Báo cáo nghiên cứu tác động của nợ xấu | Môn kinh tế vĩ mô
Chủ thể mắc nợ xấu sẽ không thể tiếp cận nguồn vay vốn ngân hàng do bị giảm sút sự uy tín khiến cho các ngân hàng thương mại không muốn cho vay. Bên cạnh đó, khách hàng cũng không thể sử dụng thẻ tín dụng để chi tiêu vì khi bị nợ xấu, ngân hàng sẽ không cấp hạn mức tín dụng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem !
Môn: Kinh tế vĩ mô ( UEH)
Trường: Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 46988474
1. Tác động của nợ xấu
Nợ xấu không chỉ tác động tiêu cực đến chính các ngân hàng thương mại, người đi
vay mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế.
- Đối với các ngân hàng thương mại:
Nợ xấu sẽ làm cho lợi nhuận của các ngân hàng thương mại bị sụt giảm do việc
không thu hồi được nợ bao gồm tiền gốc, lãi và các khoản phí làm cho nguồn vốn bị
thất thoát trong khi các ngân hàng vẫn phải chi trả tiền lãi cho nguồn vốn hoạt
động. Điều này có thể làm ảnh hưởng đến quy mô hoạt động của các ngân hàng
thương mại. Bên cạnh đó, khả năng huy động vốn của các ngân hàng có thể bị suy
giảm do nợ xấu tăng cao sẽ khiến cho các ngân hàng thương mại bị mất uy tín, niềm
tin trong hoạt động kinh doanh tín dụng. Ngoài ra các ngân hàng thương mại còn
phải chịu rủi ro về thanh khoản, điều này có thể khiến ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản.
- Đối với khách hàng
Chủ thể mắc nợ xấu sẽ không thể tiếp cận nguồn vay vốn ngân hàng do bị giảm sút sự
uy tín khiến cho các ngân hàng thương mại không muốn cho vay. Bên cạnh đó, khách
hàng cũng không thể sử dụng thẻ tín dụng để chi tiêu vì khi bị nợ xấu, ngân hàng sẽ
không cấp hạn mức tín dụng. Chủ thể mắc nợ xấu cũng phải đối mặt với nguy cơ bị mất
tài sản đảm bảo khi vay thế chấp. Ngoài ra ở một số quốc gia có hệ thống thông tin đồng
nhất, do đó việc có lịch sử nợ xấu khiến người đó bị trừ điểm tín dụng trong hệ thống xếp hạng công dân.
Không chỉ gây ra các hậu quả cho chủ thể mắc nợ xấu, nợ xấu cũng gây ra nhiều hệ lụy
cho những đối tượng khác như cơ hội tiếp cận vốn ngân hàng của chủ thể đi vay khác
sẽ bị hạn chế hơn khi rủi ro tín dụng buộc các ngân hàng thương mại phải thắt chặt cho
vay hoặc phải thu hẹp quy mô hoạt động. Các chủ thể gửi tiền vào ngân hàng có nguy
cơ không thu hồi được khoản tiền gửi và lãi nếu các ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản.
Chính những ảnh hưởng nghiêm trọng của nợ xấu dẫn đến tầm quan trọng trong công tác
quản lý nhằm hạn chế tối thiểu việc phát sinh các khoản nợ xấu.
- Đối với nền kinh tế
Khi nợ xấu tăng các ngân hàng thương mại cũng phải lập một khoản dự phòng rủi
ro, do đó dòng vốn đưa vào lưu thông cũng sẽ bị hạn chế. Nợ xấu tăng cao cũng lOMoAR cPSD| 46988474
khiến cho việc mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng sẽ bị kìm hãm do việc
khó tiếp cận được nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại, gây ảnh hưởng xấu đến
sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Nghiêm trọng hơn, khi nợ xấu tăng
cao, nếu không được xử lý và giải quyết kịp thời có thể dẫn đến sự phá sản của một
số ngân hàng thương mại, điều này có thể gây ra tác động lan truyền đến toàn bộ hệ
thống ngân hàng thương mại gây nên khủng hoảng tài chính ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế.
Hệ thống ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế, là kênh thu hút và cung
cấp tiền cho các tổ chức, doanh nghiệp và các cá nhân trong nền kinh tế đó. Do đó rủi
ro tín dụng có ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế. ở mức độ thấp, rủi ro tín dụng khiến
cơ hội tiếp cận vốn mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng của các
khách hàng bị hạn chế, ảnh hưởng xấu đến khả năng tăng trưởng của nền kinh tế. ở mức
độ cao hơn, khi có một ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn dẫn đến phá sản, hiệu
ứng dây chuyền rất dễ xảy ra trong toàn bộ hệ thống ngân hàng gây nên khủng hoảng
đối với toàn bộ nền kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội và sự phát triển của đất nước.
Ở mức độ thấp, khi nợ xấu càng kéo dài thì các chi phí bỏ ra về mặt hữu hình và vô hình
đối với xử lý nợ xấu càng lớn. Về mặt hữu hình, việc các tài sản cầm cố tại ngân hàng sẽ
ngày càng bị hao mòn, hư hỏng, giá trị sẽ giảm dần. Nếu nợ xấu được xử lý nhanh thì các
tài sản này sẽ được đem ra sử dụng nhanh chóng, tạo nên giá trị và giá trị thăng dự cho
nền kinh tế. Về vô hình, khi quá trình xử lý nợ xấu kéo dài, dẫn tới hệ số tín nhiệm của
Việt Nam sẽ khó mà duy trì được mức tín nhiệm như hiện tại. Điều này gây ảnh hưởng
không nhỏ tới môi trường đầu tư.
Sự gia tăng nhanh chóng của nợ xấu là một trong những nguyên nhân chính gây ra khủng
khoảng ngân hàng (González-Hermosillo, B, 1999). Lịch sử hoạt động của các NHTM
trên thế giới đã chứng kiến không ít các ngân hàng lớn bị phá sản và hậu quả của nó thậm lOMoAR cPSD| 46988474
chí không giới hạn trong phạm vi một quốc gia mà còn lan ra nhiều nước trong khu vực hay toàn cầu. •
Đối với hệ thống các ngân hàng thương mại: Nợ xấu sẽ khiến các ngân hàng thương mại sử dụng vốn
kém hiệu quả, giảm lợi nhuận, chịu rủi ro dòng tiền, giảm khả năng thanh toán cho các khoản thanh
toán của ngân hàng. Đặc biệt, nếu tình trạng nợ xấu diễn ra thường xuyên, liên tục và không được xử
lý dứt điểm sẽ khiến các ngân hàng thương mại bị mất uy tín trong hoạt động kinh doanh tín dụng của mình.
Đối với nền kinh tế: Nợ xấu sẽ làm gia tăng sức ép lên tình trạng lạm phát, kìm hãm hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Mối nguy lớn nhất là nếu nợ xấu với dòng tín dụng lớn thì có thể dẫn đến khủng hoảng hệ thống tài
chính ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế. •
Đối với khách hàng: Nợ xấu sẽ làm tăng chi phí hoạt động, tăng gánh nặng trả nợ cho ngân hàng, làm
giảm tốc độ chu chuyển vốn với ngân hàng gây ảnh hưởng trực tiếp đến mối quan hệ cả hai bên, từ
đó uy tín của khách hàng sẽ bị giảm sút khá lớn khiến cho các ngân hàng thương mại không còn dám
tiếp tục cho khách hàng vay, dù nguồn vốn không thiếu. Ngân hàng phải thận trọng hơn với các khoản
vay để tránh các khoản nợ xấu tiếp theo, dẫn tới hậu quả là các ngân hàng có tiền mà không cho vay
được, còn nền kinh tế thì vẫn tiếp tục khát vốn. •
Việc không thu hồi được nợ bao gồm tiền gốc, lãi và các khoản phí làm cho nguồn
vốn của các ngân hàng thương mại bị thất thoát, trong khi đó các ngân hàng vẫn
phải chi trả tiền lãi cho nguồn vốn hoạt động làm cho lợi nhuận bị giảm sút. Nếu
lợi nhuận không đủ, ngân hàng còn phải dùng đến chính nguồn vốn tự có của mình
để bù đắp thiệt hại. Điều này có thể làm ảnh hưởng đến quy mô hoạt động của các ngân hàng thương mại. •
Mặt khác, tỷ lệ nợ quá hạn cao làm cho uy tín, niềm tin vào tiềm lực tài chính của
ngân hàng bị suy giảm dẫn đến làm giảm khả năng huy động vốn của ngân hàng.
Nghiêm trọng hơn nó có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản, đẩy ngân hàng đến bờ vực
phá sản và đe dọa sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng.