



















Preview text:
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ
------------------------------
Báo cáo môn Cơ sở văn hoá Việt Nam
Chủ đề: Nghiên cứu về cổ phục áo Nhật Bình của triều Nguyễn Họ tên Mã sinh viên 1 Phạm Tuấn Anh 21041297 2 Nguyễn Tuệ Trúc 21041341 3 Nguyễn Thanh Thúy 21041724 4 Hà Thị Mỹ Dung 21041255 5 Ngô Thị Lê Phương 21041141 6 Nguyễn Lê Minh 21040294
*Hà Nội, tháng 5 năm 2022* 1 Mục lục LỜI NÓI
ĐẦU. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
I. Nguồn gốc, lịch sử phát triển. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4
II. Đặc điểm áo Nhật Bình. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 6
1. Về hoa văn. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 6
2. Phụ kiện đi kèm. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 7
3. Nhật Bình theo từng thời vua nhà Nguyễn…………………….
………………………………….…. .…….9
4. Các quy tắc, điển chế riêng về áo Nhật Bình. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 11
III. Ý nghĩa văn hoá, lịch sử. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 14
IV. So sánh mở rộng. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 16
KẾT LUẬN. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 19 2 ***LỜI NÓI ĐẦU***
Tự cổ chí kim, “Thực, y, trú, hành” (Ăn uống, may mặc, chỗ ở và đi lại) vốn
là bốn vấn đề trọng tâm trong đời sống con người bất kể thời đại, bất kể hoàn cảnh.
Trong đó “y” tức y phục là yếu tố quan trọng thứ hai sau vấn đề cơ bản của con
người là ăn uống. Khi tìm hiểu về văn hoá của một triều đại, các nhà nghiên cứu
không chỉ xem xét tài liệu, các di tích còn sót lại mà còn nghiên cứu về trang phục
thời đại đó. Có những loại trang phục phổ biến mọi tầng lớp như áo Tấc, áo ngũ
thân,. . cũng có những trang phục để phân biệt đẳng cấp, cấp bậc người mặc. Và áo
Nhật Bình thời Nguyễn chính là một trong những trang phục như vậy. Qua việc tìm
hiểu về nguồn gốc, ý nghĩa, giá trị lịch sử và văn hoá áo Nhật Bình, chúng tôi muốn
đưa cổ phục Việt Nam ngày càng đến gần hơn với thế hệ trẻ, qua đó giữ gìn những
nét đẹp của văn hoá dân tộc. 3
I. Nguồn gốc, lịch sử phát triển
Áo Nhật Bình bắt đầu xuất hiện từ thời nhà Nguyễn, theo điển chế, Nhật Bình
là Thường phục của Thái hậu, Hoàng hậu, các bậc Công chúa; cũng là Triều phục
cao quý nhất của các Phi tần, Nữ quan và các Mệnh phụ dùng cho các nghi lễ trang
trọng, quy mô không quá lớn. Áo Nhật Bình được đặt định vào năm 1807 thời vua
Gia Long và được duy trì cho đến cuối thời Nguyễn. Các tư liệu tranh ảnh đầu thế
kỉ XX cho thấy bất kể hoàng hậu, công chúa hay cung tần đều vấn khăn vành, mặc áo Nhật Bình.
Ảnh 1: Hình ảnh Nam Phương Hoàng hậu và Đức Từ Cung mặc bộ Nhật Bình theo quy chế
(ảnh: Đại Việt Cổ Phong – 大越古风 )
Nguồn gốc của áo Nhật Bình vốn dĩ xuất xứ từ áo Phi Phong phổ biến vào
thời Minh triều Trung Hoa, với dạng thức áo đối khâm (cũng có thể gọi là trực lĩnh),
được cài lại trước ngực bởi một nút thắt, đính thêm một miếng trang trí hình ngọc.
Áo Nhật Bình là loại áo xẻ cổ, dạng đối khâm, cổ áo to bản tạo thành hình chữ nhật
ở trước ngực, dưới ức có dải vải buộc hai vạt áo. Do hoa văn ở cổ áo khi ghép lại
tạo thành một hình chữ nhật ngay trước ngực người mặc, nên áo được gọi là áo Nhật Bình.
Vào thời Gia Long và Minh Mạng, quy chế còn đầy đủ, áo Nhật Bình chịu
ảnh hưởng của những điển chế nghiêm khắc nên có sự phân biệt rõ rệt về thứ bậc
người mặc. Áo Nhật Bình vào thời Gia Long và Minh Mạng được mặc kết hợp với 4
thường (tên một loại váy của người Việt xưa). Tuy nhiên về sau, nhất là từ thời
Đồng Khánh trở đi, quy chế thời kỳ cuối ở cung đình đã tối giản hơn hẳn, thường
mặc kết hợp với quần vải sa trắng. Sau khi thời Nguyễn kết thúc, bộ áo trở thành bộ
áo trang trọng của giới quý tộc được mặc vào một số dịp lễ quan trọng. Sau năm
1945, áo Nhật bình lan tỏa ra dân gian, được phụ nữ Huế rất yêu thích, thường chọn
làm lễ phục trong đại sự hôn lễ của mình. Từ một loại trang phục chỉ dành cho nữ
giới quý tộc chốn cung đình, áo Nhật bình đã trở thành một loại trang phục phổ
thông, dành cho mọi người. Dẫu vậy, áo Nhật bình vẫn được xem là loại lễ phục cao
cấp, chỉ được sử dụng trong các nghi lễ đặc biệt trang trọng.
Ảnh 2: Nhật bình trong lễ cưới sau thời nhà Nguyễn - hình ảnh tại bảo tàng phụ nữ Việt Nam 5
II. Đặc điểm của áo Nhật Bình 1. Về hoa văn
Trên một số bức họa còn lưu lại cho thấy, các đồ án hoa văn in trên áo Nhật
Bình chủ yếu có dạng hình tròn khép kín. Bên trong hình tròn được thêu hình ảnh
phượng ổ, loan ổ. Các hoa văn phụ phong phú hơn. Thông thường sẽ sử dụng những
hình ảnh mang hàm ý tốt lành, cát tường như thêu chữ Phúc, chữ Thọ bằng chỉ
vàng, chỉ đỏ, thêu hoa lá, bát bửu, hoặc thủy ba (sóng nước).
Hoa văn thuỷ ba là một trong những hoa văn độc đáo, mang đậm vẻ đẹp truyền
thống gắn liền với quan niệm triết học của người Việt từ xưa đến nay. Trong tiếng
Hán Việt, thủy nghĩa là nước, ba là sóng, thủy ba tức là sóng nước. Triết học
phương Đông nhấn mạnh mặt thống nhất trong mối quan hệ giữa con người với vũ
trụ. Ở phương Đông, thiên nhiên ưu đãi, giữa con người với vũ trụ dường như
không có điều gì tách biệt. Đối với nền văn hoá lúa nước của phương Đông, thuỷ ba
không chỉ là sóng nước mà còn mang ý nghĩa là nền tảng, khởi nguồn của sự sống,
của vạn vật trong đó có con người.
Bởi nước vốn không có hình thù cụ thể nên để biểu tượng nước người ta phải
sử dụng những hình ảnh tượng trưng, và như thế không thể có hình tượng nào biểu
thị nước rõ ràng hơn bằng hình tượng sóng, bằng những đường nét miêu tả con sóng.
Cứ như vậy, hình tượng sóng nước được biến đổi dần dần theo nhận thức cái đẹp
của con người và được đưa vào nghệ thuật tạo hình với nhiều hình thức khác nhau
theo quan niệm về cái đẹp từng giai đoạn. Đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình thuỷ ba
là thời Lý- Trần và được kế thừa hoàn hảo trong hoa văn trang phục thời nhà Nguyễn. 6
Ảnh 3: Hoa văn sóng nước trên áo Nhật Bình của công chúa
(ảnh: haitratancuong.com)
Các hoa văn này còn được thay đổi và sắp xếp dựa vào cấp bậc, vai vế của
người mặc. Vì thế, khi nhìn vào phần hoa văn có thể xác định được cấp bậc, địa vị
và danh phận của người đó. Tuy nhiên, đối với áo Nhật Bình của Hoàng Hậu thì
quy chế này không được áp dụng.
2. Phụ kiện đi kèm
Áo Nhật Bình thường sẽ được mặc kèm theo các phụ kiện. Thường thấy nhất
chính là những chiếc cúc áo nạm vàng hoặc được làm từ ngọc, đá quý. Phần dưới cổ
tay của áo lại được trang trí thêm 2 dải dây dài thả lỏng gọi là dải thùy lưu. 7
Ảnh 4: Cúc áo nạm vàng mặc kết hợp cùng Nhật Bình
(ảnh: Bảo tàng cổ vật Cung đình Huế)
Vào thời Gia Long, phụ kiện đi kèm sẽ có thêm mũ Kim ước đối với bậc Hậu
phi. Thời Thiệu Trị, Kim ước này được thay thế bằng Kim phượng. Phần phụ kiện
này cũng được thay đổi nhiều theo thời gian. Đến thời Nguyễn Mạt, phụ kiện đi
kèm với áo Nhật Bình là khăn vành.
Ngoài ra còn có thêm nhiều loại trang sức khác như vòng tay, vòng cổ, trâm cài…
Ảnh 5: Phục dựng hai chiếc mũ Cửu long Thông thiên và Cửu phượng quan (trái)
(đoàn làm phim “Phượng Khấu”); 8
hình ảnh Nam Phương hoàng hậu trong bộ trang phục Nhật bình với cúc áo nạm vàng và khăn
vành (phải) (ảnh: Đại Việt cổ phong -大越古风 )
Ảnh 6: Các trang sức của một vị vương phi nhà Nguyễn
(ảnh: nhiếp ảnh gia Vũ Kim Lộc)
3. Nhật Bình theo từng thời vua nhà Nguyễn
a. Thời kỳ vua Gia Long: quy chuẩn nhất
Trang phục dựa trên màu sắc để phân theo cấp bậc: Hoàng Thái hậu: vàng
chính sắc, Hoàng hậu: vàng chính sắc hoặc cam, Trưởng công chúa và Công
chúa: đỏ; mặc kết hợp với thường bằng vải bát ti trắng và mũ. 9
Ảnh 7: Tranh vẽ hậu phi triều nguyễn của họa sĩ Nguyễn Văn Nhân
Hoa văn thêu trên áo cũng thể hiện cấp bậc.
Dải hoa văn trên tay áo: theo màu của ngũ hành, tuy nhiên với hoàng hậu thì
không áp dụng theo quy chế dải màu này.
b. Nhật bình từ thời vua Đồng Khánh (tối giản hơn)
Hoa văn đơn giản hơn, không còn áp dụng dải màu trên tay áo, mặc kết hợp
với quần trắng và khăn vành, màu sắc của khăn cũng thay đổi theo cấp bậc.
Ảnh 8: Từ Cung Hoàng thái hậu và Nam Phương hoàng hậu đội khăn vành dây mặc áo Nhật Bình.
(ảnh: Đại Việt cổ phong – 大越古风 ) 10
4. Các quy tắc, điển chế riêng về áo Nhật Bình
Ghi chép của "Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ" (Hội điển) về trang phục
của hậu cung triều Nguyễn như sau:
a. Áo Nhật Bình của Hoàng Hậu
Mũ: 2 chiếc Cửu long kim ước phát, 1 cửu phượng kim ước phát, 8 trâm phượng bằng vàng.
Y phục: 1 áo bào Nhật Bình làm bằng sa sợi vàng thêu 20 hình rồng phượng,
trĩ, loan, 1 thường may bằng tơ Bát ti trắng thêu hoa văn rồng phượng.
Ảnh 9: Áo nhật bình theo điển chế hoàng hậu
(Ảnh: haitrantancuong.com) 11
b. Áo Nhật Bình của Công Chúa
Mũ: 1 Thất phượng Kim ước phát, 12 trâm hoa.
Y phục: 1 áo Nhật Bình may bằng chất liệu sợi sa, màu sắc chính là màu đỏ, thêu hoa văn phượng ổ.
Ảnh 10: Áo nhật bình theo điển chế công chúa (Ảnh: haitratancuong.com)
c. Áo Nhật Bình dành cho cung tần Cung tần nhị giai:
- Mũ: 1 chiếc Ngũ phượng Kim ước phát, 10 trâm hoa.
- Y phục: 1 áo Nhật Bình bằng vải sa, màu xích đào thêu loan ổ, 1
thường làm bằng tơ Bát ti trắng thêu hoa văn loan ổ. 12 Cung tần tam giai:
- Mũ: 1 chiếc Tam phượng Kim ước phát, 8 trâm hoa.
- Y phục: Áo Nhật Bình làm bằng vải sa, màu tím chính sắc thêu
phượng ổ, 1 thường làm bằng tơ Bát ti trắng thêu hoa văn loan ổ. Cung tần tứ giai:
- Mũ: 1 chiếc nhất Phượng kim ước, 8 trâm hoa.
- Y phục: 1 áo Nhật Bình bằng sa màu tím nhạt, 1 thường bằng tơ Bát ti trắng thêu loan.
Bậc phi tần thấp hơn không có quy định trang phục. Màu sắc áo của các
mệnh phụ quy định dựa vào phẩm cấp của chồng. Bậc Nữ quan có trang
phục đơn giản hơn hẳn, gần với áo Phi Phong nguyên mẫu nhất.
Thiệu Trị năm thứ 6 (1846), châu phê: Cung tần bậc nhất, bậc nhì: mũ
phượng bằng vàng, đều 3 bác sơn. Duy bậc nhất 8 con phượng, bậc nhì 7 con
phượng, bậc ba trên búi tóc có trâm con phượng, bậc tứ giai, bậc ngũ giai
trên búi tóc không có trâm như thế để cho phân biệt. 13
III. Ý nghĩa văn hoá, lịch sử
Xuyên suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, có thể nhận thấy qua ghi chép về điển
lễ và phẩm phục triều nghi của nước ta, các đời Lý Trần Lê cho đến nhà Nguyễn
đều mô phỏng phạm vi không nhỏ điển chế các triều đại Chu, Hán, Đường, Tống và
Minh của Trung Hoa nhưng theo lối "đại đồng tiểu dị", vẫn mang những nét đặc sắc
rất riêng của Đại Việt ta.
Sự học hỏi và phỏng theo quy chế của Trung Hoa điều này bắt nguồn từ tâm
lý tự tôn, muốn sánh ngang với các triều đại phong kiến phương Bắc, điều này được
thể hiện rất rõ ràng từ việc các vua Đại Việt trong nước đều xưng đế chứ không
xưng vương, các triều đại khi lên đều đặt định phẩm phục và đặt định lễ nhạc theo
văn hóa Hoa Hạ, noi theo Trung Hoa. Khi ấy, Trung Hoa không chỉ là khái niệm chỉ
riêng các quốc gia ngự trị Trung nguyên, mà còn là một nền văn minh, một tài sản
chung không chỉ Việt Nam mà Hàn Quốc lẫn Nhật Bản đều học hỏi và phỏng theo.
Trong xã hội ngày nay, chúng ta đang dần hướng về với những căn cước văn
hóa của dân tộc, nỗ lực bảo tồn và phát triển giá trị truyền thống từ những trang
phục truyền thống của Việt Nam. Rất nhiều cô dâu ở Huế từng một lần khoác lên
mình chiếc áo Nhật Bình khi vái lạy bàn thờ tổ tiên trong ngày theo chồng, nhưng
ngày nay nhiều người đôi khi lại không biết đó là kiểu trang phục có tên rất hay và
in đậm giá trị của người Việt. Bởi vậy, bên cạnh việc phát triển những yếu tố xã hội
khác thì chúng ta cần phải lưu tâm phát triển, gìn giữ cho được giá trị riêng vốn có
của trang phục truyền thống Việt Nam nói chung và Nhật Bình nói riêng. Mang ình
ảnh cổ phục Việt Nam ngày càng đến gần hơn với thế hệ trẻ, giữ gìn những nét đẹp của văn hóa dân tộc.
Áo Nhật Bình chính là một trong những trang phục mang yếu tố để thể hiện cái
riêng, mang đậm chất dấu ấn cung đình của triều đại quân chủ cuối cùng của nước ta. 14
IV. So sánh mở rộng
Chúng tôi chủ yếu so sánh áo Nhật Bình với nguyên mẫu của nó - Áo Phi
Phong của nhà Minh. Sự khác biệt giữa hai loại áo này có thể thấy ở bảng dưới đây: NHẬT BÌNH PHI PHONG
Là áo Đối Khâm của thời
Nguyên mẫu là dạng áo Phi Minh (dạng áo có hai vạt trước Phong của Minh triều Trung Nguồn gốc
đặt song song nhau, thường để
Hoa được nhà Nguyễn phát buôngthõng), dân giancòngọi triển lên. áo tứ thân
Màu xanh thẫm, cổ áo, tay áo,
vạt áo hai bên và vạt áo dưới
Màu vàng chính sắc thêu 20 Lễ phục
chân màu đỏ thêu hoa văn rồng Y Phục
hình rồng phượng, loan, trĩ.
bay trong mây. Mặt trên thêu Hoàng bốn mươi cặp chim trĩ hậu
Màu vàng, hai cổ áo may đứng, Thường Màu trắng thêu rồng
ở giữa có ba cúc áo. Vạt sau dài phục phượng hơn vạt trước. Quy chế
Các vấn đề về hoa văn cổ
Phi Phong của Minh không có
áo, thêu ổ, màu sắc, người
quy định rõ về tiêu chuẩn may,
sử dụng, lễ tiết sử dụng đều
mặc cơ bản dạng thức áo. Có
được nhà Nguyễn quy định
thể pha tay ngũ sắc (Vốn là
rất rõ trong Điển chế. Chính phong cách của nhà Thanh), 15
những quy định về chế độ
Loan phượng ổ, viền cổ áo…
mũ áo này nó đã tạo ra các
miễn là không sai khác về kết
đặc điểm đặc trưng cho áo
cấu cơ bản, thì người Trung Nhật Bình.
Quốc vẫn gọi đó là Phi Phong.
Có thể nói, nếu xét về cấu trúc của các trang phục cổ Việt Nam, áo Nhật Bình
và áo Phi Phong hầu như không có sự khác biệt. Nhận định trên có những lý giải sau:
Về mặt nguồn gôc, Nhật Bình vốn dĩ là áo Phi Phong của Minh triều Trung
Hoa được nhà Nguyễn phát triển lên. Cấu tạo cơ bản nó theo sát Phi Phong Minh và Thanh.
Về mặt kết cấu may mặc, có thể khẳng định bắt đầu từ thời kì Bắc thuộc, các
dạng thức may mặc của ta đều có sự học hỏi nhất định văn hóa phương Bắc.
Các dạng áo như giao lĩnh, viên lĩnh, vân vân và mây mây khác trong đó có
Nhật Bình đều dựa trên kết cấu may mặc từ phương Bắc để phát triển.
Áo Nhật Bình được nhà Nguyễn phát triển lên theo hướng “Đại đồng tiểu dị”,
vốn bản chất cái giống đã lớn. Bởi vậy, nếu giản lược hóa các họa tiết Nguyễn để áo
trở nên thanh cảnh hơn, sẽ vô tình đưa nó về giản tinh yếu nhất, sát với ban đầu. Mà
ban đầu của Nhật Bình thì ai cũng rõ, vốn là Phi Phong.
Thực tế, sự khác biệt lớn nhất giữa áo Nhật Bình và áo Phi Phong chính là ở
“Quy chế” (hay “Điển chế”) được nhà Nguyễn quy định. Tức là các vấn đề về hoa
văn cổ áo, thêu ổ, màu sắc, người sử dụng, lễ tiết sử dụng đều được nhà Nguyễn
quy định rất rõ trong Điển chế. Cái này Phi Phong của Minh - Thanh chắc chắn
không có ghi nhận. Chính những quy định về chế độ mũ áo này đã tạo ra các đặc
điểm đặc trưng về cả bên ngoài (hoa văn, thêu, màu sắc) và nội hàm, ý nghĩa bên
trong của Nhật Bình (tác dụng của áo, giá trị của áo) và làm nên sự khác biệt, bản
sắc cho áo Nhật Bình của Nguyễn triều. 16 KẾT LUẬN
1. Áo Nhật Bình nguyên mẫu là áo Phi Phong của Minh triều Trung Hoa được
nhà Nguyễn phát triển lên, là dạng áo Đối Khâm có cổ hình chữ nhật to bản,
dùng dây buộc 2 vạt áo. Áo Nhật Bình là Triều phục dành cho cung tần nhất,
nhị, tam, tứ giai và là Thường phục của hoàng hậu, công chúa.
2. Hoa văn in trên áo Nhật Bình chủ yếu có dạng hình tròn khép kín, bên trong
được thêu hình ảnh phượng ổ, loan ổ. Các hoa văn phụ phong phú hơn,
thường sẽ sử dụng những hình ảnh mang hàm ý tốt lành, cát tường. Trừ áo
Nhật Bình của Hoàng Hậu, các hoa văn còn được thay đổi và sắp xếp dựa
vào cấp bậc, vai vế của người mặc.
3. Phụ kiện mặc kèm Áo Nhật Bình rất đa dạng, thường thấy có thể kể đến: cúc
áo nạm vàng, dải thùy lưu, mũ, khăn vành, vòng tay, vòng cổ, trâm cài…
4. Theo thời gian, các quy tắc, điển chế về áo Nhật Bình ngày một tối giản và
dần phổ biến hơn trong dân gian chứ không còn chỉ giới hạn trong cung đình.
5. Áo Nhật Bình có ý nghĩa lịch sử và văn hoá sâu sắc, là trang phục mang đậm
dấu ấn cung đình của triều đại quân chủ cuối cùng của nước ta.
6. Áo Nhật Bình và nguyên mẫu Phi Phong về cơ bản là giống nhau, thứ làm
nên sự khác biệt chính là các Điển chế do Nguyễn triều quy định. 17 TÀI LIỆU THAM KHẢO (1) Tiếng Việt
1. Trần Quang Đức (2013), Ngàn năm áo mũ, Nxb. Thế giới & Cty Nhã Nam.
2. Khâm Định Đại Nam hội sự điển lệ.
3. Giữ áo dài Nhật Bình cho Huế - Đồng văn, Báo Thừa Thiên Huế.
4. Tổng hợp từ Đại Việt Phong Hoa, Theo dòng sử Việt. (2) Các trang mạng
1. https:/ khamphalichsu.com/ao-nhat-binh-n168.html
2. https:/ vhunter.vn/ao-nhat-binh/
3. https:/ youtu.be/K_AKHTgKzpY
4. https:/ hatvan.vn/gia-tri-lich-su-va-van-hoa-cua-ao-nhat-binh/ 18 19