













Preview text:
lOMoAR cPSD| 59904950 ĐẠI HỌC DUY TÂN
KHOA XÃ HỘI – NHÂN VĂN
Môn học: Cơ Sở Văn Hoá Việt Nam
ĐỀ TÀI: MÚA RỐI NƯỚC
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Ngọc Diễm Quỳnh
Nguyễn Thị Hương Quỳnh
Nguyễn Ngọc Anh Thư
Đặng Thị Minh Thư Bùi Lê Phương Thy Đinh Thanh Thuỷ Phan Thị Thuận
Nguyễn Đức Thắng Nguyễn Văn Thiện Ngô Hoài Thu
I. TỔNG QUAN VỀ NGHỆ THUẬT :
-Múa rối nước (hay còn gọi là trò rối nước) là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân
gian độc đáo, sáng tạo mang đậm nét truyền thống của nền văn minh nông nghiệp lúa
nước, ra đời cùng lúc với nền văn hóa Đại Việt.
-Múa rối nước truyền thống - Di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam :
+Văn hóa và di sản phản ánh niềm tin và khát vọng, bản sắc dân tộc, cách sống do cộng
đồng phát triển và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nói tới di sản văn hóa là
nói tới văn hóa, giá trị và truyền thống. Việc bảo tồn di sản văn hóa là vấn đề luôn cần
được chú trọng trên toàn cầu vì nó giữ cho sự toàn vẹn của các quốc gia, cộng đồng dân tộc và toàn nhân loại.
+Nghệ thuật múa rối nước là một loại hình nghệ thuật độc đáo, xuất phát từ đời sống,
văn hóa, xã hội vùng đồng bằng sông Hồng. Loại hình nghệ thuật này đã được đưa vào
danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, là niềm tự hào của dân tộc Việt. Có thể
nói, múa rối nước là loại hình sân khấu biểu diễn tổng hợp rất phù hợp với nhận thức
của đại chúng, các hình tượng nhân vật rối nước, nội dung các trò và tích trò rối nước,
những lời giáo trò đều có nền tảng văn hóa chung của dân tộc, song, cũng rất đa dạng,
phong phú, chứa đựng một kho tàng phong phú các kinh nghiệm xã hội, nhân sinh quan,
tập tục, chuẩn mực và nề nếp ứng xử trong cộng đồng. Múa rối nước có lịch sử hình
thành từ rất lâu đời, phát triển mạnh vào thời Lý - Trần (TK XI-XII). Lịch sử đã cho
thấy, nghệ thuật rối nước được hình thành chủ yếu ở khu vực đồng bằng sông Hồng -
cái nôi của nền văn minh cổ của dân tộc Việt Nam, là khu vực với nhiều sông, ngòi, hồ,
ao, gắn bó mật thiết với đời sống vật chất và tinh thần của cư dân trồng lúa nước. Hoạt
động của múa rối nước dân gian Việt Nam gắn với tín ngưỡng làng xã, vừa để lễ bái thờ
cúng thần linh, vừa để góp vui trong những dịp lễ, hội làng, ngày vui hay những ngày
Tết. Rối nước được hình thành từ tâm tư, tình cảm của người dân lao động, các tích trò
rối nước ngắn gọn, phản ánh một cách ước lệ nhưng chân thực cuộc sống lao động sản
xuất, miêu tả cuộc sống thường nhật ở làng quê vùng đồng bằng sông Hồng, tái hiện
niềm vui trong lao động, trong cuộc sống tình cảm lứa đôi, gia đình.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, múa rối nước vẫn duy trì và phát triển đến ngày nay.
Qua công trình của nhà nghiên cứu về văn hóa và âm nhạc cổ truyền Việt Nam - Trần
Văn Khê, người đọc có thể thấy các tiết mục rối nước đều thể hiện các khía cạnh lịch
sử văn hóa lâu đời, những khung cảnh sinh hoạt, tín ngưỡng văn hóa và lao động của
người nông dân Việt Nam trong nền văn minh lúa nước. Bằng các câu chuyện vui nhộn,
sôi động và hấp dẫn, những nghệ nhân múa rối nước truyền tải thông tin hình ảnh về
một cuộc sống bình dị, thể hiện những ước vọng giản đơn trong cuộc sống của cư dân
vùng đồng bằng sông Hồng xưa: các tiết mục thể hiện tình làng nghĩa xóm, tính cần cù
và tình yêu lao động, tinh thần lạc quan, sự sẻ chia - giúp đỡ nhau của người nông dân
(Quay tơ dệt cửi, Cày cấy, Thả lưới quăng chài, Chăn vịt, Chăn trâu thổi sáo, Câu ếch,
Chọi trâu, Quần nơm úp cá, Đu dây…); Các tiết mục về sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng
(Múa bát tiên, Múa rồng, Lân tranh cầu…); có những tiết mục thể hiện tinh thần hợp
tác, trách nhiệm, sự tương thân tương ái, tình yêu quê hương đất nước, ước mơ về cuộc
sống hạnh phúc, bình yên (Ngày hội xuống đồng, Lễ hội làng tôi, Sự tích Hồ Gươm, Rước kiệu…). 1. Nguồn gốc :
Múa rối nước xuất hiện từ thời Lý (thế kỷ XI), bắt nguồn từ các lễ hội làng quê, nơi
nông dân sáng tạo ra hình thức này để giải trí sau mùa vụ. Ban đầu, các buổi diễn thường
tổ chức tại ao, hồ, sân đình, sau đó phát triển thành nghệ thuật sân khấu chuyên nghiệp.
2. Sân khấu và kỹ thuật biểu diễn : •
Sân khấu: Mặt nước là sân khấu chính, phía sau có thủy đình (một gian nhà
nhỏdựng trên mặt nước) nơi nghệ nhân điều khiển rối. •
Cách điều khiển: Nghệ nhân đứng sau thủy đình, sử dụng hệ thống dây, sào và
máyrối ngầm dưới nước để điều khiển các con rối. •
Nhân vật và cốt truyện: Rối nước thường tái hiện các tích truyện dân gian, cảnh
sinhhoạt đời sống nông thôn hoặc truyền thuyết lịch sử như “Thạch Sanh”, “Trương Chi
– Mỵ Nương”, “Chú Tễu”…
3. Âm nhạc và lời thoại :
Múa rối nước đi kèm với dàn nhạc truyền thống gồm đàn bầu, đàn nguyệt, sáo, trống…
và các bài hát chèo hoặc dân ca Bắc Bộ. Nghệ nhân thường không trực tiếp thoại mà
nhờ người dẫn chuyện hoặc ca sĩ dân gian.
4 .Những địa điểm nổi tiếng :
Một số nhà hát rối nước nổi tiếng ở Việt Nam:
• Nhà hát Múa rối Thăng Long (Hà Nội)
• Nhà hát Múa rối Việt Nam (Hà Nội)
• Nhà hát Múa rối nước Rồng Vàng (TP. Hồ Chí Minh) lOMoAR cPSD| 59904950
II. QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ Thời kỳ Lý-Trần
Múa rối nước là một loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo của Việt Nam, gắn liền với
nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, đặc biệt là ở các vùng đồng bằng Bắc Bộ. Múa rối
nước bắt đầu phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ Lý-Trần (từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14),
đây là một giai đoạn quan trọng trong lịch sử của loại hình nghệ thuật này.
Múa rối nước có nguồn gốc từ các lễ hội nông nghiệp và tín ngưỡng dân gian, phản ánh
cuộc sống và công việc của người nông dân. Thời kỳ Lý-Trần, nền văn hóa nông nghiệp
phát triển mạnh mẽ và sự thịnh vượng của đất nước đã tạo điều kiện cho các loại hình
nghệ thuật dân gian như múa rối nước phát triển..
Trong thời kỳ Lý (thế kỷ XI - XII), có thể nói rằng múa rối nước đã được phát triển và
phổ biến hơn ở các khu vực đồng bằng sông Hồng. Các triều đại Lý rất chú trọng đến
văn hóa dân gian và các lễ hội truyền thống, và múa rối nước có thể đã được tổ chức
trong các dịp lễ hội lớn.
Vào thời kỳ này, múa rối nước có thể được coi là một hình thức giải trí dân gian phục
vụ cho các sự kiện trong cộng đồng, thường được biểu diễn tại các lễ hội mùa màng, lễ
hội cầu mùa, hoặc lễ hội dân gian có liên quan đến các nghi thức thờ cúng thần linh, đặc
biệt là các vị thần bảo vệ mùa màng.
Thời kỳ Trần (thế kỷ XIII - XIV) tiếp tục phát triển các giá trị văn hóa truyền thống,
trong đó có múa rối nước. Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế và xã hội cũng tạo
điều kiện cho nghệ thuật này thăng hoa. Múa rối nước không chỉ có ở các vùng nông
thôn mà còn được biểu diễn tại các cung đình, đặc biệt là trong các dịp lễ hội lớn, các ngày hội văn hóa.
Thời kỳ Trần cũng chứng kiến sự ra đời của các làng nghề rối nước nổi tiếng, với các
nghệ nhân làm rối bằng gỗ và điều khiển chúng qua nước. Kỹ thuật điều khiển rối qua
nước ngày càng tinh vi và phức tạp hơn.
Múa rối nước trong thời kỳ Lý-Trần đã phát
triển và trở thành một phần quan trọng trong
nền văn hóa nghệ thuật dân gian của Việt
Nam. Từ những màn biểu diễn đơn
giản trong các lễ hội nông nghiệp, nó đã trở
thành một nghệ thuật độc đáo, phản ánh đời
sống, tín ngưỡng và tâm hồn của người dân Việt. Sự phát triển của múa rối nước trong
giai đoạn này đặt nền móng cho sự thịnh vượng của nghệ thuật này trong các thế kỷ sau.
Thời kỳ Lê – Nguyễn:
Đến thế kỷ XV và XVI, dưới sự trị vì của nhà Lê, múa rối không được sử dụng phục vụ
cung đình do nhà Lê chuộng văn học. Thế nhưng, múa rối vẫn tiếp tục được phát triển
trong các hội hè, đình đám chốn làng quê, là thú vui tao nhã, nơi gửi gắm tinh thần của
những người dân lao động rát đỗi bình thường, giản dị. Mặc dù đã cùng với đất nước
trải qua nhiều biến thiên lịch sử từ thời Lê mạt tới Tây Sơn, múa rối nước vẫn không bị
mất đi những giá trị của nó. Trong các hội hè đình đám ở nông thôn, múa rối vẫn thịnh
hành và được nhân dân ưa chuộng. Không những thế, nghệ thuật độc đáo này còn có
ảnh hưởng tương đối sâu sắc đến các Nho sĩ đương thời, khi họ dùng múa rối nước làm
hình tượng văn học. Đó chính là sự tác động hai chiều, văn học ảnh hưởng đến nghệ
thuật rối, nghệ thuật rối cũng chi phối không nhỏ đến hình tượng của văn học đương thời.
Đến thời Nguyễn, do triều đình lại chú trọng phát triển Tuồng thành nghệ thuật cung
đình, nên nghệ thuật rối nước lại tiếp tục ẩn mình nơi làng quê cùng với những người
nông dân chân chất, thuần hậu, và được tiếp tục phát triển, lưu truyền dưới dạng tự giác,
tự phát. Từ các thời đại trước, trật tự tổ chức múa rối đã được hình thành và được định
hình chắc chắn theo các phường hội. Các phường, hội thông qua việc tổ chức giao lưu,
so tài... múa rối mà nền nghệ thuật này vẫn được gìn giữ và phát triển cho đến ngày nay,
ngày càng độc đáo với nhiều kỹ thuật tinh tế nhưng vẫn giữ được cái “hồn cốt” của nghệ
thuật rối dân gian. Cùng với lịch sử của đất nước, múa rối nước bước vào giai đoạn
khủng hoảng khi thực dân Pháp tiến vào xâm lược nước ta nửa cuối thế kỷ XIX.
Đến đầu thế kỷ XX, triều đình Nguyễn trở thành bù nhìn, buôn dân bán nước dẫn đến
đời sống của nhân dân vô cùng khổ cực, đói nghèo và bị bóc lột đến tận cùng. Khi mà
đời sống vật chất không được đủ đầy, cái đói cái nghèo đang đe dọa đến sự sống của
mỗi người dân, họ không còn có thể chăm lo đến đời sống tinh thần, vui chơi, giải trí.
Do đó, múa rối nước cũng rơi vào thời kỳ trầm lắng, thậm chí bị xem thường và coi là
trò mua vui để câu khách. Tuy nhiên, nền nghệ thuật này không vì thế mà chết đi, với
những giá trị văn hóa, tinh thần mà nó mang lại, múa rối nước vẫn luôn duy trì một sự
sống âm thầm trong xã hội Việt Nam, trong tư tưởng của những nho sĩ yêu nước đương
thời mà chỉ cần có điều kiện, nó sẽ lại vực dậy sự sống mạnh mẽ vốn có. Hòa bình lập
lại, múa rối nước trở lại với những giá trị vốn có của nó và tiếp tục phát triển mạnh mẽ.
Những sân khấu rối chuyên nghiệp chính thức ra đời, vừa có sự trau chuốt, mượt mà,
vừa giữ được nét mộc mạc, giản dị vốn có của nghệ thuật dân gian. Năm 1984, rối nước
vượt thoát ra khỏi phạm vi quốc gia để tiếp cận với bạn bè quốc tế như một đại diện tiêu
biểu cho sự độc đáo của văn hóa Việt Nam và ngày càng được biết đến rộng rãi.
Từ 1986 đến nay, khi đất nước bắt đầu công cuộc đổi mới, múa rối nước tiếp tục phát
triển và khẳng định giá trị văn hóa truyền thống và bản sắc dân tộc với bạn bè thế giới.
Làng múa rối nước truyền thống Đào Thục chính là một trong những minh chứng cho
sự phát triển nở rộ ấy của nghệ thuật rối nước. Mỗi năm, làng đều đón nhận rất nhiều
du khách đến tham quan và xem biểu diễn múa rối nước, đặc biệt là vào hai đợt đầu năm
và cuối năm. Điều đáng mừng là, những du khách tới xem không chỉ có người Việt mà
còn có rất nhiều du khách quốc tế. Dưới sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của các
phương tiện thông tin đại chúng, tin rằng, nghệ thuật múa rối nước sẽ không ngừng được
bạn bè quốc tế quan tâm và tìm hiểu. Và đối với chính mỗi người dân Việt Nam sẽ được
hiểu hơn về giá trị của nghệ thuật rối nước, thêm hiểu, thêm yêu nét văn hóa nghệ thuật đặc sắc này.
Múa rối nước là một loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo của Việt Nam, có lịch sử
hàng trăm năm. Từ năm 1986 đến nay, nghệ thuật múa rối nước đã có nhiều bước phát
triển quan trọng cả trong nước và quốc tế.
Giai đoạn từ năm 1986 đến nay: Sự phục hưng và phát triển
1. Thời kỳ đổi mới và khôi phục (1986 - 2000)
• Sau công cuộc Đổi mới (1986), nghệ thuật truyền thống, trong đó có múa rốinước,
được chú trọng bảo tồn và phát triển.
• Năm 1990, Nhà hát Múa rối Thăng Long (Hà Nội) chính thức thành lập, trởthành
đơn vị tiên phong trong việc quảng bá nghệ thuật múa rối nước chuyên nghiệp.
• Múa rối nước bắt đầu tham gia nhiều liên hoan nghệ thuật trong và ngoài nước.
2. Mở rộng ra thế giới (2000 - 2010)
• Các đoàn múa rối nước Việt Nam tham gia biểu diễn tại nhiều nước như Pháp,
Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc…
• Nhiều nhà hát và đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp được thành lập, bên cạnh Nhàhát
Múa rối Thăng Long còn có Nhà hát Múa rối Trung ương, Nhà hát Múa rối Hải
Phòng, Nhà hát Múa rối TP.HCM.
• Nhiều sáng tạo trong nội dung và kỹ thuật điều khiển rối được áp dụng để tăngtính hấp dẫn.
3. Hiện đại hóa và hội nhập quốc tế (2010 - nay)
• Múa rối nước được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cần đượcbảo tồn.
• Các chương trình biểu diễn định kỳ thu hút khách du lịch, đặc biệt tại Hà
Nội,TP.HCM và các điểm du lịch lớn như Hội An.
• Ứng dụng công nghệ mới vào trình diễn như hệ thống âm thanh ánh sáng hiệnđại,
kết hợp giữa múa rối nước và các loại hình nghệ thuật khác.
• Xuất hiện các nhóm rối nước tư nhân, mở rộng mô hình kinh doanh dịch vụ
dulịch kết hợp biểu diễn nghệ thuật.
Hiện nay, múa rối nước vẫn là một trong những nét đặc trưng văn hóa của Việt Nam,
đóng vai trò quan trọng trong việc giới thiệu bản sắc dân tộc ra thế giới.
III. Lí do hình thành : 1.
Nền văn minh lúa nước : Múa rối nước gắn liền với nền văn minh lúa nước
củangười Việt, nơi mà các hoạt động nông nghiệp chủ yếu diễn ra quanh các cánh đồng
lúa và hệ thống thủy lợi. Cảnh quan sống chủ yếu ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, với nhiều
sông, hồ và ao, đã tạo ra điều kiện tự nhiên thuận lợi cho nghệ thuật rối nước phát triển.
Các công việc như trồng lúa, đánh cá và sinh hoạt hằng ngày gắn liền với môi trường
nước, điều này đã ảnh hưởng sâu sắc đến cách thức tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí của người dân. 2.
Mục đích giải trí và tín ngưỡng: Ban đầu, múa rối nước được coi là một hoạt
độngdân gian giải trí trong các dịp lễ hội và các sự kiện cộng đồng. Làng xã vào các dịp
lễ hội hoặc sau những mùa vụ nông nghiệp căng thẳng thường tổ chức những buổi biểu
diễn múa rối nước để giải trí, thư giãn và mang lại sự vui vẻ cho mọi người. Bên cạnh
đó, một số vở diễn cũng mang yếu tố tín ngưỡng, phản ánh các nghi thức cầu mùa, cầu
mưa thuận gió hòa, hoặc các thần thoại, truyền thuyết dân gian liên quan đến thế giới tự nhiên. 3.
Sự phát triển trong các làng nghề thủ công: Các nghệ nhân làng nghề đã sáng tạo
ranhững con rối gỗ khéo léo, được điều khiển dưới nước bằng hệ thống dây và sào.
Nghệ thuật này dần dần phát triển trở thành một bộ môn nghệ thuật đặc sắc, kết hợp
giữa kỹ thuật điêu luyện và tính chất vui nhộn, sinh động của các nhân vật rối. Ngoài
ra, các yếu tố âm nhạc, nhạc cụ truyền thống, và các bài hát dân gian cũng được kết hợp
vào các tiết mục để tạo nên không khí sôi động. 4.Từ giải trí dân gian đến nghệ thuật
chuyên nghiệp: Múa rối nước bắt đầu từ một hình thức giải trí dân gian tự phát và dần
dần được các nghệ sĩ, đặc biệt là trong các nhà hát, chuyên nghiệp hóa. Đến thế kỷ 20,
múa rối nước trở thành một bộ môn nghệ thuật chính thức, được tổ chức tại các sân khấu
lớn như Nhà hát múa rối Thăng Long tại Hà Nội. Nguồn cảm hứng :
Tại một đất nước nông nghiệp với văn hóa lúa nước từ lâu đời, kết hợp với điều kiện tự
nhiên môi trường nhiệt đới và nguồn nước phong phú như Việt Nam, múa rối nước có
đủ các yếu tố thuận lợi để ra đời. Hơn nữa, bên cạnh trồng trọt và chăn nuôi, người nông
dân cũng có nhu cầu giải trí và tìm đến các hoạt động gắn kết cộng đồng như rối nước.
Cùng với đó, nguồn nước là yếu tố không thể thiếu đối với một cộng đồng nông nghiệp.
Nước luôn là yếu tố gần gũi, thân quen, quan trọng bậc nhất nhưng cũng chứa đựng cả
sự thiêng liêng. Có thể nói, nước chính là nguồn cảm hứng lớn trong việc sáng tạo ra
một loại hình nghệ thuật đặc sắc như múa rối nước.
IV. Ý NGHĨA CỦA MÚA RỐI NƯỚC
Múa rối nước là một loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo của Việt Nam, có lịch sử
hàng nghìn năm, gắn liền với đời sống văn hóa của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Ý nghĩa của múa rối nước có thể được hiểu theo nhiều khía cạnh:
1. Giá trị văn hóa và truyền thống
-Múa rối nước phản ánh đời sống lao động, sinh hoạt và tín ngưỡng của người dân Việt
Nam, đặc biệt là cư dân nông nghiệp.
-Các tích trò thường kể về những câu chuyện dân gian, truyền thuyết, ca ngợi đức tính
tốt đẹp của con người, như lòng hiếu thảo, sự thông minh, dũng cảm…
-Đây là một loại hình nghệ thuật mang tính tập thể, kết nối cộng đồng và bảo tồn giá trị
truyền thống qua nhiều thế hệ.
Múa rối không chỉ là một loại hình nghệ thuật giải trí mà còn mang giá trị văn hóa,
truyền thống, tín ngưỡng và giáo dục sâu sắc, góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc Việt Nam.
Đây là hình ảnh về một buổi biểu diễn múa rối nước truyền thống của Việt Nam. Các
con rối thể hiện nông dân, rồng và các sinh vật huyền thoại trên sân khấu nước, tạo nên
một cảnh tượng độc đáo và sống động.
2. Giá trị nghệ thuật
-Múa rối nước kết hợp giữa điêu khắc, hội họa, âm nhạc truyền thống (như chèo, tuồng)
và kỹ thuật điều khiển tinh tế.
-Sân khấu nước tạo ra hiệu ứng huyền ảo, làm tăng sự hấp dẫn và sinh động của các con rối.
-Nghệ nhân điều khiển rối phải có kỹ thuật cao để tạo nên những động tác linh hoạt,
truyền tải cảm xúc qua từng chuyển động.
3. Giá trị tâm linh và tín ngưỡng
-Múa rối không chỉ là một loại hình nghệ thuật giải trí mà còn gắn liền với các yếu tố
tâm linh và tín ngưỡng trong văn hóa dân gian Việt Nam. Từ xa xưa, nghệ thuật này
đã được xem như một nghi lễ mang ý nghĩa thiêng liêng, giúp kết nối con người với thế
giới tâm linh và cầu mong những điều tốt đẹp.
-Trước đây, múa rối nước thường được biểu diễn vào các dịp lễ hội, cúng tế thần linh để
cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.
-Một số trò diễn có yếu tố huyền bí, mang tính chất thờ cúng và gắn liền với các nghi lễ truyền thống.
-Múa rối không chỉ mang giá trị nghệ thuật mà còn có ý nghĩa sâu sắc trong tâm linh và
tín ngưỡng. Đây không chỉ là một hình thức giải trí mà còn là một nghi thức cầu an, thể
hiện niềm tin của người Việt vào thần linh, thiên nhiên và những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
4. Gìn Giữ Và Phát Huy Truyền Thống Dân Gian -
Múa rối nước là một phần quan trọng trong kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam.
Từxa xưa, các nghệ nhân dân gian đã sáng tạo ra hình thức múa rối đặc biệt này để kể
lại những câu chuyện dân gian, thần thoại, lịch sử và cuộc sống thường ngày của người
dân lao động. Những tích trò quen thuộc như "Chăn trâu thổi sáo," "Câu ếch," "Đấu
vật," "Đánh cá" hay những điển tích lịch sử như "Trần Hưng Đạo diệt giặc,"
"Thánh Gióng đánh giặc Ân" đều gắn liền với tâm hồn Việt. -
Sự tồn tại và phát triển của múa rối nước qua hàng thế kỷ là minh chứng cho
sứcsống bền bỉ của nghệ thuật truyền thống trong dòng chảy văn hóa dân tộc. Ngày nay,
dù có nhiều loại hình giải trí hiện đại, múa rối nước vẫn giữ được vị trí đặc biệt, là biểu
tượng của bản sắc dân tộc Việt Nam.
5. Tôn Vinh Văn Hóa Lúa Nước. -
Việt Nam là một quốc gia có nền văn minh lúa nước lâu đời, và múa rối nước
chínhlà sản phẩm tinh thần của nền văn hóa này. Không giống như các loại rối khác trên
thế giới, rối nước được trình diễn trên mặt nước – một yếu tố gắn bó mật thiết với cuộc
sống của người dân nông thôn Việt Nam. -
Các nghệ nhân xưa đã tận dụng ao làng, hồ nước, ruộng ngập nước để làm sân
khấubiểu diễn, biến những không gian quen thuộc của làng quê thành nơi thưởng thức
nghệ thuật. Ngay cả hình tượng chú Tễu, nhân vật chính trong nhiều vở rối nước, với
khuôn mặt vui tươi, nụ cười hóm hỉnh, cũng là hiện thân của tinh thần lạc quan, yêu đời
của người nông dân Việt Nam.
6. Thể Hiện Sự Khéo Léo Và Sáng Tạo Của Nghệ Nhân -
Múa rối nước đòi hỏi sự khéo léo, tinh tế và sáng tạo của nghệ nhân. Họ không
chỉphải làm ra những con rối gỗ đẹp mắt, có thể cử động linh hoạt, mà còn phải điều
khiển chúng sao cho sinh động, tự nhiên trên mặt nước. -
Người điều khiển rối (gọi là phường rối) đứng sau một tấm màn tre, điều khiển
con rối bằng hệ thống dây sào phức tạp dưới nước. Chuyển động của con rối không chỉ
đơn giản là di chuyển mà còn có thể lắc đầu, vẫy tay, bơi, múa, cưỡi ngựa, chèo thuyền…
sao cho giống thật. Điều này đòi hỏi sự tập luyện công phu, kỹ thuật điêu luyện và sự
phối hợp ăn ý giữa các nghệ nhân.
7. LÀ CẦU NỐI VĂN HÓA, QUẢNG BÁ HÌNH ẢNH VIỆT NAM RA THẾ GIỚI
Không chỉ được yêu thích trong nước, múa rối nước còn là một trong những loại hình
nghệ thuật đặc trưng được giới thiệu tại các sự kiện văn hóa quốc tế. Các đoàn nghệ
thuật Việt Nam đã đưa múa rối nước đến nhiều quốc gia, góp phần quảng bá bản sắc
văn hóa Việt và thu hút sự quan tâm của bạn bè quốc tế. Điều này không chỉ giúp du
khách hiểu hơn về văn hóa Việt Nam mà còn góp phần thúc đẩy du lịch và giao lưu
văn hóa giữa các quốc gia.
8. NGHỆ THUẬT THẨM MỸ GIÀU SỨC BIỂU CẢM
Những hình tượng rồng, chim phượng trong múa rối nước không chỉ mang ý nghĩa
biểu tượng mà còn được thể hiện sống động, giàu cảm xúc. Rồng có thể phun nước,
lượn vòng, chim phượng múa lượn tạo nên những gợn sóng đẹp mắt.Kỹ thuật điều
khiển con rối kết hợp chặt chẽ với nước, tận dụng sức đẩy và chuyển động uyển
chuyển để tạo hiệu ứng chân thực. Những động tác kéo dây, đẩy sào không chỉ là kỹ
thuật biểu diễn mà còn phản ánh sự khéo léo, tư duy sáng tạo của nghệ nhân.