[1].
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công bằng sức mạnh của toàn quốc
đồng bào “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, đất nước bắt tay vào thực
hiện nhiệm vụ “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”, quyết giữ vững nền độc lập
dân tộc và đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Để hoàn thành nhiệm vụ
khó khăn, to lớn, nặng nề đó, quan điểm của Hồ Chí Minh là phải thấy hết và
khai thác triệt để sức mạnh của Nhân dân. Nước Dân chủ cộng hòa thì Chính
phủ và Nhân dân phải đoàn kết thành một khối. Nếu không có Nhân dân thì
Chính phủ không đủ lực lượng; nếu không có Chính phủ thì Nhân dân không
ai dẫn đường. Lực lượng bao nhiêu đều là nhờ dân hết, rằng “có lực lượng
dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì
làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản lOMoARcPSD| 36086670
đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”[2].
Kế thừa và phát triển tư tưởng “trọng dân” trong truyền thống lịch sử của
dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định: Dân là “gốc của nước”, gốc có vững thì cây
mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền Nhân dân. Từ chỗ coi “Lực lượng toàn dân
là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó” Người
dạy cán bộ: “Quan tâm đến đời sống của quần chúng thì quần chúng sẽ theo
ta, ta được lòng dân thì ta không sợ gì cả, nếu không được lòng dân thì ta
không thể làm tốt công tác”[4].
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tin tưởng vào sức mạnh và trí tuệ của Nhân
dân, Người khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong
thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”[5]. Vì vậy,
Người chủ trương: “Cách làm là: dựa vào: Lực lượng của dân, Tinh thần của
dân, để gây: Hạnh phúc cho dân”[6]. Tin tưởng vào lực lượng và trí tuệ của
Nhân dân là một trong những phẩm chất cơ bản của người cộng sản. Trong
hoàn cảnh đất nước càng gian khổ thì lại càng phải tin vào khả năng cách
mạng, tin vào lực lượng quần chúng Nhân dân.
Tin vào dân, dựa vào dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng phát huy
tinh thần làm chủ của Nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của Nhân dân.
“Nước lấy dân làm gốc” vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là bí quyết
thắng lợi của mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta. Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần
của Nhân dân và do Nhân dân xây dựng. Nghĩa là phải phát huy tinh thần làm
chủ và tinh thần sáng tạo của Nhân dân; Nhân dân phải được tham gia một
cách thực tế vào công việc quản lý sản xuất và đời sống của mình; phải tôn
trọng, lắng nghe ý kiến của Nhân dân thông qua các tổ chức đoàn thể đại diện
như: Quốc hội, Mặt trận tổ quốc, Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ…
Những vấn đề liên quan đến đường lối chính sách, đến cơ chế tổ chức có liên
quan đến sinh mệnh, cuộc sống, tương lai hy vọng của hàng chục triệu quần
chúng, nếu không có ý kiến của quần chúng, không tập hợp được trí tuệ của
quần chúng sẽ không tránh khỏi những hạn chế sai lầm.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn:
Phải ra sức thực hành dân chủ, thật sự tôn trọng quyền làm chủ của quần lOMoARcPSD| 36086670
chúng, dân chủ về kinh tế, dân chủ về chính trị. Theo Người “Có dân chủ mới
làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến”[7], có dân chủ thì dân mới tin,
mới dám nói, mới có sự sáng tạo, do đó mới tạo nên động lực.
Là người đứng đầu Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên giáo
dục cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần phục vụ, tinh thần trách nhiệm trước
Nhân dân, nghiêm khắc phê phán những biểu hiện vi phạm lợi ích của Nhân
dân. Với quan điểm “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, Người luôn
xem mình là người phục vụ quần chúng, chịu trách nhiệm trước quần chúng.
Người nghiêm khắc phê phán những biểu hiện của tệ quan liêu, xa dân, khinh
dân, đặc biệt là thói kiêu ngạo “quan cách mạng”, ra lệnh, ra oai, “không tin
dân” để dẫn đến chỗ “dân không tin”, làm hại đến uy tín của Đảng, của Chính phủ.
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn đau đáu nỗi lòng về chăm lo
cuộc sống của Nhân dân. Trong Di chúc của mình, Người đã để lại những lời
căn dặn tỉ mỉ về những việc cần làm đối với những người đã dũng cảm hy
sinh một phần xương máu của mình, đối với cha mẹ, vợ con của thương binh
liệt sĩ, đối với chiến sỹ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang và thanh niên xung
phong, đối với nông dân, với việc “xây dựng lại thành phố và làng mạc đẹp
đẽ”, “phát triển công tác vệ sinh y tế”, “sửa đổi chế độ giáo dục”... nhằm nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân.
Chính tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc”, yêu thương, kính trọng Nhân
dân, luôn tin tưởng vào khả năng, sức mạnh của quần chúng Nhân dân mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vun trồng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày
càng rộng rãi và vững mạnh, góp phần to lớn làm nên những thắng lợi vẻ
vang của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tư tưởng vì
Nhân dân, vì con người. Dựa vào dân, tin vào lực lượng, trí tuệ của Nhân dân,
chăm lo cho cuộc sống vật chất, tinh thần của Nhân dân là cơ sở tạo nên sức
mạnh đoàn kết và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhân dân. Đó cũng chính
là nền tảng của công cuộc đổi mới và phát triển mà Đảng Cộng sản Việt Nam
đã và đang lãnh đạo Nhân dân thực hiện. lOMoARcPSD| 36086670 2.1.3.
Đảng ta quán triệt quan điểm “Nước lấy dân làm
gốc” trong quá trình đổi mới
Sau 35 năm đổi mới, chúng ta giành được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử, một trong những thành tựu đó là nhận thức sâu sắc về
lòng dân, sức dân. Hiểu biết kinh nghiệm hàng đầu mà Đảng ta có được
là trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy
dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân lao động.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội năm 1991 rút ra bài học kinh nghiệm thứ hai: “Sự nghiệp cách mạng là
của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm
nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích
và nguyện vọng chân chính của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự
gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời Nhân dân sẽ
đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất
nước”[8]. Tổng kết chặng đường đổi mới 10 năm (1986-1996), Đảng ta
rút ra 06 bài học; trong đó, bài học thứ tư là “mở rộng và tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc” và khẳng định:
“Cách mạng là sự nghiệp của Nhân dân, vì Nhân dân và do Nhân dân.
Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của Nhân dân là nguồn gốc
hình thành đường lối đổi mới của Đảng”[9].
Bước vào thế kỷ XXI cũng là chặng đường 15 năm đổi mới, Đảng vẫn
nhất quán “đổi mới phải dựa vào Nhân dân, vì lợi ích của Nhân dân, phù
hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo”. Thực tiễn 20 năm đổi mới
(19862006), Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Đổi mới phải vì lợi ích của Nhân
dân, dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Nhân
dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới”[10].
Cương lĩnh Bổ sung, phát triển năm 2011 rút ra một trong những bài
học kinh nghiệm lớn: “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân lOMoARcPSD| 36086670
dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên những thắng lợi
lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện
vọng chính đáng của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật
thiết với Nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời Nhân dân sẽ dẫn đến
những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã
hội chủ nghĩa và của Đảng”[11].
Cùng với đó, tổng kết 30 năm đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XII tiếp tục quán triệt sâu sắc bài học kinh nghiệm: “Đổi mới phải luôn luôn
quán triệt quan điểm lấy “dân làm gốc”, vì lợi ích của Nhân dân, dựa vào
Nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và
mọi nguồn lực của Nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân”[12].
Như vậy có thể thấy rằng, trong suốt quá trình lãnh đạo đưa đất nước đi
lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm “sự nghiệp đổi
mới phải vì lợi ích của Nhân dân”, xa rời, đi ngược lại lợi ích của Nhân
dân, đổi mới sẽ thất bại. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của
Nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng.
Nhân dân là người làm nên những thành tựu của đổi mới. Đổi mới phải
dựa vào Nhân dân, do lòng dân quyết định. Nguồn lực của Nhân dân có
nhiều, bao gồm tài dân, sức dân, của dân, quyền dân; song nguồn lực lớn
nhất, quan trọng nhất, quyết định nhất là lòng dân, có lòng dân thì có sức dân.
Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc triển khai chương trình hành động
thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng và các văn
bản của Trung ương về công tác dân vận, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
đã khẳng định: Tin ở dân, chăm lo cho dân, lấy dân làm gốc là một bài học
lớn được rút ra từ chiều sâu lịch sử đất nước ta. Trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng, Bác Hồ và Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc vai trò to lớn
của Nhân dân, ý nghĩa cực kỳ quan trọng của công tác dân vận, thường
xuyên chăm lo xây dựng và củng cố mối liên hệ chặt chẽ với Nhân dân.
Chính nhờ thế mà mặc dù với số lượng không đông, Đảng ta vẫn có đủ sức
mạnh lãnh đạo cách mạng vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù,
dù đó là kẻ thù nguy hiểm và hung bạo nhất. Với sự khẳng định này, Tổng lOMoARcPSD| 36086670
bí thư muốn nhắc nhở các cấp ủy đảng, các cấp chính quyền cần quan
tâm hơn nữa, làm tốt hơn nữa công tác dân vận, nâng cao vai trò của Mặt
trận và các đoàn thể trong việc giữ vững và phát huy quyền làm chủ của
Nhân dân. Cần có biện pháp cụ thể và tích cực bảo đảm đời sống Nhân
dân, trước hết là bảo đảm việc làm, chăm lo cái ăn, cái mặc, sức khỏe,
việc học hành... của Nhân dân; thực hiện nguyên tắc công bằng xã hội, lối
sống có văn hóa, bảo đảm an ninh xã hội, an sinh xã hội, an toàn xã hội.
Các cấp ủy đảng, các cơ quan Nhà nước cần động viên, tổ chức Nhân dân
tham gia rộng rãi và thường xuyên vào các công việc quản lý kinh tế, quản
lý xã hội. "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát" phải trở
thành khẩu hiệu hành động, thành phương châm công tác vận động quần chúng.
Thế nhưng, thực tế trong đổi mới có hiện tượng “xói mòn lòng tin của
Nhân dân đối với Đảng” hay “làm giảm lòng tin của Nhân dân đối với
Đảng”. Với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự
thật, Đảng đã chỉ ra: “Vấn đề phai nhạt lý tưởng, sa sút phẩm chất đạo đức
cách mạng, quan liêu, tham nhũng, cá nhân chủ nghĩa làm xói mòn lòng tin
của Nhân dân đối với Đảng”[13]; “Có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài
qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của Nhân
dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò
lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”[14]; “Một số chính sách chưa
đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của Nhân dân, nhiều bức xúc chưa được giải
quyết; quyền làm chủ của Nhân dân nhiều nơi bị vi phạm, làm giảm lòng tin
của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước”[15]; “Tình trạng tham nhũng, lãng
phí vẫn còn nghiêm trọng với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức
xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến niềm tin của Nhân dân với Đảng và Nhà
nước. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một
bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn”.[16]
Đại hôi XIII của Đảng diễn ra trong bầu không khí đặ c biệ t khi cả
nước ̣ vừa mới trải qua môt năm 2020 đầy biến độ ng do thiên tai, dịch
bệ nh. Đại ̣ dịch Covid - 19 đã và đang tác động sâu rộng tới mọi phương
diện của đời sống kinh tế - xã hội toàn cầu. Bối cảnh trong nước và quốc tế lOMoAR cPSD| 36086670
đan xen nhiều khó khăn, thuân lợi, song bằng nỗ lực và ý chí quyết tâm
cao, phát ̣ huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự ưu việt của
chế độ xã hội chủ nghĩa, sự tham gia đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả của cả
hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng lòng ủng hộ của
nhân dân, chúng ta đã từng bước kiểm soát thành công đại dịch COVID-
19; từng bước phục hồi sản xuất kinh doanh; ổn định đời sống, góp phần
củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội
chủ nghĩa; khẳng định bản lĩnh, ý chí, truyền thống tốt đẹp của Nhân dân ta, dân tôc ̣ ta.
Từ nhận thức sâu sắc thực tiễn ấy, càng phải củng cố vững chắc lòng
tin của Nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc
và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là
ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân, được lòng dân. Muốn được lòng dân,
có lòng dân thì toàn bộ hoạt động của Đảng cũng như mọi chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ lợi ích và nguyện
vọng chính đáng của Nhân dân, nhằm vào mục đích vì lợi ích của Nhân
dân. Thực hiện đầy đủ, có chất lượng quyền và nghĩa vụ công dân, đặc
biệt không chỉ là tôn trọng mà phải tạo cơ chế để dân phát huy đầy đủ, có
hiệu quả quyền làm chủ của mình. Tập trung giải quyết bức xúc, nguyện
vọng chính đáng của Nhân dân liên quan đến lợi ích, đời sống, việc làm;
chống tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm những tiêu cực… Có như vậy,
chắc chắn chúng ta sẽ góp phần tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ, tích
cực và tiến bộ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từng bước hiện thực
hoá mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”
mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân ta đã lựa chọn và kiên định.
2.2 Một Số Bài Học Được Rút Ra Vấn Đề Vai Trò Quần
Chúng Nhân Dân Vào Công Cuộc Đổi Mới Việt Nam Hiện Nay.
Cùng với việc kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, chúng ta nhìn
lại 20 năm đổi mới. lOMoAR cPSD| 36086670
Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân,
công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn
diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời
sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết
toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc
phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không
ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra
thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng
tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về
công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát
triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân
dân các nước trên thế giới.
Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã
hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân lOMoAR cPSD| 36086670
dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc
quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong khi khẳng định những thành tựu nói trên, cần thấy rõ, cho đến nay nước
ta vẫn trong tình trạng kém phát triển. Kinh tế còn lạc hậu so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, xây dựng hệ thống
chính trị, còn nhiều yếu kém. Lý luận chưa giải đáp được một số vấn đề của
thực tiễn đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đặc biệt là trong việc
giải quyết các mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển;
giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội; giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị; giữa đổi mới với ổn định và phát triển; giữa độc lập tự chủ và
chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế...
Từ thực tiễn 20 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta càng tích lũy thêm nhiều
kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý. Có thể rút ra một số bài học lớn sau đây:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi
mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội
được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới
không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của
Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách
làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh
tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ
phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng
phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết
chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng
Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội.
Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò
chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. lOMoAR cPSD| 36086670
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý
kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng trong việc
hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực
tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm
ra quy luật phát triển, đó là chìa khóa của thành công.
Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực,
xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển; đồng thời coi trọng huy động
các nguồn ngoại lực, thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các
nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng
hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trên cơ sở giữ vững độc lập
dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng
đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh là khâu then chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu bức thiết của xã hội; Nhà
nước phải thể chế hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền công dân, quyền
con người. Phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong
việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
Qua tổng kết lý luận - thực tiễn 20 năm đổi mới, chúng ta càng thấy rõ giá trị
định hướng và chỉ đạo to lớn của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), đồng thời cũng thấy rõ thêm những
vấn đề mới đặt ra cần được giải đáp. Sau Đại hội X, Đảng ta cần tiếp tục nghiên
cứu, bổ sung và phát triển Cương lĩnh, làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi
hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội. lOMoARcPSD| 36086670 2.3 Kết Luận
Loài người đã trải qua hàng nghìn năm tiến hóa và phát triển để trở thành giống
loài vượt bật nhất trên Trái Đất. Quá trình này đòi hỏi rất nhiều sự đấu tranh
giữa con người với thiên nhiên và giữa con người với con người. Kết quả của
quá trình đó chính là một cuộc sống đầy đủ về vật chất và tinh thần như ngày
hôm nay. Trong quá trình gian khổ đó, tất nhiên là có sự xuất hiện của các cá
nhân kiệt xuất, tuy nhiên, quần chúng nhân dân cũng đã góp phần không nhỏ
vào quá trình này.Có thể nói, quần chúng nhân dân chính là những nhân tố cốt
lõi sáng tạo nên lịch sử, vì vậy cần phải nhận thức đúng đắn được vai trò và
sức mạnh của quần chúng nhân dân để làm nền tảng cho mục tiêu dựng nước
và giữ nước. Con người luôn có ý thức đấu tranh để vươn lên. Con người cổ
xưa đã trải qua vô số cuộc đấu tranh để có được ngày hôm nay. Đó chính là
những thành tựu to lớn của loài người. Chúng ta ngày hôm nay đang được kế
thừa những giá trị quý báu ấy. Với vai trò là “quần chúng nhân dân” trong thời
đại mới, ta phải kế thừa đồng thời phát huy những giá trị mà ông cha ta để lại,
bên cạnh đó, phải không ngừng sáng tạo để tạo ra những giá trị mới đóng góp
cho nền văn minh nhân loại.Bên cạnh đó, vai trò của quần chúng nhân dân
trong sự nghiệp bảo vệ an ninh cho đất nước, kế thừa và phát huy được sức
mạnh trọng yếu của quần chúng nhân dân, lực lượng công an phải làm tốt công
tác vận động quần chúng, đoàn kết và liên kết quần chúng thành một thể thống
nhất, chỉ có như vậy thì mới tạo ra được lực lượng đông đảo, phát huy được
sức mạnh to lớn.Chung quy lại, xét về mọi mặt, quần chúng nhân dân luôn là
những bản thể chân chính kiến tạo ra lịch sử. Quan niệm trên của triết học Mác-
Lênin đã nhận thức đúng đắn vai trò của quần chúng nhân dân, bù lấp những
sai lầm của các trường phái triết học trước đó, vạch ra con đường đưa quần
chúng nhân dân trở lại vị trí vốn có của nó. Và việc nắm vững và vận dụng quan
niệm của triết học Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân có một ý
nghĩa vô cùng to lớn cho sự nghiệp cách mạng và sự nghiệp bảo vệ an ninh tổ quốc.