









Preview text:
CƠ SỞ VĂN HOÁ VIỆT NAM  CÂU HỎI NGẮN 
Câu 1: Ngũ hành bao gồm những yếu tố nào? 
Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ 
Câu 2: 2 đặc trưng cơ bản của nông thôn Việt Nam?  -  Tính cộng đồng  -  Tính tự trị 
Câu 3: Đặc trưng môi trường sống của của văn hóa gốc nông nghiệp là gì? 
Địa hình: Sống ở khu vực đồng bằng (ẩm, thấp) thích hợp cho nghề nghiệp trồng  trọt 
Câu 4: Trong ứng xử với môi trường tự nhiên, văn hóa gốc du mục có đặc điểm gì? 
Coi thường, tham vọng chinh phục, chế ngự tự nghiên 
Câu 5: Thuật ngữ giáp ở miền Bắc có ý nghĩa gì? 
Giáp ở miền Bắc là một đơn vị cư trú của làng được tập hợp theo giới tính là nam  giới 
Câu 6: Kể tên 3 lễ tết trong mùa xuân của người Việt 
Tết Nguyên Đán (1.1 ÂL )  Tết Hàn Thực (3.3 ÂL)  Tết Thanh Minh (15.3 ÂL) 
Câu 7: Kể tên các màu tượng trưng cho các hành trong Ngũ hành  Kim – trắng  Mộc – xanh  Thủy – đen  Hỏa – đỏ  Thổ - vàng 
Câu 8: Theo cách phân loại về nghề nghiệp, tổ chức làng xã theo Phường nghĩa là  gì?     
Tổ chức nông thôn theo nghề nghiệp. Là tập hợp của những người cùng nghề 
nghiệp. Ví dụ: phường gốm, phường chài,... 
Câu 9: Nêu các đặc trưng của văn hóa?  Tính hệ thống  Tính lịch sử  Tính nhân sinh  Tính giá trị 
Câu 10: Nêu khái niệm văn hóa của Trần Ngọc Thêm? 
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng 
tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người 
với môi trường tự nhiên và xã hội của mình. 
Câu 11: Trong ứng xử với môi trường xã hội, văn hóa gốc du mục có đặc điểm gì? 
Độc tôn trong tiếp nhận, cứng rắn, hiếu thắng trong đối phó 
Câu 12: Nêu các đặc trưng của nghệ thuật thanh sắc Việt Nam?  4 đặc trưng:  -  Tính biểu trưng  -  Tính biểu cảm  -  Tính linh hoạt  -  Tính tổng hợp 
Câu 13: Kể tên 3 loại trang phục của phụ nữ Việt Nam? 
Áo dài; Áo tứ thân; Áo ngũ thân; Áo bà ba 
Câu 14: Nêu các chức năng của văn hóa theo giáo trình cơ sở Văn hóa Việt Nam  của Trần Ngọc Thêm?  - 
Chức năng tổ chức xã hội  -  Chức năng giáo dục  -  Chức năng giao tiếp  -  Chức năng điều chỉnh     
Câu 15: Cho biết trong ngũ hành, hành nào được đặt vào vị trí trung tâm?  Hành Thổ 
Câu 16: Trong đền tháp Chăm, bộ 3 gồm 3 tháp song song thờ 3 vị thần nào? 
3 vị thần: Brahma, Vishnu, Shiva 
Câu 17: Tại sao ở Việt Nam có các làng tên là Đặng Xá, Lê Xá....? 
Những người cùng dòng họ luôn muốn sống gần nhau từ đó hình thành nên đơn vị 
làng ( chỉ gồm một dòng họ): Đặng Xá, Lê Xá,.. 
Câu 18: Trong hệ đếm Can Chi, hệ Chi gồm bao nhiêu yếu tố? 
Hệ Chi gồm 12 yếu tố: Tý – Sửu – Dần – Mão – Thìn – Tỵ - Ngọ - Mùi – Thân –  Dậu – Tuất – Hợi 
Câu 19: Kể tên 3 vị phúc thần được người Việt thờ cúng trong nhà? 
Thổ công, Thổ địa, Thần tài, Táo quân 
Câu 20: Kể tên các hình thức tổ chức nông thôn Việt Nam?  - 
Theo huyết thống: gia đình và gia tộc  - 
Theo địa bàn cư trú: xóm và làng  - 
Theo nghề nghiệp và sở thích: phường và hội  - 
Theo truyền thống nam giới: giáp - 
Về mặt hành chính: thôn và xã 
Câu 21: Kể các đặc trưng của nghệ thuật hình khối Việt Nam?  3 đặc trưng:  -  Tính biểu trưng  - 
Tính biểu cảm - Tính tổng hợp 
Câu 22: 1 ví dụ về quy luật thành tố trong triết lý âm dương? 
Màu trắng so với màu đen thì dương, nhưng so với màu đỏ lại là âm. 
Câu 23: Những đặc trưng trong môi trường sống của cư dân nông nghiệp?  Đồng bằng (ẩm, thấp) 
Câu 24: 1 ví dụ về ứng dụng ngũ hành trong ẩm thực của người Việt là gì? 
Xôi ngũ sắc, bánh chưng,…     
Câu 25: Tổ chức làng theo Hội nghĩa là gì? 
Tổ chức làng theo Hội là tập hợp của những người có cùng sở thích, đam mê. Ví 
dụ: hội chơi lan, chơi chim 
Câu 26: Hãy cho biết hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình là biểu trưng cho đặc 
tính nào của nông thôn Việt Nam?  Tính cộng đồng 
Câu 27: Đặc trưng tư duy của văn hóa gốc du mục là gì? 
Thiên về tư duy phân tích và siêu hình, khách quan, lý tính và thực nghiệm 
Câu 28: Kể tên các hình thức tổ chức nông thôn Việt Nam?  Giống câu 20 
Câu 29: Câu này có nghĩa gì: “Nam di chu, Bắc di Mã”?  Có nghĩa là :  - 
Phương thức đi lại của người phương Nam là bằng thuyền -  Phương 
thức đi lại của người phương Bắc là bằng ngựa Câu 30: Nêu các đặc điểm 
tổng hợp của Phật giáo Việt Nam?  - 
Tổng hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng truyền thống.  - 
Tổng hợp giữa các tông phái Phật giáo.  - 
Tổng hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác.  - 
Kết hợp đạo và đời, từ xuất thế đến nhập thế.  TỰ LUẬN 
CÂU 1: Anh chị hãy trình bày đặc điểm loại văn hoá gốc nông nghiệp, gốc du mục. Tại 
sao ở VN lại có vấn đề trọng nam khinh nữ.  Tiêu chí  Văn hoá nông nghiệp  Văn hoá du mục  Đặc trưng Địa hình  Đồng bằng (ẩm, thấp)  Đồng cỏ (khô, cao)  gốc  Nghề chính  Trồng trọt  Chăn nuôi  Cách sống  Định cư  Du cư     
Ứng xử với môi trường tự 
Tôn trọng, sống hoà đồng  Coi thường, tham vọng,  nhiên  với thiên nhiên  chế ngự thiên nhiên  Lối nhận thức, tư duy 
Thiên về tổng hợp và biên 
Thiên về tư duy phân tích 
chứng; chủ quan, cảm tính  và siêu hình; khách quan,  và kinh nghiệm 
lý tính và thực nghiệm.  Tổ chức 
Các nguyên tắc tổ Trọng tình, trọng đức, trọng 
Trọng sức mạnh, trọng tài,  cộng  chức cộng đồng  văn, trọng phụ nữ  trọng võ, trọng nam  đồng  Cách thức tổ 
Linh hoạt, dân chủ và trọng 
Nguyên tắc và quân chủ,  chức cộng đồng  cộng đồng.  trọng cá nhân 
Ứng xử với môi trường xã hội Dung hợp trong tiếp nhận, 
Độc tôn tiếp nhận; cứng 
mềm dẻo, hiền hoà trong đối rắn; hiếu thắng trong đối  phó  phó 
CÂU 2: Anh chị hãy trình bày về triết lí âm dương. Phân tích món ăn của người Việt có 
ứng dụng triết lí âm dương   
Trình bày về Triết lí Âm Dương 
- Nguồn gốc: triết lý âm dương hình thành từ thực tiễn đời sống nông nghiệp lúa 
nước, quan tâm đến sự nảy nở của hoa màu và con người. Những mối quan tâm này của 
họ xuất phát từ mong muốn mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, gia đình đông đúc. 
Vì làm nông mang tính thời vụ rất cao nên cần phụ thuộc vào sức người và phụ thuộc 
vào thời tiết. Quan tâm đến sự sinh sôi nảy nở của hoa màu và con người là quan tâm 
đến hai cặp đối lập Mẹ - Cha, Đất – Trời 
- Hai quy luật của Triết lý âm dương  + 
Quy luật về Thành tố: Không có gì hoàn toàn âm hoặc hoàn toàn dương, trong âm 
có dương và trong dương có âm. 
Quy luật này cho thấy rằng việc xác định một vật là âm hay dương chỉ là tương đối, trong 
sự so sánh với một vật khác. Chính vì vậy mà với các cặp đối lập có sẵn (từ trái nghĩa), 
tức là có vật so sánh tiềm ẩn, thì việc xác định âm dương có thể thực hiện rất dễ dàng,     
còn với các vật đơn lẻ thì dễ sinh ra lúng túng. Từ đây suy ra hai hệ quả phục vụ cho việc 
xác định bản chất âm/dương của một đối tượng: 
Muốn xác định tính chất âm dương của một vật, trước hết phải xác định được đối tượng  so sánh 
Để xác định được tính chất âm dương của một vật, sau khi xác định được đối tượng so 
sanh thì còn phải xác định cơ sở so sánh: đối với cùng một cặp hai vật, với các cơ sở so 
sánh khác nhau sẽ cho ta những kết quả khác nhau. 
Ví dụ: một người nữ so với một người nam xét về giới tính là âm nhưng xét về tính cách  có thể lại là dương.  + 
Quy luật về quan hệ : Âm và dương luôn gắn bó mật thiết và chuyển hóa cho 
nhau: âm cự sinh dương, dương cực sinh âm. 
Chẳng hạn, ngày và đêm, nắng và mưa, nóng và lạnh,… luôn đổi chỗ cho nhau.  - 
Ứng dụng Triết lí âm dương của người Việt  + 
Triết lí âm dương trong tính cách của người Việt   
Như đã nói, triết lí âm dương là sản phẩm trừu tượng hóa từ ý niệm và ước mơ của 
cư dân nông nghiệp về sự sinh sản của hoa màu và con người.Từ hai cấp đối lập gốc 
“mẹ-cha” và “đất-trời” người xưa dần dần suy ra hàng loạt cặp đối lập như những thuộc 
tính của âm dương. Lối tư duy đó tạo nên ở người Đông Nam Á cổ đại một quan niêm 
lưỡng phân lưỡng hợp có phần chất phác và thô sơ về thế giới.   
Ở VN, Tư duy phân lưỡng hợp bộc lộ rất đậm nét qua khuynh hướng các cặp đôi ở 
khắp nơi: từ tư duy đến cách sống, từ các dấu vết cổ xưa đến những thói quen hiện đại: 
 Trên thế giới vậy tổ thường là các loài động vật cụ thể: chim ưng, đại bang, chó sói, 
bò,… thì vật tổ của người Việt là cặp đôi trừu tượng “Tiên – Rồng”.Những khái niệm 
truyền thuyết mang tính cặp đôi cũng gặp ở người Mường (chim Ây-cái Ứa), người Tày 
(Báo Luông -Slao Cái), người Thái (nàng Kè -tạo Cặp)...đó là những dấu vết của tư duy  âm dương thời xa xưa.  • 
Ở Việt Nam, mọi thứ thường đi đôi từng cặp theo nguyên tắc âm dương hài hòa: 
ông Đồng-bà Cốt, đồng Cô –đồng Cậu, đồng Đức Ông – đồng Đức Bà..      • 
Người Việt Nam còn nhận thức rõ về HAI QUY LUẬT của triết lí âm dương. 
Những quan niệm dân gian kiểu: "Trong rủi có may, trong họa có phúc"; "Chim sa, cá 
nhảy chớ mừng, Nhện sa, xà đón xin đừng có lo "... là sự diễn đạt cụ thể của quy luật 
"trong dương có âm" và "trong âm có dương" 
 Những nhận thức dân gian về quan hệ nhân quả kiểu: Sướng lắm khổ nhiều; Trèo cao 
ngã đau; Yêu nhau lắm, cắn nhau đau,…là sự diễn đạt cụ thể của quy luật “âm dương  chuyển hóa” 
Chính nhờ có lối tư duy âm dương từ trong máu thịt mà người Việt Nam có được triết lí 
sống quân bình: Trong cuộc sống gắng không làm mất lòng ai; trong việc ăn ở, gắng giữ 
sự hài hòa âm dương trong cơ thể và hài hòa với môi trường thiên nhiên... 
Triết lí quân bình âm dương được vận dụng không chỉ cho người sống mà ngay cả cho 
người chết: Trong chùa, hộ pháp có ông Thiện – Ông Ác, Trong các ngôi mộ cổ ở Lạch 
Trường TK III TCN được giosng theo Bắc - Nam 
Chính triết lí quân bình âm dương này tạo ra ở người Việt một khả năng thích nghi cao và 
mọi hoàn cảnh (lối sống linh hoạt), dù khó khăn đến đâu vẫn không chán nản. 
Người Việt Nam là dân tộc sống bằng tương lai (tinh thần lạc quan): thời trẻ khổ thì tin 
rằng về già sẽ sướng, suốt đời khổ thì tin rằng đời con mình sẽ sướng (Không ai giàu ba 
họ, không ai khó ba đời...).  + 
Triết lí Âm dương trong ẩm thực của người Việt 
Trong việc ăn, người Việt Nam đặc biệt chú trọng đến quan hệ biện chứng âm dương, 
bao gồm 3 mặt quan hệ hết sức mật thiết với nhau, đó là: bảo đảm hài hòa âm dương 
của thức ăn; bảo đảm sự quân bình âm dương trong cơ thể và bảo đảm sự cân bằng âm 
dương giữa con người với môi trường tự nhiên.  • 
Thứ nhất, bảo đảm hài hòa âm dương của thức ăn. Để tạo nên các món ăn có sự 
cân bằng âm dương, người Việt phân biệt năm mức âm dương của thức ăn theo 
ngũ hành, bao gồm: Hàn (lạnh, âm nhiều, hành thủy), Nhiệt (nóng, dương 
nhiều, hành hỏa), Ôn (ấm, dương ít, hành mộc), Lương (mát, âm ít, hành kim), 
Bình (trung tính, hành thổ).     
Khi chế biến thức ăn, phải tuân thủ nghiêm ngặt luật âm dương bù trừ và chuyển hóa 
khi kết hợp các loại lương thực, thực phẩm, gia vị với nhau tạo thành các món ăn có 
sự cân bằng âm – dương, thủy – hỏa. Chẳng hạn: rau răm là nhiệt (dương) được ăn 
với trứng lộn là hàn (âm) thì ngon miệng, dễ tiêu hóa.  • 
Thứ hai, bảo đảm sự quân bình âm dương trong cơ thể. Người Việt Nam sử 
dụng thức ăn như là các vị thuốc để trị bệnh. Theo quan niệm của người Việt 
Nam thì mọi bệnh tật sinh ra là do cơ thể bị mất quân bình âm dương, thức ăn 
chính là vị thuốc để điều chỉnh sự mất quân bình âm dương ấy, giúp cơ thể khỏi  bệnh. 
Vì vậy, nếu người bệnh ốm do quá âm cần phải ăn đồ ăn dương (đau bụng lạnh, uống 
nước gừng sẽ khỏi); ngược lại nếu người bệnh ốm do quá dương thì cần phải ăn đồ ăn 
âm (bệnh kiết lị, ăn trứng gà rang với lá mơ)…  • 
Thứ ba, bảo đảm sự quân bình âm dương giữa con người và môi trường. Người 
Việt Nam có tập quán ăn uống theo vùng khí hậu và theo mùa. Chẳng hạn, mùa hè 
nóng (nhiệt – hành hỏa) nên ăn các loại thức ăn hàn, lương (mát), có nước (âm – hành 
Thủy), có vị chua (âm) thì vừa dễ ăn, vừa dễ tiêu hóa, vừa giải nhiệt. Mùa đông lạnh 
(hàn – âm) thì nên ăn các loại thức ăn khô, nhiều mỡ (dương), như các món xào, rán,  kho… 
 Trong chế biến thức ăn, phải đảm bảo đủ ngũ chất gồm: bột, nước, khoáng, đạm, 
béo; đủ ngũ vị gồm: chua, cay, ngọt, mặn, đắng; đủ ngũ sắc gồm: trắng, xanh, vàng,  đỏ, đen. 
Trong cách ăn, phải ăn bằng cả năm giác quan. Mũi ngửi mùi thơm từ thức ăn; mắt 
nhìn màu sắc hài hòa của thức ăn được bày biện; lưỡi nếm vị ngon của thức ăn; tai 
nghe tiếng kêu giòn tan của thức ăn; tay cắn xé thức ăn (có những loại thức ăn dứt 
khoát phải ăn bằng tay mới ngon)   
Ứng dụng triết lí Âm dương trong ẩm thực của người VN 
CÂU 3: Tín ngưỡng phồn thực, Sùng bái tự nhiên    Tín ngưỡng phồn thực     
Tín ngưỡng phồn thực được coi là tín ngưỡng bản địa cổ truyền và là nét đặc trưng của 
cư dân nông nghiệp. Tín ngưỡng phồn thực với “phồn” có nghĩa là nhiều, “thực” là sinh 
sôi, nảy nở. Đây là tín ngưỡng thể hiện sự sùng bái, thiêng hóa sự sinh sản với ước vọng, 
niềm cầu mong về sự sinh sôi của tạo vật và con người. 
Sự sùng bái tín ngưỡng phồn thực được thể hiện chủ yếu qua các lễ hội nông nghiệp 
với 2 hình thức chính là thờ sinh thực khí (linga – yoni) và thờ hành vi giao phối. Về 
hình thức thờ sinh thực khí được biểu hiện qua việc người Việt thờ nõ – nường, thờ trầu 
cau, thờ cột đá tự nhiên, hang động, kẽ nứt trên núi,... Điều này được thể hiện rất rõ qua 
tục thờ Linga của người Chăm. Người Chăm quan niệm rằng Linga biểu tượng cho đặc 
tính dương, Yoni là biểu hiện của đặc tính âm và sự kết hợp Linga – Yoni được coi là 
biểu tượng cho sự sáng tạo của thần Siva và sự sinh sôi, phát triển. Vì thế, bộ phận kết 
hợp giữa sinh thực khí Linga – Yoni được đưa vào thờ trong tháp Chăm. Hay như ở 
người Mường, họ sẽ gắn vật tượng trưng cho sinh thực khí nam và nữ lên thân một cây 
cột ở gian trong cùng của ngôi nhà để thể hiện cầu mong âm dương giao hòa, vạn vật 
sinh sôi, con người khỏe mạnh và có cuộc sống đủ đầy. Bên cạnh đó, hình thức này còn 
được in dấu đậm nét qua một số các lễ hội thông qua các trò chơi, trò diễn xuất phong 
phú. Trong lễ hội Trò Trám hay còn gọi là lễ hội “Linh tinh tình phộc” của người dân 
huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, người dân Tứ Xã sẽ làm hai mô hình sinh thực khí 
nam và sinh thực khí nữa bằng gỗ mít. Hai “linh vật” này được gói trong dải khăn son, 
đặt trong một chiếc hòm sơn son rồi cất vào “ngăn bí mật” phía trên bàn thờ trong 
miếu. “Vật linh” này sẽ luôn được gĩn giữ cẩn thận và chiếc hòm son cũng sẽ được 
khóa kín, chỉ được mở ra vào đúng 0 giờ đêm ngày 11, rạng sáng 12 tháng Giêng. Lúc 
này, hai người được chọn sẽ cầm hai “vật linh” đập vào nhau 3 lần, diễn cảnh giao hợp 
trong tiếng hò reo của dân làng. 
Hình thức thờ hành vi giao phối cũng được biểu hiện chủ yếu qua các lễ hội dân gian 
của người Việt. Trong lễ hội làng Nối (Hưng Yên), người dân sẽ mang chày và cối ra 
giã theo nhịp câu xướng cổ: “cái này là cái gì, làm thế nào, làm thế này” và trai gái 
nhân lúc đó đùa nghịch nhau. Đó còn là trò múa với các điệu múa mô phỏng theo động 
tác tính giao của người Tày, Dao như điệu múa “tùng dí” trong hội đền Hùng. Thanh     
niên nam nữ sẽ múa từng đôi một, tay cầm biểu tượng cho sinh thực khí nam và sinh 
thực khí nữa, cứ mỗi khi nghe tiếng trống đánh tùng họ lại dí hai vật đó vào nhau. 
Ngoài ra, hình thức này còn được thể hiện qua những bức tượng mô phỏng lại hành vi 
giao phối ở một nhà mồ ở Tây Nguyên. Ở một số nơi, tín ngưỡng này được thể hiện tế 
nhị kín đáo thông qua các trò chơi nèm còn, kéo co, đánh đu, bắt chạch trong chum,  hát giao duyên,... 
Trải qua bao thăng trầm lịch sử, tín ngưỡng phồn thực vẫn còn để lại dấu ấn sâu sắc, 
đậm nét trong văn hóa Việt Nam. Tín ngưỡng này đã trở thành một thứ trầm tích trong  nền văn hóa Việt 
CÂU 4: Đặc trưng nghệ thuật thanh sắc    Tính tổng hợp  - 
Không có sự phân biệt các loại hình: Trong sân khấu truyền thống Việt Nam 
không có sự phân biệt các loại hình ca, múa nhạc – tất cả đồng thời trong một vở diễn. -
 Không phân biệt các thể loại: Sân khấu truyền thống Việt Nam là sự tổng hợp của mọi 
thể thơ, mọi loại văn, điệu hát, mọi phong cách ngôn ngữ. Tất cả được đan xen vào nhau 
như trong thực tế ngoài đời. Sân khấu truyền thống Việt Nam còn không phân biệt thể 
loại. Trong một vở diễn Việt Nam đồng thời có cả hai thứ: yếu tố hài thường trực với các 
vai hề mồi, hề gậy và những nhân vật không phải hề nhưng cũng thường xuyên gây  cười,… 
Ví dụ: Trong vở Quan Âm Thị Kính không có gì bi hơn là cuộc đời của Thị Kính nhưng 
cũng không có gì hài hơn nhưng cảnh Thị Mầu lên chùa tố Thị Kính làm Thị Mầu có bầu. 
Tất cả đan xen vào nhau như trong thực tế ngoài đời..