Câu hỏi tự luận ôn tập cuối kỳ Triết học Mac-Lenin | Đại học Khoa học Tự Nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội
Câu hỏi tự luận ôn tập cuối kỳ Triết học Mac-Lenin | Đại học Khoa học Tự Nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tài liệu được biên soạn giúp các bạn tham khảo, củng cố kiến thức, ôn tập và đạt kết quả cao kết thúc học phần. Mời các bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mac-Lenin (KHTN)
Trường: Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
ÔN TẬP CUỐI KÌ TRIẾT 1
Câu 1: Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin và rút ra ý nghĩa phương pháp luận của định nghĩa này?
1. Các quan niệm trước Mác về vật chất
- Triết học duy vật cổ đại: đồng nhất vật chất với dạng vất chất cụ thể.
VD: Các nhà triết học duy vật như Ta-lét cho rằng vật chất là nước; A-na-xi-men coi là
không khí; Hê-ra-clít coi là lửa. Thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại trong
học thuyết về vật chất là thuyết nguyên tử của Lơ-xíp và học trò của ông là Đê-mô-crít.
-Chủ nghĩa duy vật siêu hình cận đại thế kỷ XVII-XVIII: đồng nhất vật chất với dạng vật
chất cụ thể và tính chất của chúng.
-Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các phát minh của vật lý học đã bác bỏ quan niệm đồng
nhất vật chất với các dạng cụ thể của vật chất hoặc với thuộc tính của vật chất của các nhà triết
học duy vật cổ đại và cận đại. Phạm trù vật chất được V.I.Lênin nêu định nghĩa “Vật chất là
một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
2. Những nội dung cơ bản của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
- Vật chất là “phạm trù triết học” do vậy vừa có tính trừu tượng vừa có tính cụ thể.
+ Tính trừu tượng của vật chất dùng để chỉ đặc tính chung, bản chất nhất của vật chất -
đó là đặc tính tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và đây cũng là tiêu chí duy nhất
để phân biệt cái gì là vật chất và cái gì không phải là vật chất.
VD: Nhà nước phong kiến có bản chất là giai cấp địa chủ phong kiến chống lại nông dân
và những người lao động khác nhằm củng cố, bảo vệ sự thống trị về mọi mặt của địa chủ.
+ Tính cụ thể của vật chất thể hiện ở chỗ chỉ có thể nhận biết được vật chất bằng các giác
quan của con người; chỉ có thể nhận thức được vật chất thông qua việc nghiên cứu các sự vật,
hiện tượng vật chất cụ thể.
VD: Tính nóng của nước sôi được cảm nhận thông qua xúc giác, qua nghiên cứu biết
được rằng nước sôi nóng 100 độ C.
- Vật chất là “thực tại khách quan” có đặc tính cơ bản (cũng là đặc trưng cơ bản) là tồn tại
không phụ thuộc vào ý thức. Dù con người có nhận thức được hay chưa nhận thức được nó nó vẫn tồn tại.
VD: Thủy triều là hiện tượng nước biển, nước sông... lên xuống trong một chu kỳ thời gian
phụ thuộc vào biến chuyển thiên văn, là đặc tính cơ bản của sông nước. Nó tồn tại một cách tự
nhiên, không phụ thuộc vào nhận thức của con người.
- Vật chất có tính khách thể - con người có thể nhận biết vật chất bằng các giác quan.
VD: Sự tăng trưởng về cân nặng, kích thước của đàn lợn sau một thời gian nuôi dưỡng có thể
được người chủ nhận biết bằng thị giác, xúc giác,…
- Ý thức là sự “chép lại, chụp lại, phản ánh lại” thực tại khách quan. Bằng các giác quan của
mình, con người có thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhận biết được thực tại khách quan; chỉ có
những sự vật, hiện tượng của thực tại khách quan chưa được nhận biết chứ không thể không biết.
VD: Kiến thức của nhân loại là kết quả của quá trình con người tiếp xúc và nghiên cứu thế giới
khách quan. Mọi khía cạnh về thế giới được con người cảm nhận và ghi chép lại.
1 là) được suy ra từ nội dung trên để xác định mối quan hệ biện chứng giữa thực tại khách
quan (vật chất) với cảm giác (ý thức). Vật chất (cái thứ nhất) là cái có trước, tồn tại độc lập
với ý thức và quy định ý thức. Ý thức (cái thứ hai) là cái có sau vật chất, phụ thuộc vào vật
chất. Như vậy, vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan của ý thức, là nguyên nhân làm
cho ý thức phát sinh. Tuy nhiên, ý thức tồn tại độc lập tương đối so với vật chất và có tác
động, thậm chí chuyển thành sức mạnh vật chất khi nó thâm nhập vào quần chúng và được quần chúng vận dụng.
VD: Trước thời kì Đổi mới, do những ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh (đàn ông ra
trận và hi sinh nhiều, ở hậu phương chỉ còn đàn bà và người già) thì kinh tế không thể phát
triển. Vì thếm, nếu đường lối chủ trương chính sách lúc đó mà không phù hợp với thực tế thì
kinh tế (vật chất) cũng không thể đi lên.
3. Ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận của định nghĩa vật chất của V.I.
Lênin đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn
- Định nghĩa đưa lại thế giới quan duy vật biện chứng khi giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học. Thứ nhất, định nghĩa khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là nguồn
gốc khách quan của cảm giác, của ý thức (khắc phục được quan điểm về vật chất của chủ
nghĩa duy vật cổ và cận đại). Thứ hai, định nghĩa khẳng định ý thức con người có khả năng
nhận thức được thế giới vật chất (chống lại thuyết không thể biết và hoài nghi luận). Thế
giới quan duy vật biện chứng xác định được vật chất và mối quan hệ của nó với ý thức trong
lĩnh vực xã hội: đó là tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội, kinh tế quy định chính trị v.v…;
tạo cơ sở lý luận cho các nhà khoa học tự nhiên.
VD: Nước nào có kinh tế phát triển hơn thì chính trị của nước đó mạnh hơn, nước đó
có tầm ảnh hưởng đến các quốc gia khác và trong khu vực sâu sắc hơn. (Mỹ can thiệp vào
các vấn đề trên Biển Đông của Việt Nam và Trung Quốc và có tầm ảnh hưởng)
- Định nghĩa đưa lại phương pháp luận biện chứng duy vật của mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất với ý thức. Theo đó, vật chất có trước ý thức, là nguồn gốc và quy định ý
thức nên trong mọi hoạt động cần xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng các quy luật
vốn có của sự vật, hiện tượng; đồng thời cần thấy được tính năng động, tích cực của ý thức
để phát huy tính năng động chủ quan nhưng tránh chủ quan duy ý chí mà biểu hiện là tuyệt
đối hoá vai trò, tác dụng của ý thức, cho rằng con người có thể làm được tất cả mà không cần
đến sự tác động của các quy luật khách quan, các điều kiện vật chất cần thiết.
VD: Khi khởi nghiệp mở một công ty, vốn và năng lực từ người đứng ra mở công
ty thôi là chưa đủ, cần xét đến các yếu tố khác lúc đó như xu hướng thị trường, thời cơ, nhu
cầu, khu vực… Nếu đáp ứng đúng cái thị trường đang thiếu thì cơ hội phát triển là rất mạnh.
Ngược lại, nếu công ty cho ra những sản phẩm đang phổ biến, thậm chí là dư thừa thì nguy cơ phá sản là rất cao.
Câu 2. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về vận động và rút ra ý nghĩa của
nó đối với sự phát triển của khoa học?
1. Định nghĩa: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn
tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất – thì bao gồm tất cả mọi sự thay
đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”
Theo quan niệm của Ăng-ghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí trong
không gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”, vận động “là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất” nên thông qua vận
động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại cụ thể của mình; vận động của vật
chất là tự thân vận động; và sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vật chất.
VD: Sự di chuyển từ nơi này sang nơi khác, tăng chiều cao, sự tăng trưởng về kinh
tế, sự giảm sút trong học tập, giảm cân,…
2. Phân tích 5 hình thức cơ bản của vận động và cho ví dụ. Chỉ ra mối liên hệ biện chứng
giữa 5 hình thức vận động:
a) Vận động cơ học: sự dịch chuyển trong không gian của các vật thể. VD: di chuyển
trên đường phố khi tham gia giao thông.
b) Vận động vật lý: vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, quá trình nhiệt,
điện,... VD: thanh sắt nóng sinh ra nhiệt.
c) Vận động hóa học: sự biến đổi các chất hữu cơ, vô cơ trong quá trình hóa hợp và
phân giải. VD: quá trình tạo ra nước (2H2 + O2 2H O) 2
d) Vận động sinh học: sự biến đổi của các cơ thể sống, biến thái cấu trúc gen, v.v…
VD: sự hít thở, quang hợp, quá trình trao đổi chất.
e) Vận động xã hội: sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v…
của đời sống xã hội. VD: xã hội loài người đi từ mông muội đến văn minh nhưng
chưa có giai cấp, sau đó xuất hiện giai cấp nhưng chưa có nhà nước, cuối cùng là hình thành nhà nước.
Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao tương
ứng với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về chất song chúng
không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó: hình thức vận động
cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp và bao hàm trong nó những hình thức
vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động
khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.
3. Làm rõ đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động. Cho ví dụ minh họa.
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật
chất; chủ nghĩa duy vật biện chứng cũ đã khẳng định vận động là vĩnh viễn. Điều này không
có nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân bằng; song đứng im, cân
bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng
thái đặc biệt của vận động.
- Đứng im là tương đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ nhất định chứ
không xảy ra với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một hình thức vận
động chứ không phải xảy ra với tất cả các hình thức vận động.
- Đứng im là tam thời vì đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một
thời gian nhất định, chỉ xét trong một hay một số quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng im
vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định.
- Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn định;
vận động chưa làm thay đổi căn bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.
VD: Thời bao cấp, nền kinh tế trì trệ, không phát triển, được coi như là đứng im. Nhưng chỉ
là đứng im trong hình thức vận động xã hội, trong mối quan hệ của nền kinh tế tư nhân hay
tiền tệ, chứng khoán, thị trường,… Sự đứng im của kinh tế chỉ diễn ra trong một thời kì nhất
định (1976 - 1986) tuy nhiên trong thời kì này, nội bộ nền kinh tế vẫn có những sự biến đổi:
nông nghiệp giảm nhẹ, công nghiệp và thương nghiệp có tiến triển,.. Sự tăng lên của mặt này
bù khuyết vào sự giảm đi của mặt kia khiến nền kinh tế không có sự tăng trưởng, chưa thấy sự thay đổi nhiều.
4. Ý nghĩa của nó đối với sự phát triển của khoa học:
Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc phân
loại, phân ngành, hợp ngành khoa học. Tư tưởng về sự thống nhất nhưng khác nhau về chất
của các hình thức vận động cơ bản còn là cơ sở để chống lại khuynh hướng đánh đồng các
hình thức vận động hoặc quy hình thức vận động này vào hình thức vận động khác trong quá trình nhận thức.
VD: Dựa trên sự vận động của các sự vật hiện tượng, chúng ta có các ngành khoa học:
Hóa học, Vật lí học, Sinh học,…
Câu 3: Phân tích quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc của
ý thức và rút ra ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này?
Ý thức là gì? Triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định, ý thức là một phạm trù
triết học dùng để chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần phản ánh thế giới vật chất diễn ra trong não
người, hình thành trong quá trình lao động và được diễn đạt nhờ ngôn ngữ.
a. Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức (yếu tố cần)
1) Não người là sản phẩm quá trình tiến hoá lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ tới
hữu cơ, chất sống (thực vật và động vật) rồi đến con người - sinh vật - xã hội. Hoạt động ý
thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động của thần kinh não bộ; bộ não càng hoàn
thiện hoạt động thần kinh càng hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu sắc.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới bên ngoài để
bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức.
VD: Khi mới xuất hiện loài người, con người chưa có ý thức sâu sắc vì chưa có kiến thức về
thế giới tự nhiên. Trải qua các quá trình từ thời nguyên thủy đến nay, con người dần phát
triển nhờ việc quan sát tự nhiên, trong quá trình ấy, não người hoàn thiện dần, ghi lại những
kiến thức, kinh nghiệm, làm cho ý thức con người phong phú, văn minh. Từ đó, con người
làm chủ được thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ mình.
2) Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng VC này ở dạng VC khác trong
quá trình tác động qua lại lẫn nhau. Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối
tượng vật chất. Phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài và từ hình thức thấp lên
hình thức cao, tùy thuộc vào kết cấu của tổ chức vật chất.
VD: Sự phản ánh của quá trình nỗ lực nghiên cứu, học tập chăm chỉ là kết quả cao trong các kì thi
Các hình thức phản ánh. a) Phản ánh của giới vô cơ (gồm phản ánh vật lý (nước đóng
đá) và phản ánh hoá học (hình thành hố vôi) ) là những phản ánh thụ động, không định
hướng và không lựa chọn. b) Phản ánh của thực vật là tính kích thích (cây cối vươn ra ánh
sáng) c) Phản ánh của động vật đã có định hướng, lựa chọn để nhờ đó mà động vật thích
nghi với môi trường sống (ngủ đông, di cư).
Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc - đó là nguồn
gốc tự nhiên của ý thức.
Nguồn gốc xã hội của ý thức (yếu tố đủ)
1) Lao động là hoạt động có mục đích, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm tạo ra của
cải để tồn tại và phát triển. Lao động làm cho ý thức không ngừng phát triển (bằng cách tích
lũy kinh nghiệm), tạo cơ sở cho con người nhận thức những tính chất mới (được suy ra từ
những kinh nghiệm đã có) của giới tự nhiên; dẫn đến năng lực tư duy trừu tượng, khả năng
phán đoán, suy luận dần được hình thành và phát triển.
VD: Kinh nghiệm trồng trọt: Khoai đất lạ, mạ đất quen; kinh nghiệm về thiên nhiên: Ráng
mỡ gà có nhà thì giữ, Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng/Ngày tháng mười chưa cười đã tối.
2) Ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết). Trong quá trình lao động con người liên kết với nhau, tạo
thành các mối quan hệ xã hội tất yếu, dẫn đến nhu cầu cần thiết “phải trao đổi với nhau điều
gì đấy” nên ngôn ngữ xuất hiện. Ngôn ngữ trở thành “cái vỏ vật chất của ý thức”. Nhờ ngôn
ngữ, con người khái quát hoá, trừu tượng hoá những kinh nghiệm để truyền lại cho nhau.
Ngôn ngữ là sản phẩm của lao động, lại thúc đẩy lao động phát triển.
VD: Ghi lại các giai đoạn, diễn biến lịch sử thông qua các tư liệu, câu chuyện lịch sử,…
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của
ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội.
Câu 4. Bản chất của ý thức
Bản chất của ý thức thể hiện ở sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách
quan vào bộ não người; là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.
Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan bởi hình ảnh ấy tuy bị thế giới
khách quan quy định cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện; nhưng thế giới ấy không còn y
nguyên như nó vốn có, mà đã bị cái chủ quan của con người cải biến thông qua tâm tư, tình
cảm, nguyện vọng, nhu cầu v.v… Có thể nói, ý thức phản ánh hiện thực, còn ngôn ngữ thì
diễn đạt hiện thực và nói lên tư tưởng. Các tư tưởng đó được tín hiệu hoá trong một dạng cụ
thể của vật chất - là ngôn ngữ- cái mà con người có thể cảm giác được. Không có ngôn ngữ
thì ý thức không thể hình thành và tồn tại được. VD: Mọi lí thuyết chỉ là màu xám, chỉ có cây
đời là mãi mãi xanh tươi.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, thể hiện ở chỗ, ý thức phản ánh thế giới
có chọn lọc - tùy thuộc vào mục đích của chủ thể nhận thức. Sự phản ánh đó nhằm nắm bắt
bản chất, quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng; khả năng vượt trước (dự
báo) của ý thức tạo nên sự lường trước những tình huống sẽ gây tác động tốt, xấu lên kết quả
của hoạt động mà con người đang hướng tới. Có dự báo đó, con người điều chỉnh chương
trình của mình sao cho phù hợp với dự kiến xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng (dự
báo thời tiết, khí hậu…); xây dựng các mô hình lý tưởng, đề ra phương pháp thực hiện phù
hợp nhằm đạt kết quả tối ưu. Như vậy, ý thức không chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà
còn tạo ra thế giới khách quan.
VD: Con người sử dụng máy móc thay cho sức kéo, thể hiện sự năng động trong việc đáp
ứng những nhu cầu thực tiễn, hay những nhà tiên tri dự báo trước về tương lai thể hiện sự sáng tạo.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý
thức gắn liền với hoạt động thực tiễn; chịu sự chi phối của các quy luật sinh học và các quy
luật xã hội; do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy
định. Với tính năng động của mình, ý thức sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của bản thân
và thực tiễn xã hội. Ở các thời đại khác nhau, thậm chí ở cùng một thời đại, sự phản ánh (ý
thức) về cùng một sự vật, hiện tượng có sự khác nhau - theo các điều kiện vật chất và tinh
thần mà chủ thể nhận thức phụ thuộc.
VD: Ý thức pháp luật nảy sinh từ việc giải quyết các hiện tượng xã hội, gìn giữ xã hội phát
triển. Mỗi thời đại, pháp luật lại có những quy định khác nhau, thể hiện sự phát triển của xã hội
(Thời kì bao cấp: tem phiếu, sau Đổi mới: tự do buôn bán)
Quá trình ý thức gồm các giai đoạn:
1) Trao đổi thông tin hai chiều giữa chủ thể với khách thể phản ánh; định hướng và
chọn lọc các thông tin cần thiết.
2) Mô hình hoá đối tượng trong tư duy ở dạng hình ảnh tinh thần, tức là sáng tạo lại
khách thể phản ánh theo cách mã hoá sự vật, hiện tượng vật chất thành ý tưởng tinh thần phi vật chất.
3) Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực, tức là quá trình hiện thực hoá tư tưởng.
Con người lựa chọn phương pháp, công cụ tác động vào hiện thực khách quan để thực hiện mục đích.
VD: Giải 1 bài toán: đọc đề, nắm lấy số liệu cần thiết và yêu cầu đề bài -> suy nghĩ
cách làm, hình dung đề bài theo ý hiểu của mình -> tiến hành giải bài toán, biến suy nghĩ thành kết quả.
Câu 5. Kết cấu của ý thức:
- Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận
thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ.
Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu hiện
của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức và là
điều kiện để ý thức phát triển. Theo Mác: “phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó
một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri thức”.
Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại như tri thức về tự
nhiên, tri thức về xã hội, tri thức nhân văn. Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận thức, tri
thức có thể chia thành tri thức đời thường và tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri
thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính,…
VD: Các kiến thức về tự nhiên: các loài động vật, thực vật, các hiện tượng tự nhiên,…
Các kiến thức về xã hội: thể chế chính trị, giai cấp,…
Các kiến thức về nhân văn: sự sẻ chia, thương người như thể thương thân,…
- Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ. Tình
cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát
những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh. Tình cảm biểu
hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người; là một yếu tố phát huy sức
mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và thực tiễn. Lênin cho rằng: không có
tình cảm thì “xưa nay không có và không thể có sự tìm tòi chân lý”; không có tình cảm thì
không có một yếu tố thôi thúc những người vô sản và nửa vô sản, những công nhân và nông
dân nghèo đi theo cách mạng.
Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó
trong các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như tình cảm đạo đức, tình
cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,…
VD: lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết một lòng giúp nhân dân và quân đội
Việt Nam chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.
- Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong quá
trình thực hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, một
biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác được mục đích của hoạt động
nên tự đấu tranh với mình để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. có thể coi ý chí là
quyền lực của con người đối với mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành vi để con người
hướng đến mục đích một cách tự giác; cho phép con người tự kìm chế, tự làm chủ bản thân
và quyết đoán trong hành động theo quan điểm và niềm tin của mình. Giá trị chân chính của
ý chí không chỉ thể hiện ở cường độ mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý nghĩa
của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin cho rằng: ý chí là một trong những yếu tố tạo nên
sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm giải
phóng mình, giải phóng nhân loại.
VD: Dù gặp vô vàn thiếu thốn, khó khăn về vật chất trong suốt giai đoạn kháng chiến
nhưng ý chí chiến đấu và chiến thắng đã thôi thúc quân và dân ta vượt qua trở ngại, tiến đến thắng lợi.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri thức
là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định hướng
đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.
d. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Phải khách quan trong nhận thức và hành động; nhận thức và hành động phải xuất
phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Không xuất phát từ ý muốn
chủ quan, lấy ý muốn chủ quan làm cơ sở định ra chính sách, lấy ý chí áp đặt cho thực tế.
VD: Khi chỉnh sửa và ban hành các bộ luật, chính sách pháp luật phải dựa trên hiện thực
cuộc sống theo thời đại. Sau chiến tranh, cuộc sống còn nhiều khó khăn, thiệt hại về người
và của vô cùng lớn nên chưa thể bắt người dân xây dựng kinh tế mà phải làm lành các vết
thương chiến tranh cả về vật chất lần tinh thần cho nhân dân trước.
- Phát huy tính năng động chủ quan, sáng tạo của ý thức, phát huy nhân tố con người:
giáo dục nâng cao trình độ tri thức khoa học cho nhân dân, cán bộ, đảng viên; bồi dưỡng
nhiệt tình cách mạng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên; vận dụng đúng
đắn các quan hệ lợi ích, động cơ trong sáng, thái độ khách quan khoa học không vụ lợi;
chống thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ. VD: Muốn thay đổi tình hình giao thông, phải xuất
phát từ ý thức người dân nên việc tuyên truyền và nâng cao dân trí về tham gia giao thông là cần thiết.
- Khắc phục, ngăn chặn bệnh chủ quan, duy ý chí: khuynh hướng tuyệt đối hoá của
nhân tố chủ quan, của ý chí, xa rời hiện thực, bất chấp quy luật khách quan, lấy nhiệt tình
thay cho sự yếu kém của tri thức; bệnh chủ quan duy ý chí là lối suy nghĩ hành động giản
đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan; định ra chủ trương chính sách xa rời hiện
thực khách quan; phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực trí tuệ của toàn Đảng.
Đại hội VII Đảng ta khảng định: Mọi đường lối của Đảng phải xuất phát từ thực tế,
tôn trọng và hành động đúng theo quy luật khách quan.
Câu 6. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức?
1. Định nghĩa vật chất? Ý thức là gì? Cho ví dụ?
2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức:
- Xuất phát từ quan điểm cho rằng vật chất có trước quyết định ý thức, ý thức, tinh thần là cái
có sau, cái phụ thuộc vật chất. Vì vậy, toàn bộ hoạt động tinh thần của con người xét cho
cùng đều là sự phản ánh hiện thực khách quan vao trong bộ não người và bị quy định bởi
hoạt động thực tiễn của xã hội.
Ví dụ: nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của các học thuyết chính trị, pháp
quyền, đạo đức nào đó, thì chúng ta phải căn cứ vào những điều kiện kinh tế - xã hội tương
ứng của nó trên cơ sở quan điểm lịch sử cụ thể.
Có thực mới vực được đạo, Phú quý sinh lễ nghĩa
- Mọi sự biến đổi của nhân tố vật chất tất yếu dẫn đến sự thay đổi của ý thức, của nhân tố tinh
thần. Trong hoạt động tinh thần của con người nói chung, kể cả ý thức cá nhân hay ý thức xã
hội hoặc đường lối chủ trương chính sách của một nhà nước hay sự phát triển của khoa học
cũng dựa trên cơ sở hiện thực khách quan, thì mới có thể làm cho khả năng khách quan trở
thành hiện thực. Điều đó, cũng sẽ đúng nếu như chúng ta cho rằng đường lối phát triển kinh
tế - xã hội của một chính đảng, một nhà nước đều phụ thuộc vào điều kiện khách quan nhất định.
VD: Nhu cầu phục vụ cuộc sống khiến công nghệ khoa học phát triển: máy hơi nước ra đời
thay thế sức kéo khi con người không muốn phải xách nước xa và nặng, điện thoại di động ra
đời thay thế thư từ truyền thống khi nhu cầu liên lạc của con người tăng lên,…
- Tự thân nó, ý thức tư tưởng của con người không thể thực hiện được sự biến đổi nào trong
hiện thực, nếu nó không thông qua các nhân tố vật chất. C.Mác từng nhấn mạnh rằng: chỉ có
lực lượng vật chất đánh bại bởi một lực lượng vật chất. Vì vậy, mọi sự biến đổi của đời sống
xã hội, xét cho cùng đều phụ thuộc vật chất, nhân tố vật chất.
VD: Điều kiện sống thay đổi thì ý thức thay đổi: Ngày xưa người con gái phải tam tòng tứ
đức, công dung ngôn hạnh, xã hội trọng nam khinh nữ, ngày nay giữa nam và nữ đã có sự bình đẳng.
Tính độc lập tương đối của ý thức:
- Xuất phát từ quan điểm cho rằng ý thức là tính thứ hai phụ thuộc vào vật chất và con người
có khả năng nhận thức được hiện thực khách quan. Sự phản ánh của ý thức về hiện thực
khách quan, không phải là sự phản ánh thụ động, đơn giản mà nó có tính năng động và sáng
tạo. Vì vậy, ý thức, nhân tố tinh thần có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mục đích,
phương pháp hoạt động nói chung của con người. VD: Trong các cuộc kháng chiến chống
giặc ngoại xâm, luôn có những bài thơ, bài hát khích lệ, cổ vũ tinh thần chiến đấu cho nhân
dân, củng cố niềm tin chiến thắng để nhân dân vững lòng chiến đấu. Đó chính là một trong
những nhân tố tạo nên chiến thắng.
- Trong các nhân tố tinh thần, sự phát triển của khoa học có tính vượt trước tồn tại xã hội,
khẳng định vai trò của khoa học đối với sự phát triển của xã hội. Theo C.Mác: một khi lý
luận xâm nhập vào hoạt động của quần chúng sẽ trở thành lực lượng vật chất trực tiếp. Về
vấn đề này, V.I.Lênin cũng đã nhấn mạnh: không có lý luận cách mạng sẽ không có phong
trào cách mạng. VD: Tất cả các vị tướng, những người cầm đầu, nhà lãnh đạo các cuộc khởi
nghĩa đều có cơ sở và lí luận cách mạng trước khi làm cách mạng hay mở ra cuộc khởi nghĩa
mới: bác Hồ tìm hiểu về Cách mạng Nga và các nước châu Âu.
- Trong những điều kiện khách quan nhất định, ý thức của con người có thể giữ vai trò quyết
định đến kết quả của hoạt động thực tiễn. Điều này có nghĩa là ý thức, tư tưởng của con
người với sự nhận biết đúng đắn và ý chí của mình, con nguời có thể phát huy được năng lực
tối ưu của các nhân tố vật chất và nhân tố tinh thần trong những điều kiện khách quan nhất
định để đạt được kết quả cao nhất trong hoạt động thực tiễn. VD: Hẳn trong chúng ta cũng
thường đặt ra những câu hỏi là tại sao trong những điều kiện khách quan nhất định nào đó
mà ranh giới giữa cái chết và cái sống… có những con người có thể vượt lên chính mình
bằng sức mạnh của lý trí, của niềm tin với nghị lực và bản lĩnh để làm một việc gì đó mà mọi
người cho là không tưởng, nhưng lại thành công. Nhưng xét về quá trình lâu dài thì nhân tố
vật chất bao gìơ cũng giữ vai trò quyết định đối với nhân tố tinh thần.
- Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Nhờ có ý thức con người nhận thức được quy luật vận động, phát
triển của thế giới khách quan.
Ý thức tác động lại vật chất theo hai chiều hướng:
+ Tích cực: ý thức có thể trở thành động lực phát triển của vật chất. VD: Tư tưởng
khoán 10 của Bí thư Nguyên Ngọc tỉnh Vĩnh Phú, thơ văn thời kháng chiến chống Pháp-Mĩ,...
+ Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất khi
ý thức phản ánh sai, phản ánh xuyên tạc các quy luật vận động khách quan của vật chất. VD:
Tư tưởng trọng nam khinh nữ, Hợp tác xã trước 1986 của Đảng,...
Câu 7. Ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ thực tiễn hiện nay ở Việt Nam
- Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức phải bảo đảm nguyên tắc tính khách quan trong
sự xem xét. Đây là nguyên tắc cơ bản của phương pháp nhận thức biện chứng duy vật.
Nguyên tắc này đòi hỏi xem xét các sự vật, hiện tượng không xuất phát từ ý muốn chủ quan,
mà phải xuất phát từ đối tượng trên cơ sở hiện thực khách quan vốn có để phản ánh đúng đắn
và xây dựng mô hình lý luận phù hợp với đối tượng. Nguyên tắc tính khách quan của sự xem
xét là hệ quả tất yếu của quan điểm duy vật mácxít, khi giải quyết mối quan hệ giữa vật chất
- ý thức, giữa khách quan - chủ quan.
Thứ hai, phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức phát huy nhân tố con người.
Nguyên tác tính khách quan không những không bài trừ, mà trái lại còn đòi hỏi phải phát huy
tính năng động, sáng tạo của ý thức. Tính năng động và sáng tạo của ý thức được thể hiện
ngay từ khi con người xác định đối tượng, mục tiêu, phương hướng hoạt động cũng như việc
lựa chọn cách thức, phương pháp thực hiện mục tiêu.
Thứ ba, trong hoạt động thực tiễn phải giải quyết đúng đắn giữa nhân tố khách quan
và nhân tố chủ quan. Bởi vì, nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong hoạt động
thực tiễn, xét cho cùng là giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa đời sống vật chất, nhân tố
vật chất và đời sống tinh thần, nhân tố tinh thần. Trong mối quan hệ biện chứng đó đời sống
vật chất, nhân tố vật chất giữ vai trò quyết định; ngược lại đời sống tinh thần, nhân tố tinh
thần có tính năng động và sáng tạo.
- Liên hệ thực thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.
Từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và từ kinh nghiệm thành công, thất bại trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học quan trọng là:
“Mọi chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng qui luật hiện thực khách quan”.
Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ bản
thân sự vật, từ hiện thực khách quan, phản ánh sự vật đúng với những gì vốn có của nó,
không lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không lấy ý chí chủ quan áp đặt cho
thực tế, phải tôn trọng sự thật, tránh thái độ chủ quan nóng vội, phiến diện, định kiến… Yêu
cầu của nguyên tác tính khách quan còn đòi hỏi phải tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Đảng
chủ trương: “Huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, đ8ạ biệt là
nguồn lực của dân vào công cuộc phát triển đất nước”. Đó là chính sách chiến lược về con
người, về phát triển giáo dục và đào tạo...
Vì vậy, phải “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước ra khỏi tình
trạng kém phát triển, thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủa và văn minh”.
Câu 8. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a. Khái niệm mối liên hệ; mối liên hệ phổ biến
Mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau giữa
các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, một hiện tượng trong thế giới.
VD: Trồng cây xanh thì con người có không khí sạch để thở.
MLH phổ biến là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự
vật và hiện tượng của thế giới. VD: Trong tư duy con người có những mối liên hệ giữa kiến
thức cũ và kiến thức mới; cây tơ hồng, cây tầm gửi sống nhờ; nếu chung mục đích thì phải chung tay với nhau.
b. Tính chất của các mối liên hệ phổ biến
Tính khách quan. Các mối liên hệ thể hiện mình trong sự tác động giữa các sự vật,
hiện tượng vật chất với nhau, giữa sự vật, hiện tượng với cái tinh thần, giữa những hiện
tượng tinh thần với nhau, như mối liên hệ và tác động giữa các hình thức của quá trình nhận
thức. Các mối liên hệ, tác động đó đều là sự phản ánh mối liên hệ lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng của thế giới khách quan. VD: Mối liên hệ cây xanh – cơ thể sống con người, “Oan gia ngõ hẹp”
Tính phổ biến. Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau không những diễn
ra ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy, mà còn diễn ra đối với
các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng. VD: gói hút ẩm trong các gói
bánh có MLH với môi trường bên ngoài; hiện tượng hô hấp của loài ếch trên cạn và dưới nước.
Tính đa dạng, phong phú. Có rất nhiều kiểu MLH. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
khái quát được toàn cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện
tượng của nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan; tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong
thế giới đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng nhiều
mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau. VD: Cô A vừa là mẹ trong MLH gia đình, là giáo
viên trong MLH công việc, là người cùng câu lạc bộ trong MLH xã hội,...
Câu 9. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí mỗi liên hệ phổ biến
Nguyên tắc toàn diện yêu cầu xem xét sự vật hiện tượng:
1) trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc
tính cùng các mối liên hệ của chúng.
2) trong mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác và với
môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp.
3) trong không gian, thời gian nhất định, nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận động
của sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó.
Nguyên tắc toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này mà không
thấy các mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy
mặt bản chất của sự vật, hiện tượng rơi vào thuật nguỵ biện (cố ý đánh tráo các mối liên hệ
cơ bản thành không cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc
các mối liên hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến).
VD: Để đánh giá phẩm chất năng lực của một con người ta cần xem xét người đó
trong mọi MQH khác nhau, trong các hoàn cảnh tình huống khác nhau, trong sự thay đổi của
cả một quá trình. Công dân A từng đi tù vì trộm cắp tài sản, mọi người cho là người không
đàng hoàng, có nhiều chỉ trích định kiến về A nhưng sau khi ra tù, A đã thay đổi, ta cần có cái
nhìn khác. A biết yêu thương gia đình, tử tế giúp đỡ mọi người xung quanh, làm ăn lương thiện,...
Nguyên tắc lịch sử-cụ thể yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng trong những mối liên hệ
cụ thể, có tính đến lịch sử hình thành, tồn tại, dự báo xu hướng phát triển của sự vật hiện
tượng. Cơ sở lý luận của nguyên tắc này là không gian, thời gian với vận động của vật chất,
là quan niệm chân lý là cụ thể và chính nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
VD: Khi TGGT, đèn đỏ phải dừng lại nhưng khi đi cấp cứu, CSGT phải cho ta đi;
kinh tế nước ta thời kì trước Đổi mới là lạc hậu, yếu kém nhưng đặt trong hoàn cảnh lịch sử
lúc bấy giờ: vừa bước ra khỏi chiến tranh, thiệt hại về người và của thì phương thức kinh tế
ấy là hợp lí, chưa thể ép người dân làm kinh tế chủ nghĩa hay kinh tế tư bản,...
Câu 10. Nguyên lý về sự phát triển
a. Khái niệm phát triển
Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thống nhất hữu cơ
với nguyên lý về sự phát triển, bởi liên hệ cũng là vận động, không có vận động sẽ không có
sự phát triển nào. Phát triển xuất hiện trong quá trình giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn
có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất giữa phủ định những yếu tố không còn phù hợp
và kế thừa có chọn lọc, cải tạo cho phù hợp của sự vật, hiện tượng cũ trong sự vật, hiện tượng mới.
Khái niệm PT: quá trình vận động tiến lên của sự vật hiện tượng theo chiều từ
thấp đến cao từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
VD: Sự phát triển của nhận thức do quá trình đấu tranh giữa cái đã biết và cái chưa
biết của con người về TGKQ.
Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi,
sự vật, hiện tượng mới về chất ra đời. Nguồn gốc của sự phát triển nằm ở mâu thuẫn bên
trong của sự vật, hiện tượng; động lực của sự phát triển là việc giải quyết mâu thuẫn đó.
b. Tính chất của sự phát triển.
1) Tính khách quan. Nguồn gốc và động lực của sự phát triển nằm trong bản thân sự
vật, hiện tượng. VD: Sự phát triển của xã hội loài người: Công xã nguyên thủy -> Chiếm hữu
nô lệ -> Phong kiến -> Tư bản -> Xã hội chủ nghĩa => Xã hội đi lên dần dần, con người
không thể quay về được dù có muốn hay không.
2) Tính phổ biến. Sự phát triển diễn ra trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
VD: Tự nhiên: sự thích nghi của động vật dưới nước khi tự nhiên thay đổi.
Xã hội: sự thay thế của các nền văn minh: VMNN -> VNCN -> VM tri thức.
Tư duy: năng lực nhận thức của con người về TGTN ngày càng sâu sắc.
3) Tính kế thừa. Cái mới ra đời từ sự phủ định có tính kế thừa cái cũ; cái mới còn giữ lại, có
chọn lọc và cải tạo những mặt còn thích hợp của cái cũ.
VD: Nền văn hóa VN hiện đại có sự thay đổi từng ngày, du nhập thêm những nét văn
hóa mới (haloween, valentine, noel,... ) nhưng vẫn gìn giữ nét văn hóa truyền thống
(ca trù, quan họ, tục ăn trầu,... )
4) Tính đa dạng, phong phú. Sự phát triển còn phụ thuộc vào không gian và thời gian, vào các
yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó.
VD: Cách mạng VN những năm 1930 – 1975 có bước tiến nhưng 1933 – 1935 thì đi
xuống. Tuy nhiên tất cả đều dẫn đến thành công.
Câu 11. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí về sự phát triển với hoạt động
nhận thức và thực tiễn
(Thực tiễn) Nguyên tắc phát triển yêu cầu:
1) Đặt sự vật, hiện tượng trong sự vận động; phát hiện được các xu hướng biến đổi,
phát triển của nó để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng ở trạng thái hiện tại, mà còn dự
báo được khuynh hướng phát triển của nó. VD: Dự báo thời tiết, dự báo giá vàng,...
2) Nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển có
những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm ra những hình thức, phương
pháp tác động phù hợp để hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
VD: Việt Nam luôn kịp thời đưa ra những chính sách phát triển khác nhau ở mỗi thời
kì để thúc đẩy mọi mặt phát triển, đồng thời, khắc phục và hạn chế cái yếu kém.
3) Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải nhạy cảm, sớm phát hiện và
ủng hộ sự vật, hiện tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó phát triển; phải chống lại
quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến v.v bởi nhiều khi sự vật, hiện tượng mới thất bại tạm
thời, tạo nên con đường phát triển quanh co, phức tạp.
VD: Chủ trương làm cách mạng của Phan Bội Châu có điểm yếu kém, khiến cách
mạng không thành công, Bác Hồ đã nhìn nhận ra và thay đổi.
4) Trong quá trình thay thế sự vật, hiện tượng cũ bằng sự vật, hiện tượng mới phải biết
kế thừa những yếu tố tích cực đã đạt được từ cái cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều
kiện mới. VD: Thời trang áo dài cách tân.
(Nhận thức) Phát triển là nguyên tắc chung nhất chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn; nguyên tắc này giúp chúng ta nhận thức được rằng: muốn nắm được bản chất
của sự vật, hiện tượng, nắm được khuynh hướng phát triển của chúng thì phải xét sự vật
trong sự phát triển, trong sự tự vận động trong sự biến đổi của nó.
Câu 12: Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng? Ý nghĩa phương
pháp luận của việc nắm vững mối quan hệ này trong nhận thức và hoạt động thực tiễn? 1. Các khái niệm
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối
quan hệ giống nhau ở nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.
VD: Người dân Việt Nam đều sử dụng tiếng nói và chữ viết tiếng Việt.
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình
riêng lẻ nhất định. VD: Mỗi vùng khác nhau ở Việt Nam có một cách nói, cách phát âm khác
nhau hay cách gọi tên các sự vật hiện tượng khác nhau. Miền Bắc – bố, miền Trung – tía, miền Nam – ba.
Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính… chỉ có
ở một sự vật, một kết cấu vật chất. Những mặt, những thuộc tính ấy không được lặp lại ở bất
kỳ sự vật, hiện tượng hay kết cấu vật chất nào khác. VD: Chỉ có Hà Nội có Hồ Gươm.
2. Mối quan hệ biện chứng
Phép biện chứng duy vật cho rằng, cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan và
giữa chúng có sự thống nhất biện chứng. Cụ thể:
1. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Điều đó có nghĩa là không có cái
chung thuần tuý, trừu tượng tồn tại bên ngoài cái riêng.
VD: Thuộc tính cơ bản của vật chất là vận động. Vận động lại tồn tại dưới các hình thức
riêng biệt như vận động vậy lý, vận động hoá học, vận động xã hội v.v..
2. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Điều đó có nghĩa là không có cái riêng
độc lập thuần tuý không có cái chung với những cái riêng khác. VD: Các chế độ kinh tế – chính trị
riêng biệt đều bị chi phối với các quy luật chung của xã
hội như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất.
3. Cái chung là bộ phận của cái riêng, còn cái riêng không gia nhập hết vào cái chung. Cái riêng
phong phú hơn cái chung, vì ngoài những đặc điểm gia nhập vào cái chung, cái riêng còn có
những đặc điểm riêng biệt mà chỉ riêng nó có. Cái chung là cái sâu sắc hơn cái riêng bởi vì
nó phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ bên trong, tất nhiên, ổn định,
phổ biến tồn tại trong cái riêng cùng loại.
VD: Người nông dân Việt Nam ngoài đặc điểm chung giống với những người nông dân trên
thế giới là tư hữu nhỏ, sản xuất lẻ tẻ, sống ở nông thôn, còn có những đặc điểm riêng là chịu
ảnh hưởng của làng xã, có tập quán lâu đời, mỗi vùng miền lại có những đặc điểm khác
nhau. Cái chung sâu sắc hơn vì dù ở đâu, nông dân Việt Nam cũng đều cần cù lao động, chịu thương chịu khó.
4. Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau; có thể coi đây là sự chuyển hoá giữa
hai mặt đối lập. Sự chuyển hoá giữa cái đơn nhất và cái chung diễn ra theo hai hướng: cái
đơn nhất biến thành cái chung, làm sự vật phát triển và ngược lại, cái chung biến thành cái
đơn nhất làm cho sự vật dần dần mất đi.
VD: Một sáng kiến của một anh hùng lúc đầu là cái đơn nhất được nhiều người học tập trở
thành cái phổ biến; Khoán sản phẩm tới người lao động lúc đầu chỉ ở một vài tỉnh sau trở
thành cái phổ biến; Vận động cơ chế thị trường ở Việt Nam lúc đầu mới là tư tưởng chỉ đạo
thực hiện ở một số ngành kinh tế - sau trở thành chung. 3. Ý nghĩa:
– Cái chung chỉ tồn tại thông qua cái riêng. Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng chứ không thể ở ngoài cái riêng.
– Bất cứ cái chung nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần được cá biệt hoá. Nếu
đem áp dụng nguyên xi cái chung, tuyệt đối hoá cái chung dễ dẫn đến sai lầm tả khuynh giáo
điều. VD: Tập thể dục 30 phút mỗi ngày được cho là tốt nhưng đối với những người thể lực
yếu hay khuyết tật, ... thì nên có những lộ trình tập luyện khác phù hợp với thể chất họ.
Nếu xem thường cái chung, chỉ chú ý đến cái đơn nhất dễ dẫn đến sai lầm hữu khuynh
xét lạ – Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất
có thể biến thành cái chung và ngược lại cái chung có thể biến thành cái đơn nhất. Trong
hoạt động thực tiễn cần tạo điều kiện thuận lợi cho cái đơn nhất chuyển thành cái chung nếu
cái đơn nhất có lợi cho con người. Và ngược lại biến cái chung thành cái đơn nhất nếu cái
chung tồn tại bất lợi cho con người
4. Hoạt động thực tiễn
Vân dụng cặp phạm trù này vào trong quá trình nhận thức và đánh giá các sự vật hiện
tượng một cách khách quan và khoa học
Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại của
mình; cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung, bất cứ cái riêng nào cũng bao
hàm cái chung nên trong hoạt động thực tiễn không nên nhấn mạnh, tuyệt đối hóa cái chung,
phủ nhận cái riêng.
Để phát hiện ra cái chung, quy luật chung chúng ta phải xuất phát từ cái riêng, phải
xuất phát từ việc phân tích các sự vật, hiện tượng riêng lẻ. Cái chung sau khi đã được rút ra
từ cái riêng, khi đem áp dụng vào cái riêng lại phải căn cứ vào đặc điểm của cái riêng để làm cho nó phù hợp.
Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng. Cái riêng là cái phong phú
hơn cái chung, cho nên trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn phải căn cứ vào cái
chung sâu sắc làm cơ sở, đồng thời chú ý đến cái riêng phong phú để bổ sung cho nó hoàn thiện.
Trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái chung và
ngược lại. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn muốn xác định được đâu là cái chung đâu là cái
đơn nhất phải đặt nó trong một quan hệ xác định. Có thể và cần phải tạo điều kiện thuận lợi
để cái đơn nhất có lợi cho con người trở thành cái chung và cái chung bất lợi trở thành cái đơn nhất.
VD1: Muốn nhận thức được một quy luật phát triển nào đó của nền sản xuất của một
nước nào đó phải nghiên cứu phân tích so sánh quá tình sản xuất thực tế ở một giai đoạn
khác nhau, ở những khu vực khác nhau mới tìm ra được mối liên hệ chung.
VD2: Xem xét một phong trào nào đó của một đơn vị nào đó phải xem xét tinh thần
thi đua đó ở từng tổ, từng người sau đó liên hệ lại với nhau, từ đó rút ra những quy định
chung để phát huy tối đa tinh thần cạnh tranh thi đua và giảm thiểu tối đa những hạn chế.
Câu 13. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả? Ý nghĩa phương
pháp luận của việc nắm vững mối quan hệ này trong nhận thức và hoạt động thực tiễn? 1. Các khái niệm
Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt
trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định.
Kết quả là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn
nhau của các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
VD: Trời mưa là nguyên nhân, sinh ra kết quả là đường trơn và ướt.
– Khác với nguyên nhân, nguyên cớ cũng là một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra trước kết quả,
nhưng không sinh ra kết quả, có liên hệ với kết quả nhưng là mối liên hệ bên ngoài không bản chất.
VD: “Sự kiện Vinh Bắc Bộ”, vào tháng 8/1964, từ đó Mỹ ném bom miền Bắc là
nguyên cơ, còn nguyên nhân thực sự là do bản chất xâm lược của đế quốc Mỹ.
– Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân, nhưng có tác
dụng đối với sự nảy sinh kết quả.
VD: Nhiệt độ, áp suất, chất xúc tác là những điều kiện không thể thiếu của một số phản ứng hoá học.
2. Mối quan hệ biện chứng
1. Nguyên nhân sinh ra kết quả, vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả. Còn kết quả
bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân. Chỉ những mối liên hệ trước sau về mặt thời gian
có quan hệ sản sinh mới là mối liên hệ nhân quả.
VD: + Không có lửa làm sao có khói.
+ Cuộc đấu tranh giai cấp vô sản mâu thuẫn giai cấp tư sản (là nguyên nhân bao giờ cũng có
trước để dẫn đến cuộc cách mạng vô sản với tính chất là kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau)
+ Sự biến đổi của mầm mống trong hạt lúa bao giờ cũng phải xuất hiện trước còn cây lúa là
kết quả nó xuất hiện sau.
+ Bão (nguyên nhân) xuất hiện trước, sự thiệt hại của hoa màu, mùa màng do bão gây ra thì phải xuất hiện sau.
+ Người bị ô tô chèn chết đấy là kết quả xấu nhất nguyên nhân của nó là do việc thực hiện
luật lệ giao thông không đúng (không nghiêm chỉnh thực hiện luật lệ giao thông).
2. Trong hiện thực, mối liên hệ nhân quả biểu hiện rất phức tạp: một kết quả có thể do nhiều
nguyên nhân và một số nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả.
– Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết quả nhanh hơn.
– Nếu các nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình hình thành kết quả chậm
hơn, thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau.
VD: + Công cuộc cách mạng của chúng ta thắng lợi, giải phóng miền nam thống nhất đất
nước nó là kết quả của nhiều nguyên nhân: dân tộc ta “thà quyết hy sinh tất cả chứ không
chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” và được sự ủng hộ của các nước, các dân tộc xã hội
chủ nghĩa và các nước, các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.
+ Thầy giáo truyền đạt kiến thức cho học sinh (một nguyên nhân) là nguyên nhân dẫn đến
nhiều kết quả học tập đạt được của họ. Cùng một nguyên nhân như vậy nhưng lại dẫn đến
nhiều kết quả khác nhau đối với từng học sinh: học sinh đạt kết quả học tập giỏi, khá, trung bình, yếu kém.
+ Đốt lửa vào ngọn đèn dầu (Nguyên nhân) sinh ra kết quả: thứ nhất: có ánh sáng để cho mọi
người học tập và làm việc, thứ hai: Bấc ngắn, dầu cạn đi, thứ ba: làm tăng nhiệt độ môi trường.
3. Giữa nguyên nhân và kết quả có tính tương đối, có sự chuyển hoá, tác động qua lại tạo
thành chuỗi liên hệ nhân – quả vô cùng vô tận.
VD: Sự phát triển của vật chất là nguyên nhân sinh ra tinh thần, nhưng tinh thần lại trở thành
nguyên nhân làm biến đổi vật chất.
Con gà – quả trứng – con gà - ... 3. Ý nghĩa
– Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần tôn trọng tính khách quan của mối liên hệ nhân quả.
– Muốn cho hiện tượng nào đó xuất hiện cần tạo nguyên nhân cùng những điều kiện cho
nguyên nhân đó phát huy tác dụng. Ngược lại, muốn hiện tượng nào đó mất đi thì phải làm
mất nguyên nhân tồn tại của nó. VD: Để học tập tốt thì cần tạo điều kiện như nào, làm mất cái gì xấu?
– Phải biết xác định đúng nguyên nhân để giải quyết vấn đề nảy sinh vì các nguyên nhân có
vai trò không như nhau. VD: Đau bụng do nhiều nguyên nhân: ngộ độc thực phẩm, nhiễm
giun, đau bụng lạnh,... cần xác định đúng nguyên nhân để có phương án điều trị phù hợp,...
– Kết quả có thể tác động trở lại nguyên nhân. Do đó, trong hoạt động thực tiễn cần khai thác,
tận dụng những kết quả đã đạt được để thúc đẩy nguyên nhân tác động theo hướng tích cực.
VD: Học tập tốt thì đạt được kết quả cao khiến người ta phấn khích, càng muốn đạt nhiều kết
quả cao hơn nữa – phấn đấu học tập tốt hơn.
Câu 14. Trình bày khái niệm lượng chất
a. Vị trí, vai trò của quy luật
Quy luật lượng đổi-chất đổi là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật. Nó chỉ ra cách thức chung nhất của sự phát triển, khi cho rằng sự thay đổi về chất chỉ
xẩy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích luỹ được những thay đổi về lượng đã đạt đến giới hạn -
đến độ. Quy luật lượng đổi chất đổi cũng chỉ ra tính chất của sự phát triển, khi cho rằng sự
thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng vừa diễn ra từ từ, vừa có bước nhảy vọt làm cho sự
vật, hiện tượng có thể vừa có những bước tiến tuần tự, vừa có thể có những bước tiến vượt bậc.
b. Khái niệm chất, lượng
- Chất là tên gọi tắt của chất lượng (là chất của sự vật, hiện tượng khách quan) dùng
để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của
các thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng làm cho chúng là chúng mà không
phải là cái khác (thể hiện sự vật, hiện tượng đó là gì và phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác).
VD: Nước không màu không mùi không vị; Con người được phân biệt với con vật ở tính có ý thức.
Phân biệt chất với thuộc tính
- Chất là sự thống nhất các thuộc tính, còn thuộc tính là những trạng thái, tính chất cơ
cấu nên sự vật. VD: Thuộc tính của viên phấn là dùng để viết, còn chất của viên phấn là được làm bằng thạch cao.
- Chất và thuộc tính có MQH chặt chẽ, không có chất nằm ngoài sự vật.
Thuộc tính: cơ bản và không cơ bản. Khi thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất thay
đổi, thuộc tính không cơ bản thay đổi thì chất chưa thay đổi.
Đặc điểm cơ bản của chất
1) Có tính ổn định tương đối, nghĩa là khi sự vật, hiện tượng chưa chuyển hoá thì chất
của nó chưa thay đổi. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều
giai đoạn; trong mỗi giai đoạn đó, chúng lại có chất riêng của mình.
VD: Quá trình từ nòng nọc thành ếch: Giai đoạn nòng nọc: có đuôi, sống dưới nước. Giai
đoạn thành ếch: mất đuôi, mọc 4 chân, sống trên cạn.
2) Mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có nhiều chất.
VD: Sắt là một nguyên tố hóa học, Fe, số hiệu nguyên tử 26, thuộc nhóm VIIIB, chu kỳ 4.
- Lượng dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng về các yếu tố biểu
hiện ở số lượng các thuộc tính, tổng số các bộ phận, đại lượng; ở trình độ quy mô và nhịp
điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
VD: Lớp A có 50 sinh viên, …
Đặc điểm cơ bản của lượng
1) tính khách quan vì lượng là lượng của chất, là một dạng vật chất nên chiếm một vị
trí nhất định trong không gian và tồn tại trong một thời gian nhất định.
VD: Lớp A có 50 sinh viên, học ở phòng 1 từ 8h đến 11h.
2) Có nhiều loại lượng khác nhau trong các sự vật, hiện tượng; có lượng là yếu tố quy
định bên trong, có lượng chỉ thể hiện những yếu tố bên ngoài; sự vật, hiện tượng càng phức
tạp thì lượng cũng phức tạp theo. VD: trình độ phát triển của xã hội là yếu tố bên trong, số
dân cư trong một xã là yếu tố bên ngoài.
3) Trong tự nhiên và xã hội, có lượng có thể đo, đếm được; nhưng trong xã hội và tư
duy lại có những lượng khó đo lường bằng những số liệu cụ thể mà chỉ có thể nhận biết được
bằng tư duy trừu tượng. VD: Ta có thể đếm được 1 gói kẹo có 20 cái nhưng không thể đếm
được lượng kiến thức ta tích lũy được.
Câu 15. Nội dung quy luật chuyển hóa lượng – chất
- Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối. Tuỳ theo từng mối quan
hệ mà xác định đâu là lượng và đâu là chất; có cái là lượng ở trong mối quan hệ này, lại có
thể là chất ở trong mối quan hệ khác.
VD: Lớp A và B có cùng sĩ số, lớp A có 20 HSG, lớp B có 30 HSG. Khi xét về trình độ
học tập của 2 lớp thì lớp B tốt hơn, 30 HSG là chất. Khi so sánh số HSG 2 lớp thì 30 HSG lớp B là lượng.
- Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Hai mặt
này tác động biện chứng lẫn nhau theo cơ chế khi sự vật, hiện tượng đang tồn tại, chất và
lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định.
+ Độ là khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi
về chất; sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hoá. Sự thay đổi về lượng tạo điều
kiện cho chất đổi và kết quả là cái cũ mất đi, cái mới ra đời. VD: 0 < t < 100 C o nước vẫn ở thể lỏng.
Lượng thay đổi đạt tới chỗ phá vỡ độ cũ, làm cho chất của sự vật, hiện tượng thay đổi,
chuyển thành chất mới - thời điểm, mà tại đó bắt đầu xảy ra bước nhảy - được gọi là điểm nút.
VD: 0 và 100 C là điểm nút o
+ Bước nhảy dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá cơ bản về chất của sự vật, hiện tượng
do những thay đổi về lượng trước đó gây nên; là sự thay đổi về chất khi đã tích lũy đủ về
lượng. Sự vận động của sự vật, hiện tượng diễn ra, lúc thì biến đổi tuần tự về lượng, lúc thì
nhảy vọt về chất, tạo ra một đường nút vô tận, làm cho sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ.
Các hình thức của bước nhảy.
Căn cứ vào quy mô và nhịp độ của bước nhảy, người ta chia bước nhảy thành bước
nhảy toàn bộ - là những bước nhảy làm cho tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố của sự
vật, hiện tượng thay đổi. VD: chiến thắng mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn, đất nước
bước sang thời kì mới. Bước nhảy cục bộ - là loại bước nhảy chỉ làm thay đổi một số mặt,
một số yếu tố, một số bộ phận của sự vật, hiện tượng đó. VD: Dù xã hội đã hiện đại, bình
đẳng nhưng 1 phần nhỏ vẫn chưa thay đổi, tồn tại tư tưởng trọng nam khinh nữ,…
Căn cứ vào thời gian của sự thay đổi về chất và dựa trên cơ chế của sự thay đổi đó,
người ta chia bước nhảy thành bước nhảy đột biến - khi chất của sự vật, hiện tượng biến đổi
mau chóng ở tất cả mọi bộ phận cơ bản của nó. VD: Phóng xạ (radium biến đổi), núi lửa
phun trào. Bước nhảy dần dần - là quá trình thay đổi về chất diễn ra do sự tích luỹ dần những
yếu tố của chất mới và loại bỏ dần các yếu tố của chất cũ, làm cho sự vật, hiện tượng biến
đổi chậm. VD: tích lũy tư duy từ cấp 1 – cấp 2 – cấp 3 – đại học - …
Quy luật lượng đổi-chất đổi không chỉ nói lên một chiều là lượng đổi dẫn đến chất đổi
mà còn có chiều ngược lại, là khi chất mới đã ra đời, nó lại tạo ra một lượng mới phù hợp với
nó để có sự thống nhất mới giữa chất với lượng, thể hiện ở chỗ sự tác động của chất mới về
quy mô, trình độ, nhịp điệu v.v… đối với lượng mới tạo nên tính thống nhất giữa chất mới với lượng mới.
VD: Sinh viên vượt qua kì thi tốt nghiệp (điểm nút), trở thành cử nhân (bước nhảy) có
tấm bằng tốt và tìm được việc làm tốt (chất mới thay đổi quy mô tồn tại của SVHT). Sau đó,
sinh viên có nhu cầu học tập cao hơn – thạc sĩ (chất mới thay đổi sự vận động và phát triển)
Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa chất với
lượng. Sự thống nhất đó thể hiện ở
1) những thay đổi dần về lượng tới điểm nút chuyển thành những thay đổi về chất thông qua bước nhảy
2) chất mới ra đời sẽ tác động tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới; lượng mới
lại tiếp tục biến đổi, đến một mức độ nào đó lại phá vỡ chất cũ kìm hãm nó.
3) quá trình tác động qua lại giữa lượng và chất tạo nên con đường vận động liên tục
trong đứt đoạn, đứt đoạn trong liên tục; từ sự biến đổi dần dần về lượng tiến tới nhảy vọt về
chất; rồi lại biến đổi dần dần về lượng để chuẩn bị cho bước nhảy tiếp theo của chất, cứ thế
làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng vận động, biến đổi và phát triển.
Câu 16. ý nghĩa phương pháp luận của quy luật chuyển hóa lượng - chất
1) sự phát triển của sự vật, hiện tượng bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần về
lượng. Vì vậy, phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất. VD: XHPK – XHCN – CSVN
2) quy luật xã hội diễn ra thông qua các hoạt động có ý thức của con người. Vì vậy,
khi đã tích luỹ đầy đủ về lượng phải tiến hành bước nhảy, kịp thời chuyển những thay đổi về
lượng thành những thay đổi về chất; chuyển những thay đổi mang tính tiến hoá sang bước
thay đổi mang tính cách mạng. Chỉ có như vậy chúng ta mới khắc phục được tư tưởng bảo
thủ, trì trệ, hữu khuynh thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là thay đổi đơn
thuần về lượng. VD: tình bạn – tình yêu – hôn nhân.
3) sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo
thành sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong hoạt động của mình, phải biết tác động vào cấu trúc
và phương thức liên kết trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật các yếu tố tạo thành sự vật, hiện
tượng đó. VD: muốn duy trì nước ở thể lỏng phải để nước trong giới hạn 0 < t < 100oC Câu
17: Phân tích khái niệm quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
a. Vị trí, vai trò của quy luật. Quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản của phép
biện chứng duy vật; nó chỉ ra
bên trong của sự vận động,
nguồn gốc, động lực phát triển.
b. Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn
Khái niệm mâu thuẫn. là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ, tương tác, tác động lẫn
nhau của các mặt đối lập. Yếu tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập - những mặt, thuộc tính,
khuynh hướng vận động trái ngược nhau; cùng tồn tại trong một sự vật, hiện tượng, trong
cùng một thời gian, một mối liên hệ; thường xuyên thống nhất, đấu tranh, chuyển hóa, triển khai lẫn nhau.
VD: Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân hay trong sinh vật thì có sự đồng
hoá và dị hoá, trong kinh tế thị trường có cung và cầu, hàng và tiền.
Mâu thuẫn có một số tính chất chung là tính khách quan, phổ biến; tính đa dạng,
phong phú. thể hiện ở chỗ, trong tự nhiên, xã hội và tư duy đều có mâu thuẫn tồn tại không
phụ thuộc vào ý thức con người.
Một số loại mâu thuẫn: bên trong - bên ngoài, cơ bản - không cơ bản, chủ yếu - thứ
yếu, đối kháng- không đối kháng.
Khái niệm sự thống nhất: là các mặt đối lập nương tựa nhau, làm điều kiện tồn tại
cho nhau, không có mặt này thì không có mặt kia. VD: Đồng hóa, dị hóa; Hấp thụ và bài tiết
trong con người, xã hội vô sản và tư bản: người bán, người mua.
Xét 1 phương diện nào đó, giữa 2 mặt đối lập có những nét giống nhau, gọi là đồng
nhất. Nhờ có nó mà các mặt đối lập chuyển hóa cho nhau. VD: có nam có nữ đều là con
người mới thành vợ chồng; Cái thiện và cái ác trong con người: trong cái ác có cái thiện, làm
sao để lương tâm thức tỉnh.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập: là sự tác động, bài trừ phủ định nhau, là sự triển khai
của các mặt đối lập. VD: Tư sản - vô sản, nông dân - địa chủ. Nông dân tìm cách để thoát
khỏi địa chủ, địa chủ tìm cách để bóc lột.
Vai trò của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển: tạo nên nguồn gốc của sự
vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng. Có hai loại tác động lẫn nhau dẫn đến vận
động. Đó là sự tác động lẫn một sự vật nhau giữa các sự vật, hiện tượng và sự tác động lẫn
nhau giữa các mặt đối lập trong, hiện tượng. Cả hai loại tác động này tạo nên sự vận động;
nhưng chỉ loại tác động thứ hai- loại tác động lẫn nhau giữa các cặp mặt đối lập do mâu
thuẫn giữa chúng tạo nên mới làm cho sự vật, hiện tượng phát triển.
Câu 18. Trình bày nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Trong mỗi mâu thuẫn, các cặp mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn
nhau tạo nên tình trạng ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng.
Thống nhất giữa các cặp mặt đối lập:
1) các cặp mặt đối lập cần đến nhau, nương tựa vào nhau, làm tiền đề cho nhau tồn
tại; không có mặt này thì không có mặt kia. VD: Phải có giai cấp tư sản thì mới có giai cấp vô sản.
2) các cặp mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện sự đấu tranh giữa
cái mới đang hình thành với cái cũ chưa mất hẳn. VD: Trong mội xã hội đối kháng giai cấp
luôn có thống trị và bị trị. Hai giai cấp này là hai mặt đối lập và luôn đấu tranh với nhau để giành quyền lợi
3) giữa các cặp mặt đối lập tương đồng nhau, đồng nhất với nhau (do trong các mặt
đối lập còn tồn tại những yếu tố giống nhau) thể hiện sự chung nhau đối với một số yếu tố,
thuộc tính v.v. VD: nóng và lạnh là 2 mặt đối lập nhưng đều chỉ trạng thái nhiệt độ của nước.
Đấu tranh lẫn nhau giữa các cặp mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ khuynh
hướng bài trừ, phủ định nhau giữa các cặp mặt đối lập dẫn đến sự triển khai mâu thuẫn và
sau đó đến sự chuyển hóa (do sự đồng nhất trên, trong những điều kiện nào đó, tạo nên) giữa
các cặp mặt đối lập.
VD: Nước đang lạnh, dưới điều kiện nhiệt độ - đun sôi, chuyển hóa thành nóng – đối lập.
Tính chất của sự thống nhất và đấu tranh
1) sự thống nhất có tính tạm thời, tương đối, là có điều kiện, thoáng qua, vì sự thống
tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện tượng.
2) sự đấu tranh có tính tuyệt đối, phá vỡ sự ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng
dẫn đến sự chuyển hoá về chất của chúng. Tính tuyệt đối của sự đấu tranh gắn liền với sự tự thân vận động.
VD: Quá trình giải quyết mâu thuẫn cơ bản của nước ta là quá trình vừa tuân theo sự
tiến hóa dần dần về lượng, vừa tranh thủ những bước phát triển có tính cách mạng, nhảy vọt
về chất; vừa kế thừa tất cả những mặt cần thiết, hợp lí của chủ nghĩa tư bản để phát triển lực
lượng sản xuất, lại vừa phải đấu tranh để loại bỏ những mặt tiêu cực của chủ nghĩa tư bản;
vừa tích lũy nội dung vừa cải tạo hình thức cho phù hợp.
Tóm lại, quá trình vận động của mâu thuẫn trải qua các giai đoạn:
1) khi cái mới xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác nhau giữa các cặp mặt đối lập
2) trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng và của chính các cặp mặt
đối lập, sự khác nhau giữa chúng trở thành xung đột, chuyển hóa thành mâu thuẫn
3) khi điều kiện chín muồi, các cặp mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau (theo các hướng
hoặc bài trừ, phủ định lẫn nhau, hoặc mặt này triệt tiêu mặt kia, hoặc cả hai mặt đều bị triệt
tiêu). Mâu thuẫn được giải quyết làm cho cái cũ mất đi, cái mới ra đời; sự khác nhau, xung
đột, mâu thuẫn lại được tái lập và giải quyết mâu thuẫn dẫn đến sự chuyển hóa.
Câu 19. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập (Lấy VD trong quá trình học tập)
1) Nhận thức đúng bản chất của sự vật và tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt
động thực tiễn bằng con đường phát hiện mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng. Muốn phát hiện
ra mâu thuẫn cần tìm ra thể thống nhất của các cặp đối lập trong sự vật, hiện tượng.
2) Phân tích mâu thuẫn phải bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng
mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau giữa các cặp mặt mâu thuẫn và
điều kiện chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng.
3) Để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển phải tìm cách giải quyết mâu thuẫn, không được
điều hoà mâu thuẫn. Mọi mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi;
không nóng vội hay bảo thủ, trì trệ khi giải quyết mâu thuẫn.
Câu 20: Phân tích khái niệm cơ bản của quy luật phủ định của phủ định
Sự phủ định là sự thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của sự vật,
hiện tượng trong quá trình vận động, phát triển của nó. VD: Phá bỏ luống rau cũ để gieo luống rau mới.
Sự phủ định biện chứng là sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát
triển của sự vật, hiện tượng. VD: tre già măng mọc.
Tính khách quan: Nguyên nhân của phủ định nằm trong bản thân sự vật, hiện tượng,
nó là quá trình đấu tranh, giải quyết mâu thuẫn tất yếu bên trong bản thân sự vật, tạo khả
năng ra đời cái mới thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu hướng phát triển của chính bản thân sự vật.
Ví dụ: Chủ nghĩa xã hội phủ định chủ nghĩa tư bản là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn
cơ bản, khách quan, vốn có trong lòng xã hội tư bản; mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của
lực lượng sản xuất với tính chất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất được
biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Tính kế thừa: cái mới hình thành và phát triển tự thân thông qua quá trình chọn lọc,
loại bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, giữ lại những nội dung tích cực. Ví dụ: Trong sinh vật,
các giống loài đều phát triển theo quy luật di truyền, các thế hệ con cái đều kế thừa các yếu
tố tích cực của các thế hệ bố mẹ, học thuyết “gen” đã chứng minh điều đó. Trong lĩnh vực
nhận thức, triết học Mác ra đời giữa thế kỷ XIX, đã kế thừa mọi giá trị tư tưởng của quá khứ,
mà trực tiếp là các giá trị của nền triết học cổ điển Đức
Phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản
thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối
lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra
là sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình (cái phủ định, phủ định cái bị phủ định, cái bị
phủ định là tiền đề, cái phủ định là cái mới xuất hiện. Cái phủ định sau khi phủ định cái bị
phủ định, tiếp tục biến đổi và tạo ra phủ định lần thứ hai). Sự phủ định lần thứ hai được thực
hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất.
Nó dường như lập lại cái ban đầu nhưng nó được bổ sung nhiều nhân tố mới cao hơn, tích cực hơn.
VD: Hạt thóc - Cây mạ - Cây lúa
Hạt thóc cho ra đời cây mạ (đây là phủ định lần 1)
Cây mạ cho ra đời cây lúa (đây là phủ định lần 2).
Cây lúa cho ra bông thóc (thóc lại cho ra thóc nhưng lần này không phải là 1 hạt mà là nhiều hạt)
Câu 21) Nội dung quy luật Phủ định của phủ định (Lấy VD hạt thóc)
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, phủ định biện chứng là một quá
trình vô tận, tạo nên khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng từ trình độ thấp đến cao,
có tính chất chu kỳ theo hình thức "xoáy ốc": mỗi chu kỳ phát triển của sự vật, hiện tượng
thường trải qua hai lần phủ định cơ bản với hình thái tồn tại chủ yếu của nó, trong đó hình
thái cuối mỗi chu kỳ lặp lại những đặc trưng cơ bản của hình thái ban đầu chu kỳ đó nhưng
trên cơ sở cao hơn về trình độ phát triển nhờ kế thừa được những nhân tố tích cực và loại bỏ
được những nhân tố tiêu cực qua hai lần phủ định biện chứng.
Theo V.I.Lênin: "Từ khẳng định đến phủ định, - từ sự phủ định đến "sự thống nhất"
với cái bị khẳng định, không có cái đó, phép biện chứng trở thành một sự phủ định sạch trơn,
một trò chơi hay là chủ nghĩa hoài nghi".
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất chung, phổ biến của sự phát triển.
V.I.Lênin đã khái quát con đường đó như sau: "Sự phát triển hình như diễn lại những giai
đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn ("phủ định của phủ
định"); sự phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng...".
Khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc thể hiện tính chất biện chứng của sự
phát triển, đó là tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc
cũng như lặp lại, nhưng với một trình độ cao hơn. Sự tiếp nối của các vòng trong đường
xoáy ổc phản ánh quá trình phát triển vô tận từ thấp đến cao của sự vật, hiện tượng trong thế
giới. Trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng phủ định biện chứng đã đóng vai trò là
những "vòng khâu" của quá trình đó.
Tóm lại, nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định trong phép biện chứng
duy vật phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái phủ định và cái khẳng định trong quá
trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển, cái
mới ra đời là kết quả của sự kế thừa những nội dung tích cực từ trong sự vật, hiện tượng cũ,
phát huy nó trong sự vật, hiện tượng mới và tạo nên tính chu kỳ của sự phát triển. Nhận xét
về vai trò của quy luật này, Ph.Ăngghen đã viết: " .. phủ định cái phủ định là gì? Là một quy
luật vô cùng phổ biến vả chính vì vậy mà có một tầm quan trọng và có tác dụng vô cùng to
lớn về sự phát triển của tự nhiên, của lịch sử và của tư duy".
Câu 22) Ý nghĩa phương pháp luận quy luật phủ định của phủ định
- Là cơ sở để chúng ta nhận thức một cách đúng đắn về xu hướng vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó không diễn ra theo đường thẳng mà là con đường quanh
co, phức tạp, gồm nhiều giai đoạn, nhiều quá trình khác nhau. Tuy nhiên, tính đa dạng và
phức tạp của quá trình phát triển chỉ là sự biểu hiện của khuynh hướng chung, khuynh hướng
tiến lên theo quy luật. Cần phải nắm được đặc điểm, bản chất, các mối liên hệ của sự vật,
hiện tượng để tác động tới sự phát triến, phù hợp với yêu cầu hoạt động, nhận thức, biểu hiện
của thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng trong mọi hoạt động của chúng ta
và trong thực tiễn. Khẳng định niềm tin vào xu hướng tất yếu là phát trển tiến lên của cái tiến bộ.
Vận dụng quy luật này của VN trong việc lựa chọn con đường đi lên CNXH
– Quy luật này chỉ ra cách thức của sự phát triển là sau các lần phủ định sự vật dường như
quay trở lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Lịch sử XH loài người tất yếu sẽ phủ đinh
các chế độ tư hữu xây dựng chế độ công hữu, giải phóng con người khỏi áp bức bất công…
– Quy luật này chỉ ra sự phát triển theo đường xoáy ốc, quá trình phát triển có bước quanh co
phức tạp thậm chí có bước thụt lùi tam thời nên khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ
nhưng Đảng và Nhà nước ta không do dự mà lựa chọn lại con đường đi lên CNXH. ..
– Hiện nay CNXH hiện thực đang đứng trước những khó khăn không nhỏ, nhưng những khó
khăn đó chỉ là tạm thời, nhất định theo quy luật tất yếu của nhân loại tiến bộ sẽ xây dựng thành công CNXH…
Câu 23: Bản chất và trình độ của nhận thức? 1. Khái niệm
Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan
vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách
quan đó. VD: Tàu ngầm được sáng chế dựa trên hình dáng cá heo, máy bay dựa trên chim.
2. Các nguyên tắc xuất phát là cơ sở lý luận của quan niệm về nhận thức:
- Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
- Thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan vào bộ óc của con
người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể; thừa nhận không có cái gì là không thể
nhận thức được mà chỉ có những cái mà con người chưa nhận thức được.
- Khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo. Quá
trình phản ánh đó diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến nhiều, từ chưa sâu
sắc, chưa toàn diện đến sâu sắc và toàn diện hơn,…
- Coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức; là động lực, mục đích của
nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Như vậy, theo quan điểm duy vật biện chứng thì nhận thức thuộc phạm vi hoạt động
phản ánh của con người (với tư cách chủ thể nhận thức) đối với thế giới khách quan (với tư
cách khách thể nhận thức) được tiến hành thông qua hoạt động thực tiễn và nhằm sáng tạo tri
thức phục vụ hoạt động thực tiễn, đồng thời cũng lấy thực tiễn là tiêu chuẩn để xác định tính
chân lý của những tri thức đó.
VD: Trong lá cây có chứa chất diệp lục – điều hiển nhiên đúng trong tự nhiên, con
người phát hiện, nghiên cứu và tìm hiểu kĩ càng, sâu sắc và dựa trên chính thực tế lá cây để kiểm nghiệm.
3. Các trình độ của nhận thức: nhận thức kinh nghiệm, nhận thức lý luận; nhận
thức thông thường và nhận thức khoa học.
Với quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức nhất định phải là một quá trình, đó cũng
là quá trình đi từ trình độ nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý luận; từ trình độ
nhận thức thông thường đến trình độ nhận thức khoa học…
Nhận thức kinh nghiệm là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự
vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học. Kết quả là
những tri thức kinh nghiệm gồm tri thức kinh nghiệm thông thường và những tri thức kinh
nghiệm khoa học. Hai loại tri thức này có thể bổ sung cho nhau, làm phong phú lẫn nhau.
VD: các kinh nghiệm dân gian về thời tiết: Ráng mỡ gà có nhà thì giữ, Đêm tháng năm …
Nhận thức lý luận là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống trong
việc khái quát bản chất, qui luật của các sự vật, hiện tượng. VD: những kiến thức lí luận như
Bác Hồ dạy nông dân xóa mù chữ, dạy các chiến sĩ làm cách mạng,…
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau
nhưng có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau. Nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức
lý luận; cung cấp cho nhận thức lý luận tư liệu phong phú, cụ thể; là cơ sở hiện thực để kiểm
tra, hoàn thiện lý luận đã có và khái quát thành lý luận mới. Tuy nhiên, nhận thức kinh
nghiệm chỉ dừng lại ở sự mô tả, phân loại các sự kiện, các dữ kiện thu được từ quan sát và
thực nghiệm trực tiếp. Do đó nó chỉ đem lại những hiểu biết về các mặt riêng rẽ, bề ngoài rời
rạc, chưa phản ánh được cái bản chất, những mối liên hệ mang tính qui luật của các sự vật,
hiện tượng. Ngược lại, mặc dù được hình thành từ sự tổng kết những kinh nghiệm, nhưng
nhận thức lý luận không hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ kinh nghiệm. Do tính độc
lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình
thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh nghiệm hợp lý để phục vụ
cho hoạt động thực tiễn, thông qua đó mà nâng cao những tri thức kinh nghiệm từ chỗ cụ thể,
đơn nhất thành cái khái quát, phổ biến.
Nhận thức thông thường là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp
từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất
cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật. Vì vậy, nhận thức
thông thường mang tính phong phú, gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày,
chi phối hoạt động của con người trong xã hội. VD: Nhìn một người khỏe mạnh, da dẻ hồng
hào, ta biết được họ có chế độ ăn uống khoa học, tập luyện hợp lí, đời sống lành mạnh,…
Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ
sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu, diễn ra
dưới dạng trừu tượng logic. Đó là các khái niệm, phạm trù và các qui luật khoa học. Nhận
thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái quát lại vừa có tính hệ thống, có căn
cứ và có tính chân thực. VD: các sáng kiến, phát minh: bóng đèn điện, máy tính, trí tuệ nhân
tạo AI,…, các định luật khoa học: 3 đluật Newton, Pytago,…
Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau về chất
của quá trình nhận thức nhằm đạt tới những tri thức chân thực. Giữa chúng có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức thông thường có trước nhận thức khoa
học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa học. Mặc dù đã chứa đựng
những mầm móng của những tri thức khoa học, song nhận thức thông thường chủ yếu vẫn
chỉ dừng lại ở sự phản ánh cái bề ngoài, ngẫu nhiên, không bản chất của đối tượng và tự nó
không thể chuyển thành nhận thức khoa học. Muốn phát triển thành nhận thức khoa học cần
phải thông qua quá trình tổng kết, trừu tượng, khái quát đúng đắn của các nhà khoa học.
Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học nó lại có tác động trở lại nhận thức thông
thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận thức thông thường phát
triển, tăng cường nội dung khoa học.
Câu 24. Thực tiễn là gì? Các hình thức cơ bản của thực tiễn
a. Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn là gì? là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử-
xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. Thực tiễn là hoạt động khi con người
sử dụng công cụ tác động vào đối tượng vật chất làm cho đối tượng đó thay đổi theo mục
đích của mình. Thực tiễn có ba đặc trưng là hoạt động vật chất cảm tính, lịch sử-tự nhiên và tính mục đích.
VD: xây nhà, xây dựng các công trình công cộng: thủy điện, nhà máy, công viên, …
Các hình thức của thực tiễn.
1) Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức cơ bản, quan trọng nhất của thực tiễn. Lao
động là cơ sở vật chất cho các loại hoạt động khác của con người; là hoạt động đã đưa con
người từ trạng thái thú vật lên trạng thái con người, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của
con người nói riêng và xã hội loài người nói chung. VD: Từ thời nguyên thủy, con người lao
động, biến đá thành công cụ lao động sản xuất để phục vụ cuộc sống, biết sử dụng lửa để nấu
chín thức ăn, không ăn tươi nuốt sống như động vật ăn thịt.
2) Hoạt động cải tạo xã hội (chính trị-xã hội) là hoạt động nhằm cải tạo hiện thực xã
hội, cải biến những quan hệ xã hội nên có tác dụng trực tiếp đối với sự phát triển xã hội, đặc
biệt là thực tiễn cách mạng xã hội. VD: Làm cách mạng, tiến hành xây dựng nông thôn mới, …
3) Hoạt động thực nghiệm là hình thức đặc biệt của thực tiễn. Thực nghiệm bao gồm
thực nghiệm sản xuất, thực nghiệm khoa học và thực nghiệm xã hội, được tiến hành trong
điều kiện nhân tạo nhằm rút ngắn thời gian của các quá trình biến đổi để dựa trên cơ sở đó
nhận thức thế giới, chứng minh tính chân thực của nhận thức. VD: Quá trình xây dựng đất
nước sử dụng chất xám như làm kinh tế, học tập, nghiên cứu các loại thuốc phòng chống các loại bệnh,…
4) Các hoạt động thực tiễn không cơ bản như giáo dục, nghệ thuật, pháp luật, đạo đức,
… được mở rộng và có vai trò ngày càng tăng đối với sự phát triển của xã hội do đời sống xã
hội ngày càng phát triển, ngày càng thêm đa dạng. Trong đó, hoạt động sản xuất vật chất quy
định các hình thức còn lại của thực tiễn và đến lượt mình, các hình thức đó tác động ngược
trở lại hoạt động sản xuất vật chất. VD: công nghệ thông tin 4.0, máy móc phát triển, sử
dụng trí tuệ nhân tạo -> con người có công cụ lao động hiện đại, sản xuất và lao động dễ
dàng, thuận tiện hơn -> kinh tế, xã hội phát triển -> các nghề thủ công dần bị mất đi vì có
máy móc tự động hóa làm thay -> hoạt động sản xuất lúc này là sáng tạo ra các máy móc đó.
Câu 25. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
1) Thực tiễn là cơ sở của nhận thức. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết được
cấu trúc; tính chất và các mối quan hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối tượng.
Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của
nhận thức. Chính nhu cầu giải thích, nhận thức và cải tạo thế giới buộc con người tác động
trực tiếp vào đối tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Chính sự tác động đó đã làm cho
các đối tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và các quan hệ khác nhau giữa
chúng đem lại cho con người những tri thức, giúp cho con người nhận thức được các quy
luật vận động và phát triển của thế giới.
VD: Khi ném hòn đá vào một tấm kính, thấy tấm kính đó vỡ ra khi chúng ta sẽ biết rằng
kính có thuộc tính dễ vỡ.
2) Thực tiễn là mục đích và động lực thúc đẩy quá trình vận động, phát
triển của nhận thức.
Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng nhu cầu nâng cao năng lực
thực tiễn để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người. Hoạt
động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác quan, tạo ra khả năng phản ánh nhạy bén, chính
xác; tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng năng lực phản ánh của con người đối với tự
nhiên. Thực tiễn luôn vận động, phát triển nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức vận động,
phát triển theo. Những tri thức được áp dụng vào thực tiễn đem lại động lực kích thích quá
trình nhận thức tiếp theo.
VD: Công nghệ tiên tiến, thay đổi từng ngày từng giờ, đòi hỏi con người phải luôn luôn trau
dồi, tìm hiểu, bắt kịp với xu thế phát triển của công nghệ.
Việc học tập đặt ra yêu cầu học sinh phải giải những bài khó, học kiến thức mới nâng cao
hơn, mỗi khi giải quyết được những vấn đề đó, nhận thức của học sinh được tăng lên.
3) Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý. Mọi sự biến đổi của nhận thức thường xuyên chịu
sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn. Thực tiễn có vai trò là tiêu chuẩn, thước đo giá trị
(chân lý) những tri thức đã đạt được; đồng thời bổ sung, phát triển và hoàn thiện nhận thức.
VD: Qua 2 cuộc kháng chiến trường kì chống Pháp và Mỹ, Bác Hồ đã chứng minh chân lí:
Không có gì quý hơn độc lập tự do. Nhà thám hiểm Ma-gien-lăng đã đi vòng quanh thế giới,
phát hiện ra Thái Bình Dương và khẳng định Trái Đất có hình cầu, bác bỏ tư tưởng Trái Đất hình dẹt.
Như vậy, thực tiễn không những là yếu tố đóng vai trò quy định đối với sự hình thành
và phát triển của nhận thức, mà còn là nơi nhận thức phải luôn hướng tới để thể nghiệm tính
đúng đắn của mình. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta quán triệt quan
điểm thực tiễn: yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, từ nhu cầu thực tiễn; lấy
thực tiễn làm tiêu chuẩn nhận thức. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn; nếu xa
rời thực tiễn sẽ dẫn đến bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc; ngược lại, nếu tuyệt
đối hoá vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa. (liên hệ
với chính sách của Đảng để phục vụ cuộc sống nhân dân) Câu 26:
Trình bày giai đoạn nhận thức cảm tính trong quá trình nhận thức
Quan điểm của V.I.Lênin về con đường biện chứng của nhận thức chân lý. “Từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường
biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan”
Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) là những tri thức do các giác quan mang
lại. Nét đặc trưng cơ bản ở giai đoạn này là nhận thức được thực hiện trong mối liên hệ trực
tiếp với thực tiễn thông qua các nấc thang cảm giác, tri giác, biểu tượng.
VD: Nhìn cái cây ta thấy ngay màu xanh; đi qua dòng sông ta thấy mênh mông thoáng đãng …
Những thành phần của nhận thức cảm tính
1) Cảm giác là tri thức được sinh ra do sự tác động trực tiếp của sự vật, hiện tượng lên
các giác quan của con người.
2) Tri giác là sự tổng hợp (phối hợp, bổ sung lẫn nhau) của nhiều cảm giác riêng biệt
vào một mối liên hệ thống nhất tạo nên một hình ảnh tương đối hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng.
3) Biểu tượng được hình thành nhờ sự phối hợp hoạt động, bổ sung lẫn nhau của các
giác quan và đã có sự tham gia của các yếu tố phân tích, trừu tượng và khả năng ghi nhận
thông tin của não người.
Kết quả của nhận thức ở giai đoạn trực quan sinh động là không những chỉ là nhận
thức “bề ngoài” về sự vật, hiện tượng, mà đã có “chất”. Tuy vậy, giai đoạn trực quan sinh
động chưa đưa lại nhận thức hoàn chỉnh, khái quát về sự vật, hiện tượng; các nấc thang khác
nhau của giai đoạn này trong quá trình nhận thức mới chỉ là tiên đề cho nhận thức về bản
chất sự vật, hiện tượng.
VD: Nhìn thấy quả cam, ta thấy vỏ xanh, có nhiều múi nhỏ, ăn thấy vị chua. Tổng hợp
tất cả các cảm giác trên được tri giác về quả cam. Từ đó hình thành nhận thức biểu tượng về
quả cam. Nhưng đó chỉ là bề ngoài của quả cam. Chỉ như thế ta chưa nắm được những đặc
tính khác của quả cam: có tính axit, lượng đường cao, hay ở vỏ quả cam có tính hăng,…
Câu 27. Trình bày quan niệm về giai đoạn nhận thức lý tính trong quá trình nhận thức
Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) bắt nguồn từ trực quan sinh động và từ lý luận
do thế hệ trước truyền lại. Nhận thức lý tính phản ánh sâu sắc, chính xác và đầy đủ hơn về
khách thể nhận thức. VD: Kinh nghiệm dân gian: Trông mặt mà bắt hình dong/Con lợn có béo thì lòng mới ngon,…
Những thành phần của nhận thức lý tính
1) Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh đặc tính cơ bản của
SVHT. VD: Định nghĩa về gió: là luồng không khí chuyển động từ đai áp cao xuống đai áp thấp.
2) Phán đoán là hình thức tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng định
hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của sự vật, hiện tượng; là hình thức phản
ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan vào ý thức con người tạo
nên vai trò của phán đoán là hình thức biểu hiện và diễn đạt các quy luật khách quan.
VD: Nhiều mây đen – trời mưa, phán đoán giá vàng,…
3) Suy luận là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri
thức mới theo phương pháp phán đoán cuối cùng được suy ra từ những phán đoán tiên đề
(suy luận là quá trình đi từ những phán đoán tiên đề đến một phán đoán mới).
VD: Newton phán đoán trong môi trường lí tưởng không có ma sát thì các vật đang
chuyển động sẽ tiếp tục chuyển động, đang đứng yên sẽ tiếp tục đứng yên, từ đó rút ra định luật 1 Newton.
Kết quả của nhận thức trong giai đoạn tư duy trừu tượng là nhờ phương pháp trừu
tượng hoá và khái quát hoá các thông tin, tài liệu do trực quan sinh động và tư duy trừu
tượng do các thế hệ trước để lại, tư duy trừu tượng phản ánh hiện thực sâu sắc hơn; phản ánh
được những thuộc tính và mối quan hệ bản chất mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng.
Mối quan hệ biện chứng giữa hai giai đoạn nhận thức:
1) Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai giai đoạn của một quá trình nhận thức. Tuy
có những sự khác nhau về mức độ phản ánh hiện thực khách quan, nhưng giữa hai quá trình
đó có sự liên hệ, tác động qua lại. Trực quan sinh động là cơ sở tất yếu của tư duy trừu
tượng, trên thực tế, nhận thức lý tính không thể thực hiện nếu thiếu tài liệu do nhận thức cảm
tính mang lại và ngược lại, nhận thức lý tính sẽ làm cho nhận thức cảm tính sâu sắc và chính xác hơn.
VD: Khi bác Hồ mới về nước, Bác nắm được tình hình đất nước qua quan sát và nghe các
cán bộ báo cáo. Đây là tiền đề để Bác đưa ra chiến lược và chính sách phù hợp vừa cải thiện
cuộc sống nhân dân vừa kháng chiến (NTCT). Từ thực tế như vậy, Bác nghiên cứu, tiên đoán
những khả năng có thể xảy ra tiếp theo để quyết định đường lối đúng đắn nhất (NTLT)
2) Mỗi kết quả của nhận thức, mỗi nấc thang mà con người đạt được trong nhận thức thế giới
khách quan đều là kết quả của cả trực quan sinh động (điểm khởi đầu) và tư duy trừu tượng
(tổng hợp những tri thức của trực quan sinh động thành các kết quả của nhận thức và thực
tiễn là nơi kiểm nghiệm tính chân thực của các kết quả đó của nhận thức) được thực hiện trên
cơ sở thực tiễn, do thực tiễn quy định.
VD: Khi mới gặp một người, cảm nhận ban đầu cho ta thấy người đó dễ gần, vui tính,…
(NTCT), qua tiếp xúc lâu dài, ta thấy được nhiều đặc điểm ở người đó hơn: gia trưởng, bảo thủ,… (NTLT)
3) Mỗi giai đoạn nhận thức có những nét đặc trưng riêng. Nhận thức cảm tính gắn liền với thực
tiễn và sự tác động trực tiếp của khách thể lên các giác quan của chủ thể, nhận thức lý tính
bao quát sự vật, hiện tượng. Tuy vậy, nhận thức ở giai đoạn này nhất thiết phải được thực
tiễn kiểm nghiệm, chứng minh nhằm tránh nguy cơ ảo tưởng, viển vông. Đó là thực chất của
mệnh đề “từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”.
VD: Qua quan sát tình hình thi đua trong một lớp học (NTCT), ta thấy được những điểm
mạnh và điểm yếu của tập thể lớp, từ đó, tổng kết và đánh giá được tinh thần cạnh tranh học
tập của lớp đó (NTLT) đề ra và áp dụng những phương pháp kích thích thi đua học tập phù hợp.
4) Mỗi chu trình nhận thức đều phải đi từ thực tiễn đến trực quan sinh động rồi đến tư duy trừu
tượng rồi đến thực tiễn. Trong đó, thực tiễn giữ vai trò là điểm bắt đầu và khâu kết thúc của
chu trình đó. Nhưng sự kết thúc chu trình nhận thức này lại là sự khởi đầu của chu trình nhận
thức mới ở mức độ cao hơn, rộng hơn chu trình cũ và cứ thế vận động mãi làm cho nhận
thức của con người ngày càng sâu hơn, nắm được bản chất và quy luật của thế giới khách quan.
VD: Quan sát con gà – Nắm được đặc điểm bên ngoài – Nghiên cứu về đặc điểm sinh lí, đặc
tính sinh trưởng và phát triển,… - Kiến thức nâng cao, có phương pháp nuôi gà hiệu quả.
5) Trên con đường nhận thức đó, cứ mỗi lần mâu thuẫn trong nhận thức được giải quyết thì lại
xuất hiện mâu thuẫn mới. Mỗi lần giải quyết mâu thuẫn của nhận thức là một lần nhận thức
được nâng lên trình độ mới, chính xác hơn, loại bỏ dần những nhận thức sai đã phạm phải.
Kết quả của quá trình đó là hình ảnh chủ quan được tạo ra ngày càng có tính bản chất, khách quan và cụ thể.
VD: 10000 thí nghiệm của Edison.
B. GỢI Ý Vận dụng vấn đề này vào quá trình học tập của bản thân
- Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi trong hoạt động
nhận thức con người phải xuất phát từ thực tiễn để đạt đc chân lý, coi chân lý là 1 quá trình,
đồng thời phải thường xuyên tự giác vận dụng chân lý vào hoạt dộng thực tiễn để phát triển thực tiễn.
- Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó vào hoạt động
kinh tế xã hội, nâng cao hiệu quả của hoạt động thực tiễn của con người. Câu 28: K
hái niệm và các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất-kỹ thuật của hình thái kinh tế-xã hội; là mối
quan hệ giữa con người với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất vật chất, thể hiện năng lực
thực tế chinh phục giới tự nhiên bằng sức mạnh của con người trong quá trình đó. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất quy định sự hình thành, tồn tại và chuyển hoá giữa các hình thái
kinh tế-xã hội, từ hình thái thấp, ít tiến bộ lên hình thái cao, tiến bộ hơn.
VD: Công nghệ 4.0, Người công nhân đứng cạnh cái máy kéo đã chết thì chưa là LLSX,
kinh nghiệm lao động của con người,…
Các yếu tố của lực lượng sản xuất:
1) Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động - bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào
sản xuất, chịu sự tác động của con người (nông nghiệp, công nghiệp nặng,…); công cụ lao
động - những vật thể hay phức hợp vật thể nối con người với đối tượng lao động, truyền tác
động từ con người đến đối tượng lao động (cuốc, xẻng, máy tính, máy xúc,…); phương tiện
lao động gồm đường xá, cầu cống, kho tàng, bến bãi, phương tiện vận chuyển và thông tin liên lạc.
2) Người lao động là những người có thể lực, kỹ năng, kinh nghiệm lao động và biết sử dụng tư
liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Người lao động phát triển về thể lực, trí lực, nhạy bén
và tính sáng tạo trong lao động. Trí tuệ cao, trình độ chuyên môn giỏi, đạo đức nghề nghiệp
trong sáng là những yếu tố quan trọng của người lao động. VD: bác sĩ, kĩ sư, nông dân,…
3) Khoa học được coi là một trong những yếu tố thành phần của lực lượng sản xuất. Hiện nay,
khái niệm khoa học còn được mở rộng sang lĩnh vực công nghệ. Khoa học-công nghệ đang
trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp", trở thành "lực lượng sản xuất độc lập" là đặc điểm
thời đại của sản xuất vật chất hiện nay.VD: Trí tuệ nhân tạo AI, Người nông dân Mỹ áp dụng
khoa học kỹ thuật vào sản xuất cho ra đời quả bí đỏ nặng 437kg
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là trình độ của công cụ lao động; trình độ tổ
chức và phân công lao động xã hội; trình độ ứng dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất;
kinh nghiệm, kỹ năng lao động thể hiện qua khả năng chinh phục tự nhiên của con người.
Câu 29. Khái niệm và các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất thể hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất
(sản xuất và tái sản xuất xã hội); là quan hệ cơ bản, quy định mọi quan hệ xã hội khác; phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và là
tiêu chuẩn khách quan để phân biệt chế độ xã hội. Trong quy luật này, quan hệ sản xuất mang
tính thứ hai, do lực lượng sản xuất quy định.
VD: trong 1 nhà máy khi công nhân góp cổ phần thì họ vừa có quyền sở hữu và quyền sử dụng.
Các yếu tố của quan hệ sản xuất.
1) Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất - là quan hệ sở hữu giữa “những nhóm
người”; quy định địa vị của từng nhóm người trong sản xuất xã hội. VD: Địa chủ - Nông dân
2) Quan hệ trong tổ chức, quản lý và phân công lao động có khả năng quy định quy mô, tốc độ,
hiệu quả và xu hướng của sản xuất vật chất cụ thể. VD: Chủ tịch, tổng giám đốc, trưởng
phòng, phó phòng, thư kí, nhân viên,…
3) Quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất vật
chất. Tính chất và hình thức phân phối, mức độ thu nhập của các giai cấp và của các tầng lớp
xã hội đều phụ thuộc vào quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức, quản lý và
phân công lao động. VD: người mua – người bán
Trong quá trình sản xuất vật chất, ba thành phần cơ bản trên đây của quan hệ sản xuất
có quan hệ hữu cơ với nhau tạo nên sự ổn định tương đối so với sự vận động thường xuyên
của lực lượng sản xuất. Mỗi yếu tố của quan hệ sản xuất có vai trò và ý nghĩa tác động lên
sản xuất xã hội khác nhau; trong đó quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất đóng vai trò quy định đối
với hai quan hệ còn lại và quan hệ trong tổ chức, quản lý và phân công lao động và quan hệ
trong phân phối sản phẩm lao động có thể góp phần củng cố, phát triển quan hệ sản xuất và
cũng có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu tư liệu đó.
Câu 30. Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất
1) Lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định quan hệ sản xuất
– Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất và cách mạng nhất, là nội dung của phương thức sản
xuất, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, là hình thức xã hội của phương thức
sản xuất. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình thức.
VD: Thời phong kiến, làm nông là chủ yếu nên hình thành QHSX địa chủ - nông dân.
– Lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất biến đổi theo phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất. Khi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất phát triển
đến mức nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có, đòi hỏi xoá bỏ quan hệ sản xuất
cũ để hình thành quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất đang phát triển, làm
phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới xuất hiện. VD: săn bắn hái lượm
– trồng trọt chăn nuôi – thuê người làm – làm nông trên diện rộng…
– Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao qua các thời kỳ lịch sử khác nhau đã
quyết định sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cao hơn, đưa loài
người trải qua nhiều hình thái kinh tế – xã hội khác nhau từ thấp lên cao, với những kiểu
quan hệ sản xuất khác nhau. VD: Chiếm hữu nô lệ - Phong kiến - TBCN 2.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
– Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất sẽ tạo
địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, trở thành động lực cơ bản thúc
đẩy, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. VD: trong cơ quan xí nghiệp sản xuất
hàng hóa nhiều và tốt, năng suất lao động tăng, người lao động hăng hái sản xuất.
– Khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu không còn phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất thì nó trở thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất. VD: sản phẩm máy moc thủ công – hai người lái máy cày bằng người
cuốc ruộng suy ra không còn đúng, dẫn đến cản trở; ở Việt Nam xây dựng hợp tác xã cấp cao
quá nhanh (cấp xã) cải tạo công thương nghiệp ồ ạt, mang tính chiến dịch trong khi trình độ
lực lượng sản xuất thấp kém.
– Quan hệ sản xuất có thể tác động (thúc đẩy kìm hãm) sự phát triển của lực lượng
sản xuất, vì nó quy định mục đích của sản xuất; ảnh hưởng đến thái độ lao động của quần
chúng; kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ, việc áp dụng thành tựu khoa học – kỹ
thuật vào sản xuất, việc hợp tác và phân công lao động, v.v.. VD: Mối quan hệ giữa sếp và
nhân viên tốt, sếp có nhiều chính sách khen thưởng xứng đáng thì nhân viên tích cực làm
việc hiệu quả, doanh thu cao.
– Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp và chỉ thông qua đấu tranh giai cấp mới giải
quyết được mâu thuẫn đó để đưa xã hội tiến liên. VD: vô sản – tư bản.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất biểu hiện sự vận động nội tại của phương thức sản xuất khác cao hơn. Quy luật này
là quy luật phổ biến tác động trong mọi xã hội, làm cho xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao.
VD: Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất ở nước ta: chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa từ một nước công nghiệp lạc hậu với lực lượng sản xuất đậm chất nông nghiệp với
quan hệ làm chung, chia đều nên đã gặp phải những khó khăn lớn trong những năm trước
năm 1986; sau năm 1986 lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, quan hệ sản xuất cũng đa
dạng hơn nên sau hơn 15 năm, nước ta đã từ một nước nông nghiệp lạc hậu chuyển dần lên
thành một nước công hoá. VẬN DỤNG
Từ lý luận và thực tiễn cho chúng ta thấy rằng, lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển
khi có một quan hệ sản xuất phù hợp với nó. Trong công cuộc đổi mới kể từ Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI (1986), VII (1991), VIII (1996) và lần thứ IX (2001), Đảng ta đã “chủ
trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trườmg có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
Đường lối đó xuất phát từ trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta vừa thấp kém, vừa
không đồng đều nên chúng ta không thể nóng vội, chủ quan như trước đây để xây dựng một
quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Như thế, sẽ
đẩy quan hệ sản xuất vượt quá xa (không phù hợp) so với lực lượng sản xuất vốn có. Vì vậy,
thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ
nghĩa là nhằm khơi dậy tiềm năng của sản xuất, năng lực sáng tạo, chủ động, kích thích lợi
ích… đối với các chủ thể lao động trong quá trình sản xuất, kinh doanh để thúc đẩy sản xuất
phát triển theo đúng mục đích “Phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng
cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt
sở hữu, quản lý và phân phối”
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, do vậy, trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đi đôi với việc củng cố quan hệ sản xuất là phát triển lực
lượng sản xuất bằng cách tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đảng ta đã khẳng định:
“về thực chất, công nghiệp hoá, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ
công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương
tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa
học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Vấn đề then chốt của quá trình này là
cải biến lao động thủ công thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến trong toàn bộ nền kinh
tế để đạt được năng suất lao động xã hội cao. Song, đó không chỉ là sự tăng thêm một cách
giản đơn tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà còn là cả một quá
trình chuyển dịch cơ cấu, gắn liền với đổi mới công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng
bền vững và có hiệu quả cao của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, có thể nói, công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay là một quá trình rộng lớn và
phức tạp, được triển khai đồng thời với quá trình hiện đại hóa và luôn gắn bó với quá trình
hiện đại hóa. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ấy phải thật sự lấy phát triển giáo dục
– đào tạo, khoa học và công nghệ làm nền tảng và động lực. Phát triển giáo dục – đào tạo
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi về
nguồn nhân lực của công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Câu 32. Khái niệm cơ sở hạ tầng và các yếu tố cầu thành cơ sở hạ tầng
Định nghĩa. Cơ sở hạ tầng là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất
tạo nên cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
VD: cơ sở hạ tầng của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay là
một kết cấu kinh tế nhiều thành phần (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân tư
bản,...) trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Các yếu tố của cơ sở hạ tầng.
1) QHSX của phương thức sản xuất trước đó (QHSX tàn dư).VD: Phong kiến
2) QHSX của phương thức sản xuất đang tồn tại chủ đạo (QHSX thống trị). VD: XHCN
3) QHSX của phương thức sản xuất tương lai (QHSX mầm mống tương lai). VD: CSCN
Các yếu tố của cơ sở hạ tầng- hệ thống các quan hệ sản xuất của một phương thức sản
xuất nhất định- một mặt, trong quan hệ đối với lực lượng sản xuất, giữ vai trò là hình thức
kinh tế cho sự duy trì, phát huy và phát triển lực lượng sản xuất đang tồn tại; mặt khác- trong
quan hệ đối với các quan hệ chính trị-xã hội, giữ vai trò là cơ sở hình thành kết cấu kinh tế-
cơ sở cho sự thiết lập kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Câu 33. Khái niệm kiến trúc thượng tầng và các yếu tố cấu thành
Định nghĩa: là toàn bộ những quan điểm xã hội (chính trị, pháp luật, triết học, đạo
đức, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học v.v) với những thiết chế tương ứng (nhà nước, đảng phái,
giáo hội, các đoàn thể xã hội v.v) và những mối quan hệ nội tại giữa các yếu tố đó của kiến
trúc thượng tầng. Toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là
cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý, chính trị và những
hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hạ tầng hiện thực đó.
VD: Tư tưởng HCM, CN Mác – Lê-nin, Mặt trận Tổ quốc VN, Hội Phụ nữ,…
Các yếu tố cơ bản của một kiến trúc thượng tầng
1) quan điểm xã hội và thiết chế tương ứng của giai cấp đang thống trị. VD: Bản chất của
nhà nước, pháp luật xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam đều do quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa qui định. Do đó, bản chất của nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là
nhà nước của dân, do dân và vì dân.
2) tàn dư những quan điểm xã hội của xã hội trước.
3) quan điểm và tổ chức xã hội của các giai cấp mới ra đời.
4) quan điểm và tổ chức xã hội của các tầng lớp trung gian.
Những quan điểm xã hội và thiết chế tương ứng của giai cấp đang thống trị quy định tính
chất kiến trúc thượng tầng. Bộ phận có quyền lực mạnh nhất của kiến trúc thượng tầng trong
xã hội có giai cấp là nhà nước; công cụ vật chất cụ thể của giai cấp thống trị về mặt kinh tế,
chính trị và pháp luật. Nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới được truyền
bá và thống trị được đời sống xã hội. Giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế và nắm chính
quyền nhà nước thì hệ tư tưởng và các thể chế giai cấp đó cũng giữ địa vị thống trị trong xã hội.
Câu 34. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng –
Cơ sở hạ tầng sinh ra kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng của một xã hội nhất
định như thế nào, tính chất của nó ra sao, giai cấp đại diện cho nó thế nào thì hệ thống tư
tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, v.v.. và các quan hệ; các thể chế tương ứng
với những tư tưởng ấy cũng như vậy. VD: QHSX phong kiến sinh ra Nhà nước phong kiến. –
Cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó
xảy ra trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự biến đổi
đó diễn ra thông qua cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp. VD: chuyển từ QHSX PK
sang QHSX TBCN đồng thời chuyển từ nhà nước PK sang nhà nước TBCN. –
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc tượng tầng là quy luật phổ biến của mỗi hình
thái kinh tế - xã hội. VD: thời nào cũng thế, PK – TBCN – XHCN.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
– Bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó; đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng cũ.
– Các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ tầng bằng nhiều
hình thức khác nhau, trong đó nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng có tác động to lớn
nhất và trực tiếp đối với cơ sở hạ tầng.
– Trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội, kiến trúc thượng tầng có những quá trình biến đổi nhất
định. Quá trình đó càng phù hợp với cơ sở hạ tầng thì sự tác động của nó đối với cơ sở hạ
tầng càng có hiệu quả và ngược lại.
– Trong thời đại ngày nay, vai trò của kiến trúc thượng tầng tăng lên rõ rệt, càng thể hiện với tư
cách là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử. Song nếu quá nhấn mạnh hoặc
thổi phồng vai trò của kiến trúc thượng tầng đến mức phủ định tính tất yếu kinh tế của xã
hội, thì sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan, duy ý chí.
VD: Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta
– Cơ sở hạ tầng trong thời ký quá độ ở nước ta bao gồm các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với
các hình thức sở hữu tương ứng với các thành phần kinh tế khác nhau, thậm chí đối lập nhau,
cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế thống nhất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
– Về xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là hệ thống chính trị xã hội
mang tính chất giai cấp công nhân, do đội tiền phong của nó là Đảng cộng sản Việt Nam.
Các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị – xã hội không tồn tại như một mục đích tự
thân mà vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích và quyền lực thuộc về nhân dân lao động.
Nêu những đặc điểm của cơ sở hạ tầng và kiến trúc hạ tầng ở nước ta hiện nay
Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế như: kinh tế
nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân,
cùng các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập
nhau cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần đó vừa khác nhau về vai
trò, chức năng, tính chất, lại vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân
thống nhất, chúng vừa cạnh tranh nhau, vừa liên kết, bổ sung với nhau.
Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước phải sử
dụng tổng thể các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục. Trong đó biện pháp kinh tế có
vai trò quan trọng nhất nhằm từng bước xã hội hoá nền sản xuất với hình thức và bước đi
thích hợp theo hướng: kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò
chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các
ngành nghề, các hình thức xí nghiệp, công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia
đình phát huy được mọi tiềm năng.
Đảng ghi rõ “phải tập trung nguồn vốn đầu tư nhà nước cho việc xây dựng cơ sở hạ
tầng kinh tế xã hội và một số công trình công nghiệp then chốt đã được chuẩn bị vốn và công
nghệ. Nâng cấp và xây dựng mới hệ thống giao thông, sân bay, bến cảng, thông tin liên lạc,
giáo dục và đào tạo, y tế ”, “Từ nay tới cuối thập kỷ, phải quan tâm tới công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp
gắn với công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”.
Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân ta, giải phóng
con người khỏi chế độ bóc lột thoát khỏi nỗi nhục của mình là đi làm thuê bị đánh đập, lương ít.
Bởi vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, việc giáo dục
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởnh chủ đạo trong đời
sống tinh thần của xã hội là việc làm thường xuyên, liên tục của cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa trên lĩnh vực kiến trúc thượng tầng.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ:
“xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa , nhà nước của dân, do dân và vì dân, liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản
lãnh đạo ”. Như vậy, tất cả các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị - xã hội kkhông
tồn tại như một mục đích tư nhân mà vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích và
quyền lợi thuộc về nhân dân lao động.
Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một bước giải quyết
mâu thuẫn giữa chúng. Việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng điều chỉnh và củng cố các bộ
phận của kiến trúc thượng tầng là một quá trình diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ.
Câu 35. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cấu thành
Tồn tại xã hội là toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội bao gồm:
Hoàn cảnh địa lý. VD: các điều kiện khí hậu, đất đai, sông hồ,… tạo nên đặc điểm
riêng có của không gian sinh tồn của cộng đồng xã hội.
Điều kiện dân số. VD: cách thức và mô hình tổ chức dân cư, tính chất lưu dân cư.
Phương thức sản xuất ra của cải vật chất. VD: phương thức kỹ thuật canh nông lúa
nước là nhân tố cơ bản tạo thành điều kiện sinh hoạt vật chất truyền thống của người Việt Nam.
Trong ba nhân tố đó thì phương thức sản xuất của cải vật chất là nhân tố quyết định đối
với tồn tại xã hội. VD: Trong điều kiện địa lý tự nhiên nhiệt đới, gió mùa, nhiều sông ngòi,...
tất yếu làm hình thành nên phương thức canh tác lúa nước là thích hợp nhất đối với người
Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm qua. Để tiến hành được phương thức
đó, người Việt buộc phải co cụm lại thành tổ chức dân cư làng, xã, có tính ổn định bền vững.
Câu 36 Khái niệm ý thức xã hội và các cấp độ của ý thức xã hội
Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm những tư tưởng, quan
điểm, lý luận, tình cảm, tâm trạng, tập quán, truyền thống v.v.. phản ánh tồn tại xã hội trong
những giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử.
Ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội và hệ tư tưởng, có chung một nguồn gốc là phản
ánh tồn tại xã hội và giữa chúng có quan hệ tác động lẫn nhau. Những hệ tư tưởng xã hội
không nảy sinh tự phát từ tâm lý xã hội và không phải là sự biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã hội.
- Tâm lý xã hội - là hiện tượng tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ những
tình cảm, tâm trạng, tập quán, thói quen, tập quán,… của con người, của một bộ phận xã hội
hoặc của toàn xã hội được hình thành một cách tự phát dưới tác động trực tiếp của điều kiện
sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó. VD: Thói quen ăn trầu, nhuộm răng đen, tính tò mò,…
- Hệ tư tưởng bao gồm những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa thành lý
luận, thành các học thuyết về xã hội, được hình thành một cách tự giác. Với tính cách là hệ
thống lý luận về xã hội, hệ tư tưởng có vai trò chỉ đạo thực tiễn, hoạt động cải tạo xã hội của
giai cấp. VD: hệ tư tưởng phong kiến, Khổng Tử, hệ tư tưởng tư sản, …
Trong xã hội có giai cấp xã hội có tính giai cấp. Tính giai cấp của ý thức xã hội thể
hiện cả trong hiện tượng tâm lý xã hội và hệ tư tưởng. Về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp có
tình cảm, tâm trạng, thói quen, riêng. Về mặt hệ tư tưởng thì tính giai cấp thể hiện sâu sắc
hơn. Các giai cấp đối khác nhau thì có các quan điểm chính trị, đạo đức, pháp luật khác
nhau, thậm chí đối lập nhau.
VD: các quan điểm chính trị, pháp luật, v.v của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị thường đối
lập nhau. Tư tưởng của thời đại là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị của
thời đại đó. Ý thức xã hội của các giai cấp khác nhau tác động lẫn nhau.
Câu 37. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử, khi xác định tồn tại xã hội là một hình thức đặc biệt của vật
chất, có xuất phát điểm từ "không phải ý thức của con người quy định sự tồn tại của họ, mà
ngược lại, tồn tại xã hội của họ quy định ý thức của họ" và khẳng định "ý thức xã hội phản
ánh tồn tại xã hội". Sự phản ánh đó là quá trình biện chứng phức tạp, là kết quả của mối liên
hệ tích cực giữa con người với thực tiễn.
a. Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội
1) Tồn tại xã hội là cái thứ nhất, ý thức xã hội là cái thứ hai. Tồn tại xã hội quy định
nội dung, bản chất, xu hướng vận động của ý thức xã hội; ý thức xã hội phản ánh cái lôgíc
khách quan của tồn tại xã hội. Sự biến đổi của một thời đại nào đó sẽ không thể giải thích
được nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại đó, mà phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu
thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ xã hội.
VD: Những người dân miền Tây sống quen với sông nước nên hình thành nền văn hóa sông
nước và kinh tế phát triển dựa trên những lợi ích khai thác được từ sông nước.
2) Tồn tại xã hội thay đổi là điều kiện quyết định để ý thức xã hội thay đổi. Mỗi khi
tồn tại xã hội, đặc biệt là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội
cũng dần biến đổi theo. Chính vì vậy, ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, nếu có những quan
điểm, tư tưởng, học thuyết xã hội khác nhau về cùng một vấn đề thì đó là do những điều kiện
khác nhau của đời sống vật chất của các thời kỳ lịch sử khác nhau quy định.
VD: Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ của lực lượng sản xuất còn hết sức thấp kém, mọi
người còn sống chung, làm chung, hưởng chung nên chưa có quan niệm tư hữu, chưa có ý
thức bóc lột. Nhưng khi chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã, chế độ tư hữu ra đời xã hội phân
chia giầu nghèo, bóc lột và bị bóc lột thì ý thức con người cũng thay đổi căn bản: tư tưởng ăn
bám, tư hữu, bóc lột, chủ nghĩa cá nhân…xuất hiện.
3) Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội không giản đơn, trực tiếp mà thường thông
qua các khâu trung gian. Không phải bất kỳ tư tưởng, quan niệm, lý luận, hình thái ý thức xã
hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi xét
cho đến cùng mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh trong các tư tưởng ấy.
VD: Trong xã hội phong kiến, khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và dần dần lớn
mạnh thì cũng nảy sinh quan niệm cho rằng sự tồn tại của chế độ phong kiến là trái công lý,
không phù hợp với lý tính con người phải được thay thế bằng xã hội công bằng, bình đẳng,
bác ái. Ngay cả khi chủ nghĩa tư bản mới ra đời, đã xuất hiện các trào lưu tư tưởng xã hội chủ
nghĩa không tưởng phê phán những mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản, đề xuất xây dựng
một xã hội mới tốt đẹp hơn, thay thế chế độ tư bản.
b. Tính độc lập tương đối và sự tác động ngược trở lại của ý thức xã hội
- Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
1) ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội do không phản ánh kịp những
thay đổi của tồn tại xã hội do sức ỳ của thói quen, truyền thống, tập quán và tính bảo thủ của
một số hình thái ý thức xã hội v.v… tiếp tục tồn tại sau khi những điều kiện lịch sử sinh ra
chúng đã mất đi từ lâu; do lợi ích nên không chịu thay đổi. VD: Một số hủ tục lạc hậu: chữa
bệnh bằng bùa chú, người Mông phơi xác chết hàng chục ngày rồi mới mai táng.
2) ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội. Do tính năng động của ý thức, trong
những điều kiện nhất định, tư tưởng, đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể
vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội; dự báo được quy luật và có tác dụng tổ chức,
hướng hoạt động thực tiễn của con người vào mục đích nhất định. Đó cũng là vai trò to lớn
của những tư tưởng tiên tiến, khoa học; tuy nhiên, sự vượt trước này cũng có khả năng là ảo tưởng.
VD: Chủ nghĩa Mác Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân - giai cấp cách mạng nhất
của thời đại. Tuy ra đời vào thế kỷ XIX, trong lòng chủ nghĩa tư bản nhưng chủ nghĩa Mác
Lênin đã chỉ rõ qui luật của chủ nghĩa tư bản nói riêng. Qua đó khẳng định rằng chủ nghĩa tư
bản nhất định sẽ bị thay thế bằng chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Học thuyết đó đã trang bị cho giai cấp công nhân và chính đảng cộng sản vũ khí lý luận sắc
bén để giải phóng mình và giải phóng nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức trên toàn thế
giới thoát khỏi ách nô dịch, bóc lột, xây dựng một xã hội hoàn toàn tốt đẹp. Trong thời đại
ngày nay, chủ nghĩa Mác Lênin vẫn là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất cho
nhận thức và cải tạo thế giới trên mọi lĩnh vực, vẫn là cơ sở lý luận và phương pháp khoa học
cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
3) ý thức xã hội có tính kế thừa. Quan điểm, lý luận của mỗi thời đại được tạo ra trên
cơ sở kế thừa những thành tựu lý luận của các thời đại trước. Kế thừa có tính tất yếu khách
quan; có tính chọn lọc và sáng tạo; kế thừa theo quan điểm lợi ích; theo truyền thống và đổi
mới. Do vậy, nếu không chú ý đến sự phát triển tư tưởng của các giai đoạn lịch sử trước
được kế thừa trong ý thức xã hội mới, thì khó giải thích được một tư tưởng nhất định. VD:
chủ nghĩa Mác Lênin, kế thừa tinh hoa tư tưởng của loài người đã đạt được trước đó mà trực
tiếp là nền triết học cổ điển Đức, nền kinh tế chính trị học cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Pháp.
Lịch sử phát triển của các tư tưởng cho thấy những giai đoạn hưng thịnh và suy tàn
của tư tưởng nhiều khi không phù hợp hoàn toàn với những giai đoạn hưng thịnh và suy tàn
của nền kinh tế. Điều này chỉ ra rằng, vì sao một nước có trình độ kinh tế kém phát triển,
nhưng tư tưởng lại ở trình độ phát triển cao. VD: Nước Pháp thế kỷ XVIII nền kinh tế kém
phát triển hơn nước Anh, nhưng tư tưởng lại tiên tiến hơn nước Anh, hoặc so với nước Anh,
Pháp nửa đầu thế kỷ XIX, nước Đức lạc hậu hơn về kinh tế, nhưng đứng ở trình độ cao hơn về triết học.
4) Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội cũng gây ảnh hưởng tới tồn tại
xã hội. Thông thường, trong mỗi thời đại, tuỳ theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có những
hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu tác động và chi phối các hình thái ý thức xã hội khác.
VD: Ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt quan trọng, còn ở Tây Âu
thời trung cổ, tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống tinh thần xã hội như
triết học, nghệ thuật, đạo đức, chính trị, pháp quyền, ở giai đoạn lịch sử sau này thì ý thức
chính trị lại đóng vai trò to lớn tác động đến các hình thái ý thức xã hội khác nhau.
- Sự tác động ngược trở lại của ý thức xã hội lên tồn tại xã hội là biểu hiện quan
trọng của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Đó là sự tác động
nhiều chiều với các phương thức phức tạp. Sự tác động này thể hiện mức độ phù hợp giữa tư
tưởng với hiện thực; sự xâm nhập của ý thức xã hội vào quần chúng cả chiều sâu, chiều rộng
và phụ thuộc vào khả năng hiện thực hoá ý thức xã hội của giai cấp và đảng phái.
VD: nguyên lý của triết học Mác Lênin về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ ra bức
tranh phức tạp của lịch sử phát triển của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói
chung. Nó bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc tầm thường về mối quan hệ giữa tồn
tại xã hội và ý thức XH.
Như vậy, ý thức xã hội, với tính cách là thể thống nhất độc lập, tích cực tác động
ngược trở lại lên tồn tại xã hội nói riêng và lên đời sống xã hội nói chung.
3.Ý nghĩa thực tiễn của vấn đề này trong giai đoạn hiện nay
Trong giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, những tàn dư của tư tưởng cũ
vẫn còn, mặt tích cực và tiêu cực trong tình hình tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân hiện
nay vẫn còn đan xen nhau. Trong đó mặt tích cực là cơ bản, đã và đang quyết định chiều
hướng phát triển của xã hội, là nguyên tố quan trọng tạo nên thắng lợi của cuộc đổi mới đất
nước. Tính tích cực năng động sáng tạo của các tầng lớp nhân dân ngày càng rõ trên các lĩnh
vực xã hội, phát huy tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, lòng yêu nước, ý thức tự hào, tự
tôn dân tộc, truyền thống cách mạng và lịch sử bản sắc dân tộc được tiếp tục giữ gìn và phát
huy. Tuy nhiên, hiện nay nhiều vấn đề xã hội còn phức tạp. Những hạn chế mơ hồ về tư
tưởng, nhận thức và tình trạng suy thoái về đạo đức lối sống khá phổ biến, nhất là trong một
bộ phận không nhỏ cán bộ - Đảng viên chưa được ngăn chặn hình thức phai nhạt lý tưởng
cách mạng sa sút phẩm chất đạo đức tệ quan liêu tham nhũng lãng phí chủ nghĩa cá nhân tư
tưởng cơ hội thực dụng có chiều hướng phát triển. Những mặt tiêu cực là nguy cơ tiềm ẩn
liên quan sự mất còn của Đảng.
Từ tình hình đó, Đảng ta chủ trương toàn Đảng phải nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng bồi dưỡng nâng cao đạo đức cách mạng và mục
tiêu của cuộc cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng cần đạt được là xây dựng nền văn hóa mới và
con người mới XHCN. Vì thế, nhiệm vụ trọng tâm về tư tưởng là làm cho chủ nghĩa Mác
Lênin và tư tưởng HCM giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Còn nhiệm
vụ cấp bách về văn hóa là xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và nêu cao
tinh thần trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên có lối
sống văn hóa, đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa; ngăn
chặn việc phục hồi các thủ tục, khắc phục tình trạng mê tín đang có xu hướng lan rộng trong
xã hội”. Mặt khác, ta phải biết chọn lọc, tiếp thu, kế thừa những thành quả văn minh, những
di sản quý giá do loài người tạo ra bao thế hệ những thành tựu văn hóa, khoa học hiện đại
đồng thời cũng kiên quyết chống chủ nghĩa hư vô và khuynh hướng siêu giai cấp trong việc
kế thừa di sản để lại.
Việc tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến việc gia tăng hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế gắn
liền với hiệu quả xã hội. Việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế tạo cơ hội cho mọi tầng lớp nhân
dân tự do làm ăn theo pháp luật sẽ là một tiến bộ về mặt xã hội, là thực hiện dân chủ hóa
trong lĩnh vực kinh tế, từ đó giải quyết tốt hơn việc làm thu nhập và đời sống. Tuy nhiên tăng
trưởng kinh tế tự nó không thể giải quyết được tất cả các vấn đề xã hội trong đó có sự phân
hóa giàu nghèo là không tránh khỏi. Do đó, trong đường lối phát triển kinh tế xã hội, một
mặt Đảng và Nhà nước ta chủ trương bảo vệ và khuyến khích công dân làm giàu hợp pháp,
được hưởng thụ văn hóa, giáo dục đào tạo, chăm lo y tế, được hưởng thụ xứng đáng với công
sức, tiền của bỏ vào sản xuất, chống tư tưởng bình quân, ỷ lại, đãi ngộ xứng đáng tài năng;
một mặt Đảng và Nhà nước phải chăm lo việc thực hiện phân phối công bằng theo lao động,
mở rộng phúc lợi xã hội, đổi mới tốt chính sách bảo hiểm xã hội, bảo vệ sức khỏe, nâng cao
thể lực cho nhân dân, bảo đảm nhu cầu thuốc chữa bệnh. Thực hiện tốt chính sách đền ơn
đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, tạo phong trào đoàn kết giúp đỡ trong nhân dân theo truyền
thống “lá lành đùm lá rách” tương thân tương ái đùm bọc lẫn nhau. Đẩy mạnh hơn nữa
chống tham nhũng, bất công xã hội nghiêm trọng hiện nay. Cải cách chế độ tiền lương để
người lao động hăng hái làm việc đủ sống và nâng cao mức sống, mức đóng góp cho xã hội.
Ngược lại chính việc giải quyết tốt những vấn đề xã hội là điều kiện quyết định để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Chúng ta không thể sớm có ngay một xã hội tốt đẹp trong khi kinh
tế nước ta còn kém phát triển, năng suất lao động thấp, kinh tế kỹ thuật còn lạc hậu nhưng ta
phải kết hợp ngay từ đầu tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội.
Tóm lại, vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, Đảng
đã xác định đúng đắn đường lối phát triển kinh tế gắn chặt với công bằng xã hội và phát triển
mạnh mẽ văn hóa giàu bản sắc dân tộc ở nước ta, đó là điều kiện đảm bảo sự thành công và
bền vững cho tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Câu 38. Tính đọc lập tương đối của ý thức xã hội với tồn tại xã hội (đã có ở câu 37)
Câu 39. Hình thái kinh tế - xã hội là gì? Tại sao nói “sự phát triển của những hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”? 1.
Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội
ở từng giai đoạn lịch sử
nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã
hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng
tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất
đó. Nó chính là các xã hội
cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện chứng
giữa các mặt trong đời sống xã hội
và tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
VD: Công xã nguyên thủy – Chiếm hữu nô lệ - Phong kiến – CNTB – XHCN.
2. Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên
1) Sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con người mà
tuân theo các quy luật khách quan: các quy luật của cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội, và hệ
thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học,... mà trước
hết và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất và quy luật kiến trúc thưọng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.
2) Nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,... của xã hội, đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp
từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội đó. V.I.Lênin từng nhấn mạnh một phương
pháp luận quan trọng khi nghiên cứu về xã hội là: "Chỉ cố đem quy những quan hệ xã hội
vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực
lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của
những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên". VD: CXNT – CHNL – PK – TBCN – XHCN.
3) Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, tức là quá trình thay thế lẫn nhau
của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại và sự phát triển của lịch sử xã hội
loài người có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết
định chính là sự tác động của các quy luật khách quan. Dưới sự tác động của quy luật khách
quan mà lịch sử nhân loại, xét trong tính chất toàn bộ của nó là quá trình thay thế tuần tự của
các hình thái kinh tế - xã hội: nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và tương lai
nhất định thuộc về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong khi khẳng định tính chất lịch sử - tự nhiên, tức tính quy luật khách quan của sự vận
động, phát triển xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đồng thời khẳng định vai trò của các
nhân tố khác đối với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử mỗi cộng
đồng người cụ thể nói riêng. Đó là sự tác động của các nhân tố thuộc về điều kiện địa lý,
tương quan lực lượng chính trị của các giai cấp, tầng lớp xã hội, truyền thống văn hóa của
mỗi cộng đồng người, điều kiện tác động của tình hình quốc tế đối với tiến trình phát triển
của mỗi cộng đồng người trong lịch sử, v.v. Chính do sự tác động của các nhân tố này mà
tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người có thể diễn ra với những con đường, hình thức
và bước đi khác nhau, tạo nên tính phong phú, đa dạng trong sự phát triển của lịch sử nhân
loại. Tính chất phong phú, đa dạng của tiến trình phát triển các hình thái kinh tế - xã hội có
thể bao hàm những buớc phát triển "bỏ qua" một hay một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất
định. Tuy nhiên, những sự "bỏ qua" như vậy đều phải có những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định.
Như vậy, lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người nói
riêng vừa tuân theo tính tất yếu của các quy luật xã hội, vừa chịu sự tác động đa dạng của các
nhân tố khác nhau, trong đó có cả nhân tố hoạt động chủ quan của con người. Từ đó lịch sử
phát triển của xã hội được biểu hiện ra là lịch sử thống nhất trong tính đa dạng và đa dạng
trong tính thống nhất của nó.
Câu 40. Bản chất con người?
1. Khái niệm con người
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội có sự thống nhất biện chứng giữa
hai phương diện tự nhiên và xã hội.
Bản tính tự nhiên của con người:
1) con người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ
sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa
duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.
2) con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng "là thân
thể vô cơ của con người". Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên và tác động của quy luật
tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con người và xã hội
loài người; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của con người tác động trở lại môi trường tự
nhiên, làm biến đổi môi trường. Đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con
người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên. VD: Vùng ven sông có điều kiện tự
nhiên thuận lợi, dồi dào nguồn thức ăn, nguồn nước đầy đủ nên con người tập trung sinh
sống tại đây, khai thác các nguồn tài nguyên và nguồn lợi từ sông nước mang lại. Nhưng
trong quá trình đó, con người sản xuất, khi khai thác quá đà khiến thiên nhiên nơi đây cạn
kiệt, xói mòn, sạt lở, xuống cấp, ô nhiễm, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường.
Tuy nhiên, con nguời không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, nó mang
đặc tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là "người" chính là xét trong mối quan hệ
của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng đồng: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân
loại.... Vì vậy, bản tính xã hội nhất định phải là một phương diện khác của bản tính con
người, hơn nữa đây là bản tính đặc thù của con người.
Bản tính xã hội của con người:
1) xét từ giác độ nguồn gốc hình thành, loài người có nguồn gốc xã hội, cơ bản nhất là
nhân tố lao động. Nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến
hóa và phát triển thành người. VD: Người cổ đại ăn lông ở lỗ, sống trong các hang đá
nguyên thủy và hoang dã như các loài động vật. Qua lao động, con người biết chế tạo và sử
dụng các công cụ lao động, sử dụng lửa,… để chinh phục thiên nhiên.
2) xét từ giác độ tồn tại và phát triển, sự tồn tại của loài người luôn luôn bị chi phối bởi
các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng có sự thay
đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã
hội. Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh
vật thuần túy, không thể là "con người" với đầy đủ ý nghĩa của nó. VD: xã hội phong kiến
buộc con người sống trong khuôn khổ, luật lệ, giáo điều với những tư tưởng khắt khe, nhưng
khi con người được giải phóng, bước sang chế độ XHCN thì con người văn minh hơn, tân tiến hơn.
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất, quy định
lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt động sáng
tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó. Vì thế, nêu lý giải bản tính
sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ giác độ bản tính tự nhiên hoặc chỉ từ bản tính xã hội
thì đều là phiến diện, không triệt để và nhất định cuối cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai
lầm trong nhận thức và thực tiễn.
2. Bản chất con người
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Giới tự nhiên là
"thân thể vô cơ của con người"; con người là một bộ phận của tự nhiên; là kết quả của quá
trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên. Đặc trưng quy định sự khác biệt
giữa con người với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Trong lịch sử đã có những
quan niệm khác nhau phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng
công cụ lao động, là "một động vật có tính xã hội", hoặc con người động vật có tư duy...
Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất
xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một
cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động
sản xuất ra của cải vật chất. "Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn
giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân
biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó
là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh
hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình".
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên:
"Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên".
VD: Người nguyên thủy bắt đầu biết chế tạo công cụ lao động, sản xuất, biết trồng trọt, canh
tác, chặt cây phá rừng làm nương rẫy, biết chăn nuôi, thuần hóa động vật phục vụ cuộc sống
cá nhân, từ đó làm thay đổi giới tự nhiên.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản
xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao
động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của
mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động
là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân
cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. VD: Nghề giáo viên định hình con người mô phạm,
nghiêm túc, chỉn chu; nghề cảnh sát, bộ đội hình thành con người kỉ cương, nề nếp, cứng rắn, …
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con
người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với
nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy
luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa... quy định phương diện sinh học của
con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh
học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy
luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người. Ba hệ thống quy luật trên cùng tác
động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học
và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội của con người.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng:
"Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội"
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch
sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực
tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả
thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp,
dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người
mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. VD: Người sói, người vượn, người gà… Một
người đàn ông ở quốc đảo Fipji, bị cha mẹ nhốt vào chuồng gà trong một khoảng thời gian
dài. Sau khi trốn ra được thì người đàn ông này ảnh hưởng hầu hết những tập tính của gà như
mổ thức ăn, vỗ cánh và cất tiếng kêu gọi bầy…
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận
mặt tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn tại trong sự
thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở con người cũng
đã mang tính xã hội. Quan niệm bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội mới
giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người.
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi
vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều
quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng
định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn
cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi
hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục". Như vậy, với tư cách là
thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên,
đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người
là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con
người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là
phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch
sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ
thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của
con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ
lịch sử xã hội loài người.
Bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận
động biến đổi, phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người là hệ thống mở, tương ứng với
điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là "tổng hoà các quan hệ xã hội", con người có vai
trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Có thể nói rằng, mỗi sự
vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khớp) với sự
vận động và biến đổi của bản chất con người. VD: người nông dân Việt Nam trong chế độ
phong kiến quằn lưng lao động phục vụ cho giai cấp địa chủ; Chí Phèo là sản phẩm của
những quan hệ xã hội trong xã hội phong kiến nửa thực dân thối nát; còn người nông dân
trong XHCN đã chủ động, tích cực, dân chủ và văn minh hơn.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn
cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự
nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị
có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp
nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác
nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí
tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là
biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch
sử xã hội loài người.