Báo cáo nghiên cứu xu hướng bảo hộ thương mại gần đây | Môn kinh tế vĩ mô

Trong nhiều thập kỷ qua, thương mại toàn cầu dựa trên lý thuyết về lợi thế so sánh, cho thấy, các quốc gia thường chỉ làm ra những mặt hàng mà mình có lợi thế so sánh cao nhất nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Lợi thế so sánh của mỗi nền kinh tế dựa vào các yếu tố như khoa học và công nghệ, khả năng sáng tạo, nhân công rẻ, nguyên liệu dồi dào. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem !

lOMoARcPSD| 46988474
Xu hướng bảo hộ thương mại thời gian gần đây
Trong nhiều thập kỷ qua, thương mại toàn cầu dựa trên lý thuyết về lợi thế so sánh, cho thấy, các
quốc gia thường chỉ làm ra những mặt hàng mà mình có lợi thế so sánh cao nhất nhằm đáp ứng
nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Lợi thế so sánh của mỗi nền kinh tế dựa vào các yếu tố như
khoa học và công nghệ, khả năng sáng tạo, nhân công rẻ, nguyên liệu dồi dào, thậm chí cả các
yếu tố mang tính can thiệp của chính quyền như chính sách bảo hộ, hàng rào thuế quan... Về bản
chất, đó là sự phân công lao động trong dây chuyền sản xuất toàn cầu.
Có thể thấy rằng, toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại tuy là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế thế giới nhưng do sự bất bình đẳng về lợi ích kinh tế giữa các quốc gia; giữa các khu vực, tầng
lớp, thành phần xã hội trong mỗi quốc gia đã dẫn đến xu hướng chống toàn cầu hóa và tự do hóa
thương mại. Với sự phát triển của khoa học và công nghệ, thương mại thế giới đã xuất hiện thêm
các hình thức thương mại hàng hóa, dịch vụ xuyên biên giới, “xóa nhòa biên giới quốc gia”, làm
giảm vai trò của các lợi thế so sánh trước đây. Vì vậy, một số quốc gia thúc đẩy các doanh nghiệp
dịch chuyển trở về nước mình nhằm gia tăng lợi ích của quốc gia mình. Nhiều chính phủ tuyên
bố ủng hộ tự do hóa thương mại, tôn trọng các nguyên tắc thị trường, phê phán chủ nghĩa bảo hộ
nhưng trên thực tế lại hành động ngược lại, kể cả áp dụng biện pháp can thiệp hành chính.
Bảo hộ thương mại là thuật ngữ kinh tế học, theo đó quốc gia áp đặt thuế nhập khẩu cao hoặc áp
dụng các hàng rào kỹ thuật (yêu cầu cao về chất lượng, vệ sinh, an toàn, lao động, môi trường,
xuất xứ...) đối với một hoặc một số mặt hàng (hay dịch vụ) mà mình có lợi thế để hạn chế nhập
khẩu, bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa (hay dịch vụ) của mình. Sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo
hộ trên thế giới
Theo Global Trade Alert (GTA), kể từ khủng hoảng tài chính năm 2008 đã có thêm 4.000 biện
pháp bảo hộ thương mại mới được áp dụng gồm: biện pháp phòng vệ thương mại, tăng thuế, rào
cản địa phương, trợ cấp phí xuất khẩu, và các phân biệt đối xử. Xu hướng bảo hộ trở nên rõ ràng
hơn so với những năm trước đó. Chỉ riêng trong 10 tháng đầu năm 2015, GTA đã ghi nhận 539
biện pháp bảo hộ, nhiều hơn so với 407 biện pháp bảo hộ trong cùng kỳ năm 2014 và 183 biện
pháp được triển khai trong 10 tháng đầu năm 2012.
Tại châu Âu, xu hướng bảo hộ thương mại thể hiện rõ nét nhất khi nước Anh tổ chức trưng cầu
dân ý (Brexit) vào năm 2016, và hiện đang đàm phán các thủ tục để rời EU, tạo ra các điều kiện,
cơ hội để nước Anh đàm phán thương mại song phương với các đối tác mới trên phạm vi toàn
thế giới.
Tại Mỹ, ngay từ khi tranh cử Tổng thống năm 2016, Ông Donald Trump luôn nêu ra khẩu hiệu
“Nước Mỹ trước hết”. Ngay sau khi nhậm chức, Tổng thống Donald Trump thực hiện chủ
trương, bất chấp những phản đối từ ngay trong nội bộ chính giới nước Mỹ và các đồng minh của
Mỹ. Ngày 23/1/2017, Tổng thống Donald Trump đã ký sắc lệnh rút Mỹ khỏi Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà Mỹ và 11 nước trong khu vực đã ký. Tiếp đó, ngày 17/5/2017,
Chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump đã chính thức gửi thông báo tới Quốc hôi nước này 
về kế hoạch đàm phán lại Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) ký kết với Canada và
Mexico. Đồng thời, Tổng thống Mỹ Donald Trump chủ trương đàm phán và thúc đẩy các hiệp
lOMoARcPSD| 46988474
định thương mại song phương thay vì đa phương nhằm phát huy lợi thế của Mỹ và gia tăng lợi
ích của Mỹ trong thương mại quốc tế; thúc đẩy xu hướng gia tăng bảo hộ và sẵn sàng tăng thuế
nhập khẩu đối với mặt hàng mà Mỹ có lợi thế để bảo vệ sản xuất trong nước.
Chỉ trong năm 2017, Mỹ đã khởi xướng 02 vụ việc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ (với pin
năng lượng mặt trời và máy giặt). Ngày 8/3/2017 (ngày 9/3 theo giờ Việt Nam), Tổng thống Mỹ
đã ban hành quyết định áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu thép và nhôm theo Mục 232 Đạo
luật Thương mại mở rộng năm 1962 (Trade Expansion Act) dưới hình thức tăng thuế nhập khẩu.
Cụ thể, một số sản phẩm thép và nhôm nhập khẩu vào Mỹ sẽ phải chịu mức thuế 25% với thép
và 10% với nhôm. Quyết định này của Mỹ sẽ có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày ký ban
hành. Lý do áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu thép và nhôm bằng chính sách tăng thuế nhập
khẩu được chính quyền Tổng thống Trump đưa ra là vì “an ninh quốc gia”.
Bảo hộ thương mại đã lên đến đỉnh điểm tính đến thời điểm hiện nay là xung đột thương mại Mỹ
- Trung Quốc chính thức nổ ra khi Quyết định của Chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump
áp thuế đối với các mặt hàng nhập khẩu trị giá 34 tỷ USD từ Trung Quốc, chủ yếu là máy móc,
thiết bị điện tử và công nghệ cao đã chính thức có hiệu lực từ ngày 6/7/2018 và Trung Quốc áp
dụng các biện pháp đáp trả. Hiện không ai có thể đoán chắc cuộc xung đột thương mại này sẽ
kéo dài bao lâu, cũng như mức độ tác động của nó.
Trung Quốc vốn được đánh giá là hưởng lợi từ thương mại tự do, cũng đang theo đuổi chính sách
giảm nhập khẩu từ các nước bằng các biện pháp bảo hộ những mặt hàng, sản phẩm sản xuất ở
trong nước. Đồng thời, Trung Quốc cũng rất chú trọng đến việc nâng cao chất lượng các mặt
hàng xuất khẩu, đảm bảo tính cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu nước này ra thị trường thế
giới.
Báo cáo về biện pháp thương mại của G20 cho thấy, từ trung tuần tháng 10/2015 đến trung tuần
tháng 5/2016, các nền kinh tế G20 đã áp dụng 145 biện pháp mới về hạn chế thương mại, trung
bình mỗi tháng áp dụng 21 biện pháp, nhiều hơn so với mức trung bình 17 biện pháp/tháng trong
giai đoạn 7 tháng trước đó, trong đó chủ yếu là các biện pháp chống bán phá giá. Đây cũng là
mức trung bình tháng cao nhất kể từ năm 2011, thời điểm ghi nhận những biện pháp hạn chế
thương mại đạt kỷ lục.
Hội nghị thượng đỉnh G7 và G7 mở rộng từ ngày 08-09/6/2018, tại Canada đã ra tuyên bố chung
khẳng định vai trò cốt yếu của hệ thống thương mại quốc tế dựa trên các quy định, nêu rõ sự cần
thiết của thương mại toàn cầu “tự do, công bằng và cùng có lợi”, đồng thời nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc đấu tranh chống lại chủ nghĩa bảo hộ. Các nhà lãnh đạo G7 cam kết hiện đại hóa
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sớm nhất có thể và “nỗ lực giảm các hàng rào thuế quan,
các hàng rào phi thuế quan và các khoản trợ cấp của chính phủ”. Tuy nhiên, Mỹ đã rút khỏi
Tuyên bố chung.
Sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ ở Việt Nam
Việt Nam là nước đang phát triển, xuất phát điểm thấp, nước ta phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu và
kêu gọi đầu tư, nên có rất ít các hình thức "hạn chế mậu dịch phi thuế quan " (đúng nghĩa) được
lOMoARcPSD| 46988474
áp dụng ở Việt Nam mà chủ yếu chúng ta áp dụng hàng rào thuế quan (đánh thuế cao các mặt
hàng cần hạn chế như ô tô chẳng hạn).
Về thuế quan: cùng với việc hội nhập ngày càng sâu và rộng và tham gia tích cực vào các tỗ
chức, diễn đàn mang tầm khu vực và quốc tế như: ASEAN, AFTA, WTO, APEC... Việt Nam đã
cam "kết cắt giảm đáng kể thuế quan nhằm tạo sự bình đẳng giữa hàng hóa sản xuất trong nước
và hàng hóa sản xuất ở nước ngoài. Nó thực sự đặt ra một thử thách vô cùng to lớn đối với nhà
sản xuất trong nước đặc biệt là những hàng hỏa có trình độ sản xuất chưa cao, chưa có nhiều
kinh nghiệm trong tham gia thương mại quốc tế trước sự tấn công ồ ạt của hàng hóa nhập khẩu.
Tuy nhiên, nó lại tạo sự cạnh tranh gay gắt, góp phần thanh lọc những nhà sản xuất làm ăn kém
hiệu quả và quan trọng hơn cả là mang lại lợi ích to lớn cho người tiêu dùng trong nước.
Việt Nam mới thoát khỏi nhóm nước có thu nhập thấp nhất thế giới đề trở thành quốc gia có thu
nhập trung bình. Vì vậy, việc tiêu thụ những hàng hóa xa xỉ phẩm: ô tô, mỹ phẩm, trang sức...
hay những hàng hóa có hại cho sức khỏe: rượu, thuốc lá... không được nhà nước khuyến khích
bởi nó gây ra sự lãng phí nguồn lực. Vì lý do đó mà nhà nước ban hành thuế tiêu thụ đặc biệt một
mặt hạn chế hàng hóa này nhập khẩu vào thị trong nước giảm lãng phí trong tiêu dùng của dân
chúng, một mặt nhằm bảo hộ cho sản xuất hàng hóa này ở trong nước tạo điều kiện cho sản xuất
hàng hóa này có cơ hội phát triển, mở ra triển vọng xuất khẩu, về trợ cấp: Nhằm góp phần thúc
đẩy xuất khẩu,Việt Nam đã áp dụng trợ cáp theo các hình thức khác nhau cho những mặt hàng
còn gặp khó khăn chưa tự đứng vững trên thị trường trong nước cùng như thị trường quốc tế.
Các biện pháp trợ cắp cụ thế là:
-Đối với sản phẩm gạo: Hỗ trợ lãi suất thu mua lúa gạo trong vụ thu hoạch, hỗ trợ lãi suát cho
doanh nghiệp xuất khẩu gạo, hỗ trợ lãi suất xuất khẩu gạo trả chậm, bù lỗ cho doanh nghiệp xuất
khẩu gạo, thường xuất khẩu.
- Đối với mặt hảng cà phê: Hoàn phụ thu, bù lỗ cho tạm trữ cà phê xuất khẩu, bù lỗ cho
doanh nghiệp xuất khẩu cả phê, hỗ trợ lãi suất tạm trữ, thường xuất khẩu.
- Đối với rau quả hộp: Hỗ trợ xuất khẩu cho dưa chuột, dứa hộp, thường xuất khẩu.
- Đối với thịt lợn: hỗ trợ lãi suất mua thịt lợn, bù lỗ xuất khẩu thịt lợn, thường xuất khẩu.
- Đường: Hỗ trợ giá, hỗ trợ giống mía, giảm thuế VAT 50%, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bù
chênh lệch tỷ giá , hỗ trợ lãi suất thu mua mía trong vụ thu hoạch, hỗ trợ phát triển vùng
mía nguyên liệu.
- Chè, lạc nhân, thịt gia súc gia cầm các loại, hạt tiêu, hạt điều: Thưởng theo kim ngạch
xuất khẩu.
- Sản phẩm, phụ tùng xe hai bánh gán máy: Thuế suất nhập khẩu ưu đãi theo tỷ lệ nội địa
hoá.
- Xe đạp, quạt điện: Ưu đãi vế tín dụng, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế
xuất khẩu, miễn thuế nhập khẩu linh kiện, phụ tùng, vật tư, thiết bị lẻ, hỗ trợ lãi suất, vay
vốn ngân hàng.
lOMoARcPSD| 46988474
- Tàu biển 11,500 tấn, động cơ đốt trong dưới 30 cv, máy thu hình màu, máy vi tính: Miễn
thuế nhập khẩu, Ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi vay vốn tín dụng
đầu tư phát triển của nhà nước, giảm tiền thuê đất.
- Sản phẩm phần mềm; ưu đãi về thuế suất thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế thu nhập
doanh nghiệp, ưu đãi về thuế giá trị gia tăng, miễn thuế xuất khẩu, miễn thuế nhập khẩu
nguyên vật liệu, ưu đãi về tín dụng, ưu đãi về sử dụng đất và thuê đất.
- Sản phẩm cơ khí: Ưu đãi vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
- Sản phẩm dệt may: vốn tín dụng ưu đãi, ưu đãi đầu tư, bảo lãnh của chính phủ, cấp lại
tiền sử dụng vốn để tái đầu tư, hỗ trợ kinh phí xúc tiến thương mại.
- Gốm sứ, đồ gỗ mỹ nghệ, mây tre lá: thường theo kim ngạch xuất khẩu.
- Hỗ trợ bằng tín dụng giúp cho nhà sản xuất có đủ điều kiện tài chính để mua hàng hóa
phục vụ sản xuất xuất khẩu.
Về rào cản kỹ thuật:
Việt Nam cho tới nay chưa áp dụng được biện pháp này trong bào hộ mậu dịch của mình bởi
thực tế nhiều chỉ tiêu kỹ thuật của Việt Nam vẫn còn thấp hơn nhiều so với mức chuẩn quốc tế
nên hàng hóa nhập khẩu dễ dàng đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật Việt Nam để ra do được
sản xuất với trình độ công nghệ cao đặc biệt là hàng hóa có xuất xứ từ những nước phát triển
như: Mỹ, Nhật.... Rào cản kỹ thuật của Việt Nam chủ yếu dùng để ngăn chặn những hàng hóa đã
gây nguv hiếm và bị phát hiện từ nước ngoài như: sữa nhiễm chất melamine gây nguy hiểm cho
thận hay rau quả của Nhật có nhiễm phóng xạ do động đất vừa qua,...
- Một thực trạng đáng buồn là tuy đi gia nhập WTO được gần 5 năm nhưng số lần Việt
Nam sử dụng quyền của mình để kiện các doanh nghiệp xuất khẩu nước ngoài là rất ít.
Một số khuyến nghị với Việt Nam
Việt Nam là nền kinh tế có độ mở lớn, đã đạt được những thành tựu quan trọng về phát triển kinh
tế trong quá trình mở cửa và hội nhập với kinh tế thế giới nhờ đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút đầu
tư nước ngoài, tích cực tham gia mạng lưới các hiệp định thương mại tự do đa tầng nấc. Trong
bối cảnh bảo hộ thương mại có xu hướng gia tăng trong thời gian tới, Việt Nam cần chuẩn bị,
nâng cao năng lực trong nước để ứng phó hiệu quả với những tác động tiêu cực từ các diễn biến
của thương mại quốc tế. Theo đó, một số vấn đề đáng lưu ý gồm:
Đối với Nhà nước
Một là, cần tăng cường tính chủ động đối với công tác phòng chống các vụ kiện phòng vệ thương
mại: Chính phủ cần tích cực triển khai đàm phán song phương, đa phương để nhiều nước thừa
nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường và không áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với
Việt Nam. Trên cơ sở rà soát tình hình sản xuất, xuất khẩu từng ngành hàng của Việt Nam và cơ
lOMoARcPSD| 46988474
chế chống bán phá giá của từng quốc gia, cơ quan chức năng cần lập danh mục các các ngành
hàng và các mặt hàng Việt Nam có khả năng bị kiện để có sự phòng ngừa tránh cần thiết. Bên
cạnh đó, các cơ quan hữu quan của Chính phủ cần phối hợp chặt chẽ với các hiệp hội trong nước,
đặc biệt là các doanh nghiệp lớn, nhằm kiểm soát kim ngạch xuất khẩu trong thời gian cơ chế
giám sát còn hiệu lực. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, ngay sau khi hạn ngạch được dỡ
bỏ, hàng dệt may Trung Quốc vào Mỹ, EU đều có xu hướng tăng mạnh, do đó các thị trường này
ngay lập tức tìm cách áp dụng hạn ngạch và áp thuế chống bán phá giá đối với hàng dệt may
Trung Quốc. Ngoài ra, cần xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin về thị trường xuất khẩu, luật thương
mại quốc tế, luật pháp liên quan đến bảo hộ mậu dịch của nước ngoài... và phổ biến, hướng dẫn
cho các doanh nghiệp các thông tin cần thiết nhằm tránh những sơ hở dẫn đến các vụ kiện.
Hai là, tăng cường đàm phán cấp Chính phủ trong giải quyết những tranh chấp thương mại: Việt
Nam cần có cách tiếp cận mềm dẻo, linh hoạt thông qua các kênh ngoại giao, tiếp xúc trực tiếp
nhằm chứng minh cho các đối tác và thế giới hiểu rõ năng lực sản xuất của Việt Nam, chứng
minh về giá thành cạnh tranh của sản phẩm, đảm bảo đầy đủ yếu tố thị trường, không phá giá,
không gian lận thương mại; Không nên đưa ra các biện pháp trả đũa bằng cách đánh thuế cao đối
với hàng hóa nhập khẩu công nghệ cao từ các quốc gia phát triển bởi các biện pháp này sẽ gây
thiệt hại trực tiếp cho nền kinh tế Việt Nam, làm tăng chi phí nhập khẩu cho nhà sản xuất và
người tiêu dùng Việt Nam.
Ba là, tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp kháng kiện trong khuôn khổ Tổ chức thương mại Thế
giới (WTO) để bảo vệ lợi ích quốc gia theo luật pháp quốc tế. Cơ quan chức năng xem xét thành
lập quỹ trợ giúp theo đuổi các vụ kiện để hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp kháng kiện;
Cung cấp cho các doanh nghiệp thông tin cần thiết về thủ tục kháng kiện, giới thiệu các luật sư
giỏi ở nước sở tại có khả năng giúp cho doanh nghiệp thắng kiện...
Bốn là, tăng cường kiểm soát chất lượng, xuất xứ, chống gian lận thương mại và có chế tài
nghiêm khắc đối với các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu vi phạm để đảm bảo uy tín của Việt
Nam trong quan hệ quốc tế.
Đối với các hiệp hội
Một là, cần tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực kháng kiện; tăng
cường các quy định về sự phối hợp, bảo vệ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp, tránh tình trạng cạnh
tranh không lành mạnh có thể gây ra các vụ kiện của nước ngoài.
Hai là, thiết lập cơ chế phối hợp trong tham gia kháng kiện và hưởng lợi khi kháng kiện thành
công để khuyến khích các doanh nghiệp tham gia kháng kiện.
Ba là, tổ chức cho các doanh nghiệp nghiên cứu thông tin về giá cả, định hướng phát triển thị
trường, những quy định pháp lý của nước sở tại về vấn đề bảo hộ mậu dịch... để các doanh
nghiệp kháng kiện có hiệu quả, giảm bớt tổn thất do thiếu thông tin.
Đối với các doanh nghiệp
Một là, đối với việc ứng phó với các biện pháp phòng vệ thương mại từ các nước: Để đối phó với
nguy cơ bị áp dụng các biện pháp này, các doanh nghiệp xuất khẩu cần: (i) Xây dựng chiến lược
lOMoARcPSD| 46988474
đa dạng hóa sản phẩm và đa phương hóa thị trường xuất khẩu để phân tán rủi ro, tránh tập trung
xuất khẩu với khối lượng lớn vào một thị trường vì điều này có thể tạo ra cơ sở cho các nước
khởi kiện bán phá giá. Theo đó, các doanh nghiệp cần chú trọng các thị trường lớn (Trung Quốc,
Nhật Bản..), thị trường mới nổi (Hàn Quốc, Úc..), thị trường mới (Trung Đông, Nam Phi...).
Bên cạnh đó cần tăng cường khai thác thị trường nội địa. (ii) Nâng cao nhận thức về nguy cơ bị
khiếu kiện tại các thị trường xuất khẩu và cơ chế vận hành của từng loại tranh chấp, nhóm thị
trường và loại mặt hàng thường bị kiện. (iii) Tính đến khả năng bị kiện khi xây dựng chiến lược
xuất khẩu để có kế hoạch chủ động phòng ngừa và xử lý khi không phòng ngừa được. (iv) Phối
hợp, liên kết với các doanh nghiệp có cùng mặt hàng xuất khẩu để có chương trình, kế hoạch đối
phó chung đối với các vụ kiện; sử dụng chuyên gia tư vấn và luật sư trong những tình huống cần
thiết; giữ liên hệ với các cơ quan quản lý nhà nước về thương mại để các cơ quan này bảo vệ
quyền lợi tốt hơn cho doanh nghiệp, kể cả việc đề nghị đàm phán các hiệp định có cam kết
không áp dụng, hoặc hạn chế áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa, bày tỏ quan điểm
đối với các nước áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hóa Việt Nam, yêu cầu bồi thường quyền
lợi thương mại khi nước khác áp dụng biện pháp tự vệ.
Hai là, đối với việc ứng phó với các biện pháp kỹ thuật của nước nhập khẩu: Đa số các biện pháp
kỹ thuật ở các thị trường được áp dụng một cách ổn định, thường xuyên và liên tục. Hàng hóa từ
tất cả các nguồn đều phải đáp ứng các điều kiện này. Vì vậy, về nguyên tắc, không có biện pháp
phòng tránh hay đối phó mà chỉ có biện pháp duy nhất là tuân thủ. Việc tuân thủ các biện pháp
này đòi hỏi những thay đổi quan trọng không chỉ với hàng hóa thành phẩm xuất khẩu mà cả quá
trình nuôi trồng, khai thác nguồn nguyên liệu, quy trình chế biến, đóng gói, vận chuyển sản
phẩm. Thực tế cho thấy, hàng rào kỹ thuật không đơn giản chỉ liên quan đến các tiêu chuẩn kỹ
thuật, mà còn bao gồm nhiều vấn đề khác như môi trường sinh thái, trách nhiệm xã hội, xuất xứ
hàng hoá... Chính vì vậy, đối với hàng hóa xuất khẩu, cần phải quan tâm từ khâu nguyên liệu đến
lúc tạo ra thành phẩm hoàn hảo, đủ tiêu chuẩn bán ra nước ngoài.
Các doanh nghiệp cần nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua các tiêu chí về kỹ thuật như áp
dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000; áp dụng bộ ISO 14000 bao gồm những vấn đề
lớn về môi trường như quản lý, đánh giá môi trường, đánh giá chu trình sản phẩm và các hoạt
động khác; áp dụng tiêu chuẩn HACCP đối với nhóm hàng thực phẩm đặc biệt là hàng thủy sản
nhập khẩu; áp dụng tiêu chuẩn SA 8000 với các yêu cầu về quản trị trách nhiệm xã hội do Tổ
chức Trách nhiệm xã hội quốc tế ban hành.
| 1/6

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46988474
Xu hướng bảo hộ thương mại thời gian gần đây
Trong nhiều thập kỷ qua, thương mại toàn cầu dựa trên lý thuyết về lợi thế so sánh, cho thấy, các
quốc gia thường chỉ làm ra những mặt hàng mà mình có lợi thế so sánh cao nhất nhằm đáp ứng
nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Lợi thế so sánh của mỗi nền kinh tế dựa vào các yếu tố như
khoa học và công nghệ, khả năng sáng tạo, nhân công rẻ, nguyên liệu dồi dào, thậm chí cả các
yếu tố mang tính can thiệp của chính quyền như chính sách bảo hộ, hàng rào thuế quan... Về bản
chất, đó là sự phân công lao động trong dây chuyền sản xuất toàn cầu.
Có thể thấy rằng, toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại tuy là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế thế giới nhưng do sự bất bình đẳng về lợi ích kinh tế giữa các quốc gia; giữa các khu vực, tầng
lớp, thành phần xã hội trong mỗi quốc gia đã dẫn đến xu hướng chống toàn cầu hóa và tự do hóa
thương mại. Với sự phát triển của khoa học và công nghệ, thương mại thế giới đã xuất hiện thêm
các hình thức thương mại hàng hóa, dịch vụ xuyên biên giới, “xóa nhòa biên giới quốc gia”, làm
giảm vai trò của các lợi thế so sánh trước đây. Vì vậy, một số quốc gia thúc đẩy các doanh nghiệp
dịch chuyển trở về nước mình nhằm gia tăng lợi ích của quốc gia mình. Nhiều chính phủ tuyên
bố ủng hộ tự do hóa thương mại, tôn trọng các nguyên tắc thị trường, phê phán chủ nghĩa bảo hộ
nhưng trên thực tế lại hành động ngược lại, kể cả áp dụng biện pháp can thiệp hành chính.
Bảo hộ thương mại là thuật ngữ kinh tế học, theo đó quốc gia áp đặt thuế nhập khẩu cao hoặc áp
dụng các hàng rào kỹ thuật (yêu cầu cao về chất lượng, vệ sinh, an toàn, lao động, môi trường,
xuất xứ...) đối với một hoặc một số mặt hàng (hay dịch vụ) mà mình có lợi thế để hạn chế nhập
khẩu, bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa (hay dịch vụ) của mình. Sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ trên thế giới
Theo Global Trade Alert (GTA), kể từ khủng hoảng tài chính năm 2008 đã có thêm 4.000 biện
pháp bảo hộ thương mại mới được áp dụng gồm: biện pháp phòng vệ thương mại, tăng thuế, rào
cản địa phương, trợ cấp phí xuất khẩu, và các phân biệt đối xử. Xu hướng bảo hộ trở nên rõ ràng
hơn so với những năm trước đó. Chỉ riêng trong 10 tháng đầu năm 2015, GTA đã ghi nhận 539
biện pháp bảo hộ, nhiều hơn so với 407 biện pháp bảo hộ trong cùng kỳ năm 2014 và 183 biện
pháp được triển khai trong 10 tháng đầu năm 2012.
Tại châu Âu, xu hướng bảo hộ thương mại thể hiện rõ nét nhất khi nước Anh tổ chức trưng cầu
dân ý (Brexit) vào năm 2016, và hiện đang đàm phán các thủ tục để rời EU, tạo ra các điều kiện,
cơ hội để nước Anh đàm phán thương mại song phương với các đối tác mới trên phạm vi toàn thế giới.
Tại Mỹ, ngay từ khi tranh cử Tổng thống năm 2016, Ông Donald Trump luôn nêu ra khẩu hiệu
“Nước Mỹ trước hết”. Ngay sau khi nhậm chức, Tổng thống Donald Trump thực hiện chủ
trương, bất chấp những phản đối từ ngay trong nội bộ chính giới nước Mỹ và các đồng minh của
Mỹ. Ngày 23/1/2017, Tổng thống Donald Trump đã ký sắc lệnh rút Mỹ khỏi Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà Mỹ và 11 nước trong khu vực đã ký. Tiếp đó, ngày 17/5/2017,
Chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump đã chính thức gửi thông báo tới Quốc hôi nước này ̣
về kế hoạch đàm phán lại Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) ký kết với Canada và
Mexico. Đồng thời, Tổng thống Mỹ Donald Trump chủ trương đàm phán và thúc đẩy các hiệp lOMoAR cPSD| 46988474
định thương mại song phương thay vì đa phương nhằm phát huy lợi thế của Mỹ và gia tăng lợi
ích của Mỹ trong thương mại quốc tế; thúc đẩy xu hướng gia tăng bảo hộ và sẵn sàng tăng thuế
nhập khẩu đối với mặt hàng mà Mỹ có lợi thế để bảo vệ sản xuất trong nước.
Chỉ trong năm 2017, Mỹ đã khởi xướng 02 vụ việc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ (với pin
năng lượng mặt trời và máy giặt). Ngày 8/3/2017 (ngày 9/3 theo giờ Việt Nam), Tổng thống Mỹ
đã ban hành quyết định áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu thép và nhôm theo Mục 232 Đạo
luật Thương mại mở rộng năm 1962 (Trade Expansion Act) dưới hình thức tăng thuế nhập khẩu.
Cụ thể, một số sản phẩm thép và nhôm nhập khẩu vào Mỹ sẽ phải chịu mức thuế 25% với thép
và 10% với nhôm. Quyết định này của Mỹ sẽ có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày ký ban
hành. Lý do áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu thép và nhôm bằng chính sách tăng thuế nhập
khẩu được chính quyền Tổng thống Trump đưa ra là vì “an ninh quốc gia”.
Bảo hộ thương mại đã lên đến đỉnh điểm tính đến thời điểm hiện nay là xung đột thương mại Mỹ
- Trung Quốc chính thức nổ ra khi Quyết định của Chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump
áp thuế đối với các mặt hàng nhập khẩu trị giá 34 tỷ USD từ Trung Quốc, chủ yếu là máy móc,
thiết bị điện tử và công nghệ cao đã chính thức có hiệu lực từ ngày 6/7/2018 và Trung Quốc áp
dụng các biện pháp đáp trả. Hiện không ai có thể đoán chắc cuộc xung đột thương mại này sẽ
kéo dài bao lâu, cũng như mức độ tác động của nó.
Trung Quốc vốn được đánh giá là hưởng lợi từ thương mại tự do, cũng đang theo đuổi chính sách
giảm nhập khẩu từ các nước bằng các biện pháp bảo hộ những mặt hàng, sản phẩm sản xuất ở
trong nước. Đồng thời, Trung Quốc cũng rất chú trọng đến việc nâng cao chất lượng các mặt
hàng xuất khẩu, đảm bảo tính cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu nước này ra thị trường thế giới.
Báo cáo về biện pháp thương mại của G20 cho thấy, từ trung tuần tháng 10/2015 đến trung tuần
tháng 5/2016, các nền kinh tế G20 đã áp dụng 145 biện pháp mới về hạn chế thương mại, trung
bình mỗi tháng áp dụng 21 biện pháp, nhiều hơn so với mức trung bình 17 biện pháp/tháng trong
giai đoạn 7 tháng trước đó, trong đó chủ yếu là các biện pháp chống bán phá giá. Đây cũng là
mức trung bình tháng cao nhất kể từ năm 2011, thời điểm ghi nhận những biện pháp hạn chế
thương mại đạt kỷ lục.
Hội nghị thượng đỉnh G7 và G7 mở rộng từ ngày 08-09/6/2018, tại Canada đã ra tuyên bố chung
khẳng định vai trò cốt yếu của hệ thống thương mại quốc tế dựa trên các quy định, nêu rõ sự cần
thiết của thương mại toàn cầu “tự do, công bằng và cùng có lợi”, đồng thời nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc đấu tranh chống lại chủ nghĩa bảo hộ. Các nhà lãnh đạo G7 cam kết hiện đại hóa
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sớm nhất có thể và “nỗ lực giảm các hàng rào thuế quan,
các hàng rào phi thuế quan và các khoản trợ cấp của chính phủ”. Tuy nhiên, Mỹ đã rút khỏi Tuyên bố chung.
Sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ ở Việt Nam
Việt Nam là nước đang phát triển, xuất phát điểm thấp, nước ta phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu và
kêu gọi đầu tư, nên có rất ít các hình thức "hạn chế mậu dịch phi thuế quan " (đúng nghĩa) được lOMoAR cPSD| 46988474
áp dụng ở Việt Nam mà chủ yếu chúng ta áp dụng hàng rào thuế quan (đánh thuế cao các mặt
hàng cần hạn chế như ô tô chẳng hạn).
Về thuế quan: cùng với việc hội nhập ngày càng sâu và rộng và tham gia tích cực vào các tỗ
chức, diễn đàn mang tầm khu vực và quốc tế như: ASEAN, AFTA, WTO, APEC... Việt Nam đã
cam "kết cắt giảm đáng kể thuế quan nhằm tạo sự bình đẳng giữa hàng hóa sản xuất trong nước
và hàng hóa sản xuất ở nước ngoài. Nó thực sự đặt ra một thử thách vô cùng to lớn đối với nhà
sản xuất trong nước đặc biệt là những hàng hỏa có trình độ sản xuất chưa cao, chưa có nhiều
kinh nghiệm trong tham gia thương mại quốc tế trước sự tấn công ồ ạt của hàng hóa nhập khẩu.
Tuy nhiên, nó lại tạo sự cạnh tranh gay gắt, góp phần thanh lọc những nhà sản xuất làm ăn kém
hiệu quả và quan trọng hơn cả là mang lại lợi ích to lớn cho người tiêu dùng trong nước.
Việt Nam mới thoát khỏi nhóm nước có thu nhập thấp nhất thế giới đề trở thành quốc gia có thu
nhập trung bình. Vì vậy, việc tiêu thụ những hàng hóa xa xỉ phẩm: ô tô, mỹ phẩm, trang sức...
hay những hàng hóa có hại cho sức khỏe: rượu, thuốc lá... không được nhà nước khuyến khích
bởi nó gây ra sự lãng phí nguồn lực. Vì lý do đó mà nhà nước ban hành thuế tiêu thụ đặc biệt một
mặt hạn chế hàng hóa này nhập khẩu vào thị trong nước giảm lãng phí trong tiêu dùng của dân
chúng, một mặt nhằm bảo hộ cho sản xuất hàng hóa này ở trong nước tạo điều kiện cho sản xuất
hàng hóa này có cơ hội phát triển, mở ra triển vọng xuất khẩu, về trợ cấp: Nhằm góp phần thúc
đẩy xuất khẩu,Việt Nam đã áp dụng trợ cáp theo các hình thức khác nhau cho những mặt hàng
còn gặp khó khăn chưa tự đứng vững trên thị trường trong nước cùng như thị trường quốc tế.
Các biện pháp trợ cắp cụ thế là:
-Đối với sản phẩm gạo: Hỗ trợ lãi suất thu mua lúa gạo trong vụ thu hoạch, hỗ trợ lãi suát cho
doanh nghiệp xuất khẩu gạo, hỗ trợ lãi suất xuất khẩu gạo trả chậm, bù lỗ cho doanh nghiệp xuất
khẩu gạo, thường xuất khẩu.
- Đối với mặt hảng cà phê: Hoàn phụ thu, bù lỗ cho tạm trữ cà phê xuất khẩu, bù lỗ cho
doanh nghiệp xuất khẩu cả phê, hỗ trợ lãi suất tạm trữ, thường xuất khẩu.
- Đối với rau quả hộp: Hỗ trợ xuất khẩu cho dưa chuột, dứa hộp, thường xuất khẩu.
- Đối với thịt lợn: hỗ trợ lãi suất mua thịt lợn, bù lỗ xuất khẩu thịt lợn, thường xuất khẩu.
- Đường: Hỗ trợ giá, hỗ trợ giống mía, giảm thuế VAT 50%, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bù
chênh lệch tỷ giá , hỗ trợ lãi suất thu mua mía trong vụ thu hoạch, hỗ trợ phát triển vùng mía nguyên liệu.
- Chè, lạc nhân, thịt gia súc gia cầm các loại, hạt tiêu, hạt điều: Thưởng theo kim ngạch xuất khẩu.
- Sản phẩm, phụ tùng xe hai bánh gán máy: Thuế suất nhập khẩu ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hoá.
- Xe đạp, quạt điện: Ưu đãi vế tín dụng, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế
xuất khẩu, miễn thuế nhập khẩu linh kiện, phụ tùng, vật tư, thiết bị lẻ, hỗ trợ lãi suất, vay vốn ngân hàng. lOMoAR cPSD| 46988474
- Tàu biển 11,500 tấn, động cơ đốt trong dưới 30 cv, máy thu hình màu, máy vi tính: Miễn
thuế nhập khẩu, Ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi vay vốn tín dụng
đầu tư phát triển của nhà nước, giảm tiền thuê đất.
- Sản phẩm phần mềm; ưu đãi về thuế suất thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế thu nhập
doanh nghiệp, ưu đãi về thuế giá trị gia tăng, miễn thuế xuất khẩu, miễn thuế nhập khẩu
nguyên vật liệu, ưu đãi về tín dụng, ưu đãi về sử dụng đất và thuê đất.
- Sản phẩm cơ khí: Ưu đãi vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
- Sản phẩm dệt may: vốn tín dụng ưu đãi, ưu đãi đầu tư, bảo lãnh của chính phủ, cấp lại
tiền sử dụng vốn để tái đầu tư, hỗ trợ kinh phí xúc tiến thương mại.
- Gốm sứ, đồ gỗ mỹ nghệ, mây tre lá: thường theo kim ngạch xuất khẩu.
- Hỗ trợ bằng tín dụng giúp cho nhà sản xuất có đủ điều kiện tài chính để mua hàng hóa
phục vụ sản xuất xuất khẩu. Về rào cản kỹ thuật:
Việt Nam cho tới nay chưa áp dụng được biện pháp này trong bào hộ mậu dịch của mình bởi
thực tế nhiều chỉ tiêu kỹ thuật của Việt Nam vẫn còn thấp hơn nhiều so với mức chuẩn quốc tế
nên hàng hóa nhập khẩu dễ dàng đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật Việt Nam để ra do được
sản xuất với trình độ công nghệ cao đặc biệt là hàng hóa có xuất xứ từ những nước phát triển
như: Mỹ, Nhật.... Rào cản kỹ thuật của Việt Nam chủ yếu dùng để ngăn chặn những hàng hóa đã
gây nguv hiếm và bị phát hiện từ nước ngoài như: sữa nhiễm chất melamine gây nguy hiểm cho
thận hay rau quả của Nhật có nhiễm phóng xạ do động đất vừa qua,...
- Một thực trạng đáng buồn là tuy đi gia nhập WTO được gần 5 năm nhưng số lần Việt
Nam sử dụng quyền của mình để kiện các doanh nghiệp xuất khẩu nước ngoài là rất ít.
Một số khuyến nghị với Việt Nam
Việt Nam là nền kinh tế có độ mở lớn, đã đạt được những thành tựu quan trọng về phát triển kinh
tế trong quá trình mở cửa và hội nhập với kinh tế thế giới nhờ đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút đầu
tư nước ngoài, tích cực tham gia mạng lưới các hiệp định thương mại tự do đa tầng nấc. Trong
bối cảnh bảo hộ thương mại có xu hướng gia tăng trong thời gian tới, Việt Nam cần chuẩn bị,
nâng cao năng lực trong nước để ứng phó hiệu quả với những tác động tiêu cực từ các diễn biến
của thương mại quốc tế. Theo đó, một số vấn đề đáng lưu ý gồm:
Đối với Nhà nước
Một là, cần tăng cường tính chủ động đối với công tác phòng chống các vụ kiện phòng vệ thương
mại: Chính phủ cần tích cực triển khai đàm phán song phương, đa phương để nhiều nước thừa
nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường và không áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với
Việt Nam. Trên cơ sở rà soát tình hình sản xuất, xuất khẩu từng ngành hàng của Việt Nam và cơ lOMoAR cPSD| 46988474
chế chống bán phá giá của từng quốc gia, cơ quan chức năng cần lập danh mục các các ngành
hàng và các mặt hàng Việt Nam có khả năng bị kiện để có sự phòng ngừa tránh cần thiết. Bên
cạnh đó, các cơ quan hữu quan của Chính phủ cần phối hợp chặt chẽ với các hiệp hội trong nước,
đặc biệt là các doanh nghiệp lớn, nhằm kiểm soát kim ngạch xuất khẩu trong thời gian cơ chế
giám sát còn hiệu lực. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, ngay sau khi hạn ngạch được dỡ
bỏ, hàng dệt may Trung Quốc vào Mỹ, EU đều có xu hướng tăng mạnh, do đó các thị trường này
ngay lập tức tìm cách áp dụng hạn ngạch và áp thuế chống bán phá giá đối với hàng dệt may
Trung Quốc. Ngoài ra, cần xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin về thị trường xuất khẩu, luật thương
mại quốc tế, luật pháp liên quan đến bảo hộ mậu dịch của nước ngoài... và phổ biến, hướng dẫn
cho các doanh nghiệp các thông tin cần thiết nhằm tránh những sơ hở dẫn đến các vụ kiện.
Hai là, tăng cường đàm phán cấp Chính phủ trong giải quyết những tranh chấp thương mại: Việt
Nam cần có cách tiếp cận mềm dẻo, linh hoạt thông qua các kênh ngoại giao, tiếp xúc trực tiếp
nhằm chứng minh cho các đối tác và thế giới hiểu rõ năng lực sản xuất của Việt Nam, chứng
minh về giá thành cạnh tranh của sản phẩm, đảm bảo đầy đủ yếu tố thị trường, không phá giá,
không gian lận thương mại; Không nên đưa ra các biện pháp trả đũa bằng cách đánh thuế cao đối
với hàng hóa nhập khẩu công nghệ cao từ các quốc gia phát triển bởi các biện pháp này sẽ gây
thiệt hại trực tiếp cho nền kinh tế Việt Nam, làm tăng chi phí nhập khẩu cho nhà sản xuất và
người tiêu dùng Việt Nam.
Ba là, tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp kháng kiện trong khuôn khổ Tổ chức thương mại Thế
giới (WTO) để bảo vệ lợi ích quốc gia theo luật pháp quốc tế. Cơ quan chức năng xem xét thành
lập quỹ trợ giúp theo đuổi các vụ kiện để hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp kháng kiện;
Cung cấp cho các doanh nghiệp thông tin cần thiết về thủ tục kháng kiện, giới thiệu các luật sư
giỏi ở nước sở tại có khả năng giúp cho doanh nghiệp thắng kiện...
Bốn là, tăng cường kiểm soát chất lượng, xuất xứ, chống gian lận thương mại và có chế tài
nghiêm khắc đối với các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu vi phạm để đảm bảo uy tín của Việt
Nam trong quan hệ quốc tế.
Đối với các hiệp hội
Một là, cần tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực kháng kiện; tăng
cường các quy định về sự phối hợp, bảo vệ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp, tránh tình trạng cạnh
tranh không lành mạnh có thể gây ra các vụ kiện của nước ngoài.
Hai là, thiết lập cơ chế phối hợp trong tham gia kháng kiện và hưởng lợi khi kháng kiện thành
công để khuyến khích các doanh nghiệp tham gia kháng kiện.
Ba là, tổ chức cho các doanh nghiệp nghiên cứu thông tin về giá cả, định hướng phát triển thị
trường, những quy định pháp lý của nước sở tại về vấn đề bảo hộ mậu dịch... để các doanh
nghiệp kháng kiện có hiệu quả, giảm bớt tổn thất do thiếu thông tin.
Đối với các doanh nghiệp
Một là, đối với việc ứng phó với các biện pháp phòng vệ thương mại từ các nước: Để đối phó với
nguy cơ bị áp dụng các biện pháp này, các doanh nghiệp xuất khẩu cần: (i) Xây dựng chiến lược lOMoAR cPSD| 46988474
đa dạng hóa sản phẩm và đa phương hóa thị trường xuất khẩu để phân tán rủi ro, tránh tập trung
xuất khẩu với khối lượng lớn vào một thị trường vì điều này có thể tạo ra cơ sở cho các nước
khởi kiện bán phá giá. Theo đó, các doanh nghiệp cần chú trọng các thị trường lớn (Trung Quốc,
Nhật Bản..), thị trường mới nổi (Hàn Quốc, Úc..), thị trường mới (Trung Đông, Nam Phi...).
Bên cạnh đó cần tăng cường khai thác thị trường nội địa. (ii) Nâng cao nhận thức về nguy cơ bị
khiếu kiện tại các thị trường xuất khẩu và cơ chế vận hành của từng loại tranh chấp, nhóm thị
trường và loại mặt hàng thường bị kiện. (iii) Tính đến khả năng bị kiện khi xây dựng chiến lược
xuất khẩu để có kế hoạch chủ động phòng ngừa và xử lý khi không phòng ngừa được. (iv) Phối
hợp, liên kết với các doanh nghiệp có cùng mặt hàng xuất khẩu để có chương trình, kế hoạch đối
phó chung đối với các vụ kiện; sử dụng chuyên gia tư vấn và luật sư trong những tình huống cần
thiết; giữ liên hệ với các cơ quan quản lý nhà nước về thương mại để các cơ quan này bảo vệ
quyền lợi tốt hơn cho doanh nghiệp, kể cả việc đề nghị đàm phán các hiệp định có cam kết
không áp dụng, hoặc hạn chế áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa, bày tỏ quan điểm
đối với các nước áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hóa Việt Nam, yêu cầu bồi thường quyền
lợi thương mại khi nước khác áp dụng biện pháp tự vệ.
Hai là, đối với việc ứng phó với các biện pháp kỹ thuật của nước nhập khẩu: Đa số các biện pháp
kỹ thuật ở các thị trường được áp dụng một cách ổn định, thường xuyên và liên tục. Hàng hóa từ
tất cả các nguồn đều phải đáp ứng các điều kiện này. Vì vậy, về nguyên tắc, không có biện pháp
phòng tránh hay đối phó mà chỉ có biện pháp duy nhất là tuân thủ. Việc tuân thủ các biện pháp
này đòi hỏi những thay đổi quan trọng không chỉ với hàng hóa thành phẩm xuất khẩu mà cả quá
trình nuôi trồng, khai thác nguồn nguyên liệu, quy trình chế biến, đóng gói, vận chuyển sản
phẩm. Thực tế cho thấy, hàng rào kỹ thuật không đơn giản chỉ liên quan đến các tiêu chuẩn kỹ
thuật, mà còn bao gồm nhiều vấn đề khác như môi trường sinh thái, trách nhiệm xã hội, xuất xứ
hàng hoá... Chính vì vậy, đối với hàng hóa xuất khẩu, cần phải quan tâm từ khâu nguyên liệu đến
lúc tạo ra thành phẩm hoàn hảo, đủ tiêu chuẩn bán ra nước ngoài.
Các doanh nghiệp cần nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua các tiêu chí về kỹ thuật như áp
dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000; áp dụng bộ ISO 14000 bao gồm những vấn đề
lớn về môi trường như quản lý, đánh giá môi trường, đánh giá chu trình sản phẩm và các hoạt
động khác; áp dụng tiêu chuẩn HACCP đối với nhóm hàng thực phẩm đặc biệt là hàng thủy sản
nhập khẩu; áp dụng tiêu chuẩn SA 8000 với các yêu cầu về quản trị trách nhiệm xã hội do Tổ
chức Trách nhiệm xã hội quốc tế ban hành.