



















Preview text:
  Câu hỏi ôn tập 
Môn: Văn hoá Việt Nam và hội nhập quốc tế 
Đề thi gồm 2 câu, câu 1 định nghĩa, câu 2 phân tích  1. 
Phân biệt khái niệm: văn hóa, văn minh, văn vật, văn hiến, bản sắc văn hóa. 
Nêu mối quan hệ giữa con người với văn hóa. Nêu đặc trưng và chức năng 
của văn hóa. Nêu các cơ sở định vị văn hóa Việt Nam.  1.1 Văn hóa 
1. Các định nghĩa miêu tả, trọng tâm đặt vào việc liệt kê tất cả những gì mà khái  niệm văn hóa bao hàm 
2. Các định nghĩa lịch sử, nhấn mạnh quá trình kế thừa xã hội, truyền thống. Các 
định nghĩa này dựa trên việc giả định về tính ổn định và bất biến của văn hóa, bỏ 
qua tính tích cực của con người trong quá trình phát triển và cải biến văn hóa 
3. Các định nghĩa chuẩn mực, coi văn hóa là các giá trị vật chất và xã hội của bất  kì nhóm người nào 
4. Các định nghĩa tâm lý học, nhấn mạnh vào quá trình thích nghi với môi trường, 
quá trình học hỏi, hình thành thói quen, lối ứng xử của con người “Tổng thể 
những sự thích nghi của con người với các điều kiện sinh sống của họ chính là  Văn hóa, hay văn minh” 
5. Các định nghĩa cấu trúc  • 
Văn hóa suy cho cùng là các phản ứng lặp lại ít nhiều có tổ chức của các thành  viên xã hội  • 
Văn hóa là sự kết hợp giữa lối ứng xử mà người ta học được và các kết quả 
ứng xử mà các thành tố của nó được các thành viên của xã hội đó tán thành 
và truyền lại nhờ kế thừa 
6. Các định nghĩa nguồn gốc “Với nghĩa rộng nhất của từ, văn hóa chỉ tổng thể 
những gì được tạo ra, hay được cải biến bởi hoạt động có ý thức hay vô thức 
của hai hay nhiều cá thể tương tác với nhau và tác động đến lối ứng xử của nhau” 
7. Định nghĩa của UNESCO: Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát 
sống động mọi mặt của cuộc sống đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang 
diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỉ, nó đã cấu thành nên 1 hệ thống các     
giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng 
định bản sắc riêng của mình 
Mối quan hệ giữa con người và văn hóa  
- Mối quan hệ giữa con người và văn hóa là một trong những mối quan hệ phức tạp 
và quan trọng nhất trong xã hội. Văn hóa không chỉ đơn thuần là sự tập hợp 
những phong tục tập quán, lễ nghi mà còn là hệ thống giá trị, niềm tin và các quy 
tắc ứng xử định hình cách con người sống và tương tác với nhau 
+ Con người thông qua các hoạt động lao động trong lịch sử tạo ra văn hóa + Văn 
hóa là cách mà con người định hình và nhận thức hành vi, văn hóa ảnh hưởng mạnh 
mẽ đến cách chúng ta nhìn nhận thế giới, suy nghĩ và hành động + Văn hóa cung 
cấp cho chúng ta những công cụ và phương tiện để tự phát triển và học hỏi thông 
qua hệ thống âm nhạc, nghệ thuật, giáo dục giúp chúng ta mở rộng tầm nhìn và kiến  thức 
+ Văn hóa tạo nên một mạng lưới, hệ thống đánh giá chung đối với xã hội mà nó tồn 
tại, thể hiện tính đồng nhất văn hóa cao của các cá thể tồn tại trong xã hội đó, xác 
định bản sắc văn hóa riêng của một cộng đồng một quốc gia 
+ Văn hóa không mang tính bất biến mà luôn được kế thừa, cải biến và phát triển 
theo thời gian, con người đóng vai trò yếu tố tích cực xúc tác cho sự phát triển của 
văn hóa trong thời đại mới 
+ Trong thế giới ngày nay, giao tiếp liên văn hóa trở nên ngày càng quan trọng, việc 
hiểu và tôn trọng sự đa dạng văn hóa ấy giúp con người dễ dàng hòa nhập, tiếp cận 
Đặc trưng của văn hóa 
- Văn hóa là cái để phân biệt con người với động vật, là đặc trưng riêng của xã hội  loài người 
- Văn hóa không được kế thừa về mặt sinh học mà phải thông qua học hỏi, giao  tiếp 
- Văn hóa là cách ứng xử đã được mẫu hệ 
Chức năng của văn hóa  
- Tổ chức xã hội: Văn hóa tạo ra hệ thống quy tắc chuẩn mực giá trị chung giúp 
con người sống hòa hợp trong cộng đồng, định hình giúp chúng ta tương tác với 
nhau, tôn trọng và xây dựng các mối quan hệ     
- Giáo dục: Văn hóa truyền đạt các kĩ năng, kiến thức, giá trị sống từ thế hệ này 
sang thế hệ khác. Nó giúp con người hiểu biết về thế giới xưng quanh, phát triển 
bản thân và đóng góp cho cộng đồng 
- Nhận thức và dự báo: Văn hóa cung cấp những cách thức để con người nghiên 
cứu, tìm tòi, hiểu biết về thế giới và từ đó đưa ra những dự đoán về những biến 
động xã hội trong tương lai -> Tìm ra phương pháp để thích ứng với thời đại mới  của xã hội 
- Thẩm mỹ: Văn hóa tạo ra những giá trị thẩm mỹ, làm đẹp cuộc sống và nâng cao 
tinh thần con người thông qua nghệ thuật, văn học, âm nhạc, kiến trúc 
- Giải trí: Văn hóa cung cấp những hoạt động giải trí, giúp con người thư giãn, 
giảm stress và tận hưởng cuộc sống 
- Kế tục và phát triển: Văn hóa không chỉ được kế thừa từ thế hệ trước mà còn 
không ngừng được sáng tạo, cải biến và phát triển, nó là cầu nối giữa quá khứ,  hiện tại và tương lai 
Cơ sở định vị văn hóa Việt Nam  - Địa – văn hóa  - Nhân học – văn hóa  - Tôn giáo 
- Giao lưu – Tiếp biến văn hóa 1. Địa – văn hóa: 
Việt Nam là 1 đất nước nằm trên địa bàn cư trú của người Bách Việt, khu vực này 
như 1 hình tam giác với cạnh đáy là sông Dương Tử (Trung Quốc) và đỉnh là vùng 
Bắc Trung Bộ Việt Nam. Ở phạm vi rộng hơn, đỉnh của khu vực văn hóa Việt Nam 
kéo dài tới tận vùng đồng bằng sông Mekong 
 “Dù rộng hay hẹp thì đặc trưng địa lý cố hữu của khu vực này vẫn là: Nhiệt độ, độ 
ẩm cao và có gió mùa” (Phạm Thái Việt, 2004) Các yếu tố đặc thù (mang tính khu  vực): 
+) Trồng lúa nước: Việt Nam có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc trồng lúa nước: 
mưa nhiều, hệ thống sông ngòi dày đặc, đất phù sa màu mỡ,.. Cây lương thực chủ 
đạo cũng là lúa nước - thứ không chỉ mang lại sự no đủ mà còn trở thành giá trị tinh 
thần cho người Việt (quần cư trị thủy,..).     
+) Sống định cư và hòa hợp với thiên nhiên: Khác với lối sống du mục, Việt Nam là 
1 đất nước nông nghiệp nên người dân phải sống định cư để chờ cây cối kết trái, thu 
hoạch (an cư lạc nghiệp). Do sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, nên người dân 
cũng có ý thức tôn trọng và sống hòa hợp với thiên nhiên 
+) Đề cao vai trò phụ nữ: Trong truyền thống Việt Nam, tinh thần quan trọng nhất 
là ngôi nhà, coi trọng cái bếp, mà cái bếp chính là của người phụ nữ, điều này đã 
được thể hiện qua việc: “Mẹ” thường là người quản lý kinh tế, tài chính của gia đình, 
là người giáo dục con cái,…: Phúc đức tại mẫu, lệnh ông không bằng còng bà,… 
+) Sùng bái mùa màng, sinh nở: Theo quan niệm của người Việt Nam, để duy trì đời 
sau, con người phải thực hiện sản xuất vật chất và con người (sinh nở). Do đó, ở 
những thế kỷ trước, hầu hết các gia đình đều có rất nhiều con, bởi tâm lý có nhiều 
con sẽ có nhiều nhân lực lao động, tạo ra nhiều của cải hơn. 
Các yếu tố riêng về bản sắc (những phẩm chất văn hóa độc đáo) 
+) Ứng xử mềm dẻo, khả năng thích nghi và chịu đựng cao: Với nền văn minh lúa 
nước, việc trông chờ vào hiện tượng tự nhiên là điều bắt buộc, chính điều này đã tạo 
nên cho ta lối ứng xử mềm dẻo (Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy. Khi 
đối phó với các cuộc xâm lược, Việt Nam cũng thể hiện chính sách ngoại giao mềm 
dẻo) Do ảnh hưởng của môi trường nước, người Việt cũng có khả năng thích nghi 
và chịu đựng cao bởi cuộc sống thường xuyên phải đối mặt với bão, lũ,.. +) Tính 
dung chấp cao: Tính dung chấp không đồng nghĩa với việc lai tạp và hỗn độn, nó là 
quá trình điều tiết và chọn lọc giữa các yếu tố ngoại lai và bản địa. Vì thế, nền văn 
hóa Việt Nam đã trở nên giàu có và phong phú như ngày hôm nay 
+) Không có các công trình kiến trúc đồ sộ (ngoại trừ hệ thống đê điều và thủy lợi): 
Do là vùng đất trẻ lấn biển nên không có kết cấu bền vững và cư dân của khu vực 
này thường sống chung với nước. Khi bão lũ kéo đến, sẽ kéo theo của cải, nhà cửa, 
tính mạng của con người. Chính cuộc sống bấp bênh và thời tiết khó lường ấy đã 
khiến cho nơi đây không thể xây dựng những công trình kiến trúc đồ sộ +) Tồn tại 
nhiều loại hình nghệ thuật gắn với sông nước: Gắn liền với văn minh lúa nước và 
lấn biển, các loại hình nghệ thuật của Việt Nam cũng sẽ phần nhiều gắn với sông 
nước: múa rối nước, đua thuyền,… 2. Nhân học – văn hóa:  Về mặt chủng:     
- Tộc người Việt (Kinh) là sự hòa hợp của nhiều tộc người sinh sống tại khu vực 
Đông Nam Á. Đây là một khối dân cư hùng hậu bao gồm nhiều tộc người với 
tên gọi chung là Bách Việt. Sau đó trong suốt thiên niên kỷ thứ nhất sau Công 
nguyên – còn gọi là thời kỳ Bắc thuộc, người Việt còn hòa huyết với chủng người 
Hán và một số chủng khác có nguồn gốc nằm sâu trong Trung Hoa đại lục.  Về mặt ngôn ngữ: 
- Ngôn ngữ phổ thông hiện nay (tiếng Việt – ngôn ngữ của dân tộc Kinh) là kết 
quả của quá trình hòa hợp các thổ ngữ của các dân tộc người trong cộng đồng 
Bách Việt và quá trình Hán hóa.  Ngôn ngữ Việt - Mường    Du nhập thêm văn hóa  Quá trình Hán hóa  ra đời  phương Tây  Gồm các thổ ngữ 
- Diễn ra trong giai đoạn  - Bổ sung thêm vốn từ  của người Việt Hòa 
Bắc thuộc => hấp thụ Hán  ngữ, đem lại cho tiếng  huyết 
ngữ để làm giàu và phát 
Việt diện mạo mới (đánh  Chung sống  triển 
dấu bằng sự ra đời của  Nhu cầu giao tiếp  VD: từ Hán Việt: phụ 
chữ quốc ngữ, cấu trúc 
Các yếu tố cơ bản cấu 
nữ ( 妇 女 家 庭 结 婚  ngữ pháp cũng như vốn  thành ngôn ngữ Việt –  từ vựng ổn định như  /fùnǚ/), gia đình  Mường là: Môn – Khơ  ngày nay)  (   /jiātíng/),  kết  Me – Tày – Thái.  VD: các từ mượn: pho  hôn ( /jiéhūn/),...  mát (phiên âm fromage  trong tiếng Pháp), ê kíp  (équipe /ekip/ trong  tiếng Pháp), va li (valize  /valiz/  trong  tiếng  Pháp),... 
 “Văn hóa Việt Nam là văn hóa tổng hợp, hỗn dung xét từ giác độ nhân học văn 
hóa.” (Phạm Thái Việt, 2004)  3. Tôn giáo: 
Có 3 quan điểm về tôn giáo ở Việt Nam:     
+ QD1: Việt Nam thuộc cộng đồng các quốc gia Phật giáo cùng với Lào, Campuchia, 
Thái Lan, Mianma. Phật giáo hay Đạo Phật là 1 hệ thống triết học bao gồm loạt các 
giáo lí, tư tưởng triết học cũng như tư tưởng cùng tư duy về nhân sinh quan, vũ trụ quan, 
Phật Giáo được du nhập vào Việt Nam từ Ấn Độ. Việt Nam, Campuchia, Thái Lan… 
cùng thuộc đồng bằng châu thổ sông Mekong nên có cùng sự ảnh hưởng về tôn giáo  với nhau 
+ QD2: Việt Nam nằm trong cộng đồng của các nước chịu ảnh hưởng của Nho giáo như 
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… Theo Wikipedia, Nho giáo hay còn gọi là đạo Nho 
là một hệ thống đạo đức, triết học xã hội, triết lí giáo dục và triết học chính trị do Khổng 
Tử đề xướng. Từ thế kỉ IV, Nho giáo lan rộng và rất phát triển ở các nước châu Á khác 
như Nhật Bản, Nhật Bản và Việt Nam. Việt Nam đã ảnh hưởng Nho giáo từ TQ do phải 
chịu nhiều năm dưới ách độ hộ của TQ. 
2 quan điểm trên là của các nhà nghiên cứu hiện nay 
+ QD3: Tôn giáo của Việt Nam mang tính tổng hợp – theo nguyên lí “tam giáo đồng 
nguyên” (Nho, Phật, Lão). Phật giáo giữ vai trò là cơ sở, chất “dung môi” để hòa trộn 
hai yếu tố còn lại (quan điểm của các học giả trong nước). Nho giáo được gọi là đạo 
Khổng ở Trung Quốc. Phật giáo ở Ấn Độ. Lão giáo còn gọi là Đạo giáo ở Trung Quốc. 
Theo wikipedia, Đạo giáo là 1 loại tôn giáo huyền bí tự nhiên, có nhiều điểm dị biệt với 
Nho giáo và Phật giáo. Cả 3 tôn giáo hòa hợp với nhau. Tuy nhiên, Phật giáo được sự 
đề cao hơn về giá trị tâm linh. 
=> Ở Việt Nam, việc định vị văn hóa dựa trên dấu hiệu tôn giáo là rất khó khăn, do 
thiếu tính thuần nhất về tín ngưỡng và tôn giáo. Do đó, việc sử dụng lí thuyết giao lưu 
– tiếp biến văn hóa để định vị trong trường hợp này là hết sức cần thiết 
4. Giao lưu – tiếp biên văn hóa 
Dưới giác độ giao lưu - tiếp biến, Văn hóa Việt Nam là kết quả của các cuộc gặp gỡ văn  hóa lớn trong khu vực. 
 Giao lưu với văn hóa Ấn: 
- Văn hóa Việt Nam giao lưu với văn hóa Ấn qua 2 phương thức: trực tiếp (lan tỏa 
tiên phát) qua đường biển Đông và gián tiếp (lan tỏa thứ phát) qua Văn hóa Bắc 
thuộc, Văn hóa Chăm Pa ở Trung Bộ và Óc Eo ở Nam Bộ.     
- Văn hóa Óc Eo ở Nam Bộ: được nhiều nhà nghiên cứu khẳng định là nền văn 
hóa được xây dựng trên cơ sở nền nông nghiệp lúa nước khá phát triển. Trên cơ 
tầng đó, các đạo sĩ Bà la môn từ Ấn Độ đã tổ chức một quốc gia mô phỏng theo 
mô hình Ấn Độ trên tất cả các mặt: tổ chức chính trị, thiết chế xã hội, đô thị hóa, 
giao thông, kĩ thuật công nghiệp cùng một hệ thống tôn giáo và các nền văn hóa  kèm theo. 
- Văn hóa Chăm Pa: Tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong đời sống người Chăm; 
nó được vật chất hóa qua điêu khắc và kiến trúc. Tháp Chăm là một loại hình 
kiến trúc cổ của văn hóa chăm pa và cũng là sự giao lưu của nền văn hóa này với 
văn hóa Ấn (Từ Phú Yên trở ra, toàn bộ tháp Chăm để thờ các vị thần trong hệ  thống Ấn Độ giáo). 
- Văn hóa Bắc thuộc: Trước khi văn hóa Ấn Độ tràn vào, văn hóa Việt đã định 
hình và phát triển. Những thế kỉ đầu công nguyên, châu thổ Bắc Bộ là địa bàn 
trung chuyển văn hóa Ấn. Các nhà sư từ Ấn Độ đi qua Luy Lâu (nay thuộc Bắc 
Ninh) để rồi tìm đường lên phương Bắc 
 Giao lưu với văn hóa Trung Hoa: 
- Văn hóa Trung Hoa giao lưu với Văn Hóa Việt Nam chủ yếu bằng con đường 
cưỡng chế (bị xâm lược, đô hộ, đồng hóa ). 
 Ví dụ cụ thể: Nho giáo được truyền vào Việt Nam theo sự đô hộ của phương Bắc. 
Nhà Hán cử quan sang Việt Nam truyền bá đạo Khổng. Nho giáo biểu hiện ở hệ tư 
tưởng tam cương ngũ thường, đề cao lễ nghĩa chính danh, đề cao vai trò người đàn 
ông (Tư tưởng trọng nam khinh nữ). Giao lưu với văn hóa Phương Tây: 
- Trong lịch sử, sự giao lưu này diễn ra chủ yếu thông qua các kênh: buôn bán 
đường biển; sự đô hộ của thực dân Pháp, và sau đó là đế quốc Mỹ (miền Nam  Việt Nam ). 
- Quá trình giao lưu và tiếp xúc giữa văn hóa Phương Tây và văn hóa Việt Nam 
trong lịch sử đã khiến diện mạo văn hóa Việt Nam thay đổi trên nhiều phương  diện: 
 Chữ Quốc ngữ: được hình thành bởi các tu sĩ trong quá trình truyền đạo 
Công giáo tại Việt Nam đầu thế kỷ 17. Dưới quy chế bảo trợ của Bồ Đào 
Nha, Franciso de Pina là nhà truyền giáo đầu tiên thông thạo tiếng Việt,     
ông đã bắt đầu xây dựng phương pháp ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái  Latinh 
- Từ sự hình thành của chữ Quốc ngữ, những từ ngữ mới dần được du nhập vào 
văn hóa Việt. Ví dụ “le savon” trong tiếng Pháp chính là “xà bông” hay như từ 
“crème” gọi là “kem”. 
- Ngày nay, giao lưu văn hóa với phương Tây đã có thêm nhiều hình thức mới 
như: ngoại giao, du học, di cư, hội nhập quốc tế, tham dự vào mạng truyền thông 
– liên lạc toàn cầu, ứng dục các chuyển mực kinh tế, xã hội, công nghệ mang  tính toàn cầu. 
 Ví dụ như việc du nhập của các loại hình âm nhạc mới vào Việt Nam như 
Pop, Rap, R&B,.. cũng chính là một sản phẩm của việc giao lưu với văn 
hóa Phương Tây qua nhiều hình thức mới mẻ.    1.2. Văn minh  • 
Định nghĩa: Văn minh thường được hiểu là trình độ phát triển của một xã hội, 
một nền văn hóa thể hiện qua các thành tựu về khoa học, công nghệ, kinh tế, xã  hội.  • 
Tính duy lý thể hiện ở mức độ tách khỏi giới tự nhiên của con người, được biểu 
đạt thông qua hệ thống các đồ vật xã hội (vật chất) và hệ thống các chuẩn mực,  các tri thức (tinh thần)  • 
Tính phổ biến thể hiện ở tình trạng, các cá thể trong cộng đồng văn hóa được xét 
đến đều hoạt động dựa trên các hệ thống nói chung (tính đồng nhất văn hóa cao) 
và những hệ thống chuẩn mực ấy có ảnh hưởng mạnh đến nền văn hóa khác    1.3. Văn hiến 
 Định nghĩa: Văn hiến là những giá trị tinh thần cao quý do người có tài đức chuyển  tải    1.4. Văn vật 
 Định nghĩa: Văn vật là truyền thống văn hóa tốt đẹp được thể hiện thông qua 1 đội 
ngũ nhân tài và hiện vật trong lịch sử   
1.5. Bản sắc Văn hóa     
- Bản sắc văn hóa là đặc trưng riêng biệt của một cộng đồng dân tộc, thể hiện qua 
ngôn ngữ, phong tục tập quán, tín ngưỡng, nghệ thuật,... chỉ tính đồng nhất mà 
mỗi cá thể trong một cộng đồng văn hóa phải có 
2. Phân tích quá trình, đặc điểm tiếp xúc và giao lưu văn hoá Ấn Độ trong lịch sử. 
Bài học rút ra từ quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa này. Nhận xét về quá 
trình hội nhập văn hoá ở Việt Nam hiện nay. 
Quá trình giao lưu văn hóa Ấn Độ - Việt Nam 
Giai đoạn hình thành và phát triển các vương quốc Chăm pa:  • 
Thế kỷ I - VII: Các vương quốc Chăm pa hình thành và phát triển mạnh mẽ ở  miền Trung Việt Nam.  • 
Ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Ấn Độ: Chữ viết, kiến trúc, điêu khắc, tôn 
giáo (Phật giáo, Hindu giáo) đều mang đậm dấu ấn Ấn Độ.  • 
Mỹ Sơn: Trung tâm tôn giáo và văn hóa của người Chăm, với những ngôi tháp 
Chàm tráng lệ, là minh chứng rõ nét cho sự giao thoa văn hóa. 
Giai đoạn Phật giáo phát triển ở Đại Việt:  • 
Thế kỷ VIII - XV: Phật giáo du nhập vào Đại Việt và phát triển mạnh mẽ, trở 
thành một trong những tôn giáo lớn.  • 
Ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống: Kiến trúc chùa chiền, tư tưởng Phật 
giáo thấm nhuần vào văn học, nghệ thuật, phong tục tập quán.  • 
Sự ra đời của các tông phái Phật giáo: Tiếp thu và phát triển Phật giáo, người 
Việt đã hình thành nên các tông phái Phật giáo riêng, mang đậm bản sắc dân tộc. 
Giai đoạn giao lưu suy giảm:  • 
Từ thế kỷ XVI: Với sự xuất hiện của các tôn giáo khác và những biến động lịch 
sử, ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ giảm dần.  • 
Tuy nhiên, di sản vẫn còn: Dấu ấn của văn hóa Ấn Độ vẫn còn lưu lại trong 
nhiều lĩnh vực của đời sống người Việt. 
Đặc điểm của quá trình giao lưu văn hóa  • 
Tính hòa bình: Giao lưu văn hóa Ấn Độ - Việt Nam chủ yếu diễn ra thông qua 
thương mại, truyền đạo, không có sự xâm lược quân sự.  • 
Tính đa dạng: Giao lưu không chỉ diễn ra trong lĩnh vực tôn giáo mà còn bao 
gồm nhiều lĩnh vực khác như nghệ thuật, kiến trúc, chữ viết.      • 
Tính hai chiều: Không chỉ văn hóa Ấn Độ ảnh hưởng đến Việt Nam mà văn hóa 
Việt cũng có những đóng góp vào sự phát triển của Phật giáo Ấn Độ.  • 
Tính bền vững: Mặc dù có những biến động lịch sử, ảnh hưởng của văn hóa Ấn 
Độ vẫn tồn tại và phát triển đến ngày nay. 
Bài học rút ra và liên hệ với hiện tại  • 
Mở cửa và giao lưu là yếu tố quan trọng: Sự giao lưu văn hóa đã giúp Việt 
Nam tiếp thu những tinh hoa của văn hóa các nước, làm giàu thêm bản sắc dân  tộc.  • 
Hòa nhập nhưng không hòa tan: Việt Nam đã tiếp thu những yếu tố tích cực 
của văn hóa Ấn Độ nhưng vẫn giữ gìn được bản sắc văn hóa riêng.  • 
Tính chủ động trong tiếp thu: Việt Nam không thụ động tiếp nhận mà đã có sự 
lựa chọn và sáng tạo, tạo nên những giá trị văn hóa mới. 
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay:  • 
Cơ hội: Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm từ Ấn Độ trong các lĩnh vực như 
phát triển kinh tế, văn hóa, du lịch.  • 
Thách thức: Bảo vệ bản sắc văn hóa trước sự tác động của quá trình toàn cầu  hóa. 
Để hội nhập thành công, Việt Nam cần:  • 
Xây dựng một nền văn hóa vững mạnh: Bảo tồn và phát huy những giá trị văn  hóa truyền thống.  • 
Chủ động tham gia vào các hoạt động giao lưu văn hóa quốc tế.  • 
Sử dụng có chọn lọc những tinh hoa văn hóa thế giới.  • 
Giáo dục thế hệ trẻ về ý thức bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. 
3. Phân tích quá trình, đặc điểm tiếp xúc và giao lưu văn hoá Việt - Trung trong lịch 
sử. Bài học rút ra từ quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa này. Nhận xét về 
quá trình này trong bối cảnh hiện nay. 
Quan hệ Việt - Trung là một trong những mối quan hệ quốc tế lâu đời và phức tạp nhất 
trong lịch sử Đông Á. Giao lưu văn hóa giữa hai nước diễn ra qua nhiều giai đoạn lịch 
sử, để lại những dấu ấn sâu sắc trong văn hóa của cả hai dân tộc. 
Giai đoạn tiền sử và sơ sử:      • 
Giao thương: Các cộng đồng cư dân ven biển hai nước đã có những giao thương 
buôn bán từ rất sớm, qua đó tạo điều kiện cho sự giao lưu văn hóa.  • 
Ảnh hưởng văn hóa Đông Sơn: Văn hóa Đông Sơn của người Việt cổ đã có 
những ảnh hưởng nhất định đến văn hóa các dân tộc ở phía Bắc, trong đó có  Trung Quốc. 
Giai đoạn Bắc thuộc:  • 
Đồng hóa văn hóa: Nhà Hán và các triều đại phong kiến phương Bắc khác đã 
thực hiện chính sách đồng hóa văn hóa đối với người Việt, nhằm xóa bỏ bản sắc  văn hóa của dân tộc.  • 
Tiếp thu có chọn lọc: Người Việt đã tiếp thu một phần văn hóa Trung Quốc, 
nhưng đồng thời cũng bảo tồn và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống  của dân tộc.  • 
Ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống: Chữ viết, luật pháp, kiến trúc, phong 
tục tập quán đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Trung Quốc. 
Giai đoạn độc lập:  • 
Giao lưu bình đẳng: Sau khi giành được độc lập, Việt Nam vẫn tiếp tục giao 
lưu với Trung Quốc, nhưng dưới hình thức bình đẳng hơn.  • 
Sự giao thoa văn hóa: Các triều đại phong kiến Việt Nam đã tiếp thu và phát 
triển những tinh hoa văn hóa Trung Quốc, đồng thời cũng có những đóng góp  cho văn hóa Trung Quốc.  • 
Hình thành bản sắc văn hóa riêng: Dù chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa 
Trung Quốc, nhưng văn hóa Việt Nam vẫn giữ được những nét đặc trưng riêng  biệt. 
Giai đoạn hiện đại:  • 
Biến động phức tạp: Quan hệ Việt - Trung trải qua nhiều biến động, có lúc hợp  tác, có lúc căng thẳng.  • 
Giao lưu văn hóa đa dạng: Giao lưu văn hóa diễn ra trên nhiều lĩnh vực như 
kinh tế, giáo dục, du lịch.  • 
Ảnh hưởng của toàn cầu hóa: Giao lưu văn hóa Việt - Trung ngày càng sâu 
rộng và đa dạng hơn dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa. 
Đặc điểm của quá trình giao lưu văn hóa Việt - Trung      • 
Tính lâu dài và sâu rộng: Giao lưu văn hóa Việt - Trung diễn ra liên tục trong 
suốt chiều dài lịch sử, ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống.  • 
Tính hai chiều: Cả Việt Nam và Trung Quốc đều có những đóng góp vào quá  trình giao lưu văn hóa.  • 
Tính phức tạp: Quan hệ Việt - Trung trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, có lúc 
hòa bình, có lúc xung đột.  • 
Tính chọn lọc: Người Việt đã tiếp thu những tinh hoa văn hóa Trung Quốc, đồng 
thời bảo tồn và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.  • 
Tính đa dạng: Giao lưu văn hóa diễn ra trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, giáo 
dục, văn hóa, nghệ thuật. 
Ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc đến Việt Nam  • 
Chữ viết: Chữ Hán được sử dụng làm chữ viết chính thức trong một thời gian  dài.  • 
Tôn giáo: Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo được du nhập và trở thành những tôn  giáo lớn của Việt Nam.  • 
Kiến trúc: Nhiều công trình kiến trúc Việt Nam mang đậm dấu ấn kiến trúc  Trung Quốc.  • 
Phong tục tập quán: Nhiều phong tục tập quán của người Việt có nguồn gốc từ  Trung Quốc.  • 
Tư tưởng: Nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng và đạo đức của người  Việt.  Bài học rút ra  • 
Giao lưu văn hóa là quá trình tất yếu: Không có nền văn hóa nào tồn tại một  cách cô lập.  • 
Tính chủ động trong tiếp thu: Việt Nam đã không bị đồng hóa hoàn toàn mà 
vẫn giữ được bản sắc văn hóa riêng.  • 
Hòa nhập nhưng không hòa tan: Việt Nam đã tiếp thu những tinh hoa văn hóa 
Trung Quốc nhưng vẫn giữ gìn được những giá trị cốt lõi của dân tộc.  • 
Lựa chọn và sáng tạo: Người Việt đã có sự lựa chọn và sáng tạo trong quá trình 
tiếp thu văn hóa, tạo nên những giá trị văn hóa mới. 
Nhận xét về quá trình này trong bối cảnh hiện nay     
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, quan hệ Việt - Trung tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, 
bên cạnh những cơ hội, cũng tồn tại không ít thách thức.  • 
Cơ hội: o Thúc đẩy hợp tác kinh tế, văn hóa, xã hội. o Học hỏi kinh nghiệm 
phát triển từ Trung Quốc. 
o Nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. 
 Thách thức: o Sự khác biệt về hệ tư tưởng, 
chính trị. o Cạnh tranh về kinh tế. o Nguy 
cơ mất bản sắc văn hóa. 
4. Phân tích quá trình, đặc điểm tiếp xúc và giao lưu văn hoá Việt Nam với văn 
hóa phương Tây trong lịch sử. Bài học rút ra từ quá trình giao lưu, tiếp 
biến văn hóa này. Nhận xét về quá trình này trong bối cảnh hiện nay. 
Quá trình tiếp xúc và giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và phương Tây đã diễn ra qua 
nhiều giai đoạn lịch sử, mỗi giai đoạn đều có những đặc điểm và tác động riêng biệt. 
Quá trình và đặc điểm tiếp xúc 
1. Giai đoạn đầu (thế kỷ XVI - XIX):  • 
Thương mại và truyền giáo: Người phương Tây, đặc biệt là người Bồ Đào Nha 
và Hà Lan, đến Việt Nam qua con đường thương mại và truyền giáo. Họ mang 
theo các sản phẩm như pha lê, vũ khí, và các loại gia vị  • 
Ảnh hưởng văn hóa: Sự tiếp xúc này đã mang lại những ảnh hưởng đầu tiên về 
văn hóa, như kiến trúc, trang phục, và ẩm thực. 
2. Giai đoạn thuộc địa (thế kỷ XIX - giữa thế kỷ XX):  • 
Pháp thuộc: Thời kỳ Pháp thuộc đã để lại dấu ấn sâu đậm trong nhiều lĩnh vực 
như giáo dục, kiến trúc, và pháp luật. Người Pháp xây dựng các công trình kiến 
trúc kiểu Pháp, mở trường học và giới thiệu hệ thống giáo dục phương Tây  • 
Tiếp biến văn hóa: Văn hóa Việt Nam tiếp nhận nhiều yếu tố từ văn hóa Pháp, 
nhưng cũng có sự chọn lọc và biến đổi để phù hợp với bản sắc dân tộc. 
3. Giai đoạn hiện đại (sau 1975):  • 
Hội nhập quốc tế: Sau khi đất nước thống nhất, Việt Nam mở cửa và hội nhập 
quốc tế, tiếp nhận nhiều yếu tố văn hóa từ các nước phương Tây thông qua các 
lĩnh vực như kinh tế, giáo dục, và công nghệ      • 
Đa dạng văn hóa: Sự giao lưu văn hóa ngày càng đa dạng và phong phú, với sự 
xuất hiện của nhiều trào lưu văn hóa mới từ phương Tây.  Bài học rút ra 
1. Chọn lọc và tiếp biến: Quá trình giao lưu văn hóa cần có sự chọn lọc, tiếp nhận 
những yếu tố tích cực và phù hợp, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân  tộc. 
2. Tôn trọng và học hỏi: Sự tôn trọng và học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn hóa giúp 
tạo ra sự hiểu biết và hợp tác bền vững. 
3. Sáng tạo và đổi mới: Tiếp nhận văn hóa mới không chỉ là sao chép mà còn cần sự 
sáng tạo và đổi mới để tạo ra những giá trị mới phù hợp với bối cảnh và nhu cầu của  xã hội. 
Nhận xét trong bối cảnh hiện nay 
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa Việt 
Nam và phương Tây vẫn tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Việt Nam cần tiếp tục duy trì sự cân 
bằng giữa việc hội nhập và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Điều này đòi hỏi sự linh 
hoạt và sáng tạo trong việc tiếp nhận và ứng dụng các yếu tố văn hóa mới, đồng thời 
giữ vững những giá trị truyền thống  1. Ẩm thực:  • 
Bánh mì: Đây là một ví dụ điển hình của sự tiếp biến văn hóa ẩm thực. Bánh mì 
Việt Nam được biến tấu từ bánh mì baguette của Pháp, kết hợp với các nguyên 
liệu địa phương như thịt, pate, rau sống, và nước sốt đặc trưng  • 
Cà phê sữa đá: Cà phê là một thức uống được người Pháp mang vào Việt Nam. 
Người Việt đã biến tấu thành cà phê sữa đá, một loại đồ uống phổ biến và đặc  trưng của Việt Nam  2. Kiến trúc:   
 Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn: Được xây dựng theo phong cách kiến trúc Gothic của 
Pháp, nhưng sử dụng vật liệu địa phương và có những điều chỉnh để phù hợp với  khí hậu Việt Nam   
Các biệt thự cổ ở Hà Nội và Sài Gòn: Nhiều biệt thự được xây dựng trong thời 
kỳ Pháp thuộc, kết hợp giữa kiến trúc Pháp và các yếu tố truyền thống Việt Nam      3. Giáo dục:   
 Hệ thống giáo dục: Trong thời kỳ Pháp thuộc, hệ thống giáo dục phương Tây được 
giới thiệu vào Việt Nam, với các trường học dạy theo chương trình của Pháp. Sau 
này, hệ thống này được tiếp biến và phát triển thành hệ thống giáo dục hiện đại  của Việt Nam    Ngôn ngữ: 
 Tiếng Việt hiện đại: Nhiều từ ngữ trong tiếng Việt hiện đại có nguồn gốc từ tiếng 
Pháp, như "ga" (gare), "bánh mì" (pain de mie), "cà phê" (café), v.v   
Những ví dụ này cho thấy sự linh hoạt và sáng tạo của người Việt trong việc tiếp 
nhận và biến đổi các yếu tố văn hóa ngoại lai để phù hợp với bản sắc và nhu cầu  của mình. 
Văn hóa phương Tây du nhập bằng hai con đường: truyền giáo và thương mại. Trong 
giai đoạn này, sự xâm nhập của văn hóa phương Tây mới chỉ dừng lại ở mức độ gây áp 
lực và can thiệp tạm thời vào nền chính trị của nhà nước phong kiến Việt Nam 
2.1.1. Giai đoạn từ đầu thế kỉ XVI - cuối thế kỉ XIX 
*Sự xuất hiện của Kitô giáo 
Kitô giáo là một nhánh chủ đạo của Thiên chúa giáo với trung tâm đầu não là 
Giáo Hội La Mã. Từ sau năm 1550 một số tu sĩ Đaminh đã vào Việt Nam truyền giáo, 
đến năm 1586 lại có thêm các tu sĩ dòng Phanxicô vào Việt Nam, nhưng việc truyền 
giáo kém hiệu quả vì vấn đề bất đồng ngôn ngữ. Nhờ các hoạt động truyền giáo của các 
giáo sĩ Bồ Đào Nha tại Đàng trong và Đàng ngoài, Kitô giáo đã dễ dàng xâm nhập vào 
Việt Nam hơn. Vào lúc mà chế độ phong kiến tại Việt Nam có sự sa sút trầm trọng, Phật 
giáo thì suy đồi và Nho giáo không bàn đến kiếp sau thì Kitô giáo đã có nhiều cơ hội 
để trở thành chỗ dựa tinh thần cho người dân. Vì vậy, Kitô giáo đã phát triển và lan 
truyền sâu rộng vào văn hóa Việt Nam. Sau bốn thế kỉ thì hiện nay Kitô giáo đã có chỗ 
đứng vững chắc trong xã hội Việt Nam với hơn 5 triệu tín đồ. 
*Sự ra đời của chữ Quốc Ngữ 
Hậu bán thế kỷ XVII các nhà truyền giáo người Tây Ban Nha, Ý, Pháp sang 
truyền giáo tại Việt Nam thì khó khăn họ gặp phải đầu tiên là vấn đề ngôn ngữ. Vì thế, 
với sự góp công to lớn của giáo sĩ Alexandre de Rhodes và một số giáo sĩ khác, họ đã     
dùng mẫu tự Latinh, có bổ sung thêm các dấu phụ để ghi âm tiếng Việt; và thứ chữ đó 
được gọi là chữ Quốc ngữ. Hơn nữa họ còn soạn nhiều cuốn từ điển như Việt – Bồ, Bồ 
– Việt, Việt – Bồ – La, nhờ đó người Việt có thể học chữ quốc ngữ dễ dàng hơn nhiều 
so với chữ Nôm trước đó. Vì dễ học, dễ nhớ nên chữ Quốc ngữ ngày càng được nhiều 
người học và nó đã góp phần rất lớn trong việc phổ cập giáo dục và nâng cao dân trí 
của người Việt Nam lúc bấy giờ. 
2.1.2 Giai đoạn từ nửa cuối thế kỉ XIX - giữa thế kỉ XX 
Đây là giai đoạn Pháp đã xâm chiếm được nước ta và tạo ra một bộ máy cai trị khá hoàn 
chỉnh từ trung ương đến địa phương và theo đó mang nền văn hóa phương Tây đậm 
chất thực dân vào Việt Nam  *Đô thị 
Vào thời điểm này ở Việt Nam đã xuất hiện hàng loạt các đô thị như: Hà Nội, 
Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng. Sự xâm nhập kinh tế tư bản đã làm thay đổi chức năng của 
đô thị Việt Nam, từ mô hình đô thị Trung đại với chức năng là trung tâm chính trị chuyển 
sang mô hình đô thị cận đại với chức năng trung tâm kinh tế công thương nghiệp là 
chính. Các đô thị phát triển nhanh chóng và có cơ sở vật chất tiên tiến, với các cửa hàng, 
trung tâm vui chơi giải trí, công ty nước ngoài, nhà hát lớn,...Không những vậy đô thị 
còn là trung tâm văn hóa - chính trị quan trọng. Hà Nội trở thành trung tâm chính trị 
của cả Đông Dương và xứ Bắc kỳ. Các trụ sở hành chính thuộc bộ máy chính quyền 
thực dân được dựng lên giữa lòng Hà Nội 36 phố phường xưa. Nhiều dinh thự, biệt 
thự,nhà xây cao tầng mọc lên đồ sộ như phủ Toàn quyền Đông Dương, phủ Thống sứ 
Bắc kỳ, sở Tư pháp, sở Công chính Đông Dương, sở y tế Đông Dương.  *Giao thông 
Xuất hiện nhiều hệ thống đường giao thông hiện đại như đường sắt, đường bộ, 
đường hàng không nối liền các trung tâm khai thác với đô thị tỏa ra khắp nông thôn, 
phục vụ cho việc chuyên chở hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Trong giai đoạn 
này đã xuất hiện nhiều tuyến đường sắt và phương tiện giao thông hiện đại như ô tô vận 
tải, xe taxi. Không những vậy, nhiều con đường đã được hình thành đặc biệt là con 
đường huyết mạch nối liền 3 xứ: Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ dài hơn 2.000 km gọi là 
đường thuộc địa số 1. Đường thuỷ khai thông các hệ thống sông lớn: sông Hồng, sông 
Hậu, sông Thái Bình, sông Đồng Nai. Các tàu thuỷ lớn, sà lan đã chạy trên các tuyến     
sông, trong đó có nhiều tàu chạy bằng đầu máy hơi nước. Đường hàng không được xây 
dựng và đưa vào hoạt động như đường Hà Nội - Huế (1919), Hà Nội - Tây Nguyên 
(1929) và Hà Nội - Điện Biên (1930)5. Sự phát triển của hệ thống giao thông đã làm 
tăng cường trao đổi thương mại và giao lưu tiếp xúc giữa các địa phương; tạo bước đệm 
cho sự giao lưu với thị trường quốc tế  *Tư tưởng và giáo dục 
Khoa học và công nghệ trở thành kiến thức chiếm ưu thế so với các lý thuyết 
đạo đức, chính trị và xã hội của nền văn hóa bản địa. Việc này được thể hiện qua sự thất 
thế và biến mất của chế độ Khoa cử, Nho gia và sự hình thành các trường Quốc học, 
các viện nghiên cứu và nổi bật là tầng lớp trí thức tại Việt Nam Với hệ thống giáo dục 
mới cùng với sách vở phương Tây đã góp phần giúp dân tộc ta thêm mở rộng tầm mắt, 
được tiếp xúc với các tư tưởng dân chủ tư sản, sau đó là tư tưởng Mác xít. Truyền thống 
đạo học với lối tư duy tổng hợp đã được bổ sung thêm lối tư duy phân tích. 
*Văn học, nghệ thuật Sự du nhập của kiến trúc phương Tây, phim ảnh, rạp hát, 
… đã làm thay đổi rất nhiều diện mạo văn hóa Việt Nam như làn sóng lãng mạn; chủ 
nghĩa hiện thực và chủ nghĩa khai sáng trong văn xuôi; quá trình chuyên môn hóa của 
các loại hình nghệ thuật. Xuất hiện nhiều hình thức nghệ thuật mới như opera, kịch 
nói,... mang đậm hơi thở của Pháp. Tiếp theo đó, sự tiếp xúc của Phương Tây đã làm 
nảy sinh một thể loại mới: tiểu thuyết hiện đại - thứ mà vốn không có trong truyền thống 
Việt Nam, với tác phẩm tiêu biểu dẫn đầu như tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Tấn viết 
bằng chữ Quốc ngữ với nhan đề Truyện thầy Lazaro Phiền (1887), theo sau là hàng loạt 
những tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh… 
2.1.3 Giai đoạn từ 1954 - 1975 *Giao 
lưu với văn hóa Xô Viết 
Một đặc điểm trong việc giao lưu văn hóa thời kỳ này là khi ấy, Việt Nam là 
thành viên của phe xã hội chủ nghĩa, nên sự giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và các 
nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và các nước Đông Âu (trước đây) đã được đẩy 
mạnh. Về tư tưởng thì chủ nghĩa Mác - Lênin và cuộc Cách mạng tháng 10 Nga đã có 
ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển của cách mạng Việt Nam, giúp Hồ chủ tịch tìm 
ra con đường đi đúng đắn cho dân tộc. Về mặt nghệ thuật thì các tác phẩm âm nhạc, 
văn học của Liên Xô được đón nhận nồng nhiệt tại Việt Nam. Các nhạc sĩ như     
P.I.Tchaikovsky, M.Glinka,... và các nhạc phẩm của họ đã in sâu vào ký ức người Việt. 
Các tác phẩm văn học như “Chiến tranh và hòa bình”, “Bình minh và mưa” rất được 
người dân Việt Nam yêu mến” Về giáo dục, phong trào du học tại Nga đã nổ ra và Nga 
cũng đã tạo ra một nguồn lớn nhân lực chất lượng. Ngoài ra nhiều đồ vật của Nga xuất 
hiện ở nhiều gia đình Việt Nam như búp bê Nga, ấm Samovar,... Quá trình giao lưu và 
tiếp biến văn hóa với Nga là hoàn toàn tự nguyện, vì vậy Việt Nam nằm ở thế chủ động, 
được Nga giúp đỡ, chỉ bảo và nhận về nhiều giá trị tốt đẹp. Những kết quả từ cuộc giao 
lưu này vẫn được gìn giữ đến ngày nay và sẽ được phát huy hơn nữa ở tương lai. 
*Giao lưu với văn hóa Mỹ  - 
Ở miễn Nam, từ năm 1954 đến năm 1975, giao lưu giữa văn hóa Việt Nam và văn 
hóa Mỹ, không phải là giao lưu tự nhiên, mà là sự giao lưu cưỡng bức.Trong khi miền 
Bắc đã cơ bản giành được độc lập và từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân 
miền Nam vẫn còn chiến tranh với Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Dưới sự cai trị của Mỹ, 
giao lưu văn hóa được tiến hành một cách cưỡng bức là điều hoàn toàn dễ hiểu. Về đời 
sống thường ngày, nhiều đồ dùng trong sinh hoạt của người Mỹ dần dần trở nên phổ 
biến ở Việt Nam như bàn là, tủ lạnh, lò nướng bánh, thực phẩm Mỹ,... khiến cho đời 
sống nhân dân thêm phong phú và đa dạng.  - 
Về giáo dục, hệ thống giáo dục đại học được tổ chức theo kiểu Mỹ được gọi là 
“Viện đại học”. Chủ yếu được mở ra để dành cho các cán bộ của chế độ thực dân mới. 
Một số viện đại học có thể kể tên đến là Viện đại học Cần Thơ, Viện đại học Bách khoa 
Thủ Đức,... Tuy rằng cuộc giao lưu văn hóa với Mỹ mang tính chất bắt buộc, nhưng 
ngoài những điều tiêu cực đó ta không thể phủ nhận rằng việc giao lưu này cũng đã 
mang lại nhiều ảnh hưởng tích cực đến với đời sống văn hóa của người dân Việt Nam, 
đặc biệt là ở khu vực miền Nam. 
Kết quả giao lưu văn hóa với phương Tây trong thời hiện đại - toàn cầu hóa 
2.2.1 Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây lên Việt Nam trong thời hiện đại  - 
Về đời sống, nhiều lễ hội của phương Tây được du nhập vào Việt Nam như Giáng 
Sinh, Halloween, ngày lễ tình nhân,...Trong tư tưởng, đặc biệt là ở giới trẻ, đã có sự 
quan tâm hơn đến những cộng đồng thiểu số, những bất công trong xã hội như không 
kì thị cộng đồng LGBTQ+, không phân biệt chủng tộc,... Góp phần tào nên một xã hội  bình đẳng, tự do hơn.      - 
Về nghệ thuật, các thể loại âm nhạc mới được du nhập vào Việt Nam như Pop, 
R&B, Rap,.. Đã có nhiều nghệ sĩ biết kết hợp các nét âm nhạc truyền thống của Việt 
Nam với các thể loại này như Hoàng Thùy Linh,...Ngoài ra, hội họa và kiến trúc cũng 
bị ảnh hưởng nhiều khi mà nhiều ngôi nhà được xây theo phong cách cổ điển Châu Âu, 
khuynh hướng hiện đại,.. Việc này biểu hiện rõ ở các tòa nhà cao chọc trời như 
Landmark 81, Lotte Center Hà Nội,...  - 
Về giáo dục, nhiều trường quốc tế được thành lập với các cấp bậc từ mẫu giáo 
đến đại học, với ưu điểm là có cơ sở vật chất hiện đại, chương trình học hoàn toàn bằng 
tiếng Anh và theo phong cách của phương Tây. Những trường quốc tế nổi bật có thể kể 
đến như: trường đại học Anh Quốc (BUV), Trường đại học RMIT, trường quốc tế  Anh Việt (BVIS Hà Nội 
2.2.2. Ảnh hưởng của văn hóa Việt Nam lên phương Tây trong thời hiện đại  *Nhập cư và du học 
Việt Nam đã và đang thực hiện con đường giao lưu này tại các nước phương Tây như 
các nước châu Âu, Anh và đặc biệt là Mỹ. Cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ vào khoảng 
gần 2 triệu người (theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ). Việt kiều ở đây đa dạng, phong 
phú về ngành nghề, lứa tuổi. Đặc biệt, có một nhóm trí thức và doanh nhân rất đông 
đảo, nhiều người trong số họ tham gia và đóng góp cho chính phủ và nền văn hóa Hoa  Kỳ.  *Ẩm thực 
Ẩm thực Việt Nam ngày càng trở nên nổi tiếng và phổ biến hơn trên thế giới, và các 
nước phương Tây không phải ngoại lệ. Hai món ăn nổi tiếng của Việt Nam như phở và 
bánh mì đã được công nhận và đưa vào từ điển Oxford. Ở nhiều nước phương Tây, các 
nhà hàng chuyên về món ăn Việt Nam đã xuất hiện rất nhiều. Không chỉ là do các kiều 
bào của ta lập nên, mà còn có nhiều nhà hàng do người phương Tây thành lập. Nhiều 
đầu bếp phương Tây còn biến tấu các món ăn nổi tiếng của Việt Nam như phở để đưa 
vào thực đơn nhà hàng của họ. Ban đầu, việc sự tiếp nhận này mang tính cưỡng ép do 
người Việt Nam nhập cư vào các nước này. Nhưng sau đó, một số đầu bếp và những 
người đã trực tiếp trải nghiệm ẩm thực Việt Nam ở các nước phương Tây và Việt Nam 
bắt đầu học hỏi ẩm thực Việt Nam.  *Kinh tế     
Ngày nay, các sản phẩm Việt Nam xuất khẩu sang các nước phương Tây ngày càng trở 
nên phổ biến ở các nước bạn. Do hai khu vực này đều có những cộng động người Việt 
tại nước ngoài lớn và bền vững, kết hợp với những điều kiện, cơ hội và tài nguyên vốn 
có của các khu vực, một mặt hàng tiêu biểu mà nước ta xuất khẩu sang khu vực này là 
gạo. Nhờ thúc đẩy xuất khẩu, hạt gạo của Việt Nam cùng những câu chuyện mà chúng 
mang theo đang dần dần xuất hiện trên bàn ăn của các gia đình phương Tây, góp phần 
quảng bá hình ảnh của nước ta đến bạn bè các nước. Một số mặt hàng khác mà chúng 
ta đã xuất khẩu là máy móc, thiết bị, dụng cụ, dệt may, linh kiện, điện tử, nông sản… 
Những hoạt động thương mại trên là một phần không thể thiếu của hoạt giao lưu văn 
hóa và các sản phẩm được xuất khẩu chính là đại diện cho một vài nét của văn hóa Việt 
Nam, đơn cử như văn hóa liên quan đến nền văn minh lúa nước hay văn hóa gốc nông 
nghiệp. Sự tiếp nhận này là sự tiếp nhận tự nguyện, thể hiện trong chính sách của các 
nước phương Tây và trong sự đáp ứng, đòi hỏi của người dân bản địa đối với những sản 
phẩm mà nước ta xuất khẩu  5. 
Phân tích đặc trưng của làng xã Việt Nam truyền thống. Nhận xét về sự 
biến đổi của văn hoá làng xã trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay.  Khái niệm làng 
“Làng là khối dân cư ở nông thôn làm thành một đơn vị có đời sống riêng về 
nhiều mặt, và là đơn vị hành chính thấp nhất thời phong kiến  Khái niệm xã 
“Xã là đơn vị hành chính cơ sở ở nông thôn, bao gồm một số thôn” Mối 
quan hệ giữa làng và xã. 
Thông thường làng là đơn vị cấu thành của xã, một “xã” có thể bao gồm một hoặc 
nhiều “làng”. Tuy nhiên vẫn có trường hợp mỗi xã chỉ có một làng (xã ngang bằng 
với làng). Ngoài ra còn có thôn. 
Mặc dù vẫn có trường hợp xã tương đương với làng, nhưng có sự khác nhau về sắc 
thái và ý nghĩa. Làng mang ý nghĩa truyền thống, dùng để biểu đạt tình cảm, còn 
xã mang tính hành chính, thường được sử dụng trên giấy tờ 
Tính cộng đồng và tính tự trị - là hai đặc trưng cơ bản của làng xã Việt Nam. 
* Tính cộng đồng: 
Biểu tượng là Sân đình - Bến nước - Cây đa.